Một số trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn của TAND Tối cao (P2)
Bài viết này là phần tiếp theo của các quy định tại Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP về một số trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn của TAND Tối cao (3) Trường hợp người bị kết án chung thân Theo khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, trường hợp người bị kết án phạt tù chung thân, người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân có thể được Tòa án xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù chung thân xuống hình phạt tù có thời hạn. Theo đó, người bị kết án phạt tù chung thân lần đầu được giảm xuống 30 năm tù. Thời hạn 30 năm tù này được tính kể từ ngày thi hành án phạt tù chung thân và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm tù đối với người bị kết án phạt tù chung thân; 25 năm tù đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân. (4) Các trường hợp đặc biệt trong việc xếp loại chấp hành án phạt tù Theo khoản 4 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP quy định, người bị kết án phạt tù đang chấp hành hình phạt được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt hoặc người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu chưa đủ thời gian chấp hành án tại cơ sở giam giữ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì cũng được coi là có đủ số kỳ xếp loại: - Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 15 năm trở lên được thiếu 04 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên của thời gian liền kề thời điểm xét giảm - Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm được thiếu 02 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên; - Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 03 năm đến 05 năm được thiếu 01 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên; - Đối với người bị kết án phạt tù từ 03 năm trở xuống chưa được xếp loại chấp hành án phạt tù. Đối với các trường hợp nêu trên, thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc thời gian ở trại giam phải được nhận xét là chấp hành nghiêm chỉnh nội quy cơ sở giam giữ. Bên cạnh đó, tại khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP cũng quy định, người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm nhưng không liên tục được xếp loại khá trở lên, nếu có đủ các điều kiện khác và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì vẫn có thể được xét giảm: - Có tổng số quý xếp loại khá trở lên nhiều hơn từ 02 quý trở lên so với các quy định đối với người bị kết án phạt tù từ trên 10 năm và có ít nhất 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên - Có tổng số quý xếp loại khá trở lên nhiều hơn 01 quý trở lên so với các quy định đối với người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 10 năm và có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Đối với trường hợp người bị kết án có tiền án phải có số kỳ xếp loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những người bị kết án chưa có tiền án, ứng với mỗi tiền án là 02 quý xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp người bị kết án bị phạt tù từ 03 năm trở xuống thì ứng với mỗi tiền án là 01 quý xếp loại từ khá trở lên. Cuối cùng, người đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn đúng đợt. Trường hợp không đủ điều kiện để được xét giảm đúng đợt thì có thể được xét giảm thời hạn khi có đủ 04 quý xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên (trong đó phải có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm). (5) Hướng dẫn xử lý khi người được giảm mức hình phạt tái phạm, vi phạm nội quy Theo quy định tại khoản 8 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, đối với người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm nội quy cơ sở giam giữ bị xử lý kỷ luật, sau khi được Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện công nhận đã cải tạo tiến bộ và có đủ 04 quý liền kề (đối với người bị kết án bị kỷ luật khiển trách 02 lần hoặc kỷ luật cảnh cáo) hoặc 05 quý liền kề (đối với người bị kết án bị giam tại buồng kỷ luật) được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Đối với người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý thì phải chấp hành được ít nhất một phần hai mức hình phạt chung và phải có đủ điều kiện hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1 và khoản 6 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Trường hợp người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt chung, hoặc 25 năm nếu là tù chung thân và phải có đủ các điều kiện hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1 và khoản 6 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Cuối cùng, khoản 11 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP quy định, người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc người đang được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được bảo lưu kết quả chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau khi trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án. Khi những người này trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án, nếu có đủ điều kiện quy định tại các khoản của Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP và trong thời gian được tạm đình chỉ hoặc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, được chính quyền địa phương nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú hoặc cơ sở y tế điều trị cho người được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh xác nhận thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Trên đây là toàn bộ hướng dẫn của TAND Tối cao về quy định giảm mức hình phạt đã tuyên tại Điều 63 Bộ Luật Hình sự 2015. Nhìn chung, quy định về việc giảm mức hình phạt đã tuyên trong Bộ Luật Hình sự 2015 là một quy định mang tính nhân đạo, tiến bộ, góp phần đảm bảo tính công bằng trong việc áp dụng hình phạt, đồng thời giáo dục, răn đe người phạm tội, góp phần phòng ngừa tội phạm hiệu quả. >>> Mời bạn đọc xem lại phần 1: Điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn mới nhất của TAND Tối cao (P1)
Điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn mới nhất của TAND Tối cao (P1)
Mới đây, Hội đồng thẩm phán của TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP để hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật Hình sự 2015 (1) Điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 Bộ Luật Hình sự 2015, người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Tuy nhiên, việc giảm mức hình phạt đã tuyên cũng gặp phải một số khó khăn trong việc đánh giá, xác định đối tượng được giảm mức hình phạt và tội phạm được giảm mức hình phạt có nguy cơ tái phạm cao. Do đó, Hội đồng thẩm phán của TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP để hướng dẫn một số quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015, trong đó có hướng dẫn về điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên. Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu khi có đủ các điều kiện sau đây: 1- Đã chấp hành được một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn; 12 năm đối với tù chung thân; 15 năm đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân 2- Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thành thật hối cải, tích cực lao động, học tập. 3- Đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân phải có nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc chấp hành tốt nội quy cơ sở giam giữ, tích cực học tập, lao động, cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau: - Người bị kết án phạt tù chung thân phải có ít nhất 16 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất 20 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 20 năm đến 30 năm phải có ít nhất 14 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm phải có ít nhất 12 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 10 năm đến 15 năm phải có ít nhất 08 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 10 năm phải có ít nhất 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 03 năm đến 05 năm phải có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ 03 năm trở xuống phải có ít nhất 01 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp chưa có kết quả xếp loại quý liền kề do chưa đến thời điểm xếp loại quý nhưng có 03 tháng liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại khá thì vẫn có thể được xét giảm. 4- Đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án: - Người bị kết án bồi thường được ít hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng có văn bản miễn giảm một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận khác của người được thi hành án, người đại diện hợp pháp của người được thi hành án (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thể hiện người bị kết án đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự thì cũng được coi là đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. - Người bị kết án có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn hướng dẫn tại khoản 8 Điều 2 của Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP được UBND cấp xã nơi họ cư trú hoặc cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác nhận thì mức bồi thường nghĩa vụ dân sự có thể thấp hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng Tòa án phải ghi rõ trong quyết định. - Người bị kết án về tội tham nhũng, chức vụ thì phải bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự. 5- Được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền đề nghị bằng văn bản xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Theo đó, khi phạm nhân đáp ứng được các yêu cầu theo hướng dẫn nêu trên sẽ được xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật. (2) Mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt Cũng theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt được thực hiện như sau: - Người bị kết án cải tạo không giam giữ thì mỗi lần có thể được giảm từ 03 tháng đến 09 tháng - Người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc người bị kết án phạt tù chung thân đã được giảm xuống 30 năm tù thì mỗi lần có thể được giảm từ 01 tháng đến 03 năm. Trường hợp giảm đến 03 năm thì phải là người có thành tích đặc biệt xuất sắc. Lưu ý: Khi giảm thời gian được giảm phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 63 của Bộ Luật Hình sự 2015. Trên đây là một số hướng dẫn của TAND Tối cao liên quan đến quy định giảm mức hình phạt đã tuyên tại Điều 63 Bộ Luật Hình sự 2015 >>> Mời bạn đọc xem tiếp phần 2: Một số trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn của TAND Tối cao (P2)
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao theo quy định pháp luật hiện hành năm 2024
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trong đó, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 21 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao gồm: - Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; - Bộ máy giúp việc; - Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 22 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014 đề cập số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới mười ba người và không quá mười bảy người; gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. + Nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: - Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; - Ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật; - Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử; - Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án nhân dân để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; - Tham gia ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội; - Thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản pháp luật giữa Tòa án nhân dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy định. Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi thảo luận, thông qua nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 24 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014 đề cập Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao gồm các vụ và các đơn vị tương đương. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổ chức bộ máy; nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 25 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014 cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của Tòa án nhân dân. Việc thành lập cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện theo quy định của luật. Như vậy, cơ cấu bộ máy tổ chức Tòa án nhân dân tối cao gồm những đơn vị nêu trên.
