Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh dịch vụ vận tải là gì?
Mới đây, Sở Giao thông vận tải TP. Đà Nẵng đã gửi Công văn số 1792/SGTVT-QLVTPTNL đề nghị Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn nội dung liên quan đến hoạt động hợp tác kinh doanh vận tải của Công ty TNHH Grab với một số doanh nghiệp trên địa bàn. Theo đó hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải của các hợp tác xã ký với Grab thể hiện Grab sẽ tham gia xác định giá cước và điều hành lái xe theo sự ủy quyền của các hợp tác xã. Về bản chất, việc tham gia quyết định giá cước và điều hành lái xe chứng minh hoạt động của Grab tại địa bàn Đà Nẵng là hoạt động của một đơn vị kinh doanh vận tải hành khách theo hình thức hợp đồng điện tử. Nội dung Công văn nêu rõ: Trong công tác quản lý vận tải đối với các đơn vị kinh doanh vận tải hợp đồng điện tử, hiện đang có 2 quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, Công ty TNHH Grab hiện chỉ được Sở Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh cấp Giấy phép kinh doanh vận tải. Tuy nhiên, Công ty TNHH Grab không đặt trụ sở chi nhánh tại Đà Nẵng và chưa được Sở Giao thông vận tải TP. Đà Nẵng cấp giấy phép kinh doanh vận tải theo quy định nên hoạt động kinh doanh vận tải của Công ty TNHH Grab tại Đà Nẵng là sai quy định. Quan điểm thứ hai cho rằng, Công ty TNHH Grab đã được Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép kinh doanh vận tải và ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với các đơn vị kinh doanh vận tải đã được Sở Giao thông vận tải TP. Đà Nẵng cấp phép, vì vậy hoạt động của Công ty TNHH Grab trên địa bàn Đà Nẵng là đúng quy định. Việc ký hợp đồng hợp tác kinh doanh là áp dụng theo điểm d, khoản 3, Điều 34, Nghị định số 10/2020/NĐ-CP Quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải ô tô. Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hiện nay tại Bộ Luật dân sự 2015 đã có những quy định cụ thể hơn về hợp đồng hợp tác khác rất nhiều so với Bộ luật dân sự 2005. Tại Điều 504 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về hợp đồng hợp tác như sau: – Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. – Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản. Như vậy có thể hiểu hợp đồng hợp tác là sự thảo thuận giữa các bên về việc góp vốn để thực hiện một số công việc nhằm cùng hưởng lợi nhuận và sẻ chia rủi ro. Việc giao kết hợp đồng hợp tác giữa các chủ thể sẽ tạo thành một tổ chức gọi là tổ hợp tác. Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định thêm về những vấn đề xung quanh hợp đồng hợp tác như sau: Ngoài ra, Căn cứ theo Khoản 14 Điều 3 Luật đầu tư 2020: “Hợp đồng hợp tác kinh doanh được là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế.” Hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải Hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải chỉ được xác lập khi mà đơn vị kinh doanh vận tải được quy định theo Nghị định 10/2020/NĐ-CP quy định: “Đơn vị kinh doanh vận tải bao gồm: Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.” Qua đó, có thể thấy hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải là hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực vận tải, cung ứng dịch vụ ở đây là dịch vụ vận tải, cũng có các thỏa thuận để phân chia lợi nhuận, quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ trong quá trình vận tải. Như vậy, việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh giúp các bên không phải thành lập tổ chức kinh tế chung để quản lý hoạt động kinh doanh,sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho việc thành lập và vận hành một pháp nhân mới,không phải phụ thuộc vào quyết định của đối tác khi nhà đầu tư muốn chuyển nhượng hoặc bán đi phần của mình trong một số trường hợp cụ thể,khi dự án kết thúc, nhà đầu tư cũng không phải lo lắng về vấn đề giải thể.
Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”
Hợp đồng hợp tác là hợp đồng được ký giữa các bên nhằm hợp tác đầu tư, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, tài sản theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế. Các nhà đầu tư cùng hợp tác với nhau phải thực hiện theo nguyên tắc này, trường hợp các bên không đảm bảo thực hiện đúng chỉ tôn của hợp đồng sẽ rất dễ xảy ra tranh chấp. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND cấp cao tại Đ.N nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”, giữa nguyên đơn, ông V.K Quang; bà N.T Sáu với bị đơn ông P.C Hùng đã được TAND thành phố Q.N tỉnh B.Đ xét xử theo Bản án dân sự có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Nội dung vụ án Ngày 11/9/2017, Công ty TNHH đấu giá tài sản N.V tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án đối với quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích 474,3m2 tại thôn P.T, xã P.T, huyện T.P, tỉnh B.Đ. Ông P.C Hùng nộp tiền đặt cọc 100 triệu đồng để tham gia đấu giá, nhưng trong hồ sơ đăng ký đấu giá ông Hùng để ông N.C Huy đứng tên. Sau đó, trúng đấu giá thửa đất trên với giá 890 triệu đồng, nhưng không đủ tiền mua. Ngày 25/9/2017, ông P.C Hùng huy động bà N.T Sáu và ông V.K Quang cùng góp vốn mua toàn bộ nhà, đất nêu trên. Bà Sáu, ông Quang và ông Hùng đã lập Hợp đồng góp vốn có nội dung: “Số tiền mua nhà, đất là 890 triệu đồng, chia làm 03 phần, mỗi người góp 297 triệu đồng, ông Hùng giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.P cập nhập sang tên ông N.C Huy; ông Quang và bà Sáu có trách nhiệm nhận và quản lý tài sản. Ngày 02/02/2018 Ông Huy đã nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Sáu và ông Quang nhiều lần nói ông Hùng, yêu cầu ông Huy ủy quyền sở hữu nhà, đất cho 03 người, nhưng ông Hùng nói ‘‘không mất đâu, có gì ông Hùng chịu trách nhiệm ”. Sau đó, ông Hùng đại diện đứng ra cho vợ chồng bà H.T.L Trâm, ông Đ.T.T Tuấn thuê nhà. Đến ngày 17/10/2019, có người đến nhận nhà, đất, ông Quang và bà Sáu mới biết nhà đất nêu trên đã bị chuyển nhượng. Bà Sáu và ông Quang không nhận được tiền thuê nhà và tiền chuyển nhượng nhà, đất • từ ông Hùng và ông Huy. Bà Sáu và ông Quang khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên hủy Hợp đồng góp vốn buộc ông P.C Hùng trả lại số tiền góp vốn mỗi người là 297 triệu đồng. 2. Quá trình xét xử Ngày 23/9/2020 TAND thành phố Q.N, tỉnh B.Đ, ban hành bản án dân sự sơ thẩm số 148/2020/DS-ST với các nội dung: (1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V.K Quang, bà N.T Sáu. - Tuyên bố hủy bỏ Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017. - Buộc ông P.C Hùng có nghĩa vụ hoàn trả cho ông V.K Quang 297 triệu, và bà N.T Sáu 297 triệu đồng. (2) Đình chỉ xét xử phần yêu cầu khởi kiện ông P.C Hùng trả lãi đối với sổ tiền góp vốn của mỗi người. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định. Ngày 21/01/2021, bị đơn ông Phan Cao Hùng có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Ngày 23/4/2021, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đ.N có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đ.N hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 48/2021/DS-GĐT ngày 09/7/2021 của TAND cấp cao đã chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND cấp cao, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Q.N xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Sau khi lập hợp đồng góp vốn của ba người là ông P.C Hùng, ông V.K Quang và bà N.T Sáu mua tài sản trúng đấu giá quyền sử dụng đất với số tiền mỗi người là 297 triệu đồng. Ngày 02/02/2018, Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.P, tỉnh B.Đ chỉnh lý biến động sang tên ông N.C Huy. Như vậy, Hợp đồng góp vốn đã có hiệu lực và là tài sản chung của ông P.C Hùng, ông V.K Quang và bà N.T Sáu. Các bên thỏa thuận khi ông Huy được đứng tên trên Giấy chứng nhận, ông Hùng có trách nhiệm giữ Giấy chứng nhận; còn ông Quang và bà Sáu là người quản lý tài sản. Ngày 20/4/2018, ông Hùng đại diện ký Hợp đồng cho thuê nhà với bà Trâm. Ngày 22/5/2018, ông Huy lập Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất nêu trên cho ông Thắng. Ngày 14/02/2019, ông Thắng chuyển nhượng lại cho ông Toàn. Như vậy, Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 giữa ông V.K Quang, bà N.T Sáu và ông P.C Hùng đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, nhưng TAND thành phố Q.N lại tuyên hủy Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 là không có căn cứ và quá trình giải quyết vụ án, do chưa có lời khai của ông Huy và ông Hùng. Nên tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ được ông Quang và bà Sáu có đồng ý cho ông Hùng ký hợp đồng thuê nhà với bà Trâm hay không? Khi ông Huy chuyển nhượng nhà đất cho ông Thắng, ông Hùng có đồng ý hay không?. Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn để cho rằng ông P.C Hùng và ông N.C Huy tự ý chuyển nhượng tài sản nếu để tuyên hủy Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 và buộc ông Hùng hoàn trả lại số :tiền góp vốn cho ông V.K Quang, bà N.T Sáu mỗi người 297 triệu đồng là chưa đủ căn cứ. Trên đây là vi phạm của TAND thành phố Q.N, tỉnh B.Đ trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”, VKSND cấp cao tại Đ.N thông báo đến VKSND các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát.
Hợp đồng hợp tác để kinh doanh hàng hóa có điều kiện mà GPKD không có đăng ký?
Em chào Luật sư, Em xin phép nhờ Luật sư tư vấn giúp em vấn đề này ạ. Hiện tại trong GPKD của Công ty em không có đăng ký kinh doanh sản phẩm hóa chất diệt ruồi (là sản phẩm kinh doanh có điều kiện). Nay Công ty em có khách hàng muốn mua loại sản phẩm này, vì vậy Công ty em muốn ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với một Công ty B (có GPKD kinh doanh sản phẩm đó) để hợp thức việc mua bán hóa chất diệt ruồi của Công ty em, chia sẻ lợi nhuận là 50:50. Như vậy, Công ty em kinh doanh sản phẩm hóa chất diệt ruồi có hợp pháp không ạ, có xuất được hóa đơn GTGT cho khách hàng không và hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty B quy định như thế nào ạ.
Hợp đồng hợp tác đầu tư bất động sản có giá trị pháp lý không?
