Chuyển hồ sơ 10 gói thầu công ty AIC tại tỉnh Bình Thuận sang Cơ quan điều tra
Vừa qua, Chánh thanh tra tỉnh Bình Thuận đã chuyển hồ sơ của 10 trên 11 gói thầu của Sở Giáo dục, Sở Y tế, Bệnh viện tỉnh cho Cơ quan điều tra vì phát hiện có sai phạm nghiêm trọng (1) 3 gói thầu tại Sở Giáo dục và Đào tạo vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng Trong quá trình thanh tra tại Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Thuận, đoàn thanh tra đã phát hiện có 03 gói thầu của công ty AIC có dấu hiệu sai phạm Luật Đấu Thầu. Theo kết luận thanh tra, hồ sơ dự thầu của công ty AIC có một số tiêu chí không đạt nhưng đơn vị tư vấn đấu thầu vẫn chấm đạt, tạo điều kiện cho công ty AIC trúng thầu. Tiếp đó, 03 gói thầu cung cấp thiết bị cho các chủ đầu tư có giá chênh lệch quá cao (giá bị đội lên hơn 100%) so với giá mua đầu vào của công ty AIC, tổng số tiền chênh lệch là hơn 15,4 tỷ đồng (giá trúng thầu là hơn 27,2 tỷ đồng trong khi đó giá nhập khẩu hải quan và mua vào là hơn 11,8 tỷ đồng). Bên cạnh đó, trong quá trình thanh tra, đoàn thanh tra còn phát hiện thêm các thiết bị do công ty AIC cung cấp không đúng theo hợp đồng về model, thông số kỹ thuật, xuất xứ nhưng Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Thuận vẫn ký Biên bản nghiệm thu đưa vào sử dụng. Theo thông tin, các thiết bị bị kiểm tra, đánh giá có xuất xứ Singapore nhưng thực tế thiết bị không ghi nơi xuất xứ hoặc ghi là xuất xứ China. Từ các kết quả thanh tra trên, kết luận 03 gói thầu có dấu hiệu vi phạm Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015: Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. (2) 6 gói thầu tại Sở Y tế có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hình sự Đối với 7 gói thầu tại Sở Y tế, các chủ đầu tư đã đưa ra các điều kiện trong hồ sơ mời thầu làm hạn chế khả năng tham gia của một số nhà thầu, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty AIC trúng thầu. Tương tự với các gói thầu ở Sở Giáo dục và Đào tạo, các gói thầu của công ty AIC tại Sở Y tế có một số tiêu chí không đạt nhưng đơn vị tư vấn đấu thầu vẫn chấm đạt, giúp cho công ty AIC trúng thầu. Theo kết luận thanh tra, 6/7 gói thầu có giá thiết bị cung cấp cho các Chủ đầu tư chênh lệch quá cao so với giá mua vào của Công ty AIC (hơn 80%), với tổng số tiền chênh lệch là 16.667.403.500 đồng (giá trúng thầu là 36.599.799.500 đồng, giá nhập khẩu hải quan là 19.932.396.000 đồng). Trừ gói thầu Hệ thống xử lý chất thải rắn tại Bệnh viện đa khoa khu vực Nam Bình Thuận, tất cả 6/7 gói thầu của công ty AIC tại Sở Y tế đều có dấu hiệu vi phạm Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015: Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. (3) Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Bình Thuận cũng có dấu hiệu sai phạm của 01 gói thầu Đối với Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Bình Thuận, Chủ đầu tư cũng đưa vào hồ sơ mời thầu một số điều kiện hạn chế khả năng dự thầu của các nhà thầu, tạo điều kiện cho công ty AIC trúng thầu. Gói thầu thiết bị Công ty AIC cung cấp cho Bệnh viện với giá trị hơn 12,7 tỷ đồng, trong khi giá đầu vào (chưa có giá tay khoan siêu tốc và tay khoan chậm của Ghế và dụng cụ nha khoa do Công ty AIC không cung cấp được hóa đơn mua vào) chỉ hơn 8,7 tỷ đồng, chênh lệch khoảng 4,01 tỷ đồng, trong đó có 20/36 thiết bị có giá trị tăng 150% - 450%. Do vậy, có dấu hiệu vi phạm Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015: Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. >>> Từ các kết quả thanh tra trên, Chánh Thanh tra tỉnh Bình Thuận chuyển hồ sơ, vụ việc của 10/11 gói thầu có dấu hiệu tội phạm sang Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh để tiếp tục xử lý theo quy định trong việc trao đổi thông tin về tội phạm và giải quyết kiến nghị khởi tố được phát hiện thông qua hoạt động thanh tra. (4) Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng bị xử lý thế nào? Theo quy định tại Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015, tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng được quy định như sau: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm khi gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc gây thiệt hại dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm: - Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu; - Thông thầu - Gian lận trong đấu thầu - Cản trở hoạt động đấu thầu - Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu - Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu - Chuyển nhượng thầu trái phép Ngoài ra, nếu có các dấu hiệu sau đây sẽ bị tăng nặng khung hình phạt thành phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: - Vì vụ lợi - Có tổ chức - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt - Gây thiệt hại từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng Người phạm tội mà gây thiệt hại trên 1 tỷ đồng sẽ bị phạt tù từ 10 đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Hiểu thế nào về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng?