HĐTP-TANDTC hướng dẫn trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Mới đây, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, trong đó có hướng dẫn về các trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên (1) Khi nào thì cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên? Theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Theo đó, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Nếu các hành vi vi phạm của cha, mẹ đối với con chưa thành niên đã chấm dứt, Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này. (2) Ai có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên? Ngoài Tòa án, những người được quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 sau đây có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: - Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: + Người thân thích; + Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; + Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; + Hội liên hiệp phụ nữ. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức trên yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Như vậy, để bảo vệ trẻ em đến mức tối đa, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định ngoài Tòa án thì các cá nhân, tổ chức theo quy định trên mà phát hiện ra cha, mẹ của con chưa thành niên có các hành vi vi phạm theo khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. (3) Hướng dẫn của HĐTP TAND Tối cao về trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối Theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết các trường hợp tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Trường hợp “Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý” Là trường hợp cha, mẹ bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý. Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 đối với con chưa thành niên. Trường hợp “Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” Là trường hợp mà cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con hoặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của con. Ví dụ: Cha, mẹ bỏ mặc con chưa thành niên tự sinh sống, không có điều kiện để tự nuôi mình dẫn đến con có hành vi trộm cắp tài sản. Trường hợp “Phá tán tài sản của con” Là trường hợp mà cha, mẹ mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của con mà không vì lợi ích của con. Trường hợp “Có lối sống đồi trụy” Là trường hợp cha, mẹ lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện hoạt động mại dâm. Trường hợp “Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” Là trường hợp mà cha, mẹ hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Ví dụ: xúi giục, ép buộc dẫn đến con bỏ học, trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bên cạnh hướng dẫn, làm rõ chi tiết các hành vi trong từng trường hợp là gì, Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng hình thức hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra quyết định về việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, cụ thể: - Không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ quản lý tài sản của con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ đại diện theo pháp luật cho con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP Về việc Tòa án quyết định rút ngắn thời hạn hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, Hội đồng thẩm phán hướng dẫn như sau: Trong trường hợp cha, mẹ đã thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án và trong thời hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP thì Tòa án xem xét quyết định rút ngắn thời gian hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC
Vừa qua ngày 16/5/2024 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP. Trong đó, có hướng dẫn về các trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf Vợ/chồng chết thì di sản được phân chia thế nào? Theo Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết: - Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản. - Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. - Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự. - Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Đồng thời, các trường hợp hạn chế phân chia di sản được quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: - Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. - Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm. Như vậy, việc phân chia di sản của vợ/chồng khi mất hiện nay sẽ được thực hiện theo quy định trên. Đồng thời, tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC) có hướng dẫn cụ thể về trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC Theo Điều 5 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn về hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 như sau: Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 và Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất... Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con. Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 mẻ. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con. Như vậy, theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC, trường hợp vợ/chồng chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì người còn lại và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất… thì người còn lại có quyền yêu cầu xác định di sản nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf
Một số vấn đề nghiệp vụ từ các phiên tòa tháng 6/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất; Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản, là những vấn đề được đề cập trong phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tháng 6/2020. 1. Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất Ông Nguyễn Văn K khởi kiện yêu cầu buộc vợ chồng ông Lê Chung Th bà Đỗ Thị L thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 01/9/2013, đã được UBND xã chứng thực ngày 17/9/2010. Theo hợp đồng này thì vợ chồng ông Th bà L chuyển nhượng cho ông K diện tích đất 203 m2 với giá 3 tỷ đồng và đã nhận đủ tiền. Vợ chồng ông Th bà L khai rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng chỉ để bảo đảm cho khoản tiền vay 180 triệu đồng của ông K nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng ký ngày 01/9/2013 vô hiệu do giả tạo. Bản án sơ thẩm (số 02/2014/DS-ST ngày 20/2/2014 của TAND huyện Văn Giang) và Bản án phúc thẩm (số 44/2014/DS-PT ngày 12/8/2014 của TAND tỉnh Hưng Yên) đều chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn giao đất và cả ngôi nhà có diện tích 84 m2 trên đất chuyển nhượng cho nguyên đơn; buộc nguyên đơn thanh toán giá trị của ngôi nhà cho bị đơn. Một phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC Bản án phúc thẩm bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội đã không chấp nhận kháng nghị. Vợ chồng ông Th và bà L tiếp tục có yêu cầu giám đốc thẩm. Chánh án TAND tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 10/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị; hủy Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm; giao cho cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Hội đồng Thẩm phán xác định các cấp xét xử trước đó đã có 3 sai lầm: - Xác định Hợp đồng chuyển nhượng không có dấu hiệu giả tạo và bên chuyển nhượng đã nhận hết tiền là đánh giá chứng cứ không đúng. Hợp đồng này có đủ căn cứ xác định là giả tạo vì giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng quá chênh lệch so với giá thực tế mà không xác định được lý do của sự chênh lệch này (giá trong hợp đồng là 3 tỷ đồng trong khi giá thực tế được định giá chỉ là 630 triệu đồng). Hợp đồng ghi “việc thanh toán số tiền trên do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật” thì phải hiểu chưa có việc giao tiền trước khi ký hợp đồng và việc giao nhận sau này phải có chứng từ riêng về giao nhận tiền. Thực tế, ông K không xuất trình được chứng cứ khác về giao nhận tiền. - Việc buộc thực hiện hợp đồng là không có cơ sở pháp lý. Việc buộc thực hiện hợp đồng phải trên cơ sở xác định hợp đồng đã có hiệu lực. Hợp đồng này mới chỉ có chứng thực, chưa có đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền là chưa có hiệu lực (Theo quy định tại Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, Điều 692 BLDS năm 2005). - Hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu vì có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 BLDS năm 2005. Chỉ cần có một trong các vi phạm nêu ở trên thì Hợp đồng ngày 01/9/2003 đã là hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, cần lưu ý về trường hợp vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được vì đây là trường hợp có ý kiến khác nhau, qua thảo luận Hội đồng Thẩm phán mới nhất trí với Kháng nghị của Chánh án TAND tối cao. Trong vụ án này, trên đất chuyển chượng có nhà ở nhưng các bên không thỏa thuận về nhà ở khi thỏa thuận về chuyển nhượng đất. Trong trường hợp thi hành án, đã có quy định về việc trên đất bị phát mại có tài sản không bị kê biên, kể cả tài sản của người khác (không phải của chủ sử dụng đất) thì Cơ quan thi hành án vẫn được xử lý cả tài sản trên đất (Điều 113 Luật Thi hành án dân sự). Tuy nhiên, trong giao dịch chuyển nhượng thông thường (không phải là thi hành án) thì pháp luật chưa có quy định về trường hợp chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản trên đất. Khi không có thỏa thuận về tài sản trên đất thì quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng sử dụng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Vì vậy, trong trường hợp hợp đồng không có vi phạm khác, chỉ riêng việc không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất thì cũng là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được. 2. Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản Nguyên đơn là bà Lý Thị X khởi kiện đòi vợ chồng ông La Anh D và bà Huỳnh Thị Liên H trả lại ngôi nhà 29 Lê Lợi, có diện tích 62,5m2 mà nguyên đơn cho ở nhờ từ năm 1995. Bị đơn không đồng ý trả lại nhà với lý do đã được vợ chồng bà X tặng cho ngôi nhà này (chồng bà X là chú của bà H), đã sửa chữa lại nhà; do đó, có yêu cầu phản tố được công nhận sở hữu nhà. Bản án sơ thẩm lần đầu về vụ án này đã bị cấp phúc thẩm hủy để xét xử sơ thẩm lại. Tại bản án sơ thẩm số 22/2015/DS-ST ngày 17/7/2015, TAND tỉnh Hậu Giang đã chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn. Bị đơn kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-PT ngày 16/4/2019, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa bản án sơ thẩm: Công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở cho vợ chồng ông D bà H; nguyên đơn được vợ chồng ông D bà H thanh toán giá trị quyền sử dụng đất 315 triệu đồng. Nguyên đơn có yêu cầu giám đốc thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 11/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị, hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Bản án phúc thẩm nhận định “ông D và bà H đăng ký hộ khẩu thường trú tại nhà này từ năm 1995, hiên nay đang có doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh”… “ông D và bà H đang sinh sống ổn định tại địa chỉ trên nên nhu cầu về chỗ ở của ông D và bà H là có thật” để chấp nhận yêu cầu của ông D, bà H được nhận nhà và hoàn giá trị đất cho nguyên đơn là không đúng thực tế và không có cơ sở pháp lý. Từ trước khi xét xử sơ thẩm thì ông D đã có đơn có nội dung “vợ tôi đi Mỹ và chưa có quốc tịch Mỹ”, và ông D cũng đã cho thuê ngôi nhà đang tranh chấp. Tòa án cấp phúc thẩm cũng nhận định không có cơ sở xác định ông D và bà H được tặng cho nhà. Do vậy, pháp luật áp dụng để giải quyêt tranh chấp phải là pháp luật về ở nhờ nhà ở. Là người ở nhờ thì không thể căn cứ vào việc có hộ khẩu, sinh sống ổn định, có nhu cầu về nhà ở để giao quyền sở hữu như trường hợp chia tài sản thuộc sở hữu chung hay chia thừa kế. Những trường hợp đặc biệt người ở nhờ không phải trả lại toàn bộ nhà phải là những trường hợp được pháp luật quy định rõ. Ví dụ: Trường hợp ở nhờ nhà trước 01/7/1991, theo quy định tại Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước 01/7/1991 thì trong trường hợp người ở nhờ đã làm thêm diện tích nhà ở riêng biệt với nhà cho mượn mà không bị chủ nhà phản đối thì được công nhận sở hữu đối với phần nhà làm thêm và thanh toán cho chủ nhà giá trị quyền sử dụng đất (Điểm c Điều 11). Tuy nhiên, trong vụ án này, việc ở nhờ là từ năm 1995, nhà sửa chữa không hình thành phần nhà ở riêng biệt nên không thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết 58/1998 nêu trên. Hội đồng Thẩm phán nhất trí với nhận định của Kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán không hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm mà phải hủy cả Bản án sơ thẩm để giao xét xử sơ thẩm lại vì đã có việc thi hành một phần Bản án phúc thẩm. Bản án phúc thẩm còn có một sai lầm là đã tuyên “Việc giao tiền và thủ tục công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được thực hiện cùng lúc”. Việc tuyên “thực hiện cùng lúc” là một sai lầm nghiệp vụ đã được lưu ý từ lâu nhưng trong thực tế vẫn xảy ra. Quyết định của Tòa án phải là những mệnh lệnh mà nếu không tự nguyện thi hành thì sẽ cưỡng chế thi hành được. Quyết định “thực hiện cùng lúc” hay “ thi hành cùng một lúc” là quyết định rất khó cưỡng chế thi hành; nếu có một bên đã thi hành một phần nghĩa vụ thì việc “thực hiện cùng lúc” sẽ không thể xảy ra nữa và cơ quan thi hành án có thể từ chối thi hành vì không thể thi hành đúng bản án. Vì vậy, cần phải chấm dứt việc quyết định thi hành cùng một lúc hoặc quyết định thi hành tại một cơ quan thi hành án cụ thể. Chu Minh Theo Congly.vn
