Thái Lan thông qua Luật công nhận Hôn nhân đồng giới, Người Việt sang Thái kết hôn được không?
Mới đây, Quốc vương Thái Lan đã phê chuẩn Luật Hôn nhân mới của nước ngày. Vậy người Việt Nam có thể sang Thái Lan để kết hôn đồng giới được không? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau. (1) Thái Lan thông qua Luật công nhận Hôn nhân đồng giới? Theo Công báo của Hoàng gia Thái Lan, ngày 24/9/2024, Quốc vương Vajiralongkorn đã phê chuẩn Luật hôn nhân mới, tại đây đã thừa nhận hôn nhân đồng giới. Cụ thể, Đạo luật nêu trên được Quốc hội Thái Lan thông qua vào tháng 6/2024, dự kiến có hiệu lực 120 ngày sau khi Quốc vương Thái Lan Maha Vajiralongkorn phê chuẩn, tức 01/2025. Theo đó, Quyết định trên đã đưa Thái Lan trở thành quốc gia Châu Á thứ hai thừa nhận hôn nhân đồng giới sau Nepal. Cụ thể, Luật hôn nhân mới của Thái Lan sử dụng các thuật ngữ trung lập về giới tính thay cho “nam, nữ, chồng, vợ”. Đồng thời, cũng cấp quyền nhận con nuôi và thừa kế cho các cặp đồng giới. (2) Người Việt sang Thái kết hôn đồng giới được không? Căn cứ Điều 34 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài như sau: - Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài được ghi vào Sổ hộ tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp ứng đủ điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. - Nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc kết hôn không đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng vào thời điểm yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc phục hoặc việc ghi chú kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em, thì việc kết hôn cũng được ghi vào Sổ hộ tịch. Như vậy, việc kết hôn đồng giới ở một số nước đã công nhận và các cá nhân vẫn có thể đăng ký kết hôn tại các quốc gia đã công nhận việc này. (3) Pháp luật Việt Nam có công nhận quyết định kết hôn đồng giới của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không? Căn cứ khoản 8 Điều 439 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định về những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam như sau: “Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam ... 8. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Từ dẫn chiếu quy định nêu trên, có thể thấy, trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì bản án, quyết định này sẽ không được công nhận. Theo đó, quyết định kết hôn thuộc đối tượng được xem xét công nhận tại Việt Nam nhưng đối với trường hợp là kết hôn đồng giới thì sẽ không được pháp luật Việt Nam công nhận. (4) Người chuyển đổi giới tính có được kết hôn tại Việt Nam không? Trước tiên, như đã có nêu trên thì pháp luật hiện hành không công nhận quan hệ hôn nhân giữa những người đồng giới. Đồng thời, một trong những điều kiện kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 là được thực hiện bởi 1 người nam và 1 người nữ. Theo đó, để được pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân, việc kết hôn phải được thực hiện giữa hai người nam và nữ đồng thời phải đáp ứng các điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, tại Điều 37 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định người đã thực hiện chuyển đổi giới tính có các quyền sau đây: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.” Tuy nhiên, tại đây cũng cần lưu ý là đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có quy định cụ thể nào được ban hành để hướng dẫn thực hiện quy định nêu trên của Bộ Luật Dân sự 2015 về quyền chuyển đổi giới tính. Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh tại Nghị quyết 89/2023/QH15 thì Dự án Luật Chuyển đổi giới tính sẽ được trình lên Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, tức tháng 10/2024. Theo đó, hiện Luật Chuyển đổi giới tính vẫn chưa được ban hành nên việc chuyển đổi giới tính vẫn chưa có căn cứ thực hiện và được thừa nhận.
Cản trở hôn nhân đồng giới có bị xử phạt không?
Theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về mức phạt vi phạm hành chính với hành vi cản trở kết hôn như sau: 1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; ....... đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn. Ngoài ra, căn cứ Điều 181 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện như sau: Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Đối với các quan hệ hôn nhân hợp pháp, đủ điều kiện kết hôn mà bị cản trở thì người cản trở có thể bị phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ, hành vi cản trở theo các quy định nêu trên. Việc kết hôn đồng giới chưa được công nhận tại Việt Nam, do đó việc cản trở kết hôn đồng giới không bị coi là trái pháp luật và cũng không có chế tài nào cho hành vi cản trở kết hôn đồng giới.
Phải làm gì để bảo đảm quyền lợi cho bản thân khi trong một mối quan hệ hôn nhân đồng giới?
Em chào các anh chị! Em có một người bạn, bạn em đang trong một mối quan hệ hôn nhân đồng giới. Vì sự tin tưởng và yêu thương nên hai người đã đám cưới và về chung sống với nhau. Tuy nhiên, em muốn hỏi là có cách nào để đảm bảo quyền lợi về tài sản cho bạn em khi chung sống với người bạn đời cùng giới không ạ? Vì hiện tại pháp luật Việt Nam vẫn chưa công nhận hôn nhân đồng giới nên cũng không có quy định nào về chế độ tài sản trong mối quan hệ này. Nếu hai người làm một bản thỏa thuận về phân chia và sử dụng tài sản thì hình thức, nội dung của thỏa thuận này như thế nào? Em cảm ơn các anh chị, mong mọi người cho em ý kiến góp ý.