Mỗi khi nhắc đến những vụ án liên quan đến chức vụ thì tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là một trong những tội nổi bật và thường xuyên dẫn đến sai phạm của người có chức vụ, quyền hạn gây ra. Đây cũng là tội gây nên nhiều bức xúc trong dư luận cũng như làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của cơ quan tổ chức quản lý của người phạm tội. Vậy tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định thế nào? 1. Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là gì? Hiện hành về hình sự quy định tại Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 giải thích người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao dẫn đến hậu quả nghiêm trọng được xem là tội gây thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng ở đây có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hay tài sản của người khác. Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng uy tín, gây mất lòng tin,thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức. *Bản chất của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Về mặt khách thể: Tội này xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức Nhà nước, tổ chức xã hội. Về mặt chủ thể: Người có chức vụ, quyền hạn là người phạm tội. Về mặt khách quan: Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao, hậu quả là dấu hiệu để cấu thành tội phạm và gây hậu quả nghiêm trọng. Về mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý hoặc người phạm tội đáng lẽ phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình mang lại nhưng không thấy trước được. Hoặc đã thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. 2. Một số dẫn chứng cụ thể Tội thiếu trách nhiệm xảy ra rất nhiều trong đời sống, nhất là việc thi hành nhiệm vụ hành chính, dân sự nhưng để phân biệt và xác định được đâu mới là tội nghiêm trọng dẫn đến hình sự thì cần dựa theo hậu quả của tội này, sau đây là một số ví dụ: - Hội đồng thẩm phán đã ra bản án kết luận người không có tội dẫn đến việc thi hành quyết định làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người vô tội. - Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành cưỡng chế đấu giá tài sản không có trong kế hoạch. - Cảnh sát được giao nhiệm vụ kiểm soát đoạn đường được yêu cầu kiểm dịch nhưng lại để cho người có bệnh đi qua dẫn đến lây lan dịch bệnh trên diện rộng. - Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố ra quyết định lựa chọn nhà thầu trái pháp luật dẫn đến thất thoát tài sản của nhà nước. - Cơ quan công an được giao nhiệm vụ kiểm tra xử phạt các quán karaoke, quán bar không đủ điều kiện PCCC nhưng đã bỏ qua dẫn đến cháy nổ thiệt hại về người và của. - Cơ quan kiểm lâm không thường xuyên tuần tra và xử lý quyết liệt tội phạm chặt phá rừng dẫn đến xói mòn đất, ảnh hưởng môi trường sống của động thực vật. 3. Mức phạt tù tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Đây là một tội nghiêm trọng và ảnh hưởng rất nhiều đến tài sản, uy tín, danh dự và sự đúng đắn của cơ quan, tổ chức thuộc nhà nước và dẫn đến quyền lợi của người bị ảnh hưởng vì thế căn cứ Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định như sau: Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; hoặc phạt tù từ 06 tháng - 05 năm. - Làm chết người. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% - 121%. - Gây thiệt hại về tài sản từ 100 - dưới 500 triệu đồng. Khung 2: Phạt tù từ 03 - 07 năm. - Làm chết 02 người. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% - 200%. - Gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu - dưới 1,5 tỷ đồng. Khung 3: Phạt tù từ 07 - 12 năm. - Làm chết 03 người trở lên. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên. - Gây thiệt hại về tài sản trở lên. Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm - 05 năm. Như vậy, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là tội dẫn đến hậu quả nghiêm trọng thường là do người có thẩm quyền gây ra. Trong trường hợp nghiêm trọng nhất có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt đến 12 năm tù giam.
Rút kinh nghiệm vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Cao Sơn N cùng đồng phạm, phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nhận thấy một số vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: 1. Tóm tắt vụ án Ngày 18/11/2003, UBND huyện T quyết định thành lập Ban Quản lý dự án Đầu tư và xây dựng công trình huyện T, có con dấu và tài khoản riêng. Trong đó: - Cao Sơn N được bổ nhiệm làm Trưởng ban, - Dương Thị T.H làm Kế toán trưởng, - Nguyễn Thiên D làm Phó trưởng ban - Đỗ Tú T làm cán bộ kỹ thuật kiêm thủ quỹ. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, các đối tượng trên đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng. Gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng và cổ ý làm trái chi sai số tiền 3.123.581.697 đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý. 2. Bản án sơ thẩm Ngày 28/5/2019, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST, TAND tỉnh N áp dụng khoản 3, Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt đối với các bị cáo như sau: - Cao Sơn N 06 năm tù. - Dương Thị T.H 04 năm tù. - Nguyễn Thiên D 03 năm tù. - Đỗ Tú T 02 năm tù cùng. Về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Sau đó, các bị cáo kháng cáo kêu oan trong hạn luật định. 3. Bản án phúc thẩm Ngày 15/9/2020, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 532/2020/HSPT, TAND cấp cao tại TP. M chấp nhận một phần đơn kháng cáo của các bị cáo. Sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm, áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999, miễn trách nhiệm hình sự đối với Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T. Ngày 09/9/2021, Viện trưởng VKSNDTC quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Ngày 04/10/2022, Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận Kháng nghị của VKSNDTC, hủy Bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao TP. M, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh N đối với các bị cáo nêu trên. 4. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm (1) Sai phạm của các bị cáo Lợi dụng nhiệm vụ được giao các bị cáo đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng, cụ thể: - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 500 triệu đồng cho Công ty D: Ngày 22/01/2009, Cty D được Cao Sơn N chi tạm ứng số tiền 500 triệu đồng (nguồn tiền ngân sách của UBND huyện) để thi công công trình đường 797 là không đúng đối tượng, đúng nội dung thanh toán. Ngày 30/5/2009 công trình đường 797 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đến ngày 27/11/2009, BQLDA đã thanh toán 4 lần tổng số tiền 4.369.658.000 đồng nhưng N và đồng phạm không thu hồi tiền tạm ứng theo phụ lục hợp đồng là vi phạm phụ lục. Trong năm 2012, 2013, UBND huyện T đã 06 lần yêu cầu N và đồng phạm thu hồi số tiền tạm ứng này nhưng đến sau khi khởi tố vụ án hơn 03 tháng, Cty D mới nộp trả số tiền trên vào ngày 10/11/2015. Như vậy, các bị cáo cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về chi tạm ứng gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước số tiền 500 triệu đồng trong thời gian từ ngày 01/01/2010 - ngày 03/8/2015 (Điểm 1, Phần I Thông tư số 108/2008/TT-BTC, ngày 18/11/2018 của Bộ Tài chính “Thời hạn chi, tạm ứng ngân sách kể cả tạm ứng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với các nhiệm vụ được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm được thực hiện chậm nhất đến ngày 31/12”). Ngoài việc gây thiệt hại số tiền này, các bị cáo còn gây thiệt hại cho Nhà nước bằng tiền lãi của số tiền 500 triệu đồng là 247.410.956 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 02 tỷ đồng cho Cty P: Cty P chưa phải đối tượng nhận thầu, UBND huyện T không đề nghị tạm ứng tiền thi công 03 công trình, nhưng ngày 10/11/2010 N và đồng phạm đã chi 02 tỷ đồng tạm ứng cho Công ty Hiệp phát (là cty gia đình của Nguyễn Thiên D). Đến ngày 27/12/2010 Cty P mới được chỉ định và ký 03 hợp đồng xây dựng với Ban QLDA về việc thi công các hạng mục, mua sắm thiết bị 03 công trình phát sinh tại trụ sở UBND huyện T. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bị cáo lại tiếp tục chi 50% tạm ứng giá trị hợp đồng cho Cty P số tiền 1.089.000.000 đồng, tổng cộng N và đồng phạm đã chi tạm ứng cho Cty P là 3.089.000.000 đồng, trong khi giá trị thi công chỉ là 2.179.670.000 đồng. Ngày 17/01/2011, Ban QLDA đà thanh toán khối lượng 03 công trình cho Cty P đều đạt 90% tổng giá trị công trình nhưng các bị cáo chỉ thu hồi được 1.089.000.000 đồng. Khi các công trình này được phê duyệt quyết toán xong toàn bộ giá trị 03 công trình vào ngày 19/9/2013 thì số tiền 02 tỷ đồng vẫn không được thu hồi. Sau 07 lần yêu cầu, ngày 07/8/2014, Cty P mới nộp hoàn trả 02 tỷ đồng. Như vậy các bị cáo đã cố ý chi sai cho Cty P dẫn đến không thu hồi được tiền tạm ứng trong thời gian 03 năm 09 tháng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước sách Nhà nước 02 tỷ đồng cùng số tiền lãi là 648.493.151 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 5,5 tỷ đồng cho Cty H: Công trình trụ sở Huyện ủy UBND huyện T và Trường THCS V do Ban QLDA ký thuê nhà thầu nhận thi công và ký hợp đồng xây dựng với Cty cổ phần phát triển đô thị N. Theo Hợp đồng xây dựng năm 2007 giá trị thi công công trình là 19.238.179.000 đồng, thời gian hoàn thành là ngày 31/12/2010 và Hợp đồng số 11 ngày 09/6/2009 giá trị thi công công trình là 9.212.209.000 đồng, thời gian hoàn thành vào ngày 31/12/2010. Hợp đồng còn quy định rất chi tiết, cụ thể về nghĩa vụ các bên khi thực hiện hợp đồng này như nội dung vấn đề hoàn ứng: theo nội dung tạm ứng tại Điều 8 Hợp đồng số 76 và Điều 9 Hợp đồng số 11 có nội dung “Bên A (Ban QLDA) sẽ tạm ứng cho Bên B”, và quy định về việc thu hồi tạm ứng này rất cụ thể: “vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán, việc thu hồi vốn tạm ứng được bắt đầu ngay khi thanh toán lần đầu và kết thúc khi khối lượng đã thanh toán đạt 80% giá trị hợp đồng”. Trên cơ sở hai hợp đồng này, Công ty N đã ký 02 hợp đồng thi công với ông D cũng là Đội trưởng Đội thi công của Cty N, giữa ông D và Cty N không có bất kỳ thỏa thuận nào ủy quyền cho ông D được đề nghị tạm ứng tiền thi công hai công trình nêu trên. Do D nợ tiền mua vật liệu của Cty P.H và N muốn thu hồi tiền nợ cho Cty P.H (công ty gia đình của N) nên N đã lập các tờ trình xin UBND huyện tạm ứng tiền thi công 02 công trình nêu trên. Cụ thể - Ngày 09/12/2010, UBND huyện đã chi 3 