Một số vấn đề nghiệp vụ từ các phiên tòa tháng 10/2019 của Hội đồng Thẩm phán
(Công lý) - Các phiên tòa được đưa ra xem xét trong tháng 10 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã giải quyết được một số vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ. Sau đây là một số vụ án cụ thể được đưa ra xem xét tại các phiên tòa này. 1. Kết luận giám định đúng chữ ký, tại sao vẫn không phải chịu trách nhiệm về chữ ký này? Ông Trần Văn Th khởi kiện đòi bà Nguyễn Thị B trả khoản tiền 625 triệu đồng là tiền nợ mua bán cà phê (số tiền nợ là 1 tỷ đồng, đã trả được 375 triệu đồng). Ông Th xuất trình tài liệu đề ngày 13/12/2009 của bà B có nội dung nợ tiền mua bán cà phê. Bà B xác nhận có viết và ký tài liệu đề ngày 13/12/2009 nhưng khai rằng bà và chồng bà (ông Vũ Văn T) đã trả cho ông Th và vợ ông Th (bà Trần Thị H) 1.502.000.000 đồng. Bà B xuất trình 22 giấy biên nhận của vợ chồng ông Th bà H và có yêu cầu phản tố đòi vợ chồng ông Th bà H trả lại số tiền đã trả thừa là 502 triệu đồng. Vợ chồng ông Th bà H khai rằng chỉ có 2 chứng từ trả cho khoản nợ tiền cà phê (375 triệu đồng), còn 20 chứng từ khác là tiền trả cho khoản nợ vay 1.195.000.000 đồng trước đó theo Giấy mượn tiền đề ngày 31/12/2007. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bà B xuất trình tài liệu có phần đánh máy là: “Tôi là Nguyễn Thị H xác nhận: Ngày 21/01/2008 chị B đã trả đủ 1.195.000.000 đồng (Bằng chữ Một tỷ một trăm chín mươi lăm triệu đồng) Người nhận” Bên dưới phần đánh máy nêu trên là chữ ký và chữ viết “Nguyễn Thị H”. Bà H không thừa nhận có việc trả tiền theo giấy đề ngày 21/01/2008 nêu trên. Vụ án đã được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, sơ thẩm lại, phúc thẩm lại. Tại Bản án phúc thẩm lại số 03/2015/DSPT ngày 12/01/2015, TAND tỉnh Đắk Lắk đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (buộc bị đơn trả tiền nợ mua cà phê 625 triệu đồng và tiền lãi do chậm thanh toán là 288.387.500 đồng), bác yêu cầu phản tố của bị đơn. Vợ chồng bà B ông T có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Chánh án TAND cấp cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 79/2016/DS-GĐT ngày 15/12/2016, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã hủy bản án sơ thẩm lại và bản án phúc thẩm lại; giao xét xử sơ thẩm lại. TAND tỉnh Đắk Lắk có kiến nghị giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 09/10/2019, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã hủy quyết định giám đốc thẩm số 79/2016/DS-GĐT và giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 03/2015/DSPT. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Mấu chốt của vụ án là công nhận hay không công nhận tính xác thực của tài liệu đề ngày 21/01/2008. Tài liệu này đã được giám định. Kết luận giám định đã xác định “chữ ký và chữ viết đề tên Nguyễn Thị H trong tài liệu giám định là chữ ký, chữ viết của bà Nguyễn Thị H”. Nhưng kết luận giám định cũng xác định rằng “không đủ cơ sở kết luận nội dung: “Tôi là Nguyễn Thị H xác nhận ngày 21/01/2008 chị B đã trả đủ 1.195.000.000 đồng” được in trước hay sau phần chữ ký, chữ viết đề tên Nguyễn Thị H”. Như vậy, không loại trừ khả năng phần đánh máy được đánh sau khi ký khống như bà H nêu ra. Tài liệu đề ngày 21/01/2008 có nội dung mâu thuẫn với các chứng cứ khác do chính bà B xuất trình. 20 giấy biên nhận mà bà B xuất trình đều là giấy viết tay thể hiện việc trả nợ tiền sau ngày 21/01/2008 và trước ngày nhận nợ mua bán cà phê (13/12/2009). Nếu ngày 21/1/2008 đã trả xong khoản nợ 1.195.000.000 đồng thì sau ngày này không còn phải tiếp tục trả nợ. Nếu là trả trước cho việc mua bán cà phê thì phải được trừ đi khi viết biên nhận nợ tiền cà phê (13/12/2008). Vì vậy, tài liệu đề ngày 21/1/2008 mà bà B xuất trình không đáng tin cậy, không đủ cơ sở xác định là chứng cứ hợp pháp. Không đủ cơ sở chấp nhận tài liệu đề ngày 21/01/2008 có nội dung đúng sự thật thì các chứng cứ khác đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Việc chưa xác định được có giả mạo chứng cứ hay không và giả mạo như thế nào không cản trở việc xác định trách nhiệm dân sự (trả nợ tiền mua bán cà phê) nên việc giao xét xử sơ thẩm lại (như Quyết định giám đốc thẩm số 79/2016/DS-GĐT) là không cần thiết. 2. Đã có quyết định của Tòa án về hợp đồng thế chấp thì có quyền khởi kiện vụ án yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu không? Ngày 10/10/2013, Bà Nguyễn Kim T khởi kiện yêu cầu tuyên bố Văn bản công chứng của Văn phòng công chứng Đ đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 21/01/2011 vô hiệu. Bà T cho rằng 5 thửa đất đứng tên ông H (chồng bà) là tài sản chung của vợ chồng nên chỉ có ông H ký hợp đồng thế chấp để bảo lãnh cho Công ty N vay tiền Ngân hàng Đông Nam là trái pháp luật. Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Điện Bàn đã bác yêu cầu của bà T. Bà T kháng cáo quá hạn. TAND tỉnh Quảng Nam đã có quyết định phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo quá hạn. Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/DS-GĐT ngày 3/7/2017, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã không chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm. Bà T tiếp tục có đơn yêu cầu giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 9/10/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hủy Quyết định giám đốc thẩm số 27/2017/DS-GĐT, hủy Quyết định phúc thẩm, hủy Bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Hội đồng Thẩm phán hủy cả quyết định giám đốc thẩm, quyết định phúc thẩm, bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án trên cơ sở xác định rằng, việc thụ lý vụ án là không đúng. Đây là trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực của Tòa án, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 168 BLTTDS năm 2004 (nay quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 192 BLTTDS). Trước khi bà T khởi kiện, Ngân hàng Đông Nam đã khởi kiện vụ án về hợp đồng tín dụng với Công ty N; tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30/9/2013 của TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng đã có nội dung phát mại tài sản thế chấp bảo lãnh để trả nợ. TAND huyện Điện Bàn thụ lý vụ án yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu vì cho rằng văn bản công chứng độc lập với hợp đồng thể chấp. Đúng là văn bản công chứng có tính độc lập với văn bản được công chứng. Văn bản công chứng có thể vô hiệu mà văn bản được công chứng không vô hiệu (như trường hợp văn bản được công chứng thuộc lọai không bắt buộc phải công chứng). Văn bản công chứng vô hiệu nhưng văn bản được công chứng dù không được coi là một giao dịch có hiệu lực thì vẫn là một sự kiện pháp lý tồn tại khách quan. Do đó, người khởi kiện có quyền chỉ khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà không yêu cầu phán quyết về văn bản được công chứng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hợp đồng tín dụng đã được giải quyết bằng vụ án kinh doanh, thương mại, đã xác định hợp đồng thế chấp hợp pháp. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là loại bắt buộc phải công chứng nên xác định hợp đồng hợp pháp là đã xác định việc công chứng là hợp pháp. Như vậy, yêu cầu phán xét về công chứng là sự việc đã được giải quyết trong vụ án kinh doanh, thương mại. Bà T chỉ có quyền yêu cầu giám đốc thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM chứ không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. 3.Tại sao chứng cứ xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm lại không được chấp nhận? Vụ án hành chính giữa người khởi kiện là Hộ kinh doanh Ngọc B (do bà B là chủ hộ) với người bị kiện là Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường tỉnh V có đối tượng khởi kiện là Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0156483/QĐXPHC ngày 28/5/2013. Quyết định hành chính này xử phạt Hộ kinh doanh Ngọc B về hành vi vi phạm là kinh doanh hàng hóa nhập lậu; xử phạt 15 triệu đồng và tịch thu toàn bộ hàng hóa vi phạm. Quyết định xử phạt trên cơ sở từ việc kiểm tra xe ô tô chở 30.000kg đường cát trắng ngày 08/5/2013 và đội quản lý thị trường đã lập Biên bản vi phạm hành chính ngày 28/5/2013. Bản án hành chính sơ thẩm của TAND tỉnh Vĩnh Long đã bác yêu cầu khởi kiện của bà B. Bà B kháng cáo. Tại bản án hành chính phúc thẩm số 07/2016/HCPT, TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã hủy quyết định hành chính nêu trên. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị đối với bản án phúc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 9/10/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý được nêu ra là: Một trong những lý do Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của bà B là xác định hóa đơn mà bà B xuất trình để chứng minh mua đường ở trong nước không hợp lý. Bà B khai mua đường của các cơ sở trong nước, phối trộn thành hàng của Ngọc B, dán nhãn rồi mang bán. Hóa đơn đề ngày 26/4/2013 nhưng nhãn ghi ngày sản xuất trên hàng hóa thu giữ là 22/4/2013. Như vậy là việc phối trộn xảy ra trước khi có hàng để phối trộn. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bà B xuất trình Hóa đơn mua đường đề ngày 18/4/2013. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hóa đơn mới xuất trình có thời gian trước ngày dán nhãn sản xuất là hợp lý nên đã sửa án sơ thẩm, hủy quyết định xử phạt hành chính. Thực tế, việc xuất trình hóa đơn đề ngày 18/4/2013 mới chỉ khắc phục được sự bất hợp lý về thời gian chứ chưa chứng minh được xuất xứ của hàng hóa. Các cơ sở trong nước bán đường cho Hộ kinh doanh Ngọc B đều xác định số đường bị thu giữ không phải hàng của họ đã bán. Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng 3 đã xác định số đường thu giữ là đường tinh luyện cao cấp, không phải đường được phối trộn từ các cơ sở trong nước như bà B khai. Như vậy, chứng cứ mới xuất trình ở giai đoạn xét xử phúc thẩm có thể được chấp nhận nhưng giá trị chứng minh chưa đủ để thay đổi quyết định của cấp sơ thẩm thì vẫn phải giữ nguyên các quyết định sơ thẩm. Chu Minh Theo Congly.vn
Trang phục Thẩm phán xét xử người chưa thành niên sẽ là màu cam?
Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao vừa ban hành dự thảo Đề án đổi mới trang phục Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, dự thảo nêu lên sự cần thiết phải đổi mới trang phục qua quá trình thực thi áp dụng theo Nghị quyết 221/2003/NQ-UBTVQH11 về trang phục đối với cán bộ, công chức ngành toà án và Hội thẩm, giấy chứng minh Thẩm phán và giấy chứng minh Hội thẩm. Đồng thời, Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 ra đời càng nhấn mạnh vị trí, vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử. Do đó, trang phục trong khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần có những thay đổi nhất định. Cụ thể như sau: Thứ nhất. về trang phục của Thẩm phán Trang phục của Thẩm phán sẽ là áo thụng đen. Trang phục này kế thừa các mẫu trang phục xét xử Thẩm phán của các quốc gia trên thế giới, và phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định 04 loại Thẩm phán và đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Tuy nhiên, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân có sự khác biệt nhất định. Do vậy, trang phục xét xử của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao so với Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và sơ cấp phải có sự khác biệt. Đề xuất trang phục Thẩm phán Tòa gia đình và người chưa thành niên sẽ là áo thụng dài tay màu cam Với lý do rằng theo thông lệ thế giới, màu cam tượng trưng cho sự hài hòa, thân thiện. Do đó, có thể quy định trang phục của Thẩm phán xét xử các vụ án gia đình và người chưa thành niên là áo thụng tay dài màu cam khoác bên ngoài với thiết kế giống áo choàng đen của các Thẩm phán khác (trừ Thẩm phán Tòa tối cao) Ngoài ra, còn có một số ý kiến cho rằng trang phục xét xử của Thẩm phán xét xử các vụ án gia đình, người chưa thành niên là trang phục làm việc hàng ngày để thể hiện hình ảnh thân thiện, không cách xa của các Thẩm phán trên công đường và với hình ảnh Thẩm phán hàng ngày trong con mắt người chưa thành niên. Và áo thụng này sẽ được cấp 02 năm/chiếc, riêng lần đầu cấp 02 chiếc. Thứ hai, về trang phục của Hội thẩm nhân dân Vì được xem là người đại diện cho nhân dân tham gia vào việc xét xử của Tòa án, do vậy, khi xét xử, trang phục của Hội thẩm không cần giống Thẩm phán. Theo thông lệ các quốc giá, Bồi thẩm đoàn không mặc trang phục của Tòa án khi tham gia xét xử mà mặc trang phục bình thường. Hội thẩm nhân dân ngoài các trang phục được cấp khi làm việc bình thường còn được cấp thắt lưng da, giầy da, bít tất, dép có quai hậu, cà vạt, áo mưa, ô che mưa và cặp đựng tài liệu. Lưu ý: để thống nhất, các mẫu phụ kiện đi kèm trang phục bắt buộc theo quy định sau: - Thắt lưng: màu đen, mặt khóa kim loại hình vuông màu vàng. - Bít tất: màu tối. - Dép quai hậu: màu đen. - Cà vạt: màu đỏ hoặc màu xanh hòa bình. - Áo mưa và ô che mưa, cặp đựng tài liệu: có in dòng chữ Tòa án nhân dân. Thứ ba, về tấm biển phù hiệu Tòa án Được thiết kế để đeo ở ngực trái, có hình chữ nhật màu xanh da trời (kích thước 2cmx4cm). Trên mặt tấm biển này, bên trái có logo biểu tượng Tòa án, bên phải thiết kế thêm họa tiết phân biệt Thẩm phán với nhau. Thẩm phán sơ cấp: 01 vạch ngang màu đỏ. Thẩm phán trung cấp: 02 vạch ngang màu đỏ. Thẩm phán cao cấp: 03 vạch ngang màu đỏ. Thẩm phán Tòa tối cao: 04 vạch ngang màu đỏ, riêng tấm biển phù hiệu Chánh án Tòa tối cao có thêm ngôi sao vàng 05 cánh thiết ké trên chính giữa vạch màu đỏ thứ 4. Xem chi tiết dự thảo Đề án đổi mới trang phục của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tại file đính kèm.
Tháng 09/2015: Việt Nam sẽ có Tập án lệ đầu tiên
Theo điểm c khoản 2 điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Mới đây, Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có chỉ đạo:Tòa án nhân dân tối cao phải xây dựng Tập án lệ đầu tiên trình Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua trước tháng 09/2015 để chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Tòa án nhân dân (13/09/1945 – 13/09/2015). Nội dung trên được đề cập tại văn bản số 53/TANDTC-KHXX ngày 23/03/2015. Đây được xem là niềm vui lớn của Nhân dân ta sau bao nhiêu năm chờ đợi.
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cần ban hành Nghị quyết về “Hiếp dâm”
Bản tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao số 329/HS2 ngày 11/5/1967 đề cập đến “khái niệm” giao cấu như sau: “Giao cấu: chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”. Và thực tiễn xét xử án hiếp dâm của nước ta từ trước đến nay sẽ là: Chủ thể của tội hiếp dâm chỉ là nam (trừ trường hợp nữ đồng phạm giúp sức); khách thể của tội hiếp dâm chỉ là nữ. Liệu quan điểm này có đúng đối với thực tế đời sống hiện nay? 1. Nữ cũng là chủ thể của tội hiếp dâm Pháp luật hình sự nghiêm trị tội hiếp dâm nhằm đảm bảo nhân phẩm, danh dự của con người. Vì lẽ đó, dù là nam hay nữ thì cũng có nhân phẩm, danh dự cần được pháp luật bảo hộ. Nếu mãi tư duy theo lối mòn cũ – chỉ có nam mới là chủ thể của tội hiếp dâm thì vô hình chung Nhà nước không đảm bảo được nhân phẩm, danh dự cho nam giới hay đúng hơn Nhà nước không công nhận nam giới có nhân phẩm và danh dự. Mặt khác, nhiều nước trên thế giới vẫn coi nữ là chủ thể của tội hiếp dâm nên chúng ta cần phải thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. 2. Nam cũng có thể hiếp dâm nam Pháp luật Việt Nam hiện hành không công nhận chuyển đổi giới tính, song thực tế vẫn diễn ra sự chuyển đổi giới tính (từ nam sang nữ hay từ nữ sang nam) trái phép, bởi vậy sự không công nhận chuyển đổi giới tính chỉ nằm trên góc độ pháp lý còn thực tiễn giới tính đã được thay đổi (nhu cầu sinh lý của người đó được thay đổi). Như vậy, sẽ dễ hiểu trường hợp nam hiếp dâm nam trên góc độ pháp lý, còn thực tiễn nam hiếp dâm nữ [bởi khách thể lúc này là nữ thực tế (đã thay đổi về kết cấu sinh học) nhưng pháp lý thì nhà nước không công nhận]. Vậy người nam (góc độ pháp lý) có được bảo hộ nhân phẩm, danh dự hay không? Rõ ràng, hành vi chuyển đối giới tính là sai trái song không phải vì hành vi sai trái đó mà tước đoạt cái quyền mà tạo hóa đã ban cho họ (nhân phẩm và danh dự). 3. Pháp luật Hình sự cần thay đổi như thế nào? Điều 111 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Nội dung trên có thể hiểu: ”bất cứ người nào (không phân biệt giới tính) mà có hành vi được miêu tả theo quy định nêu trên, có đầy đủ các dấu hiệu khác về mặt chủ quan, khách quan, chủ thể, khách thể tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Bộ luật Hình sự 1999 không cần sửa đổi về nội dung này mà Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao cần ban hành một Nghị quyết nhằm thống nhất cách xét xử chung toàn quốc – dù nam hay nữ vẫn là chủ thể của tội hiếp dâm.