Công nhận hay không, quan hệ hôn nhân đồng giới
Không ai trong chúng ta có quyền lựa chọn cảm xúc để yêu một người, cũng như lựa chọn giới tính người mình yêu. Nếu người nào đó lựa chọn thì tình yêu đó không còn đúng nghĩa là tình yêu nữa. Tình yêu đồng giới cũng là một loại tình yêu thiêng liêng cần được tôn trọng và bảo vệ. Nếu đã là tình yêu thì đích đến của nó sẽ là một cuộc hôn nhân viên mãn. Nhưng tình yêu đồng giới thì khác, ở Việt Nam hôn nhân đồng giới không được công nhận. Không công nhận ở đây không có nghĩa là cấm, nhưng nếu người đồng giới kết hôn cũng không được pháp luật thừa nhận quan hệ hôn nhân này. Cũng giống như sự phát triển của quan niệm xã hội dần chấp nhận và tôn trọng quan hệ hôn nhân đồng giới, quy định của pháp luật cũng theo đó mà bớt đi sự hà khắc với quan hệ này. Cụ thể từ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tình (Khoản 5, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), pháp luật đã có bước tiến bộ hơn ở Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khi quy định tại Khoản 2, Điều 8 “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng cấm và không thừa nhận thì có khác gì nhau. Nhưng không, sự khác biệt giữa hai vấn đề này không hề nhỏ. Hiểu theo một cách đơn giản nhất, nếu pháp luật cấm thì khi chúng ta thực hiện sẽ phải chịu chế tài; nếu pháp luật không thừa nhận thì hành vi của mình dù đã xảy ra trên thực tế nhưng không được hợp pháp hóa, tuy không phải chịu chế tài nhưng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bản thân. Để hiểu rõ hơn sự khác biệt trên chúng ta sẽ tìm hiểu về chế tài của hành vi kết hôn giữa những người cùng giới. Trước kia theo quy định tại Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP: Phạt tiền 100.000 – 500.000 đồng với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới tính. Như vậy hành vi kết hôn đồng giới không những không được công nhận mà còn bị xử phạt hành chính. Hiện nay theo Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP tiến bộ hơn khi quy định về những hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng không bao gồm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Mặc dù không bị phạt hành chính, nhưng khi pháp luật không thừa nhận, quan hệ hôn nhân đồng giới cũng còn chịu rất nhiều thiệt thòi như: ảnh hưởng đến vấn đề nuôi con chung, tài sản chung, thừa kế, quyền lợi và nghĩa vụ giữa hai bên vợ chồng… Hy vọng rằng trong tương lai, pháp luật nước ta sẽ có nhiều hơn những quy định bảo vệ quyền và lợi ích của các cặp đôi đồng tính – những người đáng được trân trọng hơn là xa lánh.
CÔNG NHẬN HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI_ MỘT HÀNH TRÌNH DÀI!
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới, đến Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì lại quy định rằng "Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính". Do đó, có nhiều quan điểm cho rằng điểm mới này là bước tiến để hướng đến công nhận hôn nhân đồng giới.Tuy nhiên, quy định cấm với không thừa nhận liệu có khác nhau? Thứ nhất, dù lúc trước cấm hay giờ là không thừa nhận, thì vẫn không có cặp đôi đồng tính nào có thể được phép cùng nhau đến cơ quan hành chính để đăng kí kết hôn cả. Thứ hai, có người cho rằng trước thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực, người đồng giới kết hôn với nhau (kết hôn chứ không phải đám cưới) sẽ bị cơ quan nhà nước xử phạt vì vi phạm điều cấm, còn bây giờ thì không còn cấm nữa nên sẽ không bị phạt. Nhưng xin thưa rằng, mặc dù có biết bao nhiêu cặp đồng tính kết hôn trước và sau thời điểm nói trên thì trước giờ vẫn chưa hề có bất cứ một Quyết định xử phạt hành chính nào về hành vi kết hôn đồng giới (tôi không nói đến những Quyết định sai). Cuối cùng, việc cấm hay không thừa nhận kết hôn đồng giới thì bản chất vẫn là như nhau. Để hướng đến thừa nhận hôn nhân đồng giới thì vẫn còn một hành trình dài. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ công nhận hôn nhân đồng giới trong một tương lai gần nhất, vì đơn giản là chẳng có lý do nào để ngăn cản cả.
Góc Nhìn Về Việc Công Nhận Hôn Nhân Đồng Giới Ở Việt Nam
