Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định
Theo Điều 15 Bộ luật lao động 2012 thì hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ mỗi bên trong quan hệ lao động. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ thì không phải thử việc. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 3 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói. Khoản 3 Điều 22 Bộ luật lao động 2012 quy định không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động: · Đi làm nghĩa vụ quân sự · Nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động · Nghỉ việc có tính chất tạm thời khác Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Khi hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới, nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng. Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 1 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động và người sửu dụng lao động đều phải thông báo trước ít nhất 3 ngày làm việc Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
Đóng bảo hiểm cho hợp đồng lao động làm việc cố định dưới 14 ngày trong tháng
Công ty mình thuê một lao động làm việc từ tháng 1 đến tháng 12 nhưng một tháng chỉ làm việc có 10 ngày. Vậy có phải trích nộp bảo hiểm cho người này không? Trong trường hợp này, Luật bảo hiểm xã hội 2014 xác định đối tượng đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc căn cứ vào thời hạn hợp đồng lao động. Việc công ty và người lao động thỏa thuận người lao động làm việc cố định 10 ngày/tháng không có gì vi phạm pháp luật. Về việc đóng BHXH: Theo khoản 4 Điều 42 Quyết định 595/QĐ_BHXH năm 2017: "4. Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng BHXH." Điều khoản này được hiểu là căn cứ lịch làm việc thực tế mà người lao động và công ty đã thỏa thuận, nếu căn cứ vào lịch đó trong tháng người lao động nghỉ việc từ 14 ngày làm việc trở lên và không hưởng lương thì mới không đóng BHXH. Khi công ty và người lao động đã thỏa thuận lịch làm việc cố định hàng tháng là 10 ngày làm việc, vậy người lao động này (dù tháng đó có việc riêng nghỉ cả 10 ngày không hưởng lương) sẽ không phát sinh trường hợp nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (vì người lao động này trong tháng chỉ có 10 ngày làm việc). Do đó: - Nếu hợp đồng từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng: phải đóng BHXH, nhưng không đóng BHYT và BHTN; - Nếu hợp đồng từ 3 tháng trở lên: phải đóng BHXH, BHYT và BHTN.
Theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì cá nhân giao kết hợp đồng lao động từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Vậy thuế thu nhập cá nhân của người này khi khấu trừ 10% (điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC) là khấu trừ trên tổng thu nhập mà không trừ khoản đóng BHXH có đúng không? Mong mọi người giải đáp giúp.
Khấu trừ thuế TNCN đối với hợp đồng lao động dưới 3 tháng?
Trong trường hợp có hợp đồng lao động dưới 3 tháng thì khi phát sinh thu nhập từ 2 triệu trở lên đã phải thực hiện việc khấu trừ 10% vào thu nhập theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC: i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân. Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân. Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế. Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.
Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định
Theo Điều 15 Bộ luật lao động 2012 thì hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ mỗi bên trong quan hệ lao động. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ thì không phải thử việc. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 3 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói. Khoản 3 Điều 22 Bộ luật lao động 2012 quy định không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động: · Đi làm nghĩa vụ quân sự · Nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động · Nghỉ việc có tính chất tạm thời khác Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Khi hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới, nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng. Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 1 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động và người sửu dụng lao động đều phải thông báo trước ít nhất 3 ngày làm việc Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên, trừ trường hợp đặc biệt có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
Đóng bảo hiểm cho hợp đồng lao động làm việc cố định dưới 14 ngày trong tháng
Công ty mình thuê một lao động làm việc từ tháng 1 đến tháng 12 nhưng một tháng chỉ làm việc có 10 ngày. Vậy có phải trích nộp bảo hiểm cho người này không? Trong trường hợp này, Luật bảo hiểm xã hội 2014 xác định đối tượng đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc căn cứ vào thời hạn hợp đồng lao động. Việc công ty và người lao động thỏa thuận người lao động làm việc cố định 10 ngày/tháng không có gì vi phạm pháp luật. Về việc đóng BHXH: Theo khoản 4 Điều 42 Quyết định 595/QĐ_BHXH năm 2017: "4. Người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính để hưởng BHXH." Điều khoản này được hiểu là căn cứ lịch làm việc thực tế mà người lao động và công ty đã thỏa thuận, nếu căn cứ vào lịch đó trong tháng người lao động nghỉ việc từ 14 ngày làm việc trở lên và không hưởng lương thì mới không đóng BHXH. Khi công ty và người lao động đã thỏa thuận lịch làm việc cố định hàng tháng là 10 ngày làm việc, vậy người lao động này (dù tháng đó có việc riêng nghỉ cả 10 ngày không hưởng lương) sẽ không phát sinh trường hợp nghỉ việc không hưởng lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (vì người lao động này trong tháng chỉ có 10 ngày làm việc). Do đó: - Nếu hợp đồng từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng: phải đóng BHXH, nhưng không đóng BHYT và BHTN; - Nếu hợp đồng từ 3 tháng trở lên: phải đóng BHXH, BHYT và BHTN.
Theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì cá nhân giao kết hợp đồng lao động từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Vậy thuế thu nhập cá nhân của người này khi khấu trừ 10% (điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC) là khấu trừ trên tổng thu nhập mà không trừ khoản đóng BHXH có đúng không? Mong mọi người giải đáp giúp.
Khấu trừ thuế TNCN đối với hợp đồng lao động dưới 3 tháng?
Trong trường hợp có hợp đồng lao động dưới 3 tháng thì khi phát sinh thu nhập từ 2 triệu trở lên đã phải thực hiện việc khấu trừ 10% vào thu nhập theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC: i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân. Trường hợp cá nhân chỉ có duy nhất thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế của cá nhân sau khi trừ gia cảnh chưa đến mức phải nộp thuế thì cá nhân có thu nhập làm cam kết (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) gửi tổ chức trả thu nhập để tổ chức trả thu nhập làm căn cứ tạm thời chưa khấu trừ thuế thu nhập cá nhân. Căn cứ vào cam kết của người nhận thu nhập, tổ chức trả thu nhập không khấu trừ thuế. Kết thúc năm tính thuế, tổ chức trả thu nhập vẫn phải tổng hợp danh sách và thu nhập của những cá nhân chưa đến mức khấu trừ thuế (vào mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế) và nộp cho cơ quan thuế. Cá nhân làm cam kết phải chịu trách nhiệm về bản cam kết của mình, trường hợp phát hiện có sự gian lận sẽ bị xử lý theo quy định của Luật quản lý thuế. Cá nhân làm cam kết theo hướng dẫn tại điểm này phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.