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA. - Ngày 03/3/2011, UBND huyện chi 2,5 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA để chi thi công công trình trụ sở UBND huyện T. Sau khi có tiền trong tài khoản của Ban QLDA, N và H không thông báo để Cty N xin tạm ứng mà hướng dẫn D lập lại 02 hợp đồng mua bán vật tư khống giữa D và Cty P.H để D làm đề nghị tạm ứng để có tiền trả nợ cho Cty P.H. S và H đã ký ủy nhiệm chi, tiền tạm ứng được chuyển trực tiếp vào tài khoản của Cty P.H, trong khi Cty P.H không có ký kết hợp đồng xây dựng với Ban QLDA, việc chi này là hoàn toàn sai đối tượng, sai mục đích sử dụng. Việc thanh toán khối lượng thi công công trình trụ sở UBND huyện: Từ ngày 31/12/2007 - tháng 26/7/2010, Cty N đã được Ban QLDA thanh toán 08 lần tổng số tiền 16.809.209.600 đồng đạt hơn 84% tổng giá trị khối lượng công trình trụ sở UBND huyện theo nguyên tắc và cam kết trong hợp đồng là phải thu hồi 08 tỷ tiền tạm ứng theo từng lần thanh toán giai đoạn ngay từ lần thanh toán đầu tiên. Đến ngày 26/7/2010, công trình trụ sở UBND huyện hết khối lượng thanh toán nhưng vẫn không được nghiệm thu thanh toán 4,2 tỷ vì các bị cáo không hoàn ứng số tiền 04 tỷ đồng cho Ngân sách. Các bị cáo cố tình không thu hồi gây thiệt hại cho ngân sách số tiền 4 tỷ đồng. Ngày 31/12/2011, công trình Trường THCS V đã gần hoàn thành nhưng không thu hồi số tiền tạm ứng 1,5 tỷ đồng gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước số tiền này. Từ việc không thu hồi được số tiền 5,5 tỷ đồng, ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại tiền lãi suất của số tiền này là: tiền lãi của 3 tỷ đồng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 03/8/2015 là 1.239.780.822 đồng; tiền lãi của 2,5 tỷ từ ngày 01/01/2012 đến ngày 03/8/2015 là 808.150.685 đồng. Cty P và Cty P.H đều không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để nhận 02 khoản tiền trên (02 tỷ và 5,5 tỷ đồng) nhưng từ khi chuyển tiền đến thời điểm hiện tại, không có tài liệu nào thể hiện các bị cáo tiến hành thu hồi, đòi trả về cho UBND huyện. Trong khi UBND huyện có 07 văn bản liên tục (từ năm 2012 đến năm 2013) yêu cầu thu hồi đều không có kết quả. Từ hành vi làm trái chi tiền sai đối tượng, sử dụng sai mục đích, không đúng nội dung tạm ứng dẫn đến hậu quả gần 07 năm mới khắc phục được 5,5 tỷ đồng từ các nguồn khác nhau như: - Quyết toán trụ sở huyện ủy - ủy ban được 4.207.094.083 đồng, còn lại 1.292.905.917 đồng Ban QLDA kế nhiệm phải đi xin và luân chuyển từ các nguồn khác. - Còn đối tượng nhận tiền sai quy định là Cty P.H - Cty gia đình của bị cáo N lại không trả. (2) Cố ý làm trái chi sai số tiền 3 tỷ đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý: Từ 18/6/2006 - 04/2/2012, các bị cáo Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T lập 33 phiếu rút tiền mặt tổng cộng 4.043.633.000 đồng tiền tạm giữ bảo hành của 75 công trình xây dựng trên địa bàn huyện sau đó cho Lâm Tấn D mượn 3.973.295.000 đồng không có chứng từ, thủ tục theo quy định. Trong khi ông D không ký hợp đồng xây dựng với Ban QLDA và không được ủy quyền từ các đơn vị thi công để nhận tiền. Đến khi vụ án khởi tố, Lâm Tấn D mới trả được 849.713.303 đồng, Ban ALDA vẫn chưa thu hồi 3.123.581.697 đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước 3.123.581.697 đồng. Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo là cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây thiệt hại cho Ngân sách số tiền 14.067.420.311 đồng, nhưng bản án phúc thẩm lại cho rằng hành vi trên của các bị cáo có dấu hiệu tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Việc thu hồi tiền tạm ứng ảnh hưởng đến việc điều tiết khoản chi ngân sách huyện cho hoạt động chung, khoản tiền 08 tỷ đồng tạm ứng để thi công các hạng mục công trình đà được thu hồi, không có thiệt hại số tiền trên. Ban quản lý dự án xác định số tiền tạm giữ bảo hành công trình đã được thanh toán cho đơn vị thi công, đơn vị thi công không có khiếu nại gì với Ban quản lý về số tiền bảo hành công trình chậm thanh toán. Các hạng mục công trình vẫn đảm bảo chất lượng, đã đưa vào sử dụng, hậu quả thiệt hại không xảy ra, tính chất nguy hiểm của hành vi không còn nên áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 để miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật. Vì các bị cáo cố ý phạm tội vì lợi ích của cty gia đình nhưng bản án phúc thẩm cho rằng các bị cáo phạm tội với lỗi vô ý để chuyển tội danh, hậu quả vật chất đã xảy ra và tội phạm đã hoàn thành, việc khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ chứ không phải thiệt hại chưa xảy ra như bản án phúc thẩm nhận định đề từ đó miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại TP M kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo phạm tội là không có căn cứ và cho rằng các bị cáo có dấu hiệu của tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chuyển từ tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trong” sang tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và đề nghị miễn hình phạt đối với tất cả các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật nên cần phải rút kinh nghiệm. VKSNDTC thông báo để các đơn vị cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong toàn ngành.
