Dĩ hòa vi quý là gì? Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các trường hợp nào?
Dĩ hòa vi quý là gì? Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các trường hợp? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Dĩ hòa vi quý là gì? Dĩ hòa vi quý là một thành ngữ Hán Việt Dĩ: Nghĩa là lấy, sử dụng. Hòa: Mang hàm ý về hòa hợp, hòa khí, hòa nhã, ám chỉ sự hòa thuận, sự hài hòa. Vi: Có nghĩa là cho, làm. Quý: Ám chỉ thứ có giá trị, quý báu, được coi trọng. Nói cách khác, "Dĩ hòa vi quý" có nghĩa là coi trọng sự hòa thuận, lấy hòa bình làm điều quý giá. Thành ngữ này khuyên nhủ mọi người nên nhường nhịn, biết cách giải quyết mâu thuẫn một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Dĩ hòa vi quý áp dụng cho mọi mối quan hệ trong xã hội, từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đến cộng đồng. Hòa giải là hiện thân của dĩ hòa vi quý trong thực tế. Khi áp dụng thành công hòa giải, các bên mâu thuẫn sẽ được giải quyết, từ đó duy trì sự hòa thuận, êm ấm trong các mối quan hệ. Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các trường hợp nào? Nếu như nói "dĩ hòa vi quý" là sự hòa hợp, khéo léo trong giao tiếp hay trong cách đối nhân xử thế nhằm tránh việc tranh chấp không đáng có xảy ra thì có thể nói "hòa giải" mang một nét tương đồng như thế. Hòa giải cơ sở được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật Theo đó, có thể thấy hòa giải và dĩ hòa vi quý đều hướng đến mục tiêu giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì sự hòa bình, ổn định trong các mối quan hệ. Căn cứ Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP quy định phạm vi hòa giải ở cơ sở: - Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: + Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác); + Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất; + Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn; + Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính; ... Như vậy, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau: [1] Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác) [2] Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất [3] Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn [4] Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính [5] Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây: - Không bị khởi tố vụ án khi có một trong những căn cứ sau và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật: + Không có sự việc phạm tội + Hành vi không cấu thành tội phạm + Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự + Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật + Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự + Tội phạm đã được đại xá + Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác - Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật - Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật [6] Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn [7] Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm Những vụ việc nào không tiến hành hòa giải ở cơ sở? Theo khoản 2 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP quy định không hòa giải ở các cơ sở các trường hợp sau đây: [1] Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; [2] Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội; [3] Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp: - Không bị khởi tố vụ án và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; - Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; - Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; [4] Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính, trừ các trường hợp vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn [5] Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013, bao gồm: - Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy định của pháp luật thương mại - Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của pháp luật lao động Như vậy, dĩ hòa vi quý là một thành ngữ Hán Việt, mang ý nghĩa sâu sắc về đạo đức và cách ứng xử trong cuộc sống. Thành ngữ này khuyên nhủ con người nên coi trọng sự hòa thuận, lấy hòa bình làm điều quý giá, biết cách giải quyết mâu thuẫn một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Theo quy định của pháp luật, khi có các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định thì hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau.
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng bỏ nhà đi vì giận con dâu có được hòa giải ở cơ sở không?
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật hay không? Dâu là con, rể là khách là gì? Câu tục ngữ “Dâu là con, rể là khách” thể hiện quan niệm của ông ta về mối quan hệ trong gia đình Việt từ ngày xưa: - Dâu là con: Người con dâu là một thành viên cùng ăn, cùng ở, cùng tạo ra vật chất, của cải trong gia đình. Có thể nói, vai trò của con dâu trong gia đình Việt ngày xưa có ý nghĩa và vị trí vô cùng quan trọng bởi mỗi khi đau ốm hay trái gió trở trời, bố mẹ, ông bà chồng đều được một tay cô con dâu chăm sóc; những lo toan trong gia đình được người con dâu cùng chung vai gánh vác. - Ngược lại “rể là khách”: giống như con dâu, con rể cũng là thành viên khác dòng máu đến gia nhập vào gia đình khác - là gia đình vợ. Nhưng thực tế con rể chỉ xuất hiện nhiều vào những ngày gia đình vợ có những công việc quan trọng. Thành viên này thường không gắn bó thường xuyên cả ngày với gia đình như người con dâu. Dưới góc độ xã hội hiện đại, thì quan niệm “dâu là con, rể là khách” nên được nhìn nhận lại một cách linh hoạt và sâu sắc hơn, bởi: Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng - nơi mà bình đẳng giới ngày càng được đề cao đi đôi với đó là cả con dâu và con rể đều có trách nhiệm chung trong việc xây dựng gia đình. Theo đó, có thể nói rằng dâu hay rể thì cũng đều là con. Đều có vai trò giống nhau trong gia đình. Vậy nên cần chú ý một số vấn đề trong việc vận dụng quan niệm “dâu là con, rể là khách” trong thực tế cuộc sống: - Tránh áp đặt quan niệm này một cách cứng nhắc, dẫn đến mâu thuẫn và bất hòa. - Tôn trọng sự khác biệt, thấu hiểu và yêu thương để xây dựng gia đình hạnh phúc. Ngoài ra, trong vấn đề hòa giải ở sở hòa giải viên có thể vận dụng câu nói này vào mâu thuẫn trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu qua tình huống sau: Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi. Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở không? Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn; Như vậy, trong tình huống “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Lưu ý: theo quy định tại Điều 16 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: - Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; - Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải; - Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc hòa giải ở cơ sở nào? Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điều 4 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, cụ thể như sau: - Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. - Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. - Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 10 của Luật này. - Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. - Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự. Ngoài ra, khi tiến hành tổ chức hòa giải trong trường hợp “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” hòa giải viên có thể dùng câu nói “Dâu là con, rể là khách” để xoa dịu mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu từ cả hai phía mẹ chồng lẫn con dâu, đặc biệt là từ phía mẹ chồng bởi con nào thì cũng là con, không phân biệt là con mình hay con người khác. Để từ đó, giúp các bên có thể cùng nhìn nhận lại vấn đề, thấu hiểu nhau hơn và có một kết quả hòa giải thành công.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có được đề nghị UBND khen thưởng trong việc hòa giải ở cơ sở không?
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có được đề nghị UBND khen thưởng trong việc hòa giải ở cơ sở không và chính sách của nhà nước về hòa giải cơ sở như thế nào? Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có được đề nghị UBND khen thưởng trong việc hòa giải ở cơ sở không? Theo quy định tại Điều 10 Nghị quyết liên tịch 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN thì Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn viên, hội viên các tổ chức thành viên của Mặt trận tham gia hòa giải ở cơ sở được Ủy ban nhân dân cấp xã hỗ trợ tài liệu, phổ biến pháp luật phục vụ hoạt động hòa giải ở cơ sở, khen thưởng hoặc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp trên khen thưởng khi tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điểm d Khoản 1, Điểm d Khoản 2, Điểm a và Điểm d Khoản 3 Điều 4 của Nghị định 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp ở địa phương mà nòng cốt là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam hướng dẫn, khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn viên, hội viên các tổ chức thành viên của Mặt trận làm hòa giải viên hoặc tham gia trực tiếp hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp ở cơ sở. Như vậy, hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được đề nghị Ủy ban nhân dân cấp trên khen thưởng khi tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật. Cơ quan nào sẽ xem xét quyết định khen thưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở khi có đề nghị của UBND cấp huyện? Theo nquy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm như sau: - Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh) hướng dẫn, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong phạm vi địa phương; - Biên soạn, hỗ trợ tài liệu phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cho cấp huyện; hướng dẫn cấp huyện tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp; - Tổng hợp, trình dự toán kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở tại địa phương để Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định; - Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; tiếp nhận, tổ chức thực hiện, khen thưởng tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xem xét, quyết định khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp huyện; định kỳ sáu tháng, hằng năm và đột xuất khi có yêu cầu thực hiện thống kê, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp và Bộ Tư pháp kết quả thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, quyết định khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (trong đó có hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam) trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở có bao gồm việc phát huy vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam không? Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở được quy định tại Điều 5 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 như sau: - Khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác. Khuyến khích những người có uy tín trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư tham gia hòa giải ở cơ sở và tham gia các hình thức hòa giải thích hợp khác. - Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở. - Tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở; khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở. Như vậy, chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở bao gồm việc phát huy vai trò vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Tóm lại, hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được đề nghị Ủy ban nhân dân cấp trên khen thưởng khi tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
Bộ Tư pháp kiểm tra việc thực hiện Luật Hòa giải cơ sở tại địa phương