Một số trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn của TAND Tối cao (P2)
Bài viết này là phần tiếp theo của các quy định tại Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP về một số trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn của TAND Tối cao (3) Trường hợp người bị kết án chung thân Theo khoản 3 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, trường hợp người bị kết án phạt tù chung thân, người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân có thể được Tòa án xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù chung thân xuống hình phạt tù có thời hạn. Theo đó, người bị kết án phạt tù chung thân lần đầu được giảm xuống 30 năm tù. Thời hạn 30 năm tù này được tính kể từ ngày thi hành án phạt tù chung thân và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm tù đối với người bị kết án phạt tù chung thân; 25 năm tù đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân. (4) Các trường hợp đặc biệt trong việc xếp loại chấp hành án phạt tù Theo khoản 4 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP quy định, người bị kết án phạt tù đang chấp hành hình phạt được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong trường hợp đặc biệt hoặc người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu chưa đủ thời gian chấp hành án tại cơ sở giam giữ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì cũng được coi là có đủ số kỳ xếp loại: - Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 15 năm trở lên được thiếu 04 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên của thời gian liền kề thời điểm xét giảm - Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm được thiếu 02 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên; - Đối với người bị kết án phạt tù từ trên 03 năm đến 05 năm được thiếu 01 quý đầu tiên xếp loại từ khá trở lên; - Đối với người bị kết án phạt tù từ 03 năm trở xuống chưa được xếp loại chấp hành án phạt tù. Đối với các trường hợp nêu trên, thời gian bị tạm giữ, tạm giam hoặc thời gian ở trại giam phải được nhận xét là chấp hành nghiêm chỉnh nội quy cơ sở giam giữ. Bên cạnh đó, tại khoản 5 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP cũng quy định, người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm nhưng không liên tục được xếp loại khá trở lên, nếu có đủ các điều kiện khác và thuộc một trong các trường hợp sau đây thì vẫn có thể được xét giảm: - Có tổng số quý xếp loại khá trở lên nhiều hơn từ 02 quý trở lên so với các quy định đối với người bị kết án phạt tù từ trên 10 năm và có ít nhất 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên - Có tổng số quý xếp loại khá trở lên nhiều hơn 01 quý trở lên so với các quy định đối với người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 10 năm và có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Đối với trường hợp người bị kết án có tiền án phải có số kỳ xếp loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những người bị kết án chưa có tiền án, ứng với mỗi tiền án là 02 quý xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp người bị kết án bị phạt tù từ 03 năm trở xuống thì ứng với mỗi tiền án là 01 quý xếp loại từ khá trở lên. Cuối cùng, người đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù phải liên tục được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn đúng đợt. Trường hợp không đủ điều kiện để được xét giảm đúng đợt thì có thể được xét giảm thời hạn khi có đủ 04 quý xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên (trong đó phải có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm). (5) Hướng dẫn xử lý khi người được giảm mức hình phạt tái phạm, vi phạm nội quy Theo quy định tại khoản 8 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, đối với người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm nội quy cơ sở giam giữ bị xử lý kỷ luật, sau khi được Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện công nhận đã cải tạo tiến bộ và có đủ 04 quý liền kề (đối với người bị kết án bị kỷ luật khiển trách 02 lần hoặc kỷ luật cảnh cáo) hoặc 05 quý liền kề (đối với người bị kết án bị giam tại buồng kỷ luật) được xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì mới được tiếp tục xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Đối với người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý thì phải chấp hành được ít nhất một phần hai mức hình phạt chung và phải có đủ điều kiện hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1 và khoản 6 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Trường hợp người bị kết án đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt chung, hoặc 25 năm nếu là tù chung thân và phải có đủ các điều kiện hướng dẫn tại các điểm b, c và d khoản 1 và khoản 6 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Cuối cùng, khoản 11 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP quy định, người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc người đang được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được bảo lưu kết quả chấp hành án phạt tù và được tính liên tục liền kề với thời gian sau khi trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án. Khi những người này trở lại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiếp tục chấp hành án, nếu có đủ điều kiện quy định tại các khoản của Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP và trong thời gian được tạm đình chỉ hoặc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, được chính quyền địa phương nơi người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù về cư trú hoặc cơ sở y tế điều trị cho người được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh xác nhận thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Trên đây là toàn bộ hướng dẫn của TAND Tối cao về quy định giảm mức hình phạt đã tuyên tại Điều 63 Bộ Luật Hình sự 2015. Nhìn chung, quy định về việc giảm mức hình phạt đã tuyên trong Bộ Luật Hình sự 2015 là một quy định mang tính nhân đạo, tiến bộ, góp phần đảm bảo tính công bằng trong việc áp dụng hình phạt, đồng thời giáo dục, răn đe người phạm tội, góp phần phòng ngừa tội phạm hiệu quả. >>> Mời bạn đọc xem lại phần 1: Điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn mới nhất của TAND Tối cao (P1)
Điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn mới nhất của TAND Tối cao (P1)
Mới đây, Hội đồng thẩm phán của TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP để hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật Hình sự 2015 (1) Điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 Bộ Luật Hình sự 2015, người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Tuy nhiên, việc giảm mức hình phạt đã tuyên cũng gặp phải một số khó khăn trong việc đánh giá, xác định đối tượng được giảm mức hình phạt và tội phạm được giảm mức hình phạt có nguy cơ tái phạm cao. Do đó, Hội đồng thẩm phán của TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP để hướng dẫn một số quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015, trong đó có hướng dẫn về điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên. Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu khi có đủ các điều kiện sau đây: 1- Đã chấp hành được một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn; 12 năm đối với tù chung thân; 15 năm đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân 2- Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thành thật hối cải, tích cực lao động, học tập. 3- Đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân phải có nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc chấp hành tốt nội quy cơ sở giam giữ, tích cực học tập, lao động, cải tạo và phải có đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, cụ thể như sau: - Người bị kết án phạt tù chung thân phải có ít nhất 16 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước ân giảm xuống tù chung thân phải có ít nhất 20 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 20 năm đến 30 năm phải có ít nhất 14 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm phải có ít nhất 12 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 10 năm đến 15 năm phải có ít nhất 08 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 05 năm đến 10 năm phải có ít nhất 04 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ trên 03 năm đến 05 năm phải có ít nhất 02 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. - Người bị kết án phạt tù từ 03 năm trở xuống phải có ít nhất 01 quý liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại từ khá trở lên. Trường hợp chưa có kết quả xếp loại quý liền kề do chưa đến thời điểm xếp loại quý nhưng có 03 tháng liền kề thời điểm xét giảm được xếp loại khá thì vẫn có thể được xét giảm. 4- Đã bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án: - Người bị kết án bồi thường được ít hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng có văn bản miễn giảm một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận khác của người được thi hành án, người đại diện hợp pháp của người được thi hành án (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thể hiện người bị kết án đã bồi thường được một phần hai nghĩa vụ dân sự thì cũng được coi là đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. - Người bị kết án có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn hướng dẫn tại khoản 8 Điều 2 của Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP được UBND cấp xã nơi họ cư trú hoặc cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác nhận thì mức bồi thường nghĩa vụ dân sự có thể thấp hơn một phần hai nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng Tòa án phải ghi rõ trong quyết định. - Người bị kết án về tội tham nhũng, chức vụ thì phải bồi thường được ít nhất một phần hai nghĩa vụ dân sự. 5- Được cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền đề nghị bằng văn bản xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Theo đó, khi phạm nhân đáp ứng được các yêu cầu theo hướng dẫn nêu trên sẽ được xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt theo quy định của pháp luật. (2) Mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt Cũng theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP, mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt được thực hiện như sau: - Người bị kết án cải tạo không giam giữ thì mỗi lần có thể được giảm từ 03 tháng đến 09 tháng - Người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc người bị kết án phạt tù chung thân đã được giảm xuống 30 năm tù thì mỗi lần có thể được giảm từ 01 tháng đến 03 năm. Trường hợp giảm đến 03 năm thì phải là người có thành tích đặc biệt xuất sắc. Lưu ý: Khi giảm thời gian được giảm phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành hình phạt quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 63 của Bộ Luật Hình sự 2015. Trên đây là một số hướng dẫn của TAND Tối cao liên quan đến quy định giảm mức hình phạt đã tuyên tại Điều 63 Bộ Luật Hình sự 2015 >>> Mời bạn đọc xem tiếp phần 2: Một số trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên theo hướng dẫn của TAND Tối cao (P2)
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao theo quy định pháp luật hiện hành năm 2024
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trong đó, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 21 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao gồm: - Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; - Bộ máy giúp việc; - Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác, viên chức và người lao động. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 22 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014 đề cập số lượng thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không dưới mười ba người và không quá mười bảy người; gồm Chánh án, các Phó Chánh án Tòa nhân dân tối cao là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. + Nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: - Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng; - Ban hành nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật; - Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử; - Thảo luận, góp ý kiến đối với báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án nhân dân để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; - Tham gia ý kiến đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội; - Thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và dự thảo văn bản pháp luật giữa Tòa án nhân dân tối cao với cơ quan có liên quan theo quy định. Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi thảo luận, thông qua nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 24 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014 đề cập Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao gồm các vụ và các đơn vị tương đương. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổ chức bộ máy; nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Tòa án nhân dân tối cao Căn cứ quy định tại Điều 25 Luật Tố chức Tòa án nhân dân 2014 cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ đào tạo; bồi dưỡng Thẩm phán, Hội thẩm, các chức danh khác của Tòa án nhân dân. Việc thành lập cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Tòa án nhân dân tối cao được thực hiện theo quy định của luật. Như vậy, cơ cấu bộ máy tổ chức Tòa án nhân dân tối cao gồm những đơn vị nêu trên.