Kính chào Luật sư. Năm 2010 mẹ tôi có mua đất dự án của một công ty bất động sản tại tỉnh Đồng Nai. Lúc đó mẹ tôi có ký hợp đồng hợp tác đầu tư với công ty đó. Đến nay công ty vẫn chưa triển khai dự án. Theo như tìm hiểu về dự án tôi có được biết: Dự án đó được phê duyện chủ trương đầu tư do tỉnh Đồng Nai kýnăm 2004 - Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt QHCT tỷ lệ 1/500 năm 2006 - Quyết định giao đất của UBND tỉnh Đồng Nai năm 2009 - Giấy chứng nhận QSD đất cho dự án đứng tên chủ đầu tư năm 2012 Nhưng đến nay công ty BĐS trên vẫn chưa triển khai dự án. Vậy hợp đồng hợp tác đầu tư mà mẹ tôi ký với công ty BĐS nói trên có giá trị pháp lý không? và gia đình tôi có quyền tố cáo công ty BĐS kia lừa đảo không ?
Hợp đồng hợp tác soạn như thế nào để phù hợp Luật Thuế và Luật Đất đai?
Hợp đồng cho thuê nhà xưởng và tài sản trên đất. Dạ chào luật sư. Em có một số nội dung xin được tư vấn như sau: Bên cty em được nhà nước giao khu đất lam sản xuất (đất phi nông nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm). Hiện công ty em có ký một hợp đồng hợp tác kinh doanh băng một phần diện tích lô đất đó. theo luật đất đai năm 2013 thì hợp đồng hợp tác đó là phù hợp, vậy theo luật quản lý thuế năm 2019 thi hợp đồng đó về bản chất là hợp đồng cho thê đất. Em xin luật sư tư vấn giúp em trường hợp của hợp đồng hợp tác trên bên em nên chuyển đổi hợp đồng ký kết như thế nào cho phù hợp với luật thuế mới mà vẫn đảm bảo về bản chất là cho thuê thu tiền hàng tháng ạ. Rất mong nhận được tư vấn của luật sư. Trân trọng cảm ơn luật sư!
Xây dựng công trình trong hợp đồng hợp tác kinh doanh?
Kính chào luật sư. Tôi có 1 vấn đề muốn được tư vấn từ các luật sư như sau: Công ty tôi ( Bên B) có ký hợp đồng hợp tác đầu tư với Cty đối tác ( Bên A). Bên A góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Hiện, quyền SD đất và tài sản trên đất của bên A đang thế chấp tại ngân hàng. Ngân hàng đã đồng ý cho phá dỡ tài sản để thay thế và được dùng tài sản mới để hợp tác kinh doanh. Bên B ( cty tôi) là người phải bỏ mọi chi phí liên quan đến việc xây dựng tài sản mới trên khu đất đó. Bên A làm giấy phép xây dựng. Sau khi hoàn thành công trình, bên B sẽ bàn giao tài sản cho bên A, tài sản sẽ mang tên bên A ( giấy tờ chủ sở hữu công trình mang tên bên A). Bên B sẽ có quyền sử dụng tài sản đó của bên A để hoạt động kinh doanh. Tôi muốn hỏi việc bên B ký kết các hợp đồng với nhà thầu có được không? Các khoản thuế VAT đầu vào Bên B có được khấu trừ không? ( Có HĐ và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt) Sau khi hoàn thành công trình bên B có làm thủ tục hoàn công được không? Bên B sẽ bàn giao lại cho bên A như thế nào cho đúng và hợp lý? Rất mong nhận được tư vấn của luật sư. Trân trọng cám ơn.
Tổ hợp tác là tổ chức không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Theo đó Điều kiện trở thành thành viên tổ hợp tác được quy định và phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Thứ nhất: Cá nhân là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định từ Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật dân sự, quy định của Bộ luật lao động và pháp luật khác có liên quan. Thứ hai: Tổ chức là pháp nhân Việt Nam, thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, có năng lực pháp luật phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của tổ hợp tác. Thứ ba: Tự nguyện gia nhập và chấp thuận nội dung hợp đồng hợp tác. Thứ tư: Cam kết đóng góp tài sản, công sức theo quy định của hợp đồng hợp tác. Thứ năm: Điều kiện khác theo quy định của hợp đồng hợp tác. Bên cạnh đó, Đại diện của tổ hợp tác trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự là cá nhân hoặc pháp nhân được các thành viên tổ hợp tác đồng ý ủy quyền xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Đối với tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác hình thành từ các nguồn sau: - Đóng góp của thành viên tổ hợp tác bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; - Phần được trích từ hoa lợi, lợi tức sau thuế; - Các thành viên tổ hợp tác cùng tạo lập; - Hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức khác tài trợ, tặng, cho chung; - Các nguồn khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp phát sinh tranh chấp giữa các thành viên tổ hợp tác trong phạm vi của hợp đồng hợp tác được ưu tiên giải quyết tranh chấp nội bộ tại tổ hợp tác; thông qua trung gian hòa giải hoặc thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án, trọng tài. Các bạn có thể tham khảo thêm các quy định khác về tổ hợp tác tại Nghị định 77/2019/NĐ-CP (Ngày hiệu lực:25/11/2019)
Khi nào nên lập hợp đồng hợp tác?
Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm; Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản (Điều 504 BLDS năm 2015). >>> Các mẫu hợp đồnh hợp tác Hợp đồng hợp tác được ghi nhận trong BLDS năm 2005 tại phần quy định về chủ thể tổ hợp tác. Tuy nhiên, đến BLDS năm 2015 thì hợp đồng hợp tác lần đầu tiên được ghi nhận một mục riêng, nằm trong Chương XVI quy định về các hợp đồng thông dụng. Có thể thấy, BLDS năm 2015 đã chú trọng và nâng tầm quan trọng của hợp đồng hợp tác trong mối tương quan với các hợp đồng khác. Hợp đồng hợp tác ra đời trên cơ sở nhu cầu tập hợp nguồn lực nhằm cùng sản xuất, kinh doanh. Các cá nhân, pháp nhân cùng hợp tác, liên kết với nhau bằng một hợp đồng hợp tác để cùng sản xuất, kinh doanh đạt hiểu quả cao hơn. Hợp đồng hợp tác là một dạng của hợp đồng dân sự, vì vậy, hợp đồng hợp tác có những đặc điểm sau: (1). Hợp đồng hợp tác ra đời trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Giống như các hợp đồng dân sự khác, hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia. Các bên thỏa thuận nội dung cơ bản trong hợp đồng, quy định đối tượng, mục đích cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Điểm đặc trưng trong hợp đồng hợp tác là quyền và nghĩa vụ của các bên không đối lập nhau. Các chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác thường có quyền, nghĩa vụ như nhau. Quy định về số lượng chủ thể của hợp đồng hợp tác có sự thay đổi căn bản so với Điều 111 BLDS năm 2005, chủ thể của hợp đồng hợp tác phải từ ba cá nhân trở lên, còn ở BLDS năm 2015 chỉ quy định chung chung, không ấn định cụ thể số lượng chủ thể, do đó theo nguyên tắc chung của hợp đồng, số lượng chủ thể của hợp đồng hợp tác chỉ cần từ hai chủ thể trở lên. (2). Chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác là các cá nhân, pháp nhân cùng đóng góp tài sản, công sức. Pháp luật cho phép mọi cá nhân, pháp nhân thỏa mãn các điều kiện luật định đều được tham gia vào hợp đồng hợp tác. Các chủ thể có thể đóng góp tài sản hoặc công sức hoặc cả hai nhằm cùng thực hiện công việc, cùng hưởng lợi ích từ kết quả công việc đem lại. (3). Mục đích của hợp đồng hợp tác là cùng thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Các chủ thể phải thỏa thuận cụ thể công việc cùng hợp tác, cách thức chia sẻ lợi ích cũng như cơ chế chịu trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia hợp đồng. Qúa trình thực hiện công việc, chia sẻ lợi ích, chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện công việc tuân thủ theo các nguyên tắc mà các bên thỏa thuận. Cả BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều thừa nhận mục đích của hợp đồng hợp tác là nhằm thỏa thuận về việc cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, xét về kết quả thì hợp đồng hợp tác được quy định trong BLDS năm 2005 là cơ sở để hình thành chủ thể “tổ hợp tác”; đến BLDS năm 2015, tổ hợp tác không được thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Cùng với việc thay đổi đó, kết quả của hợp đồng hợp tác không làm phát sinh chủ thể tổ hợp tác như quy định trong BLDS năm 2005. Quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng hợp tác Thứ nhất, quy định về nội dung của hợp đồng hợp tác Điều 505 BLDS năm 2015 được kế thừa gần như toàn bộ quy định tại khoản 2 Điều 111 BLDS năm 2005. Khi nói đến nội dung của hợp đồng thì ta hiểu đó là tổng hợp các điều, khoản mà các bên thỏa thuận nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Hợp đồng hợp tác được tham gia bởi nhiều chủ thể có vị trí ngang nhau cùng hợp tác, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Vai trò của hợp đồng này nhằm thúc đẩy hoạt động hợp tác, tận dụng nguồn lực của nhiều chủ thể trong xã hội nên sự ảnh hưởng của quá trình thực hiện hợp đồng tới sự ổn định của chủ thể là tương đối lớn. Chính vì vậy, nhà làm luật nước ta đã ghi nhận những nội dung cơ bản của hợp đồng để định hướng cho các chủ thể trong quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng. Theo quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015 thì Hợp đồng hợp tác có các nội dung chủ yếu sau: (1). Về mục đích, thời hạn hợp tác: Mục đích là các lợi ích mà chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác hướng tới. Việc quy định mục đích sẽ giúp định hướng việc sử dụng tài sản. Cùng thực hiện công việc hướng đến mục đích này; Thời hạn hợp tác là khoảng thời gian các chủ thể cùng góp sức, cùng sử dụng tài sản để thực hiện công việc hợp tác chung. (2). Về họ, tên, nơi cư trú của cá nhân, trụ sở của pháp nhân: Tham gia hợp đồng hợp tác bao gồm cá nhân và pháp nhân. Do đó, nếu thành viên là cá nhân thì các chủ thể phải ghi nhận rõ ràng họ, tên và nơi cư trú; nếu thành viên là pháp nhân thì phải ghi rõ tên, trụ sở của pháp nhân. Việc ghi nhận rõ các thông tin của chủ thể để tránh trường hợp nhầm lẫn trong xác định thành viên hợp tác. (3). Về tài sản đóng góp: Các chủ thể có thể đóng góp tài