Ngày 18/5/2023 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định 747/QĐ-BTP năm 2023 Ban hành Kế hoạch kiểm tra tình hình thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở 2013. Theo đó, Bộ Tư pháp kiểm tra việc thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 như sau: (1) Kết quả đạt được trong thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở * Thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở - Ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở (văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính). - Quán triệt, phổ biến, truyền thông phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn. - Củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác hòa giải ở cơ sở; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở. - Xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ hòa giải và hòa giải viên; việc bầu, công nhận hòa giải viên, tổ trưởng tổ hòa giải; nâng cao năng lực cho hòa giải viên. - Hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn, việc ghi Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở; thống kê số liệu hòa giải ở cơ sở. - Công tác phối hợp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong triển khai thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. - Kiểm tra, sơ kết, tổng kết; khen thưởng về công tác hòa giải cơ sở. - Hợp tác quốc tế về hòa giải ở cơ sở (nếu có). - Bố trí nguồn lực thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở (nguồn nhân lực và kinh phí). * Đánh giá chung - Đánh giá chung về kết quả đạt được, thuận lợi, tác động tích cực của Luật Hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, những mô hình, cách làm hiệu quả. - Đánh giá nhu cầu xã hội về hòa giải ở cơ sở. - Đánh giá tác động xã hội của Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. * Những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm * Các đề xuất, kiến nghị (2) Thời gian, địa điểm kiểm tra thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở - Tháng 5/2023: Kiểm tra tại tỉnh Bình Thuận, Quảng Nam, Quảng Ngãi. - Tháng 6/2023: Kiểm tra tại tỉnh Cao Bằng, tỉnh Bắc Kạn. - Tháng 7/2023: Kiểm tra tại tỉnh Bình Phước. Thời gian, lịch trình cụ thể, Bộ Tư pháp sẽ thông báo sau khi thống nhất với Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố được kiểm tra. (3) Đối tượng kiểm tra thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở Đại diện Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; công chức Tư pháp - Hộ tịch; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp ở địa phương, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức đoàn thể ở thôn, tổ dân phố, hòa giải viên. Xem thêm Quyết định 747/QĐ-BTP năm 2023 có hiệu lực từ ngày 18/5/2023
Dĩ hòa vi quý là gì? Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các trường hợp nào?
Dĩ hòa vi quý là gì? Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các trường hợp? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Dĩ hòa vi quý là gì? Dĩ hòa vi quý là một thành ngữ Hán Việt Dĩ: Nghĩa là lấy, sử dụng. Hòa: Mang hàm ý về hòa hợp, hòa khí, hòa nhã, ám chỉ sự hòa thuận, sự hài hòa. Vi: Có nghĩa là cho, làm. Quý: Ám chỉ thứ có giá trị, quý báu, được coi trọng. Nói cách khác, "Dĩ hòa vi quý" có nghĩa là coi trọng sự hòa thuận, lấy hòa bình làm điều quý giá. Thành ngữ này khuyên nhủ mọi người nên nhường nhịn, biết cách giải quyết mâu thuẫn một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Dĩ hòa vi quý áp dụng cho mọi mối quan hệ trong xã hội, từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đến cộng đồng. Hòa giải là hiện thân của dĩ hòa vi quý trong thực tế. Khi áp dụng thành công hòa giải, các bên mâu thuẫn sẽ được giải quyết, từ đó duy trì sự hòa thuận, êm ấm trong các mối quan hệ. Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các trường hợp nào? Nếu như nói "dĩ hòa vi quý" là sự hòa hợp, khéo léo trong giao tiếp hay trong cách đối nhân xử thế nhằm tránh việc tranh chấp không đáng có xảy ra thì có thể nói "hòa giải" mang một nét tương đồng như thế. Hòa giải cơ sở được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật Theo đó, có thể thấy hòa giải và dĩ hòa vi quý đều hướng đến mục tiêu giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì sự hòa bình, ổn định trong các mối quan hệ. Căn cứ Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP quy định phạm vi hòa giải ở cơ sở: - Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: + Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác); + Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất; + Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn; + Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính; ... Như vậy, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau: [1] Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác) [2] Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất [3] Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn [4] Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính [5] Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây: - Không bị khởi tố vụ án khi có một trong những căn cứ sau và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật: + Không có sự việc phạm tội + Hành vi không cấu thành tội phạm + Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự + Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật + Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự + Tội phạm đã được đại xá + Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác - Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật - Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật [6] Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn [7] Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm Những vụ việc nào không tiến hành hòa giải ở cơ sở? Theo khoản 2 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP quy định không hòa giải ở các cơ sở các trường hợp sau đây: [1] Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; [2] Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội; [3] Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp: - Không bị khởi tố vụ án và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; - Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; - Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; [4] Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi phạm hành chính, trừ các trường hợp vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn [5] Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013, bao gồm: - Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy định của pháp luật thương mại - Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của pháp luật lao động Như vậy, dĩ hòa vi quý là một thành ngữ Hán Việt, mang ý nghĩa sâu sắc về đạo đức và cách ứng xử trong cuộc sống. Thành ngữ này khuyên nhủ con người nên coi trọng sự hòa thuận, lấy hòa bình làm điều quý giá, biết cách giải quyết mâu thuẫn một cách êm xuôi, tránh va chạm, xung đột để duy trì mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh. Theo quy định của pháp luật, khi có các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định thì hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau.