Góc Nhìn Về Việc Công Nhận Hôn Nhân Đồng Giới Ở Việt Nam Được sống, được yêu thương, được mưu cầu hạnh phúc là quyền cơ bản của con người. Nhưng nếu nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc của họ đi lệch chuẩn so với truyền thống đạo đức, văn hóa xã hội thì sao??? Hôn nhân đồng giới không còn là một vấn đề xa lạ với xã hội. Theo một nghiên cứu của ISSE công bố năm 2014, 90% người Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc chung sống như vợ chồng của những người đồng tình. Các qui phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh nhằm hướng cho các quan hệ xã hội phát triển và đi đúng hướng. Như vậy, quan hệ giữa những người đồng tính được pháp luật điều chỉnh như thế nào? Theo Luật Hôn nhân gia đình 2000, pháp luật cấm việc kết hôn giữa những người đồng giới. Nhưng, Luật Hôn nhân gia đình năm 20014 không còn cấm đoán việc kết hôn giữa những người đồng giới nữa. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc pháp luật đã công nhận. Giải thích cho việc "bỏ lửng" quan hệ xã hội này, theo tôi không phải các nhà làm luật quên mà là chưa biết phải quy định thế nào. Hiện nay, có không ít các quan điểm trái chiều về việc có nên công nhận hôn nhân đồng giới hay không? Không ít người phản đối hôn nhân đồng giới cho rằng hôn nhân đồng giới là đi ngược với truyền thống đạo đức, không đảm bảo được mục đích của hôn nhân, ảnh hưởng tới con trẻ, xã hội... Tuy nhiên, con người sinh ra có quyền được mưu cầu hạnh phúc, không một ai có thể tước bỏ đi quyền tự do đó của họ. Vì đây là Nhân Quyền. Theo Ông Bakhodir Burkhanov _Phó Giám đốc Quốc gia Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) phát biều: "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khẳng định mọi người đều có quyền được tạo lập gia đình, bao gồm cả người độc thân, người chuyển giới hoặc hai người trưởng thành bất kể giới tính của họ. Chúng tôi khuyến khích và hỗ trợ Chính phủ và Quốc hội nhìn ra những thử thách mà các đối tượng yếu thế đang gặp phải và bảo vệ quyền tạo lập gia đình”. Thật vậy, không đơn giản chỉ là việc họ được chung sống với nhau trong một mái nhà. Mà còn là quyền được tạo lập mái ấm của riêng mình, được có đầy đủ những quyền cũng như nghĩa vụ như các cặp vợ chồng bình thường khác. Hôn nhân đồng giới đúng là đi lệch với chuẩn mực của hôn nhân truyền thống là nam kết hôn với nữ. Nhưng khi sinh ra, có ai có thể tự lựa chọn giới tính cho mình? Có ai không mong muốn hạnh phúc? Có ai lại muốn bị xã hội ghẻ lạnh, cười chê? Chắc chắn không một ai muốn thế. Vì vậy, mong rằng xã hội sẽ có cái nhìn thoáng hơn về hôn nhân đồng giới. Những người đồng giới yêu nhau, chung sống với nhau, tuy họ không thể tự mình sinh con nhưng họ có thể xin con nuôi, sinh con nhờ vào sự hỗ trợ từ các biện pháp y học. Họ có thể yêu thương, chăm sóc nhau. Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân đồng giới nhưng không có nghĩa là không công nhận. Chẳng qua, mọi việc đều được tiến hành theo một quy trình nhất định. Đợi tới thời điểm thích hợp chắc chắn Việt Nam sẽ công nhận hôn nhân đồng giới. Trên đây là quan điểm của cá nhân tác giả. Mong các bạn đọc đóng góp ý kiến, thể hiện quan điểm của bản thân. Minh Trang
Khi nào ở Việt Nam thừa nhận hôn nhân đồng tính?
Sáng nay, đi café nghe dân tình bàn tán chuyện ở Mỹ vừa được thông qua quyết định hôn nhân đồng tính trên toàn bộ 50 bang của đất nước này, nhiều người vỡ òa vui mừng vì đã chờ được luật công nhân từ lâu. Hàng trăm người được cấp Giấy đăng ký kết hôn – tờ giấy thiêng liêng mà nhiều người mong đợi. Để có được sự đồng thuận này của cơ quan nhà nước, các hội của người đồng tính phải trải qua thời gian khá dài đấu tranh, thuyết phục dư luận, xã hội… Ở Mỹ là vậy. Quay lại với đất nước của chúng ta là Việt Nam, một câu hỏi đặt ra là “Khi nào Việt Nam thừa nhận hôn nhân đồng tính ?” Trong phiên họp Quốc hội trước khi thông qua Luật hôn nhân gia đình 2014, nhiều ý kiến tranh luận, rồi cũng có báo viết với dạng câu hỏi “Việt Nam sẽ công nhận hôn nhân đồng giới?” hay “Việt Nam sẽ luật hóa hôn nhân đồng giới?”… Thế nhưng khi Luật được thông qua, một câu ngắn ngọn “Vẫn chưa thừa nhận!” ..Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính… Ngay cả khi các chiến dịch mở ra để ủng hộ hôn nhân đồng giới với sự tham gia của rất nhiều người thì việc này cũng chưa được pháp luật Việt Nam thừa nhận ?! Có lẽ do rào cản về văn hóa xã hội, phong tục tập quán và cái nhìn định kiến của nhiều người, nhất là các nhà làm luật…vì thế, mặc dù được 33.7% người chấp thuận trong tổng số những người được hỏi, quy định này vẫn chưa được thông qua. Nhiều ý kiến cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng giới sẽ làm cho việc duy trì giống nòi suy giảm, thế nhưng với mình khoa học ngày nay phát triển, con người có thể lên được sao Hỏa, thì tại sao chúng ta lại không nhờ khoa học can thiệp vào việc này nhỉ ?! Hơn ai hết mình hiểu rõ các bạn đồng giới đang rất mong pháp luật thừa nhận hôn nhân đồng giới. Mình ủng hộ tư tưởng tiến bộ này, còn các bạn thì sao?
