Có được áp dụng đồng thời hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt bổ sung không?
Trong pháp luật hình sự, hình phạt tiền có thể là hình phạt chính và cũng có thể là hình phạt bổ sung. Vậy vừa áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung có được không? Có được áp dụng đồng thời hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt bổ sung không? Theo điểm b khoản 1, điểm e khoản 2 và khoản 3 Điều 32 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: - Hình phạt chính và hình phạt bổ sung đều có thể là hình phạt tiền. - Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 quy định căn cứ quyết định hình phạt như sau: - Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự 2015, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. - Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định trên, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Như vậy, việc quyết định hình phạt sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, đối với hình phạt tiền thì căn cứ vào tình hình tài sản của người đó nên nếu có đủ căn cứ thì vẫn có thể áp dụng đồng thời hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Ví dụ như các tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện, tại khoản 5 Điều 190 Bộ luật Hình sự 2015 quy định ngoài hình phạt chính là hình phạt tiền thì pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Hình phạt tiền được áp dụng trong trường hợp nào? Theo Điều 35 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về phạt tiền như sau: - Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây: + Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định; + Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật Hình sự 2015 quy định. - Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật Hình sự 2015 quy định. - Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng. - Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, hình phạt tiền sẽ được áp dụng trong các trường hợp quy định trên. Người phạm nhiều tội nằm trong khung phạt tiền thì sẽ tổng hợp hình phạt thế nào? Theo Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây: - Đối với hình phạt chính: + Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; + Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình; + Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; - Đối với hình phạt bổ sung: + Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên. Như vậy, đối với người phạm nhiều tội nằm trong khung hình phạt tiền thì dù là hình phạt chính hay bổ sung thì khi tổng hợp hình phạt đều là cộng tất cả các mức phạt lại.
Hình thức xử phạt bổ sung có được áp dụng như một hình thức xử phạt chính không?
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung. Căn cứ khoản 1,2 Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi, bổ sung 2020: - Hình thức xử phạt chính bao gồm: + Cảnh cáo; + Phạt tiền; - Hình thức xử phạt có thể là hình thức xử phạt chính hoặc hình phạt bổ sung bao gồm: + Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; + Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính); + Trục xuất. Căn cứ khoản 3 Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi bổ sung tại khoản 8 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020: Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính [...] 8. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 21 như sau: “3. Mỗi vi phạm hành chính được quy định một hình thức xử phạt chính, có thể quy định một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung kèm theo. Hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 65 của Luật này.”. Theo đó, mỗi hành vi vi phạm chỉ được áp dụng một hình thức xử phạt chính và một hay nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Đồng thời, hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, trừ các trường hợp sau: Căn cứ theo khoản 2 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 33 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020: “Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 33. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 65 như sau: “2. Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó. Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện. Việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản này không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính.”.” Theo đó, những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm: - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong tình thế cấp thiết; - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do phòng vệ chính đáng; - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất ngờ; - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất khả kháng; - Người thực hiện hành vi không có năng lực trách nhiệm hành chính hoặc chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính. - Không xác định được đối tượng vi phạm hành chính; - Hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc hết thời hạn ra quyết định xử phạt. Tuy nhiên, về bản chất việc áp dụng các biện pháp bổ sung chỉ là những biện pháp nhằm khắc phục hậu quả mà không bị coi là hình thức xử phạt chính có thể hiểu rằng hành vi đó chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.
Có được áp dụng đồng thời hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt bổ sung không?
Trong pháp luật hình sự, hình phạt tiền có thể là hình phạt chính và cũng có thể là hình phạt bổ sung. Vậy vừa áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, vừa là hình phạt bổ sung có được không? Có được áp dụng đồng thời hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt bổ sung không? Theo điểm b khoản 1, điểm e khoản 2 và khoản 3 Điều 32 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: - Hình phạt chính và hình phạt bổ sung đều có thể là hình phạt tiền. - Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 quy định căn cứ quyết định hình phạt như sau: - Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự 2015, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. - Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định trên, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Như vậy, việc quyết định hình phạt sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, đối với hình phạt tiền thì căn cứ vào tình hình tài sản của người đó nên nếu có đủ căn cứ thì vẫn có thể áp dụng đồng thời hình phạt tiền là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Ví dụ như các tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện, tại khoản 5 Điều 190 Bộ luật Hình sự 2015 quy định ngoài hình phạt chính là hình phạt tiền thì pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Hình phạt tiền được áp dụng trong trường hợp nào? Theo Điều 35 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về phạt tiền như sau: - Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây: + Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định; + Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật Hình sự 2015 quy định. - Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật Hình sự 2015 quy định. - Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng. - Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 Bộ luật Hình sự 2015. Như vậy, hình phạt tiền sẽ được áp dụng trong các trường hợp quy định trên. Người phạm nhiều tội nằm trong khung phạt tiền thì sẽ tổng hợp hình phạt thế nào? Theo Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây: - Đối với hình phạt chính: + Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; + Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình; + Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; - Đối với hình phạt bổ sung: + Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên. Như vậy, đối với người phạm nhiều tội nằm trong khung hình phạt tiền thì dù là hình phạt chính hay bổ sung thì khi tổng hợp hình phạt đều là cộng tất cả các mức phạt lại.
Hình thức xử phạt bổ sung có được áp dụng như một hình thức xử phạt chính không?
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung. Căn cứ khoản 1,2 Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 sửa đổi, bổ sung 2020: - Hình thức xử phạt chính bao gồm: + Cảnh cáo; + Phạt tiền; - Hình thức xử phạt có thể là hình thức xử phạt chính hoặc hình phạt bổ sung bao gồm: + Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; + Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính); + Trục xuất. Căn cứ khoản 3 Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi bổ sung tại khoản 8 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020: Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính [...] 8. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 21 như sau: “3. Mỗi vi phạm hành chính được quy định một hình thức xử phạt chính, có thể quy định một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung kèm theo. Hình thức xử phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 65 của Luật này.”. Theo đó, mỗi hành vi vi phạm chỉ được áp dụng một hình thức xử phạt chính và một hay nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Đồng thời, hình thức xử phạt bổ sung chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính, trừ các trường hợp sau: Căn cứ theo khoản 2 Điều 65 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 33 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020: “Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 33. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 65 như sau: “2. Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó. Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện. Việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản này không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính.”.” Theo đó, những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, bao gồm: - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong tình thế cấp thiết; - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do phòng vệ chính đáng; - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất ngờ; - Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất khả kháng; - Người thực hiện hành vi không có năng lực trách nhiệm hành chính hoặc chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính. - Không xác định được đối tượng vi phạm hành chính; - Hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc hết thời hạn ra quyết định xử phạt. Tuy nhiên, về bản chất việc áp dụng các biện pháp bổ sung chỉ là những biện pháp nhằm khắc phục hậu quả mà không bị coi là hình thức xử phạt chính có thể hiểu rằng hành vi đó chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.