sản hoạt động hợp tác nên hợp đồng phải ghi nhận rõ ràng tài sản đóng góp là tài sản nào, có giá trị bao nhiêu. Việc ghi nhận cụ thể tài sản đóng góp là cơ sở xác định giá trị tài sản hợp tác và định hướng việc sử dụng tài sản phù hợp với công việc hợp tác. Mức đóng góp tài sản của các thành viên là ngang bằng hoặc được xác định theo tỷ lệ khác nhau. Tỷ lệ đóng góp tài sản giữa các thành viên hợp tác là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định việc phân chia lợi nhuận sau này giữa các chủ thể của hợp đồng. (4). Đóng góp bằng sức lao động: Chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác có thể đóng góp bằng sức lao động của mình. Trong nội dung hợp đồng phải ghi nhận rõ chủ thể nào đóng góp bằng sức lao động và quá trình sử dụng lao động vào công việc hợp tác như thế nào. (5). Phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức: Hoa lợi, lợi tức là các lợi ích thu được từ quá trình thực hiện công việc hợp tác. Tránh tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể, hợp đồng hợp tác cần ghi rõ phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức cho từng chủ thể. Việc phân chia hoa lợi, lợi tức thường được xác định trên cơ sở tỷ lệ đóng góp sức lao động, tài sản của từng chủ thể trừ trường hợp các chủ thể trong hợp đồng xác định phương thức khác để phân chia. (6). Về quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác: Khi tham gia vào hợp đồng hợp tác, từng thành viên có các quyền, nghĩa vụ nhất định. Phạm vi các quyền, nghĩa vụ của từng thành viên hợp tác được xác định theo nội dung ghi nhận trong hợp đồng. (7). Về quyền, nghĩa vụ của người đại diện: Tham gia vào hợp đồng hợp tác gồm nhiều cá nhân, pháp nhân. Để thuận lợi cho quá trình thực hiện hợp đồng, đặc biệt khi tham gia giao kết hợp đồng với một chủ thể khác, các thành viên có thể cử một người đại diện cho các thành viên hợp tác.; Tránh trường hợp vượt quá phạm vi thẩm quyền hoặc thực hiện không đúng thẩm quyền của mình, hợp đồng hợp tác cũng phải được ghi nhận phạm vi quyền, nghĩa vụ của người đại diện cho các thành viên hợp tác. (8). Về điều kiện tham gia và rút khỏi hợp đồng hợp tác của các thành viên: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, dưới sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nhiều chủ thể có thể muốn tham gia vào hợp đồng hợp tác hoặc nhiều thành viên hợp tác muốn rút khỏi hợp đồng. Do đó, trong hợp đồng hợp tác cần quy định cụ thể các điều kiện tham gia hoặc rút khỏi để việc tham gia hoặc không tham gia của thành viên hợp tác không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của việc hợp tác. (9). Về điều kiện chấm dứt hợp tác: Hợp đồng hợp tác cũng như các hợp đồng dân sự khác, hợp đồng có thể chấm dứt trong các điều kiện nhất định. Do đó, hợp đồng hợp tác nên quy định cụ thể các điều kiện để chấm dứt việc hợp tác giữa các thành viên hợp tác. Điều kiện chấm dứt việc hợp tác có thể là nền tảng để xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng hợp tác. Thứ hai, tài sản chung của các thành viên hợp tác Bản chất của hợp đồng hợp tác là sự liên kết của các thành viên hợp tác cùng thực hiện một công việc. Để thực hiện công việc này, mỗi thành viên có thể thỏa thuận đóng góp một phần tài sản và cùng tạo lập khối tài sản chung theo phần của các thành viên. Tài sản đóng góp có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Quy định về tài sản chung của các thành viên hợp tác, pháp luật ghi nhận như sau (Điều 506 BLDS năm 2015): (1) Cơ sở hình thành tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác; (2) Hậu quả pháp lý đối với việc chậm góp tiền; (3) Định đoạt tài sản chung là quyền sử dụng đất, nhà, xưởng sản xuất, tư liệu sản xuất và các tài sản khác; (4) Nguyên tắc phân chia tài sản chung trước khi hợp đông hợp tác chấm dứt; (5) Mối liên hệ giữa phân chia tài sản chung với quyền, nghĩa vụ của các thành viên hợp tác. Các quy định về tài sản chung của các thành viên hợp tác là cơ sở pháp lý để các thành viên hợp tác thực hiện trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung của mình. Đây cũng là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên trong trường hợp phân chia tài sản chung. Đồng thời, nếu các thành viên hợp tác phát sinh tranh chấp về phân chia tài sản chung thì đây cũng là cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp này trong trường hợp nội dung hợp đồng hợp tác không có thỏa thuận. Thứ ba, về quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác Khi tham gia vào hợp đồng hợp tác, các thành viên hợp tác sẽ có các quyền, nghĩa vụ nhất định. Quyền, nghĩa vụ của các thành viên được xác định trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì quyền, nghĩa vụ được xác định theo quy định tại Điều 507 BLDS nắm 2015 với những nội dung sau: (1). Về quyền được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác: Việc hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác phải tuân thủ theo quy định ghi nhận trong hợp đồng hợp tác. Thông thường, việc phân chia hoa lợi, lợi tức dựa trên số lượng tài sản đóng góp và công sức bỏ ra của mỗi thành viên. Việc hưởng hoa lợi, lợi tức có thể được nhận trực tiếp bằng hiện vật hoặc được chia bằng tiền. (2). Về quyền tham gia quyết định liên quan đến thực hiện hợp đồng hợp tác, giám sát hoạt động hợp tác: Thực hiện hợp đồng hợp tác là một quá trình do chính các thành viên hợp tác tự mình thực hiện hoặc giao cho người thứ ba thực hiện. Do đó, quá trình thực hiện hợp đồng hợp tác có thể phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi các thành viên hợp tác phải trực tiếp tham gia quyết định hoặc giám sát để kịp thời đưa ra quyết định. Việc tham gia quyết định hoặc giám sát hoạt động hợp tác là một quyền cơ bản của thành viên hợp tác nhằm bảo vệ quyền lợi của chính chủ thể này, đặc biệt nhằm bảo toàn khối tài sản chung của các thành viên hợp tác. (3). Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác do lỗi của mình gây ra: Khi tham gia hợp đồng hợp tác, thành viên hợp tác có thể gây thiệt hại cho các thành viên khác bằng hành vi có lỗi của mình. Do đó, thành viên hợp tác nào gây thiệt hại cho các thành viên còn lại đều phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với giá trị thiệt hại và mức độ lỗi của mình. (4). Về nghĩa vụ thực hiện các quyền, nghĩa vụ được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác: Các thành viên phải tuân thủ đầy đủ các quyền, nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng hợp tác đã được giao kết. Thứ tư, về chấm dứt hợp đồng hợp tác Hợp đồng hợp tác là một hợp đồng dân sự cho nên chấm dứt hợp đồng hợp tác cũng tuân thủ theo quy định chung về chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng hợp tác có đặc thù riêng liên quan đến mục đích xác lập hợp đồng nên chấm dứt hợp đồng hợp tác có các căn cứ riêng sau (Điều 512 BLDS năm 2015): (1). Theo thỏa thuận của các thành viên hợp tác: Khi hợp đồng hợp tác đang tồn tại, nhưng do công việc hợp tác không đạt được hiệu quả như mong muốn ban đầu tham gia hợp đồng hợp tác hoặc vì những lý do khác mà các thành viên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng hợp tác. (2). Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác: Các thành viên của nhóm hợp tác có thể thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác thời hạn hợp tác cùng làm một công việc, khi hết thời hạn đó thì hợp đồng hợp tác chấm dứt. (3). Mục đích hợp tác đã đạt được: Khi tham gia hợp đồng hợp tác, các thành viên xác định mục đích của việc xác lập hợp đồng hợp tác, nếu mục đích đó đã đạt được thì hợp đồng hợp tác không còn cần thiết đối với các thành viên nữa, cho nên hợp đồng hợp tác chấm dứt. (4). Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Trường hợp nhóm hợp tác hoạt động không đúng mục đích xác lập hợp đồng mà xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ quyết định giải thể nhóm hợp tác đó. (4). Trường hợp khác theo quy định của bộ luật này, luật khác có liên quan: Đây là một quy định mở, dự liệu các trường hợp khác chấm dứt hợp đồng hợp tác. Khi hợp đồng hợp tác chấm dứt, các nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hợp đồng phải được thanh toán từ khối tài sản chung của các thành viên hợp tác. Trường hợp tài sản chung không đủ để thực hiện việc thanh toán thì các thành viên hợp tác phải sử dụng tài sản riêng và tuân theo quy định tại Điều 509 BLDS năm 2015; Trường hợp sau khi thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản mà tài sản chung vẫn còn thì phần tài sản này sẽ được chia cho các thành viên hợp tác tương ứng với tỷ lệ đóng góp của mỗi thành viên, trừ trường hợp các chủ thể này có thỏa thuận khác. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hợp tác Nghiên cứu về quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015, ta thấy có những nội dung cần hoàn thiện, đó là: Thứ nhất, về nội dung của hợp đồng hợp tác (1). Nội dung tại khoản 2 Điều 505 BLDS năm 2015 quy định về “Họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân”. Về bản chất đây là yếu tố nhằm định danh các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng chứ không phải là điều khoản do các bên thỏa thuận. Do vậy, nội dung này nên loại bỏ khỏi quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015. (2). Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 505 BLDS năm 2015 nói về tài sản đóng góp và đóng góp bằng sức lao động. Nếu như các bên có thỏa thuận về việc đóng góp thì việc đóng góp này trở thành nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 505 BLDS năm 2015 đề cập đến nghĩa vụ của các thành viên hợp tác trong đó đã bao hàm những nội dung của khoản 3 và khoản 4 Điều 505 BLDS năm 2015. Hơn nữa, tại khoản 6 Điều 505 BLDS năm 2015 nói về quyền và nghĩa vụ của các thành viên, trong đó bao gồm cả quyền và nghĩa vụ của người đại diện, nên tại khoản 7 Điều 505 BLDS năm 2015 quy định riêng về vấn đề này là điều không cần thiết. (3). Tại khoản 8 Điều 505 BLDS năm 2015 quy định về điều kiện tham gia hợp đồng hợp tác là không hợp lý. Bởi lẽ, điều kiện để một chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác là do pháp luật quy định chứ không phải là do các bên thỏa thuận. Do vậy, nội dung của khoản 8 Điều 505 BLDS năm 2015 nên loại bỏ “điều kiện tham gia”, tức là chỉ còn “điều kiện rút khỏi” mà thôi. Thứ hai, về tài sản chung của các thành viên hợp tác (1). Khoản 1 Điều 506 BLDS năm 2015 chỉ quy định về việc trả lãi và bồi thường thiệt hại đối với thành viên có nghĩa vụ góp tiền là không phù hợp. Bởi sự chậm trễ trong việc đóng góp của bất cứ thành viên nào với bất cứ hình thức đóng góp nào cũng có thể gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên khác. Do đó, nếu quy định chỉ thành viên góp tiền chịu lãi đối với số tiền chậm đóng góp là không phù hợp. Do đó, đoạn 2 khoản 1 Điều 506 BLDS năm 2015 cần phải được sửa đổi theo hướng là bất cứ thành viên nào chậm thực hiện việc đóng góp tài sản cũng phải chịu trách nhiệm trả lãi đối với tài sản chậm đóng góp và phải bồi thường thiệt hại, với những tài sản không phải là tiền thì quy đổi ra tiền để tính lãi. Bên cạnh đó, cũng tại khoản 1 Điều 506 BLDS còn quy định người chậm đóng góp ngoài việc chịu lãi còn phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, tác giả cho rằng không phải trường hợp nào cũng xảy ra thiệt hại từ việc chậm đóng góp. Vì mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khắc phục hậu quả do mình gây ra. Do đó, để đảm bảo sự hợp lý trong quy định này, cần thêm hai từ “nếu có” vào sau cụm từ “bồi thường thiệt hại”. (2). Tại khoản 2 Điều 506 quy định: “… việc định đoạt các tài sản khác không phải tư liệu sản xuất sẽ do đại diện của các thành viên quyết định nếu không có thỏa thuận gì khác”. Chúng ta thấy rằng quy định này dường như không phù hợp. Bởi vì, tư cách của người đại diện trong hợp đồng hợp tác trong BLDS năm 2015 không giống tư cách đại diện của tổ trưởng tổ hợp tác trong BLDS năm 2005. Người đại diện trong hợp đồng hợp tác theo quy định của BLDS năm 2015 chỉ có thể là đại diện theo ủy quyền của các thành viên hợp tác khác. Nếu các thành viên không có thỏa thuận thì cũng đồng nghĩa với việc họ không ủy quyền cho người đại diện định đoạt các tài sản không phải là tư liệu sản xuất. Do vậy, việc quy định như trên có thể dẫn đến việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên hợp tác khác. (3). Khoản 3 Điều 506 BLDS năm 2015 quy định: “Không được phân chia tài sản chung trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, trừ trường hợp tất cả các thành viên hợp tác có thỏa thuận”. Nhưng tại khoản 2 Điều 510 BLDS năm 2015 quy định: “Thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác có quyền yêu cầu nhận lại tài sản đã đóng góp, được phân chia phần tài sản trong khối tài sản chung và phải thanh toán các nghĩa vụ theo thỏa thuận. Trường hợp phải phân chia tài sản bằng hiện vật làm ảnh hưởng đến hoạt động hợp tác thì tài sản được tính giá trị thành tiền để chia”. Như vậy, kể cả không có thỏa thuận thì tài sản chung vẫn được chia trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác. Do đó, để có sự phù hợp với khoản 2 Điều 510 BLDS năm 2015 thì khoản 3 Điều 506 BLDS năm 2015 cần phải bổ sung thêm cụm từ “hoặc luật có quy định khác” vào sau cụm từ “…. các thành viên hợp tác có thỏa thuận”. Thứ ba, về quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác (1). Khoản 1 Điều 507 BLDS năm 2015 quy định: “Được hưởng hoa lợi, lợi tức từ hoạt động hợp tác”. Thông thường hoa lợi, lợi tức chỉ phát sinh tự nhiên hoặc thông qua việc khai thác công dụng của tài sản. Tuy nhiên, trong hợp đồng hợp tác, các bên không chỉ đóng góp tài sản mà có thể đóng góp bằng công sức thì việc hưởng hoa lợi, lợi tức sẽ không đặt ra. Trong trường hợp này họ chỉ có thể phân chia lợi nhuận. Do vậy, khoản 1 Điều 507 BLDS năm 2015 cần bổ sung cụm từ “hoặc lợi nhuận” vào trước hai từ “lợi tức” sẽ phù hợp hơn. (2). Khoản 3 Điều 507 BLDS năm 2015 quy định: “Bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác khác do lỗi của mình gây ra”. Thông thường, bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ xảy ra, nên việc liệt kê trách bồi thường vào trong các nghĩa vụ của thành viên hợp tác là không hợp lý. Thứ tư, về chấm dứt hợp đồng hợp tác (1). Điểm d khoản 1 Điều 512 BLDS năm 2015 quy định hợp đồng hợp tác chấm dứt “theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Quy định này tác giả cho rằng không hợp lý bởi vì về bản chất, thì bản chất của hợp đồng là sự “thỏa thuận” của các bên chủ thể “về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ”. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng hợp tác cũng chỉ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các thành viên hợp tác. Do vậy, việc quy định như trên sẽ không đảm bảo nguyên tắc tự do, thể hiện sự can thiệp sâu của cơ quan nhà nước vào quan hệ dân sự giữa các chủ thể khi giao kết hợp đồng. (2). Trong trường hợp hợp đồng hợp tác được giao kết bởi hai chủ thể, hoặc từ ba chủ thể trở lên nhưng hầu hết chủ thể đều xin rút khỏi hợp đồng hợp tác theo quy định tại Điều 510 BLDS năm 2015, dẫn đến chỉ còn một chủ thể thì khi đó hợp đồng hợp tác đương nhiên chấm dứt. Do đó, cần bổ sung đây là một trong những căn cứ chấm dứt hợp đồng hợp tác vào khoản 1 Điều 512 BLDS năm 2015. Kết luận, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hợp tác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần thiết nhằm đưa hợp đồng hợp tác ngang tầm với các hợp đồng khác trong mối tương quan giữa các hợp đồng thông dụng của BLDS. ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải - Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình Theo Bộ Tư Pháp
Bỏ quy định hợp đồng hợp tác phải chứng thực tại UBND cấp xã
Nội dung này được đề cập tại Dự thảo Nghị định quy định về tổ hợp tác. Theo đó, Dự thảo Nghị định này một lần nữa khẳng định rằng, tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân: Điều 3. Tổ hợp tác 1. Tổ hợp tác là tổ chức kinh tế tập thể, không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp vốn, sức lao động để thực hiện những công việc nhất định nhằm phục vụ nhu cầu chung của các thành viên, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. 2. Sau khi thành lập, tổ hợp tác gửi thông báo thành lập cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi tổ hợp tác thành lập và hoạt động. Như vậy, thay vì phải chứng thực hợp đồng hợp tác khi thành lập tổ hợp tác thì sau khi thành lập, tổ hợp tác chỉ phải gửi thông báo thành lập cho UBND cấp xã, nơi tổ hợp tác thành lập, hoạt động. Đồng thời, Dự thảo Nghị định này cho phép thành viên tổ hợp tác là pháp nhân (trước đây chỉ có cá nhân), và cá nhân từ đủ 15 tuổi trở lên đủ điều kiện đã có thể trở thành thành viên tổ hợp tác (thay vì trước đây phải từ đủ 18 tuổi trở lên). Chi tiết Dự thảo Nghị định quy định về tổ hợp tác, mời các bạn xem tại file đính kèm.
Bên em đang soạn hợp đồng hợp tác 3 bên giữa nhà trường doanh nghiệp và sinh viên. Nhưng em ít thấy mẫu hợp đồng này nên gặp khó khăn. Có anh/ chị nào sẵn lòng giúp em không ạ?
Pháp nhân liên quan hợp đồng HTKD (BCC)
Chúng tôi là 2 tổ chức kinh tế có pháp nhân độc lập ký kết với nhau 1 hợp đồng hợp tác kinh doanh phân chia sản phẩm. Xin hỏi Công ty của tôi hoặc Công ty đối tác có thể thành lập 1 pháp nhân mới ( CTy TN HH MTV ) do mình làm chủ sở hữu để thay công ty mình thực hiện hợp đồng được khg?
Bạn có thể tham khảo Nghị định 108/2006/NĐ-CP
Câu hỏi của bạn không nêu cụ thể việc thanh lý hợp đồng hợp tác kinh doanh có gắn với việc giải thể tổ chức kinh tế hay không, do đó chỉ có thể hướng dẫn chung như sau: theo quy định tại điều 69 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư thì, đối với trường hợp thanh lý dự án đầu tư mà không gắn với việc giải thể tổ chức kinh tế thì việc thanh lý thực hiện theo quy định pháp luật về thanh lý tài sản, thanh lý hợp đồng. Trường hợp thanh lý dự án gắn với việc giải thể tổ chức kinh tế thì nhà đầu tư thực hiện thủ tục giải thể tổ chức kinh tế theo quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Thời hạn thanh lý dự án đầu tư không được vượt quá 6 tháng kể từ ngày quyết định chấm dứt hoạt động. Trường hợp đặc biệt, thời hạn thanh lý có thể kéo dài và phải được chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng tối đa không quá 12 tháng. Sau khi thực hiện việc thanh lý, tổ chức kinh tế phải thông báo cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư để thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp tổ chức kinh tế không thành lập được ban thanh lý để thực hiện thanh lý dự án hoặc không thực hiện thanh lý thì việc tranh chấp giữa các bên có liên quan đến dự án sẽ được đưa ra giải quyết tại tổ chức toà án, trọng tài theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thanh lý dự án đầu tư, nếu tổ chức kinh tế không có khả năng thanh toán các khoản nợ thì việc thanh lý sẽ chấm dứt và được đưa ra giải quyết theo thủ tục của pháp luật về phá sản. (Theo vneconomy.vn) Nghị định 108/2006/NĐ-CP http://thuvienphapluat.com/Default.aspx?CT=VC&LID=3E5B007
Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh dịch vụ vận tải là gì?