Chặng đường tìm kiếm công lý của hôn nhân đồng tính
Pháp luật Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi và nâng cao giá trị sống của mỗi người công dân trên đất nước này. Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua, vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng giới đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực của giới truyền thông, cũng như đã có không ít những cuộc họp Quốc hội đã diễn ra để bàn vấn đề này nằm trong khuôn khổ sửa đổi Luật Hôn nhân Gia đình 2000 nhưng bản thân những nhà làm luật cũng như tiếng nói của người dân trong cả nước vẫn chưa thể đưa ra đáp số cuối cùng cho bài toán nan giải này: “ Liệu có nên hay không việc thừa nhận hôn nhân đồng giới?”. Vì thế, tôi viết bài này như một cách góp lên chút ít ý kiến nhỏ nhoi của mình đối với vấn đề mang tính thời sự này cũng như nhằm hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam 09/11/2013. Hôn nhân nói nôm na theo văn chương là sự kết đôi giữa hai con người yêu nhau và muốn chung sống cùng nhau để tạo dựng một gia đình tốt hơn cho xã hội, còn nói theo Luật hôn nhân gia đình thì đó chính là sự thừa nhận của xã hội, của pháp luật về việc chung sống của hai công dân theo những điều kiện mà pháp luật đưa ra. Vậy, xét cho đến cùng việc thừa nhận hôn nhân đồng giới liệu có gì là sai trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội, với truyền thống của dân tộc và hơn hết là có hay không sự vi phạm đến pháp luật nước nhà? Chắc hẳn trong tim mỗi người Việt chúng ta không ai không biết đến câu nói mở đầu cho Bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta vào mùa thu năm 1945 lịch sử đã từng viết: “Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Đúng vậy, ngay từ những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền pháp chế xã hội chủ nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác nhận lấy quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân làm gốc để giúp nước nhà phát triển và vững mạnh. Do vậy, hà cớ gì từ hàng chục năm nay, hôn nhân tự nguyện giữa những con người đồng giới không được thừa nhận khi mà bản thân họ sinh ra cũng là một con người, một công dân trên đất nước này và họ cũng tha thiết quyền được xã hội thừa nhận, quyền được tôn trọng và quyền được hạnh phúc như biết bao công dân khác. Hơn nữa, theo Điều 50,52 của Hiến pháp 1992 đã quy định về quyền con người sẽ luôn được tôn trọng về mọi phương diện từ chính trị, dân sự, kinh tế đến văn hóa, xã hội và song song đó, Hiến pháp đã thừa nhận pháp luật Việt Nam sẽ luôn bảo hộ tính mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của mỗi công dân. Văn bản pháp luật có giá trị tối cao đã thừa nhận quyền con người cũng như bảo hộ công dân Việt Nam thì không lý do gì không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Bởi một điều đơn giản rằng khi thừa nhận hôn nhân đồng giới là pháp luật thừa nhận vị trí bình đẳng của người đồng giới trong xã hội cũng như cơ quan nhà nước có thể quản lý, bảo hộ và nắm rõ tình trạng của mỗi người dân nơi địa phương sinh sống. Chính vì trong suốt thời gian qua, xã hội cũng như pháp luật đã kì thị người đồng giới khiến họ gần như sống lầm lũi nơi những góc tối của đời sống thường ngày và phải chăng chúng ta đã quá bất công với người thuộc thế giới thứ ba khi suốt một thời gian dài chúng ta để cuộc sống của họ gần như đứng bên ngoài vòng quản lý của pháp trị. Tuy nhiên, trong khoảng vài năm trở lại đây, tiếng nói của giới truyền thông cũng như sự vùng lên đầy văn minh của những người đồng giới với mong muốn và khát khao được xã hội thừa nhận đã phần nào xóa bỏ những kì thị mà suốt bao năm qua họ phải đeo mang. Thêm vào đó là vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng tính được đặt ra đã tạo nên một làn sóng tranh luận không hề nhỏ trong xã hội. Kết quả là nghị định 87/2001/NĐ-CP đã quy định mức phạt từ 100 000đ- 500 000đ đối với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới đồng thời buộc chấm dứt hôn nhân trái pháp luật đã được xóa bỏ vào ngày 11/11/2013 theo Điều 48 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP trước sự vui mừng của cộng đồng mạng cũng như những người quan tâm.Nhưng riêng theo cá nhân tôi, việc có xử phạt hành chính hay không đối với hôn nhân đồng giới chưa phải là một chiến thắng thật sự trên con đường đi tìm công lý của giới thứ ba bởi tính pháp lý của Luật luôn mang giá trị hành pháp cao hơn vì thế khi Nghị định 110/2013/NĐ-CP ban hành đã đặt ra câu hỏi : “ Phải chăng một lần nữa những nhà làm luật đang đẩy người đồng tính ra khỏi sự bảo vệ của pháp luật? Khi mà văn bản pháp luật cố tính làm ngơ việc có sửa đổi hay không điều khoản cấm hôn nhân đồng tính theo khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình. Vì vậy, chắc hẳn thế giới thứ ba còn cần phải cố gắng hơn nữa với hi vọng và đợi chờ trên suốt quãng đường dài phía trước với mong muốn Luật hôn nhân gia đình thừa nhận kết hôn đồng giới. Xét ở khía cạnh dư luận, có rất nhiều luồng ý kiến cho rằng: “ Thừa nhận hôn nhân đồng giới là trái với nguyên tắc tôn trọng đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc theo Điều 8- Bộ luật dân sự 2005”. Nhưng theo tôi, tại Điều 5 – Bộ luật dân sự đã thừa nhận quyền bình đẳng như sau: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.” Dựa trên căn cứ đó, tôi thiết nghĩ rằng quan hệ hôn nhân cũng là một quan hệ dân sự vậy thì quyền bình đẳng giới tính của giới thứ ba cũng cần được thừa nhận rõ ràng và cụ thể trong Luật hôn nhân gia đình. Thêm vào đó, tôi xin được trích một trong những căn cứ để ban hành Luật hôn nhân gia đình 2000 như sau: “Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam” Điều đó có nghĩa là những suy nghĩ định kiến về vấn đề hôn nhân đồng tính cần được xóa bỏ và pháp chế hôn nhân mới cần được sửa đổi để phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của xã hội, của công dân. Để từ đó, mỗi người dân đều xây dựng nên những giá trị gia đình thật sự hạnh phúc, ấm no như câu “an cư lạc nghiệp”. Có như vậy, đất nước ta mới ngày càng phồn thịnh hơn và tiến xa hơn nữa trên bước đường hội nhập thế giới. Thay cho lời kết, tôi chỉ muốn nói rằng pháp luật được xây dựng dựa trên cuộc sống của người dân và bảo vệ cho phía yếu thế. Do vậy, người đồng giới đã phải chịu nhiều những bất công vô tình của pháp luật trong suốt thời gian qua nên chúng ta chẳng có lý do gì để từ chối mong muốn được hưởng hạnh phúc chính đáng của họ trên đất nước này thông qua hình thức thừa nhân hôn nhân đồng tính.
Thái Lan thông qua Luật công nhận Hôn nhân đồng giới, Người Việt sang Thái kết hôn được không?
