Hết hạn giải quyết thừa kế thì có được hưởng thừa kế không?
Tham khảo: >>> “BÍ KÍP” chia di sản thừa kế đúng luật; >>> Thắc mắc về thừa kế thì bơi vào đây; Thừa kế là việc mà những người thân, con cháu trong gia đình thuộc hạng thừa kế theo quy định tại Bộ luật dân sự đáng được hưởng theo quy định. Tuy nhiên, nếu trường hợp người thừa kế đi làm ăn xa, đi học xa… khi trở về biết người thân của mình đã mất và thời hạn giải quyết thừa kế cũng đã hết. Vậy trong trường hợp này người thừa kế có được hưởng thừa kế hay không? Mời các bạn cùng tham khảo bài viết sau: >>> Thời hiệu thừa kế theo quy định pháp luật. Căn cứ tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế như sau: - Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: + Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này; + Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này. - Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. - Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo quy định trên cho thấy, về thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế tài sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động. Nếu hết thời hiệu khởi kiện thì tài sản thừa kế sẽ thuộc về người quản lý di sản theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, về việc xác định thời hiệu khởi kiện yêu giải quyết thừa kế quá hạn theo thời hạn nêu trên của đương sự được tòa án nhân dân tối cao ban hành công văn giải đáp ngày 05/01/2018 về một số vấn đề nghiệp vụ trong đó có giải đáp thắc mắc về thừa kế như sau: >>> Hết hạn giải quyết thừa kế thì có được hưởng thừa kế không? Căn cứ Công văn giải đáp 01/GĐ-TANDTC, đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990. "căn cứ Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 1.Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. 2- Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản. ... 4.Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này." Do đó, nếu người thân chết trong thời gian trước ngày ban hành Pháp lệnh này và tới nay người hưởng thừa kế mới phát hiện để yêu cầu giải quyết chia di sản thừa kế thì thời hiệu giải quyết được tòa án xác định thời gian bắt đầu từ ngày pháp lệnh có hiệu lực (tức ngày 10/9/1990), nếu còn thời hạn trong 30 năm đối với bất động sản thì tòa án vẫn tiếp tục thụ lý giải quyết, còn hết hạn thì di sản thừa kế thuộc quyền sở hữu của người quản lý di sản do tòa án quyết định trước đó. Như vậy, từ các căn cứ nêu trên cho thấy nếu hết thời hiệu khởi kiện thì tòa án sẽ áp dụng thời hiệu hưởng quyền dân sự cho người quản lý di sản, cụ thể: Sau khi hết thời hiệu tài sản thừa kế sẽ thuộc về người quản lý di sản theo quy định, nếu vẫn còn thời hiệu tòa án vẫn sẽ thụ giải quyết theo quy định. Bạn tham khảo >>> Hướng dẫn thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất;
Khởi kiện khi đã hết thời hiệu, Tòa án có thụ lý?
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Theo quy định tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật dân sự 2015, hậu quả pháp lý khi thời hạn đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. Câu hỏi đặt ra, trong trường hợp đương sự tiến hành khởi kiện khi thời hiệu đã hết thì Tòa án có thụ lý giải quyết không? Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta cần tìm hiểu các quy định liên quan về việc áp dụng thời hiệu tại Bộ luật dân sự 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015, cụ thể như sau: Trước hết, theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”. Ngoài ra, Điều 185 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Tại khoản 2 Điều 149 Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định tương tự khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 trong vấn đề áp dụng thời hiệu. Với các quy định nêu trên, về cơ bản tất cả các vụ án đều còn thời hiệu khởi kiện nếu các đương sự không yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu (tức nếu hết thời hiệu khởi kiện nhưng các bên không có yêu cầu tòa án áp dụng thì Tòa vẫn sẽ giải quyết vụ án bình thường). Còn trong trường hợp có một hoặc các bên đương sự trong vụ án yêu cầu áp dụng thời hiệu thì nếu thời hiệu đã hết, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Trước đây, Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định về vấn đề áp dụng thời hiệu như sau: không áp dụng thời hạn khởi kiện khi xem xét thụ lý vụ án mà sau khi thú lý nếu thấy hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, quy định áp dụng thời hiệu tại Bộ luật dân sự 2015 cũng như Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là một quy định hoàn toàn mới. Quy định này nhằm hạn chế sự can thiệp của Tòa án, đồng thời ra điều kiện đối với các bên trong việc áp dụng thời hiệu. Theo đó, quy định này không cho phép Tòa án tự viện dẫn các quy định về thời hiệu trong quá trình giải quyết vụ án, mà Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng về thời hiệu của một bên hoặc các bên. Tóm lại, theo quy định hiện hành, việc áp dụng thời hiệu hay không áp dụng là phụ thuộc vào yêu cầu của các bên đương sự, Tòa phải xem xét đương sự có yêu cầu áp dụng hay không thì Tòa mới đưa ra quyết định phù