Chuyển hồ sơ 10 gói thầu công ty AIC tại tỉnh Bình Thuận sang Cơ quan điều tra
Vừa qua, Chánh thanh tra tỉnh Bình Thuận đã chuyển hồ sơ của 10 trên 11 gói thầu của Sở Giáo dục, Sở Y tế, Bệnh viện tỉnh cho Cơ quan điều tra vì phát hiện có sai phạm nghiêm trọng (1) 3 gói thầu tại Sở Giáo dục và Đào tạo vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng Trong quá trình thanh tra tại Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Thuận, đoàn thanh tra đã phát hiện có 03 gói thầu của công ty AIC có dấu hiệu sai phạm Luật Đấu Thầu. Theo kết luận thanh tra, hồ sơ dự thầu của công ty AIC có một số tiêu chí không đạt nhưng đơn vị tư vấn đấu thầu vẫn chấm đạt, tạo điều kiện cho công ty AIC trúng thầu. Tiếp đó, 03 gói thầu cung cấp thiết bị cho các chủ đầu tư có giá chênh lệch quá cao (giá bị đội lên hơn 100%) so với giá mua đầu vào của công ty AIC, tổng số tiền chênh lệch là hơn 15,4 tỷ đồng (giá trúng thầu là hơn 27,2 tỷ đồng trong khi đó giá nhập khẩu hải quan và mua vào là hơn 11,8 tỷ đồng). Bên cạnh đó, trong quá trình thanh tra, đoàn thanh tra còn phát hiện thêm các thiết bị do công ty AIC cung cấp không đúng theo hợp đồng về model, thông số kỹ thuật, xuất xứ nhưng Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Thuận vẫn ký Biên bản nghiệm thu đưa vào sử dụng. Theo thông tin, các thiết bị bị kiểm tra, đánh giá có xuất xứ Singapore nhưng thực tế thiết bị không ghi nơi xuất xứ hoặc ghi là xuất xứ China. Từ các kết quả thanh tra trên, kết luận 03 gói thầu có dấu hiệu vi phạm Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015: Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. (2) 6 gói thầu tại Sở Y tế có dấu hiệu vi phạm pháp luật Hình sự Đối với 7 gói thầu tại Sở Y tế, các chủ đầu tư đã đưa ra các điều kiện trong hồ sơ mời thầu làm hạn chế khả năng tham gia của một số nhà thầu, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty AIC trúng thầu. Tương tự với các gói thầu ở Sở Giáo dục và Đào tạo, các gói thầu của công ty AIC tại Sở Y tế có một số tiêu chí không đạt nhưng đơn vị tư vấn đấu thầu vẫn chấm đạt, giúp cho công ty AIC trúng thầu. Theo kết luận thanh tra, 6/7 gói thầu có giá thiết bị cung cấp cho các Chủ đầu tư chênh lệch quá cao so với giá mua vào của Công ty AIC (hơn 80%), với tổng số tiền chênh lệch là 16.667.403.500 đồng (giá trúng thầu là 36.599.799.500 đồng, giá nhập khẩu hải quan là 19.932.396.000 đồng). Trừ gói thầu Hệ thống xử lý chất thải rắn tại Bệnh viện đa khoa khu vực Nam Bình Thuận, tất cả 6/7 gói thầu của công ty AIC tại Sở Y tế đều có dấu hiệu vi phạm Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015: Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. (3) Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Bình Thuận cũng có dấu hiệu sai phạm của 01 gói thầu Đối với Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Bình Thuận, Chủ đầu tư cũng đưa vào hồ sơ mời thầu một số điều kiện hạn chế khả năng dự thầu của các nhà thầu, tạo điều kiện cho công ty AIC trúng thầu. Gói thầu thiết bị Công ty AIC cung cấp cho Bệnh viện với giá trị hơn 12,7 tỷ đồng, trong khi giá đầu vào (chưa có giá tay khoan siêu tốc và tay khoan chậm của Ghế và dụng cụ nha khoa do Công ty AIC không cung cấp được hóa đơn mua vào) chỉ hơn 8,7 tỷ đồng, chênh lệch khoảng 4,01 tỷ đồng, trong đó có 20/36 thiết bị có giá trị tăng 150% - 450%. Do vậy, có dấu hiệu vi phạm Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015: Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. >>> Từ các kết quả thanh tra trên, Chánh Thanh tra tỉnh Bình Thuận chuyển hồ sơ, vụ việc của 10/11 gói thầu có dấu hiệu tội phạm sang Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh để tiếp tục xử lý theo quy định trong việc trao đổi thông tin về tội phạm và giải quyết kiến nghị khởi tố được phát hiện thông qua hoạt động thanh tra. (4) Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng bị xử lý thế nào? Theo quy định tại Điều 222 Bộ Luật hình sự năm 2015, tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng được quy định như sau: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm khi gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng hoặc gây thiệt hại dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm: - Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu; - Thông thầu - Gian lận trong đấu thầu - Cản trở hoạt động đấu thầu - Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu - Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu - Chuyển nhượng thầu trái phép Ngoài ra, nếu có các dấu hiệu sau đây sẽ bị tăng nặng khung hình phạt thành phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: - Vì vụ lợi - Có tổ chức - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn - Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt - Gây thiệt hại từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng Người phạm tội mà gây thiệt hại trên 1 tỷ đồng sẽ bị phạt tù từ 10 đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Hiểu thế nào về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng?