Mới đây, Quốc vương Thái Lan đã phê chuẩn Luật Hôn nhân mới của nước ngày. Vậy người Việt Nam có thể sang Thái Lan để kết hôn đồng giới được không? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau. (1) Thái Lan thông qua Luật công nhận Hôn nhân đồng giới? Theo Công báo của Hoàng gia Thái Lan, ngày 24/9/2024, Quốc vương Vajiralongkorn đã phê chuẩn Luật hôn nhân mới, tại đây đã thừa nhận hôn nhân đồng giới. Cụ thể, Đạo luật nêu trên được Quốc hội Thái Lan thông qua vào tháng 6/2024, dự kiến có hiệu lực 120 ngày sau khi Quốc vương Thái Lan Maha Vajiralongkorn phê chuẩn, tức 01/2025. Theo đó, Quyết định trên đã đưa Thái Lan trở thành quốc gia Châu Á thứ hai thừa nhận hôn nhân đồng giới sau Nepal. Cụ thể, Luật hôn nhân mới của Thái Lan sử dụng các thuật ngữ trung lập về giới tính thay cho “nam, nữ, chồng, vợ”. Đồng thời, cũng cấp quyền nhận con nuôi và thừa kế cho các cặp đồng giới. (2) Người Việt sang Thái kết hôn đồng giới được không? Căn cứ Điều 34 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định điều kiện ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài như sau: - Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài ở nước ngoài được ghi vào Sổ hộ tịch nếu tại thời điểm kết hôn, các bên đáp ứng đủ điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. - Nếu vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài, việc kết hôn không đáp ứng điều kiện kết hôn, nhưng không vi phạm điều cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng vào thời điểm yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc phục hoặc việc ghi chú kết hôn là nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em, thì việc kết hôn cũng được ghi vào Sổ hộ tịch. Như vậy, việc kết hôn đồng giới ở một số nước đã công nhận và các cá nhân vẫn có thể đăng ký kết hôn tại các quốc gia đã công nhận việc này. (3) Pháp luật Việt Nam có công nhận quyết định kết hôn đồng giới của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không? Căn cứ khoản 8 Điều 439 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định về những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam như sau: “Những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam ... 8. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Từ dẫn chiếu quy định nêu trên, có thể thấy, trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì bản án, quyết định này sẽ không được công nhận. Theo đó, quyết định kết hôn thuộc đối tượng được xem xét công nhận tại Việt Nam nhưng đối với trường hợp là kết hôn đồng giới thì sẽ không được pháp luật Việt Nam công nhận. (4) Người chuyển đổi giới tính có được kết hôn tại Việt Nam không? Trước tiên, như đã có nêu trên thì pháp luật hiện hành không công nhận quan hệ hôn nhân giữa những người đồng giới. Đồng thời, một trong những điều kiện kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 là được thực hiện bởi 1 người nam và 1 người nữ. Theo đó, để được pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân, việc kết hôn phải được thực hiện giữa hai người nam và nữ đồng thời phải đáp ứng các điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, tại Điều 37 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định người đã thực hiện chuyển đổi giới tính có các quyền sau đây: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.” Tuy nhiên, tại đây cũng cần lưu ý là đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có quy định cụ thể nào được ban hành để hướng dẫn thực hiện quy định nêu trên của Bộ Luật Dân sự 2015 về quyền chuyển đổi giới tính. Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh tại Nghị quyết 89/2023/QH15 thì Dự án Luật Chuyển đổi giới tính sẽ được trình lên Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, tức tháng 10/2024. Theo đó, hiện Luật Chuyển đổi giới tính vẫn chưa được ban hành nên việc chuyển đổi giới tính vẫn chưa có căn cứ thực hiện và được thừa nhận.
Cản trở hôn nhân đồng giới có bị xử phạt không?
Theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về mức phạt vi phạm hành chính với hành vi cản trở kết hôn như sau: 1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; ....... đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn. Ngoài ra, căn cứ Điều 181 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện như sau: Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Đối với các quan hệ hôn nhân hợp pháp, đủ điều kiện kết hôn mà bị cản trở thì người cản trở có thể bị phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ, hành vi cản trở theo các quy định nêu trên. Việc kết hôn đồng giới chưa được công nhận tại Việt Nam, do đó việc cản trở kết hôn đồng giới không bị coi là trái pháp luật và cũng không có chế tài nào cho hành vi cản trở kết hôn đồng giới.
Phải làm gì để bảo đảm quyền lợi cho bản thân khi trong một mối quan hệ hôn nhân đồng giới?
Em chào các anh chị! Em có một người bạn, bạn em đang trong một mối quan hệ hôn nhân đồng giới. Vì sự tin tưởng và yêu thương nên hai người đã đám cưới và về chung sống với nhau. Tuy nhiên, em muốn hỏi là có cách nào để đảm bảo quyền lợi về tài sản cho bạn em khi chung sống với người bạn đời cùng giới không ạ? Vì hiện tại pháp luật Việt Nam vẫn chưa công nhận hôn nhân đồng giới nên cũng không có quy định nào về chế độ tài sản trong mối quan hệ này. Nếu hai người làm một bản thỏa thuận về phân chia và sử dụng tài sản thì hình thức, nội dung của thỏa thuận này như thế nào? Em cảm ơn các anh chị, mong mọi người cho em ý kiến góp ý.