HĐTP-TANDTC hướng dẫn trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Mới đây, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, trong đó có hướng dẫn về các trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên (1) Khi nào thì cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên? Theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Theo đó, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Nếu các hành vi vi phạm của cha, mẹ đối với con chưa thành niên đã chấm dứt, Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này. (2) Ai có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên? Ngoài Tòa án, những người được quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 sau đây có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: - Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: + Người thân thích; + Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; + Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; + Hội liên hiệp phụ nữ. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức trên yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Như vậy, để bảo vệ trẻ em đến mức tối đa, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định ngoài Tòa án thì các cá nhân, tổ chức theo quy định trên mà phát hiện ra cha, mẹ của con chưa thành niên có các hành vi vi phạm theo khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. (3) Hướng dẫn của HĐTP TAND Tối cao về trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối Theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết các trường hợp tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Trường hợp “Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý” Là trường hợp cha, mẹ bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý. Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 đối với con chưa thành niên. Trường hợp “Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” Là trường hợp mà cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con hoặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của con. Ví dụ: Cha, mẹ bỏ mặc con chưa thành niên tự sinh sống, không có điều kiện để tự nuôi mình dẫn đến con có hành vi trộm cắp tài sản. Trường hợp “Phá tán tài sản của con” Là trường hợp mà cha, mẹ mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của con mà không vì lợi ích của con. Trường hợp “Có lối sống đồi trụy” Là trường hợp cha, mẹ lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện hoạt động mại dâm. Trường hợp “Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” Là trường hợp mà cha, mẹ hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Ví dụ: xúi giục, ép buộc dẫn đến con bỏ học, trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bên cạnh hướng dẫn, làm rõ chi tiết các hành vi trong từng trường hợp là gì, Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng hình thức hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra quyết định về việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, cụ thể: - Không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ quản lý tài sản của con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ đại diện theo pháp luật cho con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP Về việc Tòa án quyết định rút ngắn thời hạn hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, Hội đồng thẩm phán hướng dẫn như sau: Trong trường hợp cha, mẹ đã thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án và trong thời hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP thì Tòa án xem xét quyết định rút ngắn thời gian hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC
Vừa qua ngày 16/5/2024 Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP. Trong đó, có hướng dẫn về các trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf Vợ/chồng chết thì di sản được phân chia thế nào? Theo Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết: - Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản. - Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. - Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự. - Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Đồng thời, các trường hợp hạn chế phân chia di sản được quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: - Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia. - Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm. Như vậy, việc phân chia di sản của vợ/chồng khi mất hiện nay sẽ được thực hiện theo quy định trên. Đồng thời, tại Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC) có hướng dẫn cụ thể về trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng. Trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ/chồng theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC Theo Điều 5 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn về hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 như sau: Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân gia đình 2014 và Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015 là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất... Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con. Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 mẻ. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con. Như vậy, theo hướng dẫn mới nhất của HĐTP TANDTC, trường hợp vợ/chồng chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì người còn lại và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất… thì người còn lại có quyền yêu cầu xác định di sản nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua ngày 24/4/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2024: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/24/01-2024-NQ-HNGD.pdf
Một số vấn đề nghiệp vụ từ các phiên tòa tháng 6/2020 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất; Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản, là những vấn đề được đề cập trong phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tháng 6/2020. 1. Chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất Ông Nguyễn Văn K khởi kiện yêu cầu buộc vợ chồng ông Lê Chung Th bà Đỗ Thị L thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 01/9/2013, đã được UBND xã chứng thực ngày 17/9/2010. Theo hợp đồng này thì vợ chồng ông Th bà L chuyển nhượng cho ông K diện tích đất 203 m2 với giá 3 tỷ đồng và đã nhận đủ tiền. Vợ chồng ông Th bà L khai rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng chỉ để bảo đảm cho khoản tiền vay 180 triệu đồng của ông K nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng ký ngày 01/9/2013 vô hiệu do giả tạo. Bản án sơ thẩm (số 02/2014/DS-ST ngày 20/2/2014 của TAND huyện Văn Giang) và Bản án phúc thẩm (số 44/2014/DS-PT ngày 12/8/2014 của TAND tỉnh Hưng Yên) đều chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn giao đất và cả ngôi nhà có diện tích 84 m2 trên đất chuyển nhượng cho nguyên đơn; buộc nguyên đơn thanh toán giá trị của ngôi nhà cho bị đơn. Một phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC Bản án phúc thẩm bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội đã không chấp nhận kháng nghị. Vợ chồng ông Th và bà L tiếp tục có yêu cầu giám đốc thẩm. Chánh án TAND tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 10/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị; hủy Quyết định giám đốc thẩm số 100/2017/DS-GĐT, Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm; giao cho cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Hội đồng Thẩm phán xác định các cấp xét xử trước đó đã có 3 sai lầm: - Xác định Hợp đồng chuyển nhượng không có dấu hiệu giả tạo và bên chuyển nhượng đã nhận hết tiền là đánh giá chứng cứ không đúng. Hợp đồng này có đủ căn cứ xác định là giả tạo vì giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng quá chênh lệch so với giá thực tế mà không xác định được lý do của sự chênh lệch này (giá trong hợp đồng là 3 tỷ đồng trong khi giá thực tế được định giá chỉ là 630 triệu đồng). Hợp đồng ghi “việc thanh toán số tiền trên do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm trước pháp luật” thì phải hiểu chưa có việc giao tiền trước khi ký hợp đồng và việc giao nhận sau này phải có chứng từ riêng về giao nhận tiền. Thực tế, ông K không xuất trình được chứng cứ khác về giao nhận tiền. - Việc buộc thực hiện hợp đồng là không có cơ sở pháp lý. Việc buộc thực hiện hợp đồng phải trên cơ sở xác định hợp đồng đã có hiệu lực. Hợp đồng này mới chỉ có chứng thực, chưa có đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền là chưa có hiệu lực (Theo quy định tại Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, Điều 692 BLDS năm 2005). - Hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu vì có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 BLDS năm 2005. Chỉ cần có một trong các vi phạm nêu ở trên thì Hợp đồng ngày 01/9/2003 đã là hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, cần lưu ý về trường hợp vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được vì đây là trường hợp có ý kiến khác nhau, qua thảo luận Hội đồng Thẩm phán mới nhất trí với Kháng nghị của Chánh án TAND tối cao. Trong vụ án này, trên đất chuyển chượng có nhà ở nhưng các bên không thỏa thuận về nhà ở khi thỏa thuận về chuyển nhượng đất. Trong trường hợp thi hành án, đã có quy định về việc trên đất bị phát mại có tài sản không bị kê biên, kể cả tài sản của người khác (không phải của chủ sử dụng đất) thì Cơ quan thi hành án vẫn được xử lý cả tài sản trên đất (Điều 113 Luật Thi hành án dân sự). Tuy nhiên, trong giao dịch chuyển nhượng thông thường (không phải là thi hành án) thì pháp luật chưa có quy định về trường hợp chuyển nhượng đất mà không có thỏa thuận về tài sản trên đất. Khi không có thỏa thuận về tài sản trên đất thì quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng sử dụng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Vì vậy, trong trường hợp hợp đồng không có vi phạm khác, chỉ riêng việc không có thỏa thuận về tài sản gắn liền với đất thì cũng là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được. 2. Tránh nhầm lẫn quyền của đồng chủ sở hữu với quyền của người mượn tài sản Nguyên đơn là bà Lý Thị X khởi kiện đòi vợ chồng ông La Anh D và bà Huỳnh Thị Liên H trả lại ngôi nhà 29 Lê Lợi, có diện tích 62,5m2 mà nguyên đơn cho ở nhờ từ năm 1995. Bị đơn không đồng ý trả lại nhà với lý do đã được vợ chồng bà X tặng cho ngôi nhà này (chồng bà X là chú của bà H), đã sửa chữa lại nhà; do đó, có yêu cầu phản tố được công nhận sở hữu nhà. Bản án sơ thẩm lần đầu về vụ án này đã bị cấp phúc thẩm hủy để xét xử sơ thẩm lại. Tại bản án sơ thẩm số 22/2015/DS-ST ngày 17/7/2015, TAND tỉnh Hậu Giang đã chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn. Bị đơn kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 122/2019/DS-PT ngày 16/4/2019, TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sửa bản án sơ thẩm: Công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở cho vợ chồng ông D bà H; nguyên đơn được vợ chồng ông D bà H thanh toán giá trị quyền sử dụng đất 315 triệu đồng. Nguyên đơn có yêu cầu giám đốc thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 11/6/2020, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị, hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao xét xử sơ thẩm lại. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Bản án phúc thẩm nhận định “ông D và bà H đăng ký hộ khẩu thường trú tại nhà này từ năm 1995, hiên nay đang có doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh”… “ông D và bà H đang sinh sống ổn định tại địa chỉ trên nên nhu cầu về chỗ ở của ông D và bà H là có thật” để chấp nhận yêu cầu của ông D, bà H được nhận nhà và hoàn giá trị đất cho nguyên đơn là không đúng thực tế và không có cơ sở pháp lý. Từ trước khi xét xử sơ thẩm thì ông D đã có đơn có nội dung “vợ tôi đi Mỹ và chưa có quốc tịch Mỹ”, và ông D cũng đã cho thuê ngôi nhà đang tranh chấp. Tòa án cấp phúc thẩm cũng nhận định không có cơ sở xác định ông D và bà H được tặng cho nhà. Do vậy, pháp luật áp dụng để giải quyêt tranh chấp phải là pháp luật về ở nhờ nhà ở. Là người ở nhờ thì không thể căn cứ vào việc có hộ khẩu, sinh sống ổn định, có nhu cầu về nhà ở để giao quyền sở hữu như trường hợp chia tài sản thuộc sở hữu chung hay chia thừa kế. Những trường hợp đặc biệt người ở nhờ không phải trả lại toàn bộ nhà phải là những trường hợp được pháp luật quy định rõ. Ví dụ: Trường hợp ở nhờ nhà trước 01/7/1991, theo quy định tại Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước 01/7/1991 thì trong trường hợp người ở nhờ đã làm thêm diện tích nhà ở riêng biệt với nhà cho mượn mà không bị chủ nhà phản đối thì được công nhận sở hữu đối với phần nhà làm thêm và thanh toán cho chủ nhà giá trị quyền sử dụng đất (Điểm c Điều 11). Tuy nhiên, trong vụ án này, việc ở nhờ là từ năm 1995, nhà sửa chữa không hình thành phần nhà ở riêng biệt nên không thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết 58/1998 nêu trên. Hội đồng Thẩm phán nhất trí với nhận định của Kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán không hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án sơ thẩm mà phải hủy cả Bản án sơ thẩm để giao xét xử sơ thẩm lại vì đã có việc thi hành một phần Bản án phúc thẩm. Bản án phúc thẩm còn có một sai lầm là đã tuyên “Việc giao tiền và thủ tục công nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở được thực hiện cùng lúc”. Việc tuyên “thực hiện cùng lúc” là một sai lầm nghiệp vụ đã được lưu ý từ lâu nhưng trong thực tế vẫn xảy ra. Quyết định của Tòa án phải là những mệnh lệnh mà nếu không tự nguyện thi hành thì sẽ cưỡng chế thi hành được. Quyết định “thực hiện cùng lúc” hay “ thi hành cùng một lúc” là quyết định rất khó cưỡng chế thi hành; nếu có một bên đã thi hành một phần nghĩa vụ thì việc “thực hiện cùng lúc” sẽ không thể xảy ra nữa và cơ quan thi hành án có thể từ chối thi hành vì không thể thi hành đúng bản án. Vì vậy, cần phải chấm dứt việc quyết định thi hành cùng một lúc hoặc quyết định thi hành tại một cơ quan thi hành án cụ thể. Chu Minh Theo Congly.vn
Một số vấn đề nghiệp vụ từ các phiên tòa tháng 10/2019 của Hội đồng Thẩm phán
(Công lý) - Các phiên tòa được đưa ra xem xét trong tháng 10 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã giải quyết được một số vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ. Sau đây là một số vụ án cụ thể được đưa ra xem xét tại các phiên tòa này. 1. Kết luận giám định đúng chữ ký, tại sao vẫn không phải chịu trách nhiệm về chữ ký này? Ông Trần Văn Th khởi kiện đòi bà Nguyễn Thị B trả khoản tiền 625 triệu đồng là tiền nợ mua bán cà phê (số tiền nợ là 1 tỷ đồng, đã trả được 375 triệu đồng). Ông Th xuất trình tài liệu đề ngày 13/12/2009 của bà B có nội dung nợ tiền mua bán cà phê. Bà B xác nhận có viết và ký tài liệu đề ngày 13/12/2009 nhưng khai rằng bà và chồng bà (ông Vũ Văn T) đã trả cho ông Th và vợ ông Th (bà Trần Thị H) 1.502.000.000 đồng. Bà B xuất trình 22 giấy biên nhận của vợ chồng ông Th bà H và có yêu cầu phản tố đòi vợ chồng ông Th bà H trả lại số tiền đã trả thừa là 502 triệu đồng. Vợ chồng ông Th bà H khai rằng chỉ có 2 chứng từ trả cho khoản nợ tiền cà phê (375 triệu đồng), còn 20 chứng từ khác là tiền trả cho khoản nợ vay 1.195.000.000 đồng trước đó theo Giấy mượn tiền đề ngày 31/12/2007. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bà B xuất trình tài liệu có phần đánh máy là: “Tôi là Nguyễn Thị H xác nhận: Ngày 21/01/2008 chị B đã trả đủ 1.195.000.000 đồng (Bằng chữ Một tỷ một trăm chín mươi lăm triệu đồng) Người nhận” Bên dưới phần đánh máy nêu trên là chữ ký và chữ viết “Nguyễn Thị H”. Bà H không thừa nhận có việc trả tiền theo giấy đề ngày 21/01/2008 nêu trên. Vụ án đã được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, sơ thẩm lại, phúc thẩm lại. Tại Bản án phúc thẩm lại số 03/2015/DSPT ngày 12/01/2015, TAND tỉnh Đắk Lắk đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (buộc bị đơn trả tiền nợ mua cà phê 625 triệu đồng và tiền lãi do chậm thanh toán là 288.387.500 đồng), bác yêu cầu phản tố của bị đơn. Vợ chồng bà B ông T có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Chánh án TAND cấp cao đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 79/2016/DS-GĐT ngày 15/12/2016, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã hủy bản án sơ thẩm lại và bản án phúc thẩm lại; giao xét xử sơ thẩm lại. TAND tỉnh Đắk Lắk có kiến nghị giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 09/10/2019, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đã hủy quyết định giám đốc thẩm số 79/2016/DS-GĐT và giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 03/2015/DSPT. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Mấu chốt của vụ án là công nhận hay không công nhận tính xác thực của tài liệu đề ngày 21/01/2008. Tài liệu này đã được giám định. Kết luận giám định đã xác định “chữ ký và chữ viết đề tên Nguyễn Thị H trong tài liệu giám định là chữ ký, chữ viết của bà Nguyễn Thị H”. Nhưng kết luận giám định cũng xác định rằng “không đủ cơ sở kết luận nội dung: “Tôi là Nguyễn Thị H xác nhận ngày 21/01/2008 chị B đã trả đủ 1.195.000.000 đồng” được in trước hay sau phần chữ ký, chữ viết đề tên Nguyễn Thị H”. Như vậy, không loại trừ khả năng phần đánh máy được đánh sau khi ký khống như bà H nêu ra. Tài liệu đề ngày 21/01/2008 có nội dung mâu thuẫn với các chứng cứ khác do chính bà B xuất trình. 20 giấy biên nhận mà bà B xuất trình đều là giấy viết tay thể hiện việc trả nợ tiền sau ngày 21/01/2008 và trước ngày nhận nợ mua bán cà phê (13/12/2009). Nếu ngày 21/1/2008 đã trả xong khoản nợ 1.195.000.000 đồng thì sau ngày này không còn phải tiếp tục trả nợ. Nếu là trả trước cho việc mua bán cà phê thì phải được trừ đi khi viết biên nhận nợ tiền cà phê (13/12/2008). Vì vậy, tài liệu đề ngày 21/1/2008 mà bà B xuất trình không đáng tin cậy, không đủ cơ sở xác định là chứng cứ hợp pháp. Không đủ cơ sở chấp nhận tài liệu đề ngày 21/01/2008 có nội dung đúng sự thật thì các chứng cứ khác đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Việc chưa xác định được có giả mạo chứng cứ hay không và giả mạo như thế nào không cản trở việc xác định trách nhiệm dân sự (trả nợ tiền mua bán cà phê) nên việc giao xét xử sơ thẩm lại (như Quyết định giám đốc thẩm số 79/2016/DS-GĐT) là không cần thiết. 2. Đã có quyết định của Tòa án về hợp đồng thế chấp thì có quyền khởi kiện vụ án yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu không? Ngày 10/10/2013, Bà Nguyễn Kim T khởi kiện yêu cầu tuyên bố Văn bản công chứng của Văn phòng công chứng Đ đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất ngày 21/01/2011 vô hiệu. Bà T cho rằng 5 thửa đất đứng tên ông H (chồng bà) là tài sản chung của vợ chồng nên chỉ có ông H ký hợp đồng thế chấp để bảo lãnh cho Công ty N vay tiền Ngân hàng Đông Nam là trái pháp luật. Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Điện Bàn đã bác yêu cầu của bà T. Bà T kháng cáo quá hạn. TAND tỉnh Quảng Nam đã có quyết định phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo quá hạn. Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 25/2017/DS-GĐT ngày 3/7/2017, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã không chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm. Bà T tiếp tục có đơn yêu cầu giám đốc thẩm. Chánh án TANDTC có kháng nghị giám đốc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 9/10/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hủy Quyết định giám đốc thẩm số 27/2017/DS-GĐT, hủy Quyết định phúc thẩm, hủy Bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý đã được nêu ra là: Hội đồng Thẩm phán hủy cả quyết định giám đốc thẩm, quyết định phúc thẩm, bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án trên cơ sở xác định rằng, việc thụ lý vụ án là không đúng. Đây là trường hợp sự việc đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực của Tòa án, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 168 BLTTDS năm 2004 (nay quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 192 BLTTDS). Trước khi bà T khởi kiện, Ngân hàng Đông Nam đã khởi kiện vụ án về hợp đồng tín dụng với Công ty N; tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM ngày 30/9/2013 của TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng đã có nội dung phát mại tài sản thế chấp bảo lãnh để trả nợ. TAND huyện Điện Bàn thụ lý vụ án yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu vì cho rằng văn bản công chứng độc lập với hợp đồng thể chấp. Đúng là văn bản công chứng có tính độc lập với văn bản được công chứng. Văn bản công chứng có thể vô hiệu mà văn bản được công chứng không vô hiệu (như trường hợp văn bản được công chứng thuộc lọai không bắt buộc phải công chứng). Văn bản công chứng vô hiệu nhưng văn bản được công chứng dù không được coi là một giao dịch có hiệu lực thì vẫn là một sự kiện pháp lý tồn tại khách quan. Do đó, người khởi kiện có quyền chỉ khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà không yêu cầu phán quyết về văn bản được công chứng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hợp đồng tín dụng đã được giải quyết bằng vụ án kinh doanh, thương mại, đã xác định hợp đồng thế chấp hợp pháp. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất là loại bắt buộc phải công chứng nên xác định hợp đồng hợp pháp là đã xác định việc công chứng là hợp pháp. Như vậy, yêu cầu phán xét về công chứng là sự việc đã được giải quyết trong vụ án kinh doanh, thương mại. Bà T chỉ có quyền yêu cầu giám đốc thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 77/2013/QĐST-KDTM chứ không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. 3.Tại sao chứng cứ xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm lại không được chấp nhận? Vụ án hành chính giữa người khởi kiện là Hộ kinh doanh Ngọc B (do bà B là chủ hộ) với người bị kiện là Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường tỉnh V có đối tượng khởi kiện là Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0156483/QĐXPHC ngày 28/5/2013. Quyết định hành chính này xử phạt Hộ kinh doanh Ngọc B về hành vi vi phạm là kinh doanh hàng hóa nhập lậu; xử phạt 15 triệu đồng và tịch thu toàn bộ hàng hóa vi phạm. Quyết định xử phạt trên cơ sở từ việc kiểm tra xe ô tô chở 30.000kg đường cát trắng ngày 08/5/2013 và đội quản lý thị trường đã lập Biên bản vi phạm hành chính ngày 28/5/2013. Bản án hành chính sơ thẩm của TAND tỉnh Vĩnh Long đã bác yêu cầu khởi kiện của bà B. Bà B kháng cáo. Tại bản án hành chính phúc thẩm số 07/2016/HCPT, TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã hủy quyết định hành chính nêu trên. Chánh án TANDTC đã có kháng nghị đối với bản án phúc thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 9/10/2019, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Vấn đề nghiệp vụ cần lưu ý được nêu ra là: Một trong những lý do Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của bà B là xác định hóa đơn mà bà B xuất trình để chứng minh mua đường ở trong nước không hợp lý. Bà B khai mua đường của các cơ sở trong nước, phối trộn thành hàng của Ngọc B, dán nhãn rồi mang bán. Hóa đơn đề ngày 26/4/2013 nhưng nhãn ghi ngày sản xuất trên hàng hóa thu giữ là 22/4/2013. Như vậy là việc phối trộn xảy ra trước khi có hàng để phối trộn. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bà B xuất trình Hóa đơn mua đường đề ngày 18/4/2013. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hóa đơn mới xuất trình có thời gian trước ngày dán nhãn sản xuất là hợp lý nên đã sửa án sơ thẩm, hủy quyết định xử phạt hành chính. Thực tế, việc xuất trình hóa đơn đề ngày 18/4/2013 mới chỉ khắc phục được sự bất hợp lý về thời gian chứ chưa chứng minh được xuất xứ của hàng hóa. Các cơ sở trong nước bán đường cho Hộ kinh doanh Ngọc B đều xác định số đường bị thu giữ không phải hàng của họ đã bán. Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng 3 đã xác định số đường thu giữ là đường tinh luyện cao cấp, không phải đường được phối trộn từ các cơ sở trong nước như bà B khai. Như vậy, chứng cứ mới xuất trình ở giai đoạn xét xử phúc thẩm có thể được chấp nhận nhưng giá trị chứng minh chưa đủ để thay đổi quyết định của cấp sơ thẩm thì vẫn phải giữ nguyên các quyết định sơ thẩm. Chu Minh Theo Congly.vn
Trang phục Thẩm phán xét xử người chưa thành niên sẽ là màu cam?
Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao vừa ban hành dự thảo Đề án đổi mới trang phục Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, dự thảo nêu lên sự cần thiết phải đổi mới trang phục qua quá trình thực thi áp dụng theo Nghị quyết 221/2003/NQ-UBTVQH11 về trang phục đối với cán bộ, công chức ngành toà án và Hội thẩm, giấy chứng minh Thẩm phán và giấy chứng minh Hội thẩm. Đồng thời, Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 ra đời càng nhấn mạnh vị trí, vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử. Do đó, trang phục trong khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần có những thay đổi nhất định. Cụ thể như sau: Thứ nhất. về trang phục của Thẩm phán Trang phục của Thẩm phán sẽ là áo thụng đen. Trang phục này kế thừa các mẫu trang phục xét xử Thẩm phán của các quốc gia trên thế giới, và phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định 04 loại Thẩm phán và đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Tuy nhiên, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân có sự khác biệt nhất định. Do vậy, trang phục xét xử của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao so với Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và sơ cấp phải có sự khác biệt. Đề xuất trang phục Thẩm phán Tòa gia đình và người chưa thành niên sẽ là áo thụng dài tay màu cam Với lý do rằng theo thông lệ thế giới, màu cam tượng trưng cho sự hài hòa, thân thiện. Do đó, có thể quy định trang phục của Thẩm phán xét xử các vụ án gia đình và người chưa thành niên là áo thụng tay dài màu cam khoác bên ngoài với thiết kế giống áo choàng đen của các Thẩm phán khác (trừ Thẩm phán Tòa tối cao) Ngoài ra, còn có một số ý kiến cho rằng trang phục xét xử của Thẩm phán xét xử các vụ án gia đình, người chưa thành niên là trang phục làm việc hàng ngày để thể hiện hình ảnh thân thiện, không cách xa của các Thẩm phán trên công đường và với hình ảnh Thẩm phán hàng ngày trong con mắt người chưa thành niên. Và áo thụng này sẽ được cấp 02 năm/chiếc, riêng lần đầu cấp 02 chiếc. Thứ hai, về trang phục của Hội thẩm nhân dân Vì được xem là người đại diện cho nhân dân tham gia vào việc xét xử của Tòa án, do vậy, khi xét xử, trang phục của Hội thẩm không cần giống Thẩm phán. Theo thông lệ các quốc giá, Bồi thẩm đoàn không mặc trang phục của Tòa án khi tham gia xét xử mà mặc trang phục bình thường. Hội thẩm nhân dân ngoài các trang phục được cấp khi làm việc bình thường còn được cấp thắt lưng da, giầy da, bít tất, dép có quai hậu, cà vạt, áo mưa, ô che mưa và cặp đựng tài liệu. Lưu ý: để thống nhất, các mẫu phụ kiện đi kèm trang phục bắt buộc theo quy định sau: - Thắt lưng: màu đen, mặt khóa kim loại hình vuông màu vàng. - Bít tất: màu tối. - Dép quai hậu: màu đen. - Cà vạt: màu đỏ hoặc màu xanh hòa bình. - Áo mưa và ô che mưa, cặp đựng tài liệu: có in dòng chữ Tòa án nhân dân. Thứ ba, về tấm biển phù hiệu Tòa án Được thiết kế để đeo ở ngực trái, có hình chữ nhật màu xanh da trời (kích thước 2cmx4cm). Trên mặt tấm biển này, bên trái có logo biểu tượng Tòa án, bên phải thiết kế thêm họa tiết phân biệt Thẩm phán với nhau. Thẩm phán sơ cấp: 01 vạch ngang màu đỏ. Thẩm phán trung cấp: 02 vạch ngang màu đỏ. Thẩm phán cao cấp: 03 vạch ngang màu đỏ. Thẩm phán Tòa tối cao: 04 vạch ngang màu đỏ, riêng tấm biển phù hiệu Chánh án Tòa tối cao có thêm ngôi sao vàng 05 cánh thiết ké trên chính giữa vạch màu đỏ thứ 4. Xem chi tiết dự thảo Đề án đổi mới trang phục của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân tại file đính kèm.
Tháng 09/2015: Việt Nam sẽ có Tập án lệ đầu tiên
Theo điểm c khoản 2 điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Mới đây, Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có chỉ đạo:Tòa án nhân dân tối cao phải xây dựng Tập án lệ đầu tiên trình Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua trước tháng 09/2015 để chào mừng kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Tòa án nhân dân (13/09/1945 – 13/09/2015). Nội dung trên được đề cập tại văn bản số 53/TANDTC-KHXX ngày 23/03/2015. Đây được xem là niềm vui lớn của Nhân dân ta sau bao nhiêu năm chờ đợi.
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cần ban hành Nghị quyết về “Hiếp dâm”
Bản tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao số 329/HS2 ngày 11/5/1967 đề cập đến “khái niệm” giao cấu như sau: “Giao cấu: chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”. Và thực tiễn xét xử án hiếp dâm của nước ta từ trước đến nay sẽ là: Chủ thể của tội hiếp dâm chỉ là nam (trừ trường hợp nữ đồng phạm giúp sức); khách thể của tội hiếp dâm chỉ là nữ. Liệu quan điểm này có đúng đối với thực tế đời sống hiện nay? 1. Nữ cũng là chủ thể của tội hiếp dâm Pháp luật hình sự nghiêm trị tội hiếp dâm nhằm đảm bảo nhân phẩm, danh dự của con người. Vì lẽ đó, dù là nam hay nữ thì cũng có nhân phẩm, danh dự cần được pháp luật bảo hộ. Nếu mãi tư duy theo lối mòn cũ – chỉ có nam mới là chủ thể của tội hiếp dâm thì vô hình chung Nhà nước không đảm bảo được nhân phẩm, danh dự cho nam giới hay đúng hơn Nhà nước không công nhận nam giới có nhân phẩm và danh dự. Mặt khác, nhiều nước trên thế giới vẫn coi nữ là chủ thể của tội hiếp dâm nên chúng ta cần phải thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. 2. Nam cũng có thể hiếp dâm nam Pháp luật Việt Nam hiện hành không công nhận chuyển đổi giới tính, song thực tế vẫn diễn ra sự chuyển đổi giới tính (từ nam sang nữ hay từ nữ sang nam) trái phép, bởi vậy sự không công nhận chuyển đổi giới tính chỉ nằm trên góc độ pháp lý còn thực tiễn giới tính đã được thay đổi (nhu cầu sinh lý của người đó được thay đổi). Như vậy, sẽ dễ hiểu trường hợp nam hiếp dâm nam trên góc độ pháp lý, còn thực tiễn nam hiếp dâm nữ [bởi khách thể lúc này là nữ thực tế (đã thay đổi về kết cấu sinh học) nhưng pháp lý thì nhà nước không công nhận]. Vậy người nam (góc độ pháp lý) có được bảo hộ nhân phẩm, danh dự hay không? Rõ ràng, hành vi chuyển đối giới tính là sai trái song không phải vì hành vi sai trái đó mà tước đoạt cái quyền mà tạo hóa đã ban cho họ (nhân phẩm và danh dự). 3. Pháp luật Hình sự cần thay đổi như thế nào? Điều 111 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Nội dung trên có thể hiểu: ”bất cứ người nào (không phân biệt giới tính) mà có hành vi được miêu tả theo quy định nêu trên, có đầy đủ các dấu hiệu khác về mặt chủ quan, khách quan, chủ thể, khách thể tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Bộ luật Hình sự 1999 không cần sửa đổi về nội dung này mà Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao cần ban hành một Nghị quyết nhằm thống nhất cách xét xử chung toàn quốc – dù nam hay nữ vẫn là chủ thể của tội hiếp dâm.