Mỗi khi nhắc đến những vụ án liên quan đến chức vụ thì tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là một trong những tội nổi bật và thường xuyên dẫn đến sai phạm của người có chức vụ, quyền hạn gây ra. Đây cũng là tội gây nên nhiều bức xúc trong dư luận cũng như làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của cơ quan tổ chức quản lý của người phạm tội. Vậy tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định thế nào? 1. Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là gì? Hiện hành về hình sự quy định tại Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 giải thích người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao dẫn đến hậu quả nghiêm trọng được xem là tội gây thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng ở đây có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hay tài sản của người khác. Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng uy tín, gây mất lòng tin,thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức. *Bản chất của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Về mặt khách thể: Tội này xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức Nhà nước, tổ chức xã hội. Về mặt chủ thể: Người có chức vụ, quyền hạn là người phạm tội. Về mặt khách quan: Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao, hậu quả là dấu hiệu để cấu thành tội phạm và gây hậu quả nghiêm trọng. Về mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý hoặc người phạm tội đáng lẽ phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình mang lại nhưng không thấy trước được. Hoặc đã thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. 2. Một số dẫn chứng cụ thể Tội thiếu trách nhiệm xảy ra rất nhiều trong đời sống, nhất là việc thi hành nhiệm vụ hành chính, dân sự nhưng để phân biệt và xác định được đâu mới là tội nghiêm trọng dẫn đến hình sự thì cần dựa theo hậu quả của tội này, sau đây là một số ví dụ: - Hội đồng thẩm phán đã ra bản án kết luận người không có tội dẫn đến việc thi hành quyết định làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người vô tội. - Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành cưỡng chế đấu giá tài sản không có trong kế hoạch. - Cảnh sát được giao nhiệm vụ kiểm soát đoạn đường được yêu cầu kiểm dịch nhưng lại để cho người có bệnh đi qua dẫn đến lây lan dịch bệnh trên diện rộng. - Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố ra quyết định lựa chọn nhà thầu trái pháp luật dẫn đến thất thoát tài sản của nhà nước. - Cơ quan công an được giao nhiệm vụ kiểm tra xử phạt các quán karaoke, quán bar không đủ điều kiện PCCC nhưng đã bỏ qua dẫn đến cháy nổ thiệt hại về người và của. - Cơ quan kiểm lâm không thường xuyên tuần tra và xử lý quyết liệt tội phạm chặt phá rừng dẫn đến xói mòn đất, ảnh hưởng môi trường sống của động thực vật. 3. Mức phạt tù tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng Đây là một tội nghiêm trọng và ảnh hưởng rất nhiều đến tài sản, uy tín, danh dự và sự đúng đắn của cơ quan, tổ chức thuộc nhà nước và dẫn đến quyền lợi của người bị ảnh hưởng vì thế căn cứ Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định như sau: Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; hoặc phạt tù từ 06 tháng - 05 năm. - Làm chết người. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% - 121%. - Gây thiệt hại về tài sản từ 100 - dưới 500 triệu đồng. Khung 2: Phạt tù từ 03 - 07 năm. - Làm chết 02 người. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% - 200%. - Gây thiệt hại về tài sản từ 500 triệu - dưới 1,5 tỷ đồng. Khung 3: Phạt tù từ 07 - 12 năm. - Làm chết 03 người trở lên. - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên. - Gây thiệt hại về tài sản trở lên. Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm - 05 năm. Như vậy, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là tội dẫn đến hậu quả nghiêm trọng thường là do người có thẩm quyền gây ra. Trong trường hợp nghiêm trọng nhất có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt đến 12 năm tù giam.
Rút kinh nghiệm vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Cao Sơn N cùng đồng phạm, phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nhận thấy một số vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: 1. Tóm tắt vụ án Ngày 18/11/2003, UBND huyện T quyết định thành lập Ban Quản lý dự án Đầu tư và xây dựng công trình huyện T, có con dấu và tài khoản riêng. Trong đó: - Cao Sơn N được bổ nhiệm làm Trưởng ban, - Dương Thị T.H làm Kế toán trưởng, - Nguyễn Thiên D làm Phó trưởng ban - Đỗ Tú T làm cán bộ kỹ thuật kiêm thủ quỹ. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, các đối tượng trên đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng. Gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng và cổ ý làm trái chi sai số tiền 3.123.581.697 đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý. 2. Bản án sơ thẩm Ngày 28/5/2019, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST, TAND tỉnh N áp dụng khoản 3, Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt đối với các bị cáo như sau: - Cao Sơn N 06 năm tù. - Dương Thị T.H 04 năm tù. - Nguyễn Thiên D 03 năm tù. - Đỗ Tú T 02 năm tù cùng. Về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Sau đó, các bị cáo kháng cáo kêu oan trong hạn luật định. 3. Bản án phúc thẩm Ngày 15/9/2020, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 532/2020/HSPT, TAND cấp cao tại TP. M chấp nhận một phần đơn kháng cáo của các bị cáo. Sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm, áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999, miễn trách nhiệm hình sự đối với Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T. Ngày 09/9/2021, Viện trưởng VKSNDTC quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Ngày 04/10/2022, Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận Kháng nghị của VKSNDTC, hủy Bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao TP. M, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh N đối với các bị cáo nêu trên. 4. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm (1) Sai phạm của các bị cáo Lợi dụng nhiệm vụ được giao các bị cáo đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng, cụ thể: - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 500 triệu đồng cho Công ty D: Ngày 22/01/2009, Cty D được Cao Sơn N chi tạm ứng số tiền 500 triệu đồng (nguồn tiền ngân sách của UBND huyện) để thi công công trình đường 797 là không đúng đối tượng, đúng nội dung thanh toán. Ngày 30/5/2009 công trình đường 797 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đến ngày 27/11/2009, BQLDA đã thanh toán 4 lần tổng số tiền 4.369.658.000 đồng nhưng N và đồng phạm không thu hồi tiền tạm ứng theo phụ lục hợp đồng là vi phạm phụ lục. Trong năm 2012, 2013, UBND huyện T đã 06 lần yêu cầu N và đồng phạm thu hồi số tiền tạm ứng này nhưng đến sau khi khởi tố vụ án hơn 03 tháng, Cty D mới nộp trả số tiền trên vào ngày 10/11/2015. Như vậy, các bị cáo cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về chi tạm ứng gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước số tiền 500 triệu đồng trong thời gian từ ngày 01/01/2010 - ngày 03/8/2015 (Điểm 1, Phần I Thông tư số 108/2008/TT-BTC, ngày 18/11/2018 của Bộ Tài chính “Thời hạn chi, tạm ứng ngân sách kể cả tạm ứng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với các nhiệm vụ được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm được thực hiện chậm nhất đến ngày 31/12”). Ngoài việc gây thiệt hại số tiền này, các bị cáo còn gây thiệt hại cho Nhà nước bằng tiền lãi của số tiền 500 triệu đồng là 247.410.956 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 02 tỷ đồng cho Cty P: Cty P chưa phải đối tượng nhận thầu, UBND huyện T không đề nghị tạm ứng tiền thi công 03 công trình, nhưng ngày 10/11/2010 N và đồng phạm đã chi 02 tỷ đồng tạm ứng cho Công ty Hiệp phát (là cty gia đình của Nguyễn Thiên D). Đến ngày 27/12/2010 Cty P mới được chỉ định và ký 03 hợp đồng xây dựng với Ban QLDA về việc thi công các hạng mục, mua sắm thiết bị 03 công trình phát sinh tại trụ sở UBND huyện T. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bị cáo lại tiếp tục chi 50% tạm ứng giá trị hợp đồng cho Cty P số tiền 1.089.000.000 đồng, tổng cộng N và đồng phạm đã chi tạm ứng cho Cty P là 3.089.000.000 đồng, trong khi giá trị thi công chỉ là 2.179.670.000 đồng. Ngày 17/01/2011, Ban QLDA đà thanh toán khối lượng 03 công trình cho Cty P đều đạt 90% tổng giá trị công trình nhưng các bị cáo chỉ thu hồi được 1.089.000.000 đồng. Khi các công trình này được phê duyệt quyết toán xong toàn bộ giá trị 03 công trình vào ngày 19/9/2013 thì số tiền 02 tỷ đồng vẫn không được thu hồi. Sau 07 lần yêu cầu, ngày 07/8/2014, Cty P mới nộp hoàn trả 02 tỷ đồng. Như vậy các bị cáo đã cố ý chi sai cho Cty P dẫn đến không thu hồi được tiền tạm ứng trong thời gian 03 năm 09 tháng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước sách Nhà nước 02 tỷ đồng cùng số tiền lãi là 648.493.151 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 5,5 tỷ đồng cho Cty H: Công trình trụ sở Huyện ủy UBND huyện T và Trường THCS V do Ban QLDA ký thuê nhà thầu nhận thi công và ký hợp đồng xây dựng với Cty cổ phần phát triển đô thị N. Theo Hợp đồng xây dựng năm 2007 giá trị thi công công trình là 19.238.179.000 đồng, thời gian hoàn thành là ngày 31/12/2010 và Hợp đồng số 11 ngày 09/6/2009 giá trị thi công công trình là 9.212.209.000 đồng, thời gian hoàn thành vào ngày 31/12/2010. Hợp đồng còn quy định rất chi tiết, cụ thể về nghĩa vụ các bên khi thực hiện hợp đồng này như nội dung vấn đề hoàn ứng: theo nội dung tạm ứng tại Điều 8 Hợp đồng số 76 và Điều 9 Hợp đồng số 11 có nội dung “Bên A (Ban QLDA) sẽ tạm ứng cho Bên B”, và quy định về việc thu hồi tạm ứng này rất cụ thể: “vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán, việc thu hồi vốn tạm ứng được bắt đầu ngay khi thanh toán lần đầu và kết thúc khi khối lượng đã thanh toán đạt 80% giá trị hợp đồng”. Trên cơ sở hai hợp đồng này, Công ty N đã ký 02 hợp đồng thi công với ông D cũng là Đội trưởng Đội thi công của Cty N, giữa ông D và Cty N không có bất kỳ thỏa thuận nào ủy quyền cho ông D được đề nghị tạm ứng tiền thi công hai công trình nêu trên. Do D nợ tiền mua vật liệu của Cty P.H và N muốn thu hồi tiền nợ cho Cty P.H (công ty gia đình của N) nên N đã lập các tờ trình xin UBND huyện tạm ứng tiền thi công 02 công trình nêu trên. Cụ thể - Ngày 09/12/2010, UBND huyện đã chi 3 