hợp. Thời điểm đưa ra yêu cầu áp dụng thời hiệu Hiện nay, pháp luật chỉ cho phép một bên hoặc các bên viện dẫn quy định về thời hiệu ở giai đoạn tố tụng sơ thẩm với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra “trước khi tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”. Quy định này đã chỉ rõ vấn đề thời hiệu cần được yêu cầu giải quyết tại cấp sơ thẩm. Do đó, nếu tại cấp sơ thẩm mà vấn đề thời hiệu chưa được đặt ra thì tại cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm không được đặt ra nữa. Nói cách khác yêu cầu áp dụng thời hiệu của các bên đương sự chỉ được đưa ra giải quyết ở cấp sơ thẩm; sau khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết bằng bản án, quyết định nếu có yêu cầu áp dụng thời hiệu thì không được chấp nhận. Như vậy, thắc mắc đầu bài viết đã được giải đáp. Theo đó, trường hợp đương sự tiến hành khởi kiện khi thời hiệu đã hết thì đây không phải là căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện mà Tòa án vẫn sẽ thụ ký nếu đủ điều kiện. Tuy nhiên, nếu một bên hoặc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu đã hết thì vụ án sẽ bị đình chỉ giải quyết theo điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, miễn là yêu cầu đó phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Lưu ý: Trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp, pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện không được áp dụng ngay cả khi các bên có yêu cầu. Đó là các trường hợp được quy định cụ thể tại Điều155 Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định
Hết thời hiệu khởi kiện, giúp em với
Anh ruột của em năm 4/2016 có cho người thân là dòng họ vay số tiền là 15.000.000đ với lãi suất 1.000.000 là 50.000đ một tháng. Đến nay người vay không trả lãi lẫn nợ gốc luôn. Dù bên anh em cố đòi người vay cứ hẹn đến bây giờ vẫn chưa trả nữa ạ. Anh của em không biết về thời hiệu khởi kiện, đến khi Em có tìm hiểu trên trang wed thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vay tài sản là 3 năm. Đến nay em có còn quyền khởi kiện không? Nếu còn em có đòi lại được nợ gốc lẫn lãi không ạ? Khi vay anh em có làm giấy vay người vay đã ký tên, nhưng anh ấy đã làm mất giấy hiện tại anh ấy làm lại và người vay vẫn ký tên. Cám ơn Luật sư nhiều. Tư vấn giúp em.
Hết hạn giải quyết thừa kế thì có được hưởng thừa kế không?
Tham khảo: >>> “BÍ KÍP” chia di sản thừa kế đúng luật; >>> Thắc mắc về thừa kế thì bơi vào đây; Thừa kế là việc mà những người thân, con cháu trong gia đình thuộc hạng thừa kế theo quy định tại Bộ luật dân sự đáng được hưởng theo quy định. Tuy nhiên, nếu trường hợp người thừa kế đi làm ăn xa, đi học xa… khi trở về biết người thân của mình đã mất và thời hạn giải quyết thừa kế cũng đã hết. Vậy trong trường hợp này người thừa kế có được hưởng thừa kế hay không? Mời các bạn cùng tham khảo bài viết sau: >>> Thời hiệu thừa kế theo quy định pháp luật. Căn cứ tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế như sau: - Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: + Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này; + Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này. - Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. - Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo quy định trên cho thấy, về thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế tài sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động. Nếu hết thời hiệu khởi kiện thì tài sản thừa kế sẽ thuộc về người quản lý di sản theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, về việc xác định thời hiệu khởi kiện yêu giải quyết thừa kế quá hạn theo thời hạn nêu trên của đương sự được tòa án nhân dân tối cao ban hành công văn giải đáp ngày 05/01/2018 về một số vấn đề nghiệp vụ trong đó có giải đáp thắc mắc về thừa kế như sau: >>> Hết hạn giải quyết thừa kế thì có được hưởng thừa kế không? Căn cứ Công văn giải đáp 01/GĐ-TANDTC, đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990. "căn cứ Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 1.Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. 2- Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản. ... 4.Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này." Do đó, nếu người thân chết trong thời gian trước ngày ban hành Pháp lệnh này và tới nay người hưởng thừa kế mới phát hiện để yêu cầu giải quyết chia di sản thừa kế thì thời hiệu giải quyết được tòa án xác định thời gian bắt đầu từ ngày pháp lệnh có hiệu lực (tức ngày 10/9/1990), nếu còn thời hạn trong 30 năm đối với bất động sản thì tòa án vẫn tiếp tục thụ lý giải quyết, còn hết hạn thì di sản thừa kế thuộc quyền sở hữu của người quản lý di sản do tòa án quyết định trước đó. Như vậy, từ các căn cứ nêu trên cho thấy nếu hết thời hiệu khởi kiện thì tòa án sẽ áp dụng thời hiệu hưởng quyền dân sự cho người quản lý di sản, cụ thể: Sau khi hết thời hiệu tài sản thừa kế sẽ thuộc về người quản lý di sản theo quy định, nếu vẫn còn thời hiệu tòa án vẫn sẽ thụ giải quyết theo quy định. Bạn tham khảo >>> Hướng dẫn thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất;
Khởi kiện khi đã hết thời hiệu, Tòa án có thụ lý?