Công nhận hay không, quan hệ hôn nhân đồng giới
Không ai trong chúng ta có quyền lựa chọn cảm xúc để yêu một người, cũng như lựa chọn giới tính người mình yêu. Nếu người nào đó lựa chọn thì tình yêu đó không còn đúng nghĩa là tình yêu nữa. Tình yêu đồng giới cũng là một loại tình yêu thiêng liêng cần được tôn trọng và bảo vệ. Nếu đã là tình yêu thì đích đến của nó sẽ là một cuộc hôn nhân viên mãn. Nhưng tình yêu đồng giới thì khác, ở Việt Nam hôn nhân đồng giới không được công nhận. Không công nhận ở đây không có nghĩa là cấm, nhưng nếu người đồng giới kết hôn cũng không được pháp luật thừa nhận quan hệ hôn nhân này. Cũng giống như sự phát triển của quan niệm xã hội dần chấp nhận và tôn trọng quan hệ hôn nhân đồng giới, quy định của pháp luật cũng theo đó mà bớt đi sự hà khắc với quan hệ này. Cụ thể từ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tình (Khoản 5, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), pháp luật đã có bước tiến bộ hơn ở Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khi quy định tại Khoản 2, Điều 8 “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng cấm và không thừa nhận thì có khác gì nhau. Nhưng không, sự khác biệt giữa hai vấn đề này không hề nhỏ. Hiểu theo một cách đơn giản nhất, nếu pháp luật cấm thì khi chúng ta thực hiện sẽ phải chịu chế tài; nếu pháp luật không thừa nhận thì hành vi của mình dù đã xảy ra trên thực tế nhưng không được hợp pháp hóa, tuy không phải chịu chế tài nhưng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bản thân. Để hiểu rõ hơn sự khác biệt trên chúng ta sẽ tìm hiểu về chế tài của hành vi kết hôn giữa những người cùng giới. Trước kia theo quy định tại Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP: Phạt tiền 100.000 – 500.000 đồng với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới tính. Như vậy hành vi kết hôn đồng giới không những không được công nhận mà còn bị xử phạt hành chính. Hiện nay theo Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP tiến bộ hơn khi quy định về những hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng không bao gồm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Mặc dù không bị phạt hành chính, nhưng khi pháp luật không thừa nhận, quan hệ hôn nhân đồng giới cũng còn chịu rất nhiều thiệt thòi như: ảnh hưởng đến vấn đề nuôi con chung, tài sản chung, thừa kế, quyền lợi và nghĩa vụ giữa hai bên vợ chồng… Hy vọng rằng trong tương lai, pháp luật nước ta sẽ có nhiều hơn những quy định bảo vệ quyền và lợi ích của các cặp đôi đồng tính – những người đáng được trân trọng hơn là xa lánh.
CÔNG NHẬN HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI_ MỘT HÀNH TRÌNH DÀI!
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới, đến Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì lại quy định rằng "Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính". Do đó, có nhiều quan điểm cho rằng điểm mới này là bước tiến để hướng đến công nhận hôn nhân đồng giới.Tuy nhiên, quy định cấm với không thừa nhận liệu có khác nhau? Thứ nhất, dù lúc trước cấm hay giờ là không thừa nhận, thì vẫn không có cặp đôi đồng tính nào có thể được phép cùng nhau đến cơ quan hành chính để đăng kí kết hôn cả. Thứ hai, có người cho rằng trước thời điểm Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có hiệu lực, người đồng giới kết hôn với nhau (kết hôn chứ không phải đám cưới) sẽ bị cơ quan nhà nước xử phạt vì vi phạm điều cấm, còn bây giờ thì không còn cấm nữa nên sẽ không bị phạt. Nhưng xin thưa rằng, mặc dù có biết bao nhiêu cặp đồng tính kết hôn trước và sau thời điểm nói trên thì trước giờ vẫn chưa hề có bất cứ một Quyết định xử phạt hành chính nào về hành vi kết hôn đồng giới (tôi không nói đến những Quyết định sai). Cuối cùng, việc cấm hay không thừa nhận kết hôn đồng giới thì bản chất vẫn là như nhau. Để hướng đến thừa nhận hôn nhân đồng giới thì vẫn còn một hành trình dài. Hy vọng rằng Việt Nam sẽ công nhận hôn nhân đồng giới trong một tương lai gần nhất, vì đơn giản là chẳng có lý do nào để ngăn cản cả.
Góc Nhìn Về Việc Công Nhận Hôn Nhân Đồng Giới Ở Việt Nam