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng bỏ nhà đi vì giận con dâu có được hòa giải ở cơ sở không?
Dâu là con, rể là khách là gì? Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật hay không? Dâu là con, rể là khách là gì? Câu tục ngữ “Dâu là con, rể là khách” thể hiện quan niệm của ông ta về mối quan hệ trong gia đình Việt từ ngày xưa: - Dâu là con: Người con dâu là một thành viên cùng ăn, cùng ở, cùng tạo ra vật chất, của cải trong gia đình. Có thể nói, vai trò của con dâu trong gia đình Việt ngày xưa có ý nghĩa và vị trí vô cùng quan trọng bởi mỗi khi đau ốm hay trái gió trở trời, bố mẹ, ông bà chồng đều được một tay cô con dâu chăm sóc; những lo toan trong gia đình được người con dâu cùng chung vai gánh vác. - Ngược lại “rể là khách”: giống như con dâu, con rể cũng là thành viên khác dòng máu đến gia nhập vào gia đình khác - là gia đình vợ. Nhưng thực tế con rể chỉ xuất hiện nhiều vào những ngày gia đình vợ có những công việc quan trọng. Thành viên này thường không gắn bó thường xuyên cả ngày với gia đình như người con dâu. Dưới góc độ xã hội hiện đại, thì quan niệm “dâu là con, rể là khách” nên được nhìn nhận lại một cách linh hoạt và sâu sắc hơn, bởi: Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng - nơi mà bình đẳng giới ngày càng được đề cao đi đôi với đó là cả con dâu và con rể đều có trách nhiệm chung trong việc xây dựng gia đình. Theo đó, có thể nói rằng dâu hay rể thì cũng đều là con. Đều có vai trò giống nhau trong gia đình. Vậy nên cần chú ý một số vấn đề trong việc vận dụng quan niệm “dâu là con, rể là khách” trong thực tế cuộc sống: - Tránh áp đặt quan niệm này một cách cứng nhắc, dẫn đến mâu thuẫn và bất hòa. - Tôn trọng sự khác biệt, thấu hiểu và yêu thương để xây dựng gia đình hạnh phúc. Ngoài ra, trong vấn đề hòa giải ở sở hòa giải viên có thể vận dụng câu nói này vào mâu thuẫn trong quan hệ mẹ chồng nàng dâu qua tình huống sau: Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi. Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi có thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở không? Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây: - Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn; Như vậy, trong tình huống “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở. Lưu ý: theo quy định tại Điều 16 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 thì hòa giải ở cơ sở được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: - Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; - Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải; - Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc hòa giải ở cơ sở nào? Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải quan hệ mẹ chồng nàng dâu phải đảm bảo những nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điều 4 Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, cụ thể như sau: - Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở. - Bảo đảm phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi. - Khách quan, công bằng, kịp thời, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin đời tư của các bên, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 10 của Luật này. - Tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. - Không lợi dụng hòa giải ở cơ sở để ngăn cản các bên liên quan bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật hoặc trốn tránh việc xử lý vi phạm hành chính, xử lý về hình sự. Ngoài ra, khi tiến hành tổ chức hòa giải trong trường hợp “Mẹ chồng mâu thuẫn với con dâu nên bỏ nhà đi” hòa giải viên có thể dùng câu nói “Dâu là con, rể là khách” để xoa dịu mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu từ cả hai phía mẹ chồng lẫn con dâu, đặc biệt là từ phía mẹ chồng bởi con nào thì cũng là con, không phân biệt là con mình hay con người khác. Để từ đó, giúp các bên có thể cùng nhìn nhận lại vấn đề, thấu hiểu nhau hơn và có một kết quả hòa giải thành công.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có được đề nghị UBND khen thưởng trong việc hòa giải ở cơ sở không?