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Theo quy định tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật dân sự 2015, hậu quả pháp lý khi thời hạn đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. Câu hỏi đặt ra, trong trường hợp đương sự tiến hành khởi kiện khi thời hiệu đã hết thì Tòa án có thụ lý giải quyết không? Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta cần tìm hiểu các quy định liên quan về việc áp dụng thời hiệu tại Bộ luật dân sự 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự 2015, cụ thể như sau: Trước hết, theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”. Ngoài ra, Điều 185 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự 2015. Tại khoản 2 Điều 149 Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định tương tự khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 trong vấn đề áp dụng thời hiệu. Với các quy định nêu trên, về cơ bản tất cả các vụ án đều còn thời hiệu khởi kiện nếu các đương sự không yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu (tức nếu hết thời hiệu khởi kiện nhưng các bên không có yêu cầu tòa án áp dụng thì Tòa vẫn sẽ giải quyết vụ án bình thường). Còn trong trường hợp có một hoặc các bên đương sự trong vụ án yêu cầu áp dụng thời hiệu thì nếu thời hiệu đã hết, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Trước đây, Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định về vấn đề áp dụng thời hiệu như sau: không áp dụng thời hạn khởi kiện khi xem xét thụ lý vụ án mà sau khi thú lý nếu thấy hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, quy định áp dụng thời hiệu tại Bộ luật dân sự 2015 cũng như Bộ luật tố tụng dân sự 2015 là một quy định hoàn toàn mới. Quy định này nhằm hạn chế sự can thiệp của Tòa án, đồng thời ra điều kiện đối với các bên trong việc áp dụng thời hiệu. Theo đó, quy định này không cho phép Tòa án tự viện dẫn các quy định về thời hiệu trong quá trình giải quyết vụ án, mà Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng về thời hiệu của một bên hoặc các bên. Tóm lại, theo quy định hiện hành, việc áp dụng thời hiệu hay không áp dụng là phụ thuộc vào yêu cầu của các bên đương sự, Tòa phải xem xét đương sự có yêu cầu áp dụng hay không thì Tòa mới đưa ra quyết định phù hợp. Thời điểm đưa ra yêu cầu áp dụng thời hiệu Hiện nay, pháp luật chỉ cho phép một bên hoặc các bên viện dẫn quy định về thời hiệu ở giai đoạn tố tụng sơ thẩm với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra “trước khi tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”. Quy định này đã chỉ rõ vấn đề thời hiệu cần được yêu cầu giải quyết tại cấp sơ thẩm. Do đó, nếu tại cấp sơ thẩm mà vấn đề thời hiệu chưa được đặt ra thì tại cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm không được đặt ra nữa. Nói cách khác yêu cầu áp dụng thời hiệu của các bên đương sự chỉ được đưa ra giải quyết ở cấp sơ thẩm; sau khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết bằng bản án, quyết định nếu có yêu cầu áp dụng thời hiệu thì không được chấp nhận. Như vậy, thắc mắc đầu bài viết đã được giải đáp. Theo đó, trường hợp đương sự tiến hành khởi kiện khi thời hiệu đã hết thì đây không phải là căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện mà Tòa án vẫn sẽ thụ ký nếu đủ điều kiện. Tuy nhiên, nếu một bên hoặc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu đã hết thì vụ án sẽ bị đình chỉ giải quyết theo điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, miễn là yêu cầu đó phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Lưu ý: Trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp, pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện không được áp dụng ngay cả khi các bên có yêu cầu. Đó là các trường hợp được quy định cụ thể tại Điều155 Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: 1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. 2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. 3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. 4. Trường hợp khác do luật quy định
Hết thời hiệu khởi kiện, giúp em với
Anh ruột của em năm 4/2016 có cho người thân là dòng họ vay số tiền là 15.000.000đ với lãi suất 1.000.000 là 50.000đ một tháng. Đến nay người vay không trả lãi lẫn nợ gốc luôn. Dù bên anh em cố đòi người vay cứ hẹn đến bây giờ vẫn chưa trả nữa ạ. Anh của em không biết về thời hiệu khởi kiện, đến khi Em có tìm hiểu trên trang wed thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vay tài sản là 3 năm. Đến nay em có còn quyền khởi kiện không? Nếu còn em có đòi lại được nợ gốc lẫn lãi không ạ? Khi vay anh em có làm giấy vay người vay đã ký tên, nhưng anh ấy đã làm mất giấy hiện tại anh ấy làm lại và người vay vẫn ký tên. Cám ơn Luật sư nhiều. Tư vấn giúp em.