Góc Nhìn Về Việc Công Nhận Hôn Nhân Đồng Giới Ở Việt Nam Được sống, được yêu thương, được mưu cầu hạnh phúc là quyền cơ bản của con người. Nhưng nếu nhu cầu tìm kiếm hạnh phúc của họ đi lệch chuẩn so với truyền thống đạo đức, văn hóa xã hội thì sao??? Hôn nhân đồng giới không còn là một vấn đề xa lạ với xã hội. Theo một nghiên cứu của ISSE công bố năm 2014, 90% người Việt Nam biết về đồng tính và 62% biết về việc chung sống như vợ chồng của những người đồng tình. Các qui phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh nhằm hướng cho các quan hệ xã hội phát triển và đi đúng hướng. Như vậy, quan hệ giữa những người đồng tính được pháp luật điều chỉnh như thế nào? Theo Luật Hôn nhân gia đình 2000, pháp luật cấm việc kết hôn giữa những người đồng giới. Nhưng, Luật Hôn nhân gia đình năm 20014 không còn cấm đoán việc kết hôn giữa những người đồng giới nữa. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc pháp luật đã công nhận. Giải thích cho việc "bỏ lửng" quan hệ xã hội này, theo tôi không phải các nhà làm luật quên mà là chưa biết phải quy định thế nào. Hiện nay, có không ít các quan điểm trái chiều về việc có nên công nhận hôn nhân đồng giới hay không? Không ít người phản đối hôn nhân đồng giới cho rằng hôn nhân đồng giới là đi ngược với truyền thống đạo đức, không đảm bảo được mục đích của hôn nhân, ảnh hưởng tới con trẻ, xã hội... Tuy nhiên, con người sinh ra có quyền được mưu cầu hạnh phúc, không một ai có thể tước bỏ đi quyền tự do đó của họ. Vì đây là Nhân Quyền. Theo Ông Bakhodir Burkhanov _Phó Giám đốc Quốc gia Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) phát biều: "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khẳng định mọi người đều có quyền được tạo lập gia đình, bao gồm cả người độc thân, người chuyển giới hoặc hai người trưởng thành bất kể giới tính của họ. Chúng tôi khuyến khích và hỗ trợ Chính phủ và Quốc hội nhìn ra những thử thách mà các đối tượng yếu thế đang gặp phải và bảo vệ quyền tạo lập gia đình”. Thật vậy, không đơn giản chỉ là việc họ được chung sống với nhau trong một mái nhà. Mà còn là quyền được tạo lập mái ấm của riêng mình, được có đầy đủ những quyền cũng như nghĩa vụ như các cặp vợ chồng bình thường khác. Hôn nhân đồng giới đúng là đi lệch với chuẩn mực của hôn nhân truyền thống là nam kết hôn với nữ. Nhưng khi sinh ra, có ai có thể tự lựa chọn giới tính cho mình? Có ai không mong muốn hạnh phúc? Có ai lại muốn bị xã hội ghẻ lạnh, cười chê? Chắc chắn không một ai muốn thế. Vì vậy, mong rằng xã hội sẽ có cái nhìn thoáng hơn về hôn nhân đồng giới. Những người đồng giới yêu nhau, chung sống với nhau, tuy họ không thể tự mình sinh con nhưng họ có thể xin con nuôi, sinh con nhờ vào sự hỗ trợ từ các biện pháp y học. Họ có thể yêu thương, chăm sóc nhau. Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân đồng giới nhưng không có nghĩa là không công nhận. Chẳng qua, mọi việc đều được tiến hành theo một quy trình nhất định. Đợi tới thời điểm thích hợp chắc chắn Việt Nam sẽ công nhận hôn nhân đồng giới. Trên đây là quan điểm của cá nhân tác giả. Mong các bạn đọc đóng góp ý kiến, thể hiện quan điểm của bản thân. Minh Trang
Khi nào ở Việt Nam thừa nhận hôn nhân đồng tính?
Sáng nay, đi café nghe dân tình bàn tán chuyện ở Mỹ vừa được thông qua quyết định hôn nhân đồng tính trên toàn bộ 50 bang của đất nước này, nhiều người vỡ òa vui mừng vì đã chờ được luật công nhân từ lâu. Hàng trăm người được cấp Giấy đăng ký kết hôn – tờ giấy thiêng liêng mà nhiều người mong đợi. Để có được sự đồng thuận này của cơ quan nhà nước, các hội của người đồng tính phải trải qua thời gian khá dài đấu tranh, thuyết phục dư luận, xã hội… Ở Mỹ là vậy. Quay lại với đất nước của chúng ta là Việt Nam, một câu hỏi đặt ra là “Khi nào Việt Nam thừa nhận hôn nhân đồng tính ?” Trong phiên họp Quốc hội trước khi thông qua Luật hôn nhân gia đình 2014, nhiều ý kiến tranh luận, rồi cũng có báo viết với dạng câu hỏi “Việt Nam sẽ công nhận hôn nhân đồng giới?” hay “Việt Nam sẽ luật hóa hôn nhân đồng giới?”… Thế nhưng khi Luật được thông qua, một câu ngắn ngọn “Vẫn chưa thừa nhận!” ..Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính… Ngay cả khi các chiến dịch mở ra để ủng hộ hôn nhân đồng giới với sự tham gia của rất nhiều người thì việc này cũng chưa được pháp luật Việt Nam thừa nhận ?! Có lẽ do rào cản về văn hóa xã hội, phong tục tập quán và cái nhìn định kiến của nhiều người, nhất là các nhà làm luật…vì thế, mặc dù được 33.7% người chấp thuận trong tổng số những người được hỏi, quy định này vẫn chưa được thông qua. Nhiều ý kiến cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng giới sẽ làm cho việc duy trì giống nòi suy giảm, thế nhưng với mình khoa học ngày nay phát triển, con người có thể lên được sao Hỏa, thì tại sao chúng ta lại không nhờ khoa học can thiệp vào việc này nhỉ ?! Hơn ai hết mình hiểu rõ các bạn đồng giới đang rất mong pháp luật thừa nhận hôn nhân đồng giới. Mình ủng hộ tư tưởng tiến bộ này, còn các bạn thì sao?