Mới đây, Sở Giao thông vận tải TP. Đà Nẵng đã gửi Công văn số 1792/SGTVT-QLVTPTNL đề nghị Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn nội dung liên quan đến hoạt động hợp tác kinh doanh vận tải của Công ty TNHH Grab với một số doanh nghiệp trên địa bàn. Theo đó hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải của các hợp tác xã ký với Grab thể hiện Grab sẽ tham gia xác định giá cước và điều hành lái xe theo sự ủy quyền của các hợp tác xã. Về bản chất, việc tham gia quyết định giá cước và điều hành lái xe chứng minh hoạt động của Grab tại địa bàn Đà Nẵng là hoạt động của một đơn vị kinh doanh vận tải hành khách theo hình thức hợp đồng điện tử. Nội dung Công văn nêu rõ: Trong công tác quản lý vận tải đối với các đơn vị kinh doanh vận tải hợp đồng điện tử, hiện đang có 2 quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, Công ty TNHH Grab hiện chỉ được Sở Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh cấp Giấy phép kinh doanh vận tải. Tuy nhiên, Công ty TNHH Grab không đặt trụ sở chi nhánh tại Đà Nẵng và chưa được Sở Giao thông vận tải TP. Đà Nẵng cấp giấy phép kinh doanh vận tải theo quy định nên hoạt động kinh doanh vận tải của Công ty TNHH Grab tại Đà Nẵng là sai quy định. Quan điểm thứ hai cho rằng, Công ty TNHH Grab đã được Sở Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép kinh doanh vận tải và ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với các đơn vị kinh doanh vận tải đã được Sở Giao thông vận tải TP. Đà Nẵng cấp phép, vì vậy hoạt động của Công ty TNHH Grab trên địa bàn Đà Nẵng là đúng quy định. Việc ký hợp đồng hợp tác kinh doanh là áp dụng theo điểm d, khoản 3, Điều 34, Nghị định số 10/2020/NĐ-CP Quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải ô tô. Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hiện nay tại Bộ Luật dân sự 2015 đã có những quy định cụ thể hơn về hợp đồng hợp tác khác rất nhiều so với Bộ luật dân sự 2005. Tại Điều 504 của Bộ luật dân sự 2015 quy định về hợp đồng hợp tác như sau: – Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. – Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản. Như vậy có thể hiểu hợp đồng hợp tác là sự thảo thuận giữa các bên về việc góp vốn để thực hiện một số công việc nhằm cùng hưởng lợi nhuận và sẻ chia rủi ro. Việc giao kết hợp đồng hợp tác giữa các chủ thể sẽ tạo thành một tổ chức gọi là tổ hợp tác. Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định thêm về những vấn đề xung quanh hợp đồng hợp tác như sau: Ngoài ra, Căn cứ theo Khoản 14 Điều 3 Luật đầu tư 2020: “Hợp đồng hợp tác kinh doanh được là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế.” Hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải Hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải chỉ được xác lập khi mà đơn vị kinh doanh vận tải được quy định theo Nghị định 10/2020/NĐ-CP quy định: “Đơn vị kinh doanh vận tải bao gồm: Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh vận tải bằng xe ô tô.” Qua đó, có thể thấy hợp đồng hợp tác kinh doanh vận tải là hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực vận tải, cung ứng dịch vụ ở đây là dịch vụ vận tải, cũng có các thỏa thuận để phân chia lợi nhuận, quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ trong quá trình vận tải. Như vậy, việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh giúp các bên không phải thành lập tổ chức kinh tế chung để quản lý hoạt động kinh doanh,sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho việc thành lập và vận hành một pháp nhân mới,không phải phụ thuộc vào quyết định của đối tác khi nhà đầu tư muốn chuyển nhượng hoặc bán đi phần của mình trong một số trường hợp cụ thể,khi dự án kết thúc, nhà đầu tư cũng không phải lo lắng về vấn đề giải thể.
Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”
Hợp đồng hợp tác là hợp đồng được ký giữa các bên nhằm hợp tác đầu tư, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, tài sản theo quy định của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế. Các nhà đầu tư cùng hợp tác với nhau phải thực hiện theo nguyên tắc này, trường hợp các bên không đảm bảo thực hiện đúng chỉ tôn của hợp đồng sẽ rất dễ xảy ra tranh chấp. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSND cấp cao tại Đ.N nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”, giữa nguyên đơn, ông V.K Quang; bà N.T Sáu với bị đơn ông P.C Hùng đã được TAND thành phố Q.N tỉnh B.Đ xét xử theo Bản án dân sự có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Nội dung vụ án Ngày 11/9/2017, Công ty TNHH đấu giá tài sản N.V tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án đối với quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích 474,3m2 tại thôn P.T, xã P.T, huyện T.P, tỉnh B.Đ. Ông P.C Hùng nộp tiền đặt cọc 100 triệu đồng để tham gia đấu giá, nhưng trong hồ sơ đăng ký đấu giá ông Hùng để ông N.C Huy đứng tên. Sau đó, trúng đấu giá thửa đất trên với giá 890 triệu đồng, nhưng không đủ tiền mua. Ngày 25/9/2017, ông P.C Hùng huy động bà N.T Sáu và ông V.K Quang cùng góp vốn mua toàn bộ nhà, đất nêu trên. Bà Sáu, ông Quang và ông Hùng đã lập Hợp đồng góp vốn có nội dung: “Số tiền mua nhà, đất là 890 triệu đồng, chia làm 03 phần, mỗi người góp 297 triệu đồng, ông Hùng giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.P cập nhập sang tên ông N.C Huy; ông Quang và bà Sáu có trách nhiệm nhận và quản lý tài sản. Ngày 02/02/2018 Ông Huy đã nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Sáu và ông Quang nhiều lần nói ông Hùng, yêu cầu ông Huy ủy quyền sở hữu nhà, đất cho 03 người, nhưng ông Hùng nói ‘‘không mất đâu, có gì ông Hùng chịu trách nhiệm ”. Sau đó, ông Hùng đại diện đứng ra cho vợ chồng bà H.T.L Trâm, ông Đ.T.T Tuấn thuê nhà. Đến ngày 17/10/2019, có người đến nhận nhà, đất, ông Quang và bà Sáu mới biết nhà đất nêu trên đã bị chuyển nhượng. Bà Sáu và ông Quang không nhận được tiền thuê nhà và tiền chuyển nhượng nhà, đất • từ ông Hùng và ông Huy. Bà Sáu và ông Quang khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên hủy Hợp đồng góp vốn buộc ông P.C Hùng trả lại số tiền góp vốn mỗi người là 297 triệu đồng. 2. Quá trình xét xử Ngày 23/9/2020 TAND thành phố Q.N, tỉnh B.Đ, ban hành bản án dân sự sơ thẩm số 148/2020/DS-ST với các nội dung: (1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V.K Quang, bà N.T Sáu. - Tuyên bố hủy bỏ Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017. - Buộc ông P.C Hùng có nghĩa vụ hoàn trả cho ông V.K Quang 297 triệu, và bà N.T Sáu 297 triệu đồng. (2) Đình chỉ xét xử phần yêu cầu khởi kiện ông P.C Hùng trả lãi đối với sổ tiền góp vốn của mỗi người. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định. Ngày 21/01/2021, bị đơn ông Phan Cao Hùng có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm. Ngày 23/4/2021, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đ.N có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đ.N hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 48/2021/DS-GĐT ngày 09/7/2021 của TAND cấp cao đã chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND cấp cao, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố Q.N xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Sau khi lập hợp đồng góp vốn của ba người là ông P.C Hùng, ông V.K Quang và bà N.T Sáu mua tài sản trúng đấu giá quyền sử dụng đất với số tiền mỗi người là 297 triệu đồng. Ngày 02/02/2018, Văn phòng đăng ký đất đai huyện T.P, tỉnh B.Đ chỉnh lý biến động sang tên ông N.C Huy. Như vậy, Hợp đồng góp vốn đã có hiệu lực và là tài sản chung của ông P.C Hùng, ông V.K Quang và bà N.T Sáu. Các bên thỏa thuận khi ông Huy được đứng tên trên Giấy chứng nhận, ông Hùng có trách nhiệm giữ Giấy chứng nhận; còn ông Quang và bà Sáu là người quản lý tài sản. Ngày 20/4/2018, ông Hùng đại diện ký Hợp đồng cho thuê nhà với bà Trâm. Ngày 22/5/2018, ông Huy lập Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất nêu trên cho ông Thắng. Ngày 14/02/2019, ông Thắng chuyển nhượng lại cho ông Toàn. Như vậy, Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 giữa ông V.K Quang, bà N.T Sáu và ông P.C Hùng đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, nhưng TAND thành phố Q.N lại tuyên hủy Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 là không có căn cứ và quá trình giải quyết vụ án, do chưa có lời khai của ông Huy và ông Hùng. Nên tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ được ông Quang và bà Sáu có đồng ý cho ông Hùng ký hợp đồng thuê nhà với bà Trâm hay không? Khi ông Huy chuyển nhượng nhà đất cho ông Thắng, ông Hùng có đồng ý hay không?. Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn để cho rằng ông P.C Hùng và ông N.C Huy tự ý chuyển nhượng tài sản nếu để tuyên hủy Hợp đồng góp vốn ngày 26/9/2017 và buộc ông Hùng hoàn trả lại số :tiền góp vốn cho ông V.K Quang, bà N.T Sáu mỗi người 297 triệu đồng là chưa đủ căn cứ. Trên đây là vi phạm của TAND thành phố Q.N, tỉnh B.Đ trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”, VKSND cấp cao tại Đ.N thông báo đến VKSND các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát.
Hợp đồng hợp tác để kinh doanh hàng hóa có điều kiện mà GPKD không có đăng ký?
Em chào Luật sư, Em xin phép nhờ Luật sư tư vấn giúp em vấn đề này ạ. Hiện tại trong GPKD của Công ty em không có đăng ký kinh doanh sản phẩm hóa chất diệt ruồi (là sản phẩm kinh doanh có điều kiện). Nay Công ty em có khách hàng muốn mua loại sản phẩm này, vì vậy Công ty em muốn ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với một Công ty B (có GPKD kinh doanh sản phẩm đó) để hợp thức việc mua bán hóa chất diệt ruồi của Công ty em, chia sẻ lợi nhuận là 50:50. Như vậy, Công ty em kinh doanh sản phẩm hóa chất diệt ruồi có hợp pháp không ạ, có xuất được hóa đơn GTGT cho khách hàng không và hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty B quy định như thế nào ạ.
Hợp đồng hợp tác đầu tư bất động sản có giá trị pháp lý không?