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA. - Ngày 03/3/2011, UBND huyện chi 2,5 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA để chi thi công công trình trụ sở UBND huyện T. Sau khi có tiền trong tài khoản của Ban QLDA, N và H không thông báo để Cty N xin tạm ứng mà hướng dẫn D lập lại 02 hợp đồng mua bán vật tư khống giữa D và Cty P.H để D làm đề nghị tạm ứng để có tiền trả nợ cho Cty P.H. S và H đã ký ủy nhiệm chi, tiền tạm ứng được chuyển trực tiếp vào tài khoản của Cty P.H, trong khi Cty P.H không có ký kết hợp đồng xây dựng với Ban QLDA, việc chi này là hoàn toàn sai đối tượng, sai mục đích sử dụng. Việc thanh toán khối lượng thi công công trình trụ sở UBND huyện: Từ ngày 31/12/2007 - tháng 26/7/2010, Cty N đã được Ban QLDA thanh toán 08 lần tổng số tiền 16.809.209.600 đồng đạt hơn 84% tổng giá trị khối lượng công trình trụ sở UBND huyện theo nguyên tắc và cam kết trong hợp đồng là phải thu hồi 08 tỷ tiền tạm ứng theo từng lần thanh toán giai đoạn ngay từ lần thanh toán đầu tiên. Đến ngày 26/7/2010, công trình trụ sở UBND huyện hết khối lượng thanh toán nhưng vẫn không được nghiệm thu thanh toán 4,2 tỷ vì các bị cáo không hoàn ứng số tiền 04 tỷ đồng cho Ngân sách. Các bị cáo cố tình không thu hồi gây thiệt hại cho ngân sách số tiền 4 tỷ đồng. Ngày 31/12/2011, công trình Trường THCS V đã gần hoàn thành nhưng không thu hồi số tiền tạm ứng 1,5 tỷ đồng gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước số tiền này. Từ việc không thu hồi được số tiền 5,5 tỷ đồng, ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại tiền lãi suất của số tiền này là: tiền lãi của 3 tỷ đồng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 03/8/2015 là 1.239.780.822 đồng; tiền lãi của 2,5 tỷ từ ngày 01/01/2012 đến ngày 03/8/2015 là 808.150.685 đồng. Cty P và Cty P.H đều không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để nhận 02 khoản tiền trên (02 tỷ và 5,5 tỷ đồng) nhưng từ khi chuyển tiền đến thời điểm hiện tại, không có tài liệu nào thể hiện các bị cáo tiến hành thu hồi, đòi trả về cho UBND huyện. Trong khi UBND huyện có 07 văn bản liên tục (từ năm 2012 đến năm 2013) yêu cầu thu hồi đều không có kết quả. Từ hành vi làm trái chi tiền sai đối tượng, sử dụng sai mục đích, không đúng nội dung tạm ứng dẫn đến hậu quả gần 07 năm mới khắc phục được 5,5 tỷ đồng từ các nguồn khác nhau như: - Quyết toán trụ sở huyện ủy - ủy ban được 4.207.094.083 đồng, còn lại 1.292.905.917 đồng Ban QLDA kế nhiệm phải đi xin và luân chuyển từ các nguồn khác. - Còn đối tượng nhận tiền sai quy định là Cty P.H - Cty gia đình của bị cáo N lại không trả. (2) Cố ý làm trái chi sai số tiền 3 tỷ đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý: Từ 18/6/2006 - 04/2/2012, các bị cáo Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T lập 33 phiếu rút tiền mặt tổng cộng 4.043.633.000 đồng tiền tạm giữ bảo hành của 75 công trình xây dựng trên địa bàn huyện sau đó cho Lâm Tấn D mượn 3.973.295.000 đồng không có chứng từ, thủ tục theo quy định. Trong khi ông D không ký hợp đồng xây dựng với Ban QLDA và không được ủy quyền từ các đơn vị thi công để nhận tiền. Đến khi vụ án khởi tố, Lâm Tấn D mới trả được 849.713.303 đồng, Ban ALDA vẫn chưa thu hồi 3.123.581.697 đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước 3.123.581.697 đồng. Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo là cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây thiệt hại cho Ngân sách số tiền 14.067.420.311 đồng, nhưng bản án phúc thẩm lại cho rằng hành vi trên của các bị cáo có dấu hiệu tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Việc thu hồi tiền tạm ứng ảnh hưởng đến việc điều tiết khoản chi ngân sách huyện cho hoạt động chung, khoản tiền 08 tỷ đồng tạm ứng để thi công các hạng mục công trình đà được thu hồi, không có thiệt hại số tiền trên. Ban quản lý dự án xác định số tiền tạm giữ bảo hành công trình đã được thanh toán cho đơn vị thi công, đơn vị thi công không có khiếu nại gì với Ban quản lý về số tiền bảo hành công trình chậm thanh toán. Các hạng mục công trình vẫn đảm bảo chất lượng, đã đưa vào sử dụng, hậu quả thiệt hại không xảy ra, tính chất nguy hiểm của hành vi không còn nên áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 để miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật. Vì các bị cáo cố ý phạm tội vì lợi ích của cty gia đình nhưng bản án phúc thẩm cho rằng các bị cáo phạm tội với lỗi vô ý để chuyển tội danh, hậu quả vật chất đã xảy ra và tội phạm đã hoàn thành, việc khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ chứ không phải thiệt hại chưa xảy ra như bản án phúc thẩm nhận định đề từ đó miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại TP M kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo phạm tội là không có căn cứ và cho rằng các bị cáo có dấu hiệu của tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chuyển từ tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trong” sang tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và đề nghị miễn hình phạt đối với tất cả các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật nên cần phải rút kinh nghiệm. VKSNDTC thông báo để các đơn vị cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong toàn ngành.