Chặng đường tìm kiếm công lý của hôn nhân đồng tính
Pháp luật Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi và nâng cao giá trị sống của mỗi người công dân trên đất nước này. Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua, vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng giới đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực của giới truyền thông, cũng như đã có không ít những cuộc họp Quốc hội đã diễn ra để bàn vấn đề này nằm trong khuôn khổ sửa đổi Luật Hôn nhân Gia đình 2000 nhưng bản thân những nhà làm luật cũng như tiếng nói của người dân trong cả nước vẫn chưa thể đưa ra đáp số cuối cùng cho bài toán nan giải này: “ Liệu có nên hay không việc thừa nhận hôn nhân đồng giới?”. Vì thế, tôi viết bài này như một cách góp lên chút ít ý kiến nhỏ nhoi của mình đối với vấn đề mang tính thời sự này cũng như nhằm hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam 09/11/2013. Hôn nhân nói nôm na theo văn chương là sự kết đôi giữa hai con người yêu nhau và muốn chung sống cùng nhau để tạo dựng một gia đình tốt hơn cho xã hội, còn nói theo Luật hôn nhân gia đình thì đó chính là sự thừa nhận của xã hội, của pháp luật về việc chung sống của hai công dân theo những điều kiện mà pháp luật đưa ra. Vậy, xét cho đến cùng việc thừa nhận hôn nhân đồng giới liệu có gì là sai trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội, với truyền thống của dân tộc và hơn hết là có hay không sự vi phạm đến pháp luật nước nhà? Chắc hẳn trong tim mỗi người Việt chúng ta không ai không biết đến câu nói mở đầu cho Bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta vào mùa thu năm 1945 lịch sử đã từng viết: “Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Đúng vậy, ngay từ những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền pháp chế xã hội chủ nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác nhận lấy quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân làm gốc để giúp nước nhà phát triển và vững mạnh. Do vậy, hà cớ gì từ hàng chục năm nay, hôn nhân tự nguyện giữa những con người đồng giới không được thừa nhận khi mà bản thân họ sinh ra cũng là một con người, một công dân trên đất nước này và họ cũng tha thiết quyền được xã hội thừa nhận, quyền được tôn trọng và quyền được hạnh phúc như biết bao công dân khác. Hơn nữa, theo Điều 50,52 của Hiến pháp 1992 đã quy định về quyền con người sẽ luôn được tôn trọng về mọi phương diện từ chính trị, dân sự, kinh tế đến văn hóa, xã hội và song song đó, Hiến pháp đã thừa nhận pháp luật Việt Nam sẽ luôn bảo hộ tính mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của mỗi công dân. Văn bản pháp luật có giá trị tối cao đã thừa nhận quyền con người cũng như bảo hộ công dân Việt Nam thì không lý do gì không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Bởi một điều đơn giản rằng khi thừa nhận hôn nhân đồng giới là pháp luật thừa nhận vị trí bình đẳng của người đồng giới trong xã hội cũng như cơ quan nhà nước có thể quản lý, bảo hộ và nắm rõ tình trạng của mỗi người dân nơi địa phương sinh sống. Chính vì trong suốt thời gian qua, xã hội cũng như pháp luật đã kì thị người đồng giới khiến họ gần như sống lầm lũi nơi những góc tối của đời sống thường ngày và phải chăng chúng ta đã quá bất công với người thuộc thế giới thứ ba khi suốt một thời gian dài chúng ta để cuộc sống của họ gần như đứng bên ngoài vòng quản lý của pháp trị. Tuy nhiên, trong khoảng vài năm trở lại đây, tiếng nói của giới truyền thông cũng như sự vùng lên đầy văn minh của những người đồng giới với mong muốn và khát khao được xã hội thừa nhận đã phần nào xóa bỏ những kì thị mà suốt bao năm qua họ phải đeo mang. Thêm vào đó là vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng tính được đặt ra đã tạo nên một làn sóng tranh luận không hề nhỏ trong xã hội. Kết quả là nghị định 87/2001/NĐ-CP đã quy định mức phạt từ 100 000đ- 500 000đ đối với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới đồng thời buộc chấm dứt hôn nhân trái pháp luật đã được xóa bỏ vào ngày 11/11/2013 theo Điều 48 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP trước sự vui mừng của cộng đồng mạng cũng như những người quan tâm.Nhưng riêng theo cá nhân tôi, việc có xử phạt hành chính hay không đối với hôn nhân đồng giới chưa phải là một chiến thắng thật sự trên con đường đi tìm công lý của giới thứ ba bởi tính pháp lý của Luật luôn mang giá trị hành pháp cao hơn vì thế khi Nghị định 110/2013/NĐ-CP ban hành đã đặt ra câu hỏi : “ Phải chăng một lần nữa những nhà làm luật đang đẩy người đồng tính ra khỏi sự bảo vệ của pháp luật? Khi mà văn bản pháp luật cố tính làm ngơ việc có sửa đổi hay không điều khoản cấm hôn nhân đồng tính theo khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình. Vì vậy, chắc hẳn thế giới thứ ba còn cần phải cố gắng hơn nữa với hi vọng và đợi chờ trên suốt quãng đường dài phía trước với mong muốn Luật hôn nhân gia đình thừa nhận kết hôn đồng giới. Xét ở khía cạnh dư luận, có rất nhiều luồng ý kiến cho rằng: “ Thừa nhận hôn nhân đồng giới là trái với nguyên tắc tôn trọng đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc theo Điều 8- Bộ luật dân sự 2005”. Nhưng theo tôi, tại Điều 5 – Bộ luật dân sự đã thừa nhận quyền bình đẳng như sau: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.” Dựa trên căn cứ đó, tôi thiết nghĩ rằng quan hệ hôn nhân cũng là một quan hệ dân sự vậy thì quyền bình đẳng giới tính của giới thứ ba cũng cần được thừa nhận rõ ràng và cụ thể trong Luật hôn nhân gia đình. Thêm vào đó, tôi xin được trích một trong những căn cứ để ban hành Luật hôn nhân gia đình 2000 như sau: “Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam” Điều đó có nghĩa là những suy nghĩ định kiến về vấn đề hôn nhân đồng tính cần được xóa bỏ và pháp chế hôn nhân mới cần được sửa đổi để phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của xã hội, của công dân. Để từ đó, mỗi người dân đều xây dựng nên những giá trị gia đình thật sự hạnh phúc, ấm no như câu “an cư lạc nghiệp”. Có như vậy, đất nước ta mới ngày càng phồn thịnh hơn và tiến xa hơn nữa trên bước đường hội nhập thế giới. Thay cho lời kết, tôi chỉ muốn nói rằng pháp luật được xây dựng dựa trên cuộc sống của người dân và bảo vệ cho phía yếu thế. Do vậy, người đồng giới đã phải chịu nhiều những bất công vô tình của pháp luật trong suốt thời gian qua nên chúng ta chẳng có lý do gì để từ chối mong muốn được hưởng hạnh phúc chính đáng của họ trên đất nước này thông qua hình thức thừa nhân hôn nhân đồng tính.