Kính chào Luật sư. Năm 2010 mẹ tôi có mua đất dự án của một công ty bất động sản tại tỉnh Đồng Nai. Lúc đó mẹ tôi có ký hợp đồng hợp tác đầu tư với công ty đó. Đến nay công ty vẫn chưa triển khai dự án. Theo như tìm hiểu về dự án tôi có được biết: Dự án đó được phê duyện chủ trương đầu tư do tỉnh Đồng Nai kýnăm 2004 - Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt QHCT tỷ lệ 1/500 năm 2006 - Quyết định giao đất của UBND tỉnh Đồng Nai năm 2009 - Giấy chứng nhận QSD đất cho dự án đứng tên chủ đầu tư năm 2012 Nhưng đến nay công ty BĐS trên vẫn chưa triển khai dự án. Vậy hợp đồng hợp tác đầu tư mà mẹ tôi ký với công ty BĐS nói trên có giá trị pháp lý không? và gia đình tôi có quyền tố cáo công ty BĐS kia lừa đảo không ?
Hợp đồng hợp tác soạn như thế nào để phù hợp Luật Thuế và Luật Đất đai?
Hợp đồng cho thuê nhà xưởng và tài sản trên đất. Dạ chào luật sư. Em có một số nội dung xin được tư vấn như sau: Bên cty em được nhà nước giao khu đất lam sản xuất (đất phi nông nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm). Hiện công ty em có ký một hợp đồng hợp tác kinh doanh băng một phần diện tích lô đất đó. theo luật đất đai năm 2013 thì hợp đồng hợp tác đó là phù hợp, vậy theo luật quản lý thuế năm 2019 thi hợp đồng đó về bản chất là hợp đồng cho thê đất. Em xin luật sư tư vấn giúp em trường hợp của hợp đồng hợp tác trên bên em nên chuyển đổi hợp đồng ký kết như thế nào cho phù hợp với luật thuế mới mà vẫn đảm bảo về bản chất là cho thuê thu tiền hàng tháng ạ. Rất mong nhận được tư vấn của luật sư. Trân trọng cảm ơn luật sư!
Xây dựng công trình trong hợp đồng hợp tác kinh doanh?
Kính chào luật sư. Tôi có 1 vấn đề muốn được tư vấn từ các luật sư như sau: Công ty tôi ( Bên B) có ký hợp đồng hợp tác đầu tư với Cty đối tác ( Bên A). Bên A góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Hiện, quyền SD đất và tài sản trên đất của bên A đang thế chấp tại ngân hàng. Ngân hàng đã đồng ý cho phá dỡ tài sản để thay thế và được dùng tài sản mới để hợp tác kinh doanh. Bên B ( cty tôi) là người phải bỏ mọi chi phí liên quan đến việc xây dựng tài sản mới trên khu đất đó. Bên A làm giấy phép xây dựng. Sau khi hoàn thành công trình, bên B sẽ bàn giao tài sản cho bên A, tài sản sẽ mang tên bên A ( giấy tờ chủ sở hữu công trình mang tên bên A). Bên B sẽ có quyền sử dụng tài sản đó của bên A để hoạt động kinh doanh. Tôi muốn hỏi việc bên B ký kết các hợp đồng với nhà thầu có được không? Các khoản thuế VAT đầu vào Bên B có được khấu trừ không? ( Có HĐ và chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt) Sau khi hoàn thành công trình bên B có làm thủ tục hoàn công được không? Bên B sẽ bàn giao lại cho bên A như thế nào cho đúng và hợp lý? Rất mong nhận được tư vấn của luật sư. Trân trọng cám ơn.
Tổ hợp tác là tổ chức không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Theo đó Điều kiện trở thành thành viên tổ hợp tác được quy định và phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Thứ nhất: Cá nhân là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định từ Điều 16 đến Điều 24 Bộ luật dân sự, quy định của Bộ luật lao động và pháp luật khác có liên quan. Thứ hai: Tổ chức là pháp nhân Việt Nam, thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, có năng lực pháp luật phù hợp với lĩnh vực kinh doanh của tổ hợp tác. Thứ ba: Tự nguyện gia nhập và chấp thuận nội dung hợp đồng hợp tác. Thứ tư: Cam kết đóng góp tài sản, công sức theo quy định của hợp đồng hợp tác. Thứ năm: Điều kiện khác theo quy định của hợp đồng hợp tác. Bên cạnh đó, Đại diện của tổ hợp tác trong xác lập, thực hiện giao dịch dân sự là cá nhân hoặc pháp nhân được các thành viên tổ hợp tác đồng ý ủy quyền xác lập và thực hiện giao dịch dân sự. Đối với tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác hình thành từ các nguồn sau: - Đóng góp của thành viên tổ hợp tác bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; - Phần được trích từ hoa lợi, lợi tức sau thuế; - Các thành viên tổ hợp tác cùng tạo lập; - Hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức khác tài trợ, tặng, cho chung; - Các nguồn khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp phát sinh tranh chấp giữa các thành viên tổ hợp tác trong phạm vi của hợp đồng hợp tác được ưu tiên giải quyết tranh chấp nội bộ tại tổ hợp tác; thông qua trung gian hòa giải hoặc thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án, trọng tài. Các bạn có thể tham khảo thêm các quy định khác về tổ hợp tác tại Nghị định 77/2019/NĐ-CP (Ngày hiệu lực:25/11/2019)
Khi nào nên lập hợp đồng hợp tác?
Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm; Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản (Điều 504 BLDS năm 2015). >>> Các mẫu hợp đồnh hợp tác Hợp đồng hợp tác được ghi nhận trong BLDS năm 2005 tại phần quy định về chủ thể tổ hợp tác. Tuy nhiên, đến BLDS năm 2015 thì hợp đồng hợp tác lần đầu tiên được ghi nhận một mục riêng, nằm trong Chương XVI quy định về các hợp đồng thông dụng. Có thể thấy, BLDS năm 2015 đã chú trọng và nâng tầm quan trọng của hợp đồng hợp tác trong mối tương quan với các hợp đồng khác. Hợp đồng hợp tác ra đời trên cơ sở nhu cầu tập hợp nguồn lực nhằm cùng sản xuất, kinh doanh. Các cá nhân, pháp nhân cùng hợp tác, liên kết với nhau bằng một hợp đồng hợp tác để cùng sản xuất, kinh doanh đạt hiểu quả cao hơn. Hợp đồng hợp tác là một dạng của hợp đồng dân sự, vì vậy, hợp đồng hợp tác có những đặc điểm sau: (1). Hợp đồng hợp tác ra đời trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Giống như các hợp đồng dân sự khác, hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên tham gia. Các bên thỏa thuận nội dung cơ bản trong hợp đồng, quy định đối tượng, mục đích cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Điểm đặc trưng trong hợp đồng hợp tác là quyền và nghĩa vụ của các bên không đối lập nhau. Các chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác thường có quyền, nghĩa vụ như nhau. Quy định về số lượng chủ thể của hợp đồng hợp tác có sự thay đổi căn bản so với Điều 111 BLDS năm 2005, chủ thể của hợp đồng hợp tác phải từ ba cá nhân trở lên, còn ở BLDS năm 2015 chỉ quy định chung chung, không ấn định cụ thể số lượng chủ thể, do đó theo nguyên tắc chung của hợp đồng, số lượng chủ thể của hợp đồng hợp tác chỉ cần từ hai chủ thể trở lên. (2). Chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác là các cá nhân, pháp nhân cùng đóng góp tài sản, công sức. Pháp luật cho phép mọi cá nhân, pháp nhân thỏa mãn các điều kiện luật định đều được tham gia vào hợp đồng hợp tác. Các chủ thể có thể đóng góp tài sản hoặc công sức hoặc cả hai nhằm cùng thực hiện công việc, cùng hưởng lợi ích từ kết quả công việc đem lại. (3). Mục đích của hợp đồng hợp tác là cùng thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Các chủ thể phải thỏa thuận cụ thể công việc cùng hợp tác, cách thức chia sẻ lợi ích cũng như cơ chế chịu trách nhiệm đối với các chủ thể tham gia hợp đồng. Qúa trình thực hiện công việc, chia sẻ lợi ích, chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại phát sinh trong quá trình thực hiện công việc tuân thủ theo các nguyên tắc mà các bên thỏa thuận. Cả BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 đều thừa nhận mục đích của hợp đồng hợp tác là nhằm thỏa thuận về việc cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu lợi nhuận. Tuy nhiên, xét về kết quả thì hợp đồng hợp tác được quy định trong BLDS năm 2005 là cơ sở để hình thành chủ thể “tổ hợp tác”; đến BLDS năm 2015, tổ hợp tác không được thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Cùng với việc thay đổi đó, kết quả của hợp đồng hợp tác không làm phát sinh chủ thể tổ hợp tác như quy định trong BLDS năm 2005. Quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng hợp tác Thứ nhất, quy định về nội dung của hợp đồng hợp tác Điều 505 BLDS năm 2015 được kế thừa gần như toàn bộ quy định tại khoản 2 Điều 111 BLDS năm 2005. Khi nói đến nội dung của hợp đồng thì ta hiểu đó là tổng hợp các điều, khoản mà các bên thỏa thuận nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Hợp đồng hợp tác được tham gia bởi nhiều chủ thể có vị trí ngang nhau cùng hợp tác, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Vai trò của hợp đồng này nhằm thúc đẩy hoạt động hợp tác, tận dụng nguồn lực của nhiều chủ thể trong xã hội nên sự ảnh hưởng của quá trình thực hiện hợp đồng tới sự ổn định của chủ thể là tương đối lớn. Chính vì vậy, nhà làm luật nước ta đã ghi nhận những nội dung cơ bản của hợp đồng để định hướng cho các chủ thể trong quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng. Theo quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015 thì Hợp đồng hợp tác có các nội dung chủ yếu sau: (1). Về mục đích, thời hạn hợp tác: Mục đích là các lợi ích mà chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác hướng tới. Việc quy định mục đích sẽ giúp định hướng việc sử dụng tài sản. Cùng thực hiện công việc hướng đến mục đích này; Thời hạn hợp tác là khoảng thời gian các chủ thể cùng góp sức, cùng sử dụng tài sản để thực hiện công việc hợp tác chung. (2). Về họ, tên, nơi cư trú của cá nhân, trụ sở của pháp nhân: Tham gia hợp đồng hợp tác bao gồm cá nhân và pháp nhân. Do đó, nếu thành viên là cá nhân thì các chủ thể phải ghi nhận rõ ràng họ, tên và nơi cư trú; nếu thành viên là pháp nhân thì phải ghi rõ tên, trụ sở của pháp nhân. Việc ghi nhận rõ các thông tin của chủ thể để tránh trường hợp nhầm lẫn trong xác định thành viên hợp tác. (3). Về tài sản đóng góp: Các chủ thể có