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có được đề nghị UBND khen thưởng trong việc hòa giải ở cơ sở không và chính sách của nhà nước về hòa giải cơ sở như thế nào? Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có được đề nghị UBND khen thưởng trong việc hòa giải ở cơ sở không? Theo quy định tại Điều 10 Nghị quyết liên tịch 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN thì Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn viên, hội viên các tổ chức thành viên của Mặt trận tham gia hòa giải ở cơ sở được Ủy ban nhân dân cấp xã hỗ trợ tài liệu, phổ biến pháp luật phục vụ hoạt động hòa giải ở cơ sở, khen thưởng hoặc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp trên khen thưởng khi tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định tại Điểm d Khoản 1, Điểm d Khoản 2, Điểm a và Điểm d Khoản 3 Điều 4 của Nghị định 15/2014/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp ở địa phương mà nòng cốt là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam hướng dẫn, khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đoàn viên, hội viên các tổ chức thành viên của Mặt trận làm hòa giải viên hoặc tham gia trực tiếp hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp ở cơ sở. Như vậy, hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được đề nghị Ủy ban nhân dân cấp trên khen thưởng khi tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật. Cơ quan nào sẽ xem xét quyết định khen thưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong công tác hòa giải ở cơ sở khi có đề nghị của UBND cấp huyện? Theo nquy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm như sau: - Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh) hướng dẫn, tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở trong phạm vi địa phương; - Biên soạn, hỗ trợ tài liệu phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở cho cấp huyện; hướng dẫn cấp huyện tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp; - Tổng hợp, trình dự toán kinh phí hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở tại địa phương để Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định; - Chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; tiếp nhận, tổ chức thực hiện, khen thưởng tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xem xét, quyết định khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp huyện; định kỳ sáu tháng, hằng năm và đột xuất khi có yêu cầu thực hiện thống kê, báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp và Bộ Tư pháp kết quả thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét, quyết định khen thưởng tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp, hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (trong đó có hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam) trên cơ sở đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở có bao gồm việc phát huy vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam không? Chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở được quy định tại Điều 5 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 như sau: - Khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác. Khuyến khích những người có uy tín trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư tham gia hòa giải ở cơ sở và tham gia các hình thức hòa giải thích hợp khác. - Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở. - Tạo điều kiện, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở; khuyến khích tổ chức, cá nhân đóng góp, hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở. Như vậy, chính sách của Nhà nước về hòa giải ở cơ sở bao gồm việc phát huy vai trò vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Tóm lại, hội viên Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được đề nghị Ủy ban nhân dân cấp trên khen thưởng khi tích cực tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của pháp luật.
Bộ Tư pháp kiểm tra việc thực hiện Luật Hòa giải cơ sở tại địa phương
Ngày 18/5/2023 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định 747/QĐ-BTP năm 2023 Ban hành Kế hoạch kiểm tra tình hình thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở 2013. Theo đó, Bộ Tư pháp kiểm tra việc thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 như sau: (1) Kết quả đạt được trong thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở * Thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở - Ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở (văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính). - Quán triệt, phổ biến, truyền thông phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn. - Củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác hòa giải ở cơ sở; tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở. - Xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ hòa giải và hòa giải viên; việc bầu, công nhận hòa giải viên, tổ trưởng tổ hòa giải; nâng cao năng lực cho hòa giải viên. - Hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn, việc ghi Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở; thống kê số liệu hòa giải ở cơ sở. - Công tác phối hợp và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong triển khai thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. - Kiểm tra, sơ kết, tổng kết; khen thưởng về công tác hòa giải cơ sở. - Hợp tác quốc tế về hòa giải ở cơ sở (nếu có). - Bố trí nguồn lực thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở (nguồn nhân lực và kinh phí). * Đánh giá chung - Đánh giá chung về kết quả đạt được, thuận lợi, tác động tích cực của Luật Hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, những mô hình, cách làm hiệu quả. - Đánh giá nhu cầu xã hội về hòa giải ở cơ sở. - Đánh giá tác động xã hội của Luật Hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. * Những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm * Các đề xuất, kiến nghị (2) Thời gian, địa điểm kiểm tra thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở - Tháng 5/2023: Kiểm tra tại tỉnh Bình Thuận, Quảng Nam, Quảng Ngãi. - Tháng 6/2023: Kiểm tra tại tỉnh Cao Bằng, tỉnh Bắc Kạn. - Tháng 7/2023: Kiểm tra tại tỉnh Bình Phước. Thời gian, lịch trình cụ thể, Bộ Tư pháp sẽ thông báo sau khi thống nhất với Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố được kiểm tra. (3) Đối tượng kiểm tra thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở Đại diện Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; công chức Tư pháp - Hộ tịch; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp ở địa phương, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố, đại diện các tổ chức đoàn thể ở thôn, tổ dân phố, hòa giải viên. Xem thêm Quyết định 747/QĐ-BTP năm 2023 có hiệu lực từ ngày 18/5/2023