thể đóng góp tài sản hoạt động hợp tác nên hợp đồng phải ghi nhận rõ ràng tài sản đóng góp là tài sản nào, có giá trị bao nhiêu. Việc ghi nhận cụ thể tài sản đóng góp là cơ sở xác định giá trị tài sản hợp tác và định hướng việc sử dụng tài sản phù hợp với công việc hợp tác. Mức đóng góp tài sản của các thành viên là ngang bằng hoặc được xác định theo tỷ lệ khác nhau. Tỷ lệ đóng góp tài sản giữa các thành viên hợp tác là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định việc phân chia lợi nhuận sau này giữa các chủ thể của hợp đồng. (4). Đóng góp bằng sức lao động: Chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác có thể đóng góp bằng sức lao động của mình. Trong nội dung hợp đồng phải ghi nhận rõ chủ thể nào đóng góp bằng sức lao động và quá trình sử dụng lao động vào công việc hợp tác như thế nào. (5). Phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức: Hoa lợi, lợi tức là các lợi ích thu được từ quá trình thực hiện công việc hợp tác. Tránh tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể, hợp đồng hợp tác cần ghi rõ phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức cho từng chủ thể. Việc phân chia hoa lợi, lợi tức thường được xác định trên cơ sở tỷ lệ đóng góp sức lao động, tài sản của từng chủ thể trừ trường hợp các chủ thể trong hợp đồng xác định phương thức khác để phân chia. (6). Về quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác: Khi tham gia vào hợp đồng hợp tác, từng thành viên có các quyền, nghĩa vụ nhất định. Phạm vi các quyền, nghĩa vụ của từng thành viên hợp tác được xác định theo nội dung ghi nhận trong hợp đồng. (7). Về quyền, nghĩa vụ của người đại diện: Tham gia vào hợp đồng hợp tác gồm nhiều cá nhân, pháp nhân. Để thuận lợi cho quá trình thực hiện hợp đồng, đặc biệt khi tham gia giao kết hợp đồng với một chủ thể khác, các thành viên có thể cử một người đại diện cho các thành viên hợp tác.; Tránh trường hợp vượt quá phạm vi thẩm quyền hoặc thực hiện không đúng thẩm quyền của mình, hợp đồng hợp tác cũng phải được ghi nhận phạm vi quyền, nghĩa vụ của người đại diện cho các thành viên hợp tác. (8). Về điều kiện tham gia và rút khỏi hợp đồng hợp tác của các thành viên: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, dưới sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nhiều chủ thể có thể muốn tham gia vào hợp đồng hợp tác hoặc nhiều thành viên hợp tác muốn rút khỏi hợp đồng. Do đó, trong hợp đồng hợp tác cần quy định cụ thể các điều kiện tham gia hoặc rút khỏi để việc tham gia hoặc không tham gia của thành viên hợp tác không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của việc hợp tác. (9). Về điều kiện chấm dứt hợp tác: Hợp đồng hợp tác cũng như các hợp đồng dân sự khác, hợp đồng có thể chấm dứt trong các điều kiện nhất định. Do đó, hợp đồng hợp tác nên quy định cụ thể các điều kiện để chấm dứt việc hợp tác giữa các thành viên hợp tác. Điều kiện chấm dứt việc hợp tác có thể là nền tảng để xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng hợp tác. Thứ hai, tài sản chung của các thành viên hợp tác Bản chất của hợp đồng hợp tác là sự liên kết của các thành viên hợp tác cùng thực hiện một công việc. Để thực hiện công việc này, mỗi thành viên có thể thỏa thuận đóng góp một phần tài sản và cùng tạo lập khối tài sản chung theo phần của các thành viên. Tài sản đóng góp có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản. Quy định về tài sản chung của các thành viên hợp tác, pháp luật ghi nhận như sau (Điều 506 BLDS năm 2015): (1) Cơ sở hình thành tài sản chung của các thành viên tổ hợp tác; (2) Hậu quả pháp lý đối với việc chậm góp tiền; (3) Định đoạt tài sản chung là quyền sử dụng đất, nhà, xưởng sản xuất, tư liệu sản xuất và các tài sản khác; (4) Nguyên tắc phân chia tài sản chung trước khi hợp đông hợp tác chấm dứt; (5) Mối liên hệ giữa phân chia tài sản chung với quyền, nghĩa vụ của các thành viên hợp tác. Các quy định về tài sản chung của các thành viên hợp tác là cơ sở pháp lý để các thành viên hợp tác thực hiện trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung của mình. Đây cũng là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên trong trường hợp phân chia tài sản chung. Đồng thời, nếu các thành viên hợp tác phát sinh tranh chấp về phân chia tài sản chung thì đây cũng là cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp này trong trường hợp nội dung hợp đồng hợp tác không có thỏa thuận. Thứ ba, về quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác Khi tham gia vào hợp đồng hợp tác, các thành viên hợp tác sẽ có các quyền, nghĩa vụ nhất định. Quyền, nghĩa vụ của các thành viên được xác định trên cơ sở thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì quyền, nghĩa vụ được xác định theo quy định tại Điều 507 BLDS nắm 2015 với những nội dung sau: (1). Về quyền được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác: Việc hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ hoạt động hợp tác phải tuân thủ theo quy định ghi nhận trong hợp đồng hợp tác. Thông thường, việc phân chia hoa lợi, lợi tức dựa trên số lượng tài sản đóng góp và công sức bỏ ra của mỗi thành viên. Việc hưởng hoa lợi, lợi tức có thể được nhận trực tiếp bằng hiện vật hoặc được chia bằng tiền. (2). Về quyền tham gia quyết định liên quan đến thực hiện hợp đồng hợp tác, giám sát hoạt động hợp tác: Thực hiện hợp đồng hợp tác là một quá trình do chính các thành viên hợp tác tự mình thực hiện hoặc giao cho người thứ ba thực hiện. Do đó, quá trình thực hiện hợp đồng hợp tác có thể phát sinh nhiều vấn đề đòi hỏi các thành viên hợp tác phải trực tiếp tham gia quyết định hoặc giám sát để kịp thời đưa ra quyết định. Việc tham gia quyết định hoặc giám sát hoạt động hợp tác là một quyền cơ bản của thành viên hợp tác nhằm bảo vệ quyền lợi của chính chủ thể này, đặc biệt nhằm bảo toàn khối tài sản chung của các thành viên hợp tác. (3). Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác do lỗi của mình gây ra: Khi tham gia hợp đồng hợp tác, thành viên hợp tác có thể gây thiệt hại cho các thành viên khác bằng hành vi có lỗi của mình. Do đó, thành viên hợp tác nào gây thiệt hại cho các thành viên còn lại đều phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với giá trị thiệt hại và mức độ lỗi của mình. (4). Về nghĩa vụ thực hiện các quyền, nghĩa vụ được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác: Các thành viên phải tuân thủ đầy đủ các quyền, nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng hợp tác đã được giao kết. Thứ tư, về chấm dứt hợp đồng hợp tác Hợp đồng hợp tác là một hợp đồng dân sự cho nên chấm dứt hợp đồng hợp tác cũng tuân thủ theo quy định chung về chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng hợp tác có đặc thù riêng liên quan đến mục đích xác lập hợp đồng nên chấm dứt hợp đồng hợp tác có các căn cứ riêng sau (Điều 512 BLDS năm 2015): (1). Theo thỏa thuận của các thành viên hợp tác: Khi hợp đồng hợp tác đang tồn tại, nhưng do công việc hợp tác không đạt được hiệu quả như mong muốn ban đầu tham gia hợp đồng hợp tác hoặc vì những lý do khác mà các thành viên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng hợp tác. (2). Hết thời hạn ghi trong hợp đồng hợp tác: Các thành viên của nhóm hợp tác có thể thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác thời hạn hợp tác cùng làm một công việc, khi hết thời hạn đó thì hợp đồng hợp tác chấm dứt. (3). Mục đích hợp tác đã đạt được: Khi tham gia hợp đồng hợp tác, các thành viên xác định mục đích của việc xác lập hợp đồng hợp tác, nếu mục đích đó đã đạt được thì hợp đồng hợp tác không còn cần thiết đối với các thành viên nữa, cho nên hợp đồng hợp tác chấm dứt. (4). Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Trường hợp nhóm hợp tác hoạt động không đúng mục đích xác lập hợp đồng mà xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ quyết định giải thể nhóm hợp tác đó. (4). Trường hợp khác theo quy định của bộ luật này, luật khác có liên quan: Đây là một quy định mở, dự liệu các trường hợp khác chấm dứt hợp đồng hợp tác. Khi hợp đồng hợp tác chấm dứt, các nghĩa vụ tài sản phát sinh từ hợp đồng phải được thanh toán từ khối tài sản chung của các thành viên hợp tác. Trường hợp tài sản chung không đủ để thực hiện việc thanh toán thì các thành viên hợp tác phải sử dụng tài sản riêng và tuân theo quy định tại Điều 509 BLDS năm 2015; Trường hợp sau khi thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản mà tài sản chung vẫn còn thì phần tài sản này sẽ được chia cho các thành viên hợp tác tương ứng với tỷ lệ đóng góp của mỗi thành viên, trừ trường hợp các chủ thể này có thỏa thuận khác. Đề xuất hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hợp tác Nghiên cứu về quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015, ta thấy có những nội dung cần hoàn thiện, đó là: Thứ nhất, về nội dung của hợp đồng hợp tác (1). Nội dung tại khoản 2 Điều 505 BLDS năm 2015 quy định về “Họ, tên, nơi cư trú của cá nhân; tên, trụ sở của pháp nhân”. Về bản chất đây là yếu tố nhằm định danh các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng chứ không phải là điều khoản do các bên thỏa thuận. Do vậy, nội dung này nên loại bỏ khỏi quy định tại Điều 505 BLDS năm 2015. (2). Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 505 BLDS năm 2015 nói về tài sản đóng góp và đóng góp bằng sức lao động. Nếu như các bên có thỏa thuận về việc đóng góp thì việc đóng góp này trở thành nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 505 BLDS năm 2015 đề cập đến nghĩa vụ của các thành viên hợp tác trong đó đã bao hàm những nội dung của khoản 3 và khoản 4 Điều 505 BLDS năm 2015. Hơn nữa, tại khoản 6 Điều 505 BLDS năm 2015 nói về quyền và nghĩa vụ của các thành viên, trong đó bao gồm cả quyền và nghĩa vụ của người đại diện, nên tại khoản 7 Điều 505 BLDS năm 2015 quy định riêng về vấn đề này là điều không cần thiết. (3). Tại khoản 8 Điều 505 BLDS năm 2015 quy định về điều kiện tham gia hợp đồng hợp tác là không hợp lý. Bởi lẽ, điều kiện để một chủ thể tham gia hợp đồng hợp tác là do pháp luật quy định chứ không phải là do các bên thỏa thuận. Do vậy, nội dung của khoản 8 Điều 505 BLDS năm 2015 nên loại bỏ “điều kiện tham gia”, tức là chỉ còn “điều kiện rút khỏi” mà thôi. Thứ hai, về tài sản chung của các thành viên hợp tác (1). Khoản 1 Điều 506 BLDS năm 2015 chỉ quy định về việc trả lãi và bồi thường thiệt hại đối với thành viên có nghĩa vụ góp tiền là không phù hợp. Bởi sự chậm trễ trong việc đóng góp của bất cứ thành viên nào với bất cứ hình thức đóng góp nào cũng có thể gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên khác. Do đó, nếu quy định chỉ thành viên góp tiền chịu lãi đối với số tiền chậm đóng góp là không phù hợp. Do đó, đoạn 2 khoản 1 Điều 506 BLDS năm 2015 cần phải được sửa đổi theo hướng là bất cứ thành viên nào chậm thực hiện việc đóng góp tài sản cũng phải chịu trách nhiệm trả lãi đối với tài sản chậm đóng góp và phải bồi thường thiệt hại, với những tài sản không phải là tiền thì quy đổi ra tiền để tính lãi. Bên cạnh đó, cũng tại khoản 1 Điều 506 BLDS còn quy định người chậm đóng góp ngoài việc chịu lãi còn phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, tác giả cho rằng không phải trường hợp nào cũng xảy ra thiệt hại từ việc chậm đóng góp. Vì mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khắc phục hậu quả do mình gây ra. Do đó, để đảm bảo sự hợp lý trong quy định này, cần thêm hai từ “nếu có” vào sau cụm từ “bồi thường thiệt hại”. (2). Tại khoản 2 Điều 506 quy định: “… việc định đoạt các tài sản khác không phải tư liệu sản xuất sẽ do đại diện của các thành viên quyết định nếu không có thỏa thuận gì khác”. Chúng ta thấy rằng quy định này dường như không phù hợp. Bởi vì, tư cách của người đại diện trong hợp đồng hợp tác trong BLDS năm 2015 không giống tư cách đại diện của tổ trưởng tổ hợp tác trong BLDS năm 2005. Người đại diện trong hợp đồng hợp tác theo quy định của BLDS năm 2015 chỉ có thể là đại diện theo ủy quyền của các thành viên hợp tác khác. Nếu các thành viên không có thỏa thuận thì cũng đồng nghĩa với việc họ không ủy quyền cho người đại diện định đoạt các tài sản không phải là tư liệu sản xuất. Do vậy, việc quy định như trên có thể dẫn đến việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên hợp tác khác. (3). Khoản 3 Điều 506 BLDS năm 2015 quy định: “Không được phân chia tài sản chung trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác, trừ trường hợp tất cả các thành viên hợp tác có thỏa thuận”. Nhưng tại khoản 2 Điều 510 BLDS năm 2015 quy định: “Thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác có quyền yêu cầu nhận lại tài sản đã đóng góp, được phân chia phần tài sản trong khối tài sản chung và phải thanh toán các nghĩa vụ theo thỏa thuận. Trường hợp phải phân chia tài sản bằng hiện vật làm ảnh hưởng đến hoạt động hợp tác thì tài sản được tính giá trị thành tiền để chia”. Như vậy, kể cả không có thỏa thuận thì tài sản chung vẫn được chia trước khi chấm dứt hợp đồng hợp tác. Do đó, để có sự phù hợp với khoản 2 Điều 510 BLDS năm 2015 thì khoản 3 Điều 506 BLDS năm 2015 cần phải bổ sung thêm cụm từ “hoặc luật có quy định khác” vào sau cụm từ “…. các thành viên hợp tác có thỏa thuận”. Thứ ba, về quyền, nghĩa vụ của thành viên hợp tác (1). Khoản 1 Điều 507 BLDS năm 2015 quy định: “Được hưởng hoa lợi, lợi tức từ hoạt động hợp tác”. Thông thường hoa lợi, lợi tức chỉ phát sinh tự nhiên hoặc thông qua việc khai thác công dụng của tài sản. Tuy nhiên, trong hợp đồng hợp tác, các bên không chỉ đóng góp tài sản mà có thể đóng góp bằng công sức thì việc hưởng hoa lợi, lợi tức sẽ không đặt ra. Trong trường hợp này họ chỉ có thể phân chia lợi nhuận. Do vậy, khoản 1 Điều 507 BLDS năm 2015 cần bổ sung cụm từ “hoặc lợi nhuận” vào trước hai từ “lợi tức” sẽ phù hợp hơn. (2). Khoản 3 Điều 507 BLDS năm 2015 quy định: “Bồi thường thiệt hại cho các thành viên hợp tác khác do lỗi của mình gây ra”. Thông thường, bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ xảy ra, nên việc liệt kê trách bồi thường vào trong các nghĩa vụ của thành viên hợp tác là không hợp lý. Thứ tư, về chấm dứt hợp đồng hợp tác (1). Điểm d khoản 1 Điều 512 BLDS năm 2015 quy định hợp đồng hợp tác chấm dứt “theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Quy định này tác giả cho rằng không hợp lý bởi vì về bản chất, thì bản chất của hợp đồng là sự “thỏa thuận” của các bên chủ thể “về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ”. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng hợp tác cũng chỉ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của các thành viên hợp tác. Do vậy, việc quy định như trên sẽ không đảm bảo nguyên tắc tự do, thể hiện sự can thiệp sâu của cơ quan nhà nước vào quan hệ dân sự giữa các chủ thể khi giao kết hợp đồng. (2). Trong trường hợp hợp đồng hợp tác được giao kết bởi hai chủ thể, hoặc từ ba chủ thể trở lên nhưng hầu hết chủ thể đều xin rút khỏi hợp đồng hợp tác theo quy định tại Điều 510 BLDS năm 2015, dẫn đến chỉ còn một chủ thể thì khi đó hợp đồng hợp tác đương nhiên chấm dứt. Do đó, cần bổ sung đây là một trong những căn cứ chấm dứt hợp đồng hợp tác vào khoản 1 Điều 512 BLDS năm 2015. Kết luận, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng hợp tác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần thiết nhằm đưa hợp đồng hợp tác ngang tầm với các hợp đồng khác trong mối tương quan giữa các hợp đồng thông dụng của BLDS. ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải - Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình Theo Bộ Tư Pháp
Bỏ quy định hợp đồng hợp tác phải chứng thực tại UBND cấp xã
Nội dung này được đề cập tại Dự thảo Nghị định quy định về tổ hợp tác. Theo đó, Dự thảo Nghị định này một lần nữa khẳng định rằng, tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân: Điều 3. Tổ hợp tác 1. Tổ hợp tác là tổ chức kinh tế tập thể, không có tư cách pháp nhân, được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác, gồm từ 02 cá nhân, pháp nhân trở lên tự nguyện thành lập, cùng đóng góp vốn, sức lao động để thực hiện những công việc nhất định nhằm phục vụ nhu cầu chung của các thành viên, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. 2. Sau khi thành lập, tổ hợp tác gửi thông báo thành lập cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi tổ hợp tác thành lập và hoạt động. Như vậy, thay vì phải chứng thực hợp đồng hợp tác khi thành lập tổ hợp tác thì sau khi thành lập, tổ hợp tác chỉ phải gửi thông báo thành lập cho UBND cấp xã, nơi tổ hợp tác thành lập, hoạt động. Đồng thời, Dự thảo Nghị định này cho phép thành viên tổ hợp tác là pháp nhân (trước đây chỉ có cá nhân), và cá nhân từ đủ 15 tuổi trở lên đủ điều kiện đã có thể trở thành thành viên tổ hợp tác (thay vì trước đây phải từ đủ 18 tuổi trở lên). Chi tiết Dự thảo Nghị định quy định về tổ hợp tác, mời các bạn xem tại file đính kèm.
Bên em đang soạn hợp đồng hợp tác 3 bên giữa nhà trường doanh nghiệp và sinh viên. Nhưng em ít thấy mẫu hợp đồng này nên gặp khó khăn. Có anh/ chị nào sẵn lòng giúp em không ạ?
Pháp nhân liên quan hợp đồng HTKD (BCC)
Chúng tôi là 2 tổ chức kinh tế có pháp nhân độc lập ký kết với nhau 1 hợp đồng hợp tác kinh doanh phân chia sản phẩm. Xin hỏi Công ty của tôi hoặc Công ty đối tác có thể thành lập 1 pháp nhân mới ( CTy TN HH MTV ) do mình làm chủ sở hữu để thay công ty mình thực hiện hợp đồng được khg?
Bạn có thể tham khảo Nghị định 108/2006/NĐ-CP
Câu hỏi của bạn không nêu cụ thể việc thanh lý hợp đồng hợp tác kinh doanh có gắn với việc giải thể tổ chức kinh tế hay không, do đó chỉ có thể hướng dẫn chung như sau: theo quy định tại điều 69 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư thì, đối với trường hợp thanh lý dự án đầu tư mà không gắn với việc giải thể tổ chức kinh tế thì việc thanh lý thực hiện theo quy định pháp luật về thanh lý tài sản, thanh lý hợp đồng. Trường hợp thanh lý dự án gắn với việc giải thể tổ chức kinh tế thì nhà đầu tư thực hiện thủ tục giải thể tổ chức kinh tế theo quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. Thời hạn thanh lý dự án đầu tư không được vượt quá 6 tháng kể từ ngày quyết định chấm dứt hoạt động. Trường hợp đặc biệt, thời hạn thanh lý có thể kéo dài và phải được chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng tối đa không quá 12 tháng. Sau khi thực hiện việc thanh lý, tổ chức kinh tế phải thông báo cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư để thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp tổ chức kinh tế không thành lập được ban thanh lý để thực hiện thanh lý dự án hoặc không thực hiện thanh lý thì việc tranh chấp giữa các bên có liên quan đến dự án sẽ được đưa ra giải quyết tại tổ chức toà án, trọng tài theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thanh lý dự án đầu tư, nếu tổ chức kinh tế không có khả năng thanh toán các khoản nợ thì việc thanh lý sẽ chấm dứt và được đưa ra giải quyết theo thủ tục của pháp luật về phá sản. (Theo vneconomy.vn) Nghị định 108/2006/NĐ-CP http://thuvienphapluat.com/Default.aspx?CT=VC&LID=3E5B007