Tổng mức phạt tiền vi phạm hành chính vượt quá thẩm quyền phạt thì xử lý thế nào?
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính nhưng tổng mức phạt tiền quá thẩm quyền xử phạt thì có được ra quyết định xử phạt không? Cùng làm rõ vấn đề này qua bài viết dưới đây nhé! (1) Mức phạt tiền tối đa đối với vi phạm hành chính là bao nhiêu? Căn cứ theo quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020), mức phạt tiền tối đa đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đối với cá nhân được quy định như sau: - Phạt tiền đến 30.000.000 đồng: hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; bạo lực gia đình; lưu trữ; tín ngưỡng, tôn giáo; thi đua, khen thưởng; hành chính tư pháp; dân số; vệ sinh môi trường; thống kê; đối ngoại; - Phạt tiền đến 40.000.000 đồng: an ninh trật tự, an toàn xã hội; cản trở hoạt động tố tụng; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; giao dịch điện tử; bưu chính; - Phạt tiền đến 50.000.000 đồng: phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; bổ trợ tư pháp; y tế dự phòng; phòng, chống HIV/AIDS; văn hóa; thể thao; du lịch; quản lý khoa học, công nghệ; chuyển giao công nghệ; bảo vệ, chăm sóc trẻ em; bảo trợ, cứu trợ xã hội; phòng, chống thiên tai; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; quản lý và bảo tồn nguồn gen (trừ nguồn gen giống vật nuôi); trồng trọt (trừ phân bón); thú y; kế toán; kiểm toán độc lập; phí, lệ phí; quản lý tài sản công; hóa đơn; dự trữ quốc gia; hóa chất; khí tượng thủy văn; đo đạc và bản đồ; đăng ký doanh nghiệp; kiểm toán nhà nước; - Phạt tiền đến 75.000.000 đồng: cơ yếu; quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia; quốc phòng, an ninh quốc gia; lao động; giáo dục; giáo dục nghề nghiệp; giao thông đường bộ; giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội địa; bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm thất nghiệp; phòng, chống tệ nạn xã hội; - Phạt tiền đến 100.000.000 đồng: đê điều; khám bệnh, chữa bệnh; mỹ phẩm; dược, trang thiết bị y tế; chăn nuôi; phân bón; quảng cáo; đặt cược và trò chơi có thưởng; quản lý lao động ngoài nước; giao thông hàng hải; hoạt động hàng không dân dụng; quản lý và bảo vệ công trình giao thông; công nghệ thông tin; viễn thông; tần số vô tuyến điện; an ninh mạng; an toàn thông tin mạng; xuất bản; in; thương mại; hải quan, thủ tục thuế; kinh doanh xổ số; kinh doanh bảo hiểm; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; quản lý vật liệu nổ; điện lực; - Phạt tiền đến 150.000.000 đồng: quản lý giá; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý, phát triển nhà và công sở; đấu thầu; đầu tư; - Phạt tiền đến 200.000.000 đồng: sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; - Phạt tiền đến 250.000.000 đồng: điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thủy lợi; sở hữu trí tuệ; báo chí; - Phạt tiền đến 500.000.000 đồng: xây dựng; lâm nghiệp; đất đai; kinh doanh bất động sản; - Phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng: quản lý các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý hạt nhân và chất phóng xạ, năng lượng nguyên tử; tiền lệ, kim loại quý, đá quý, ngân hàng, tín dụng; hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; thủy sản. - Mức phạt tiền tối đa đối với các lĩnh vực: thuế; đo lường; an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; chứng khoán; cạnh tranh thì thực hiện theo quy định tại các luật tương ứng. Như vậy, tùy theo vi phạm thuộc lĩnh vực gì mà mức tiền phạt tối đa cho hành vi đó sẽ có sự khác nhau, dao động từ 30 triệu đến 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, đây chỉ là mức phạt đối với cá nhân, nếu là tổ chức thì phải chịu mức phạt gấp đôi. (2) Tổng mức phạt tiền vượt quá thẩm quyền phạt có được ra quyết định xử phạt không? Liên quan đến vấn đề này, theo điểm a khoản 4 Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) có quy định như sau: Trường hợp vụ việc vi phạm hành chính có nhiều hành vi vi phạm thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo nguyên tắc sau đây: - Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó; - Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt; - Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm. Dựa vào quy định trên, có 02 trường hợp có thể xảy ra: Trường hợp 1: Một người có nhiều hành vi vi phạm mà mức phạt đối từng hành vi vận trong thẩm quyền của người xử phạt ⇒ Người xử phạt vẫn được ra quyết định xử phạt Trường hợp 2: Một người có nhiều hành vi vi phạm mà trong đó có một hành vi có mức xử phạt vượt quá thẩm quyền của người xử phạt ⇒ Người xử phạt không ra quyết định xử phạt và chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền để cấp này xử phạt. Như vậy, việc có quyền ra quyết định xử phạt đối với trường hợp có nhiều hành vi vi phạm hành chính hay không không liên quan đến tổng mức phạt tiền. Nếu tổng mức phạt tiền vượt quá thẩm quyền phạt nhưng mức phạt tiền đối với mỗi hành vi cụ thể chưa vượt quá thẩm quyền xử phạt thì người xử phạt vẫn được ra quyết định phạt Nếu mức phạt tiền của một trong nhiều hành vi vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt thì người xử phạt mới không được ra quyết định phạt, lúc này người xử phạt phải chuyển vụ vi phạm này đến cấp có thẩm quyền để xử lý.
Các hình phạt dự kiến áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Dự thảo Luật Tư Pháp người chưa thành niên xây dựng nhằm hoàn thiện pháp luật đủ nghiêm khắc nhưng cũng bảo đảm nhân văn đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong dự thảo, các hình phạt dự kiến áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu. Việc xử lý các hành vi phạm tội của người chưa thành niên luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Người chưa thành niên phạm tội thường có những đặc điểm tâm lý, sinh lý khác biệt so với người trưởng thành. Các biện pháp xử phạt cần được cân nhắc kỹ lưỡng để vừa đảm bảo tính răn đe, vừa tạo điều kiện cho người chưa thành niên có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng. Gần đây, nhiều đề xuất về các hình phạt mới đã được đưa ra nhằm cải thiện hiệu quả của hệ thống tư pháp đối với đối tượng này. (1) Các hình phạt dự kiến áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội Nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội ở người chưa thành niên thường xuất phát từ nhiều yếu tố như môi trường gia đình, xã hội, sự thiếu hiểu biết pháp luật và thiếu sự quan tâm, giáo dục từ người lớn. Việc xử lý không đúng cách có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, khiến họ trở thành tội phạm chuyên nghiệp. Theo Điều 90 dự thảo Luật tư pháp người chưa thành niên quy định các hình phạt bao gồm: Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đối với mỗi tội phạm: - Cảnh cáo. - Phạt tiền. - Cải tạo không giam giữ. - Tù có thời hạn. - Trong đó, theo Điều 91 dự thảo quy định về cảnh cáo như sau: Cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do vô ý và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa mức miễn hình phạt. - Hình phạt phạt tiền được quy định theo Điều 92 dự thảo: + Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. + Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu người đó có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật quy định. - Theo Điều 93 dự thảo đề cập đến cải tạo không giam giữ như sau: + Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. + Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. - Đối với hình phạt tù có thời hạn, mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 94 dự thảo: + Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật quy định. + Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định. Bài được viết theo dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/24/du-thao-luat-chua-thanh-nien.pdf (2) Giảm mức hình phạt đã tuyên Theo Điều 98 dự thảo Tư pháp người chưa thành niên quy định về việc giảm mức hình phạt đã tuyên như sau: - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại. Tóm lại, đối với đối tượng là người chưa thành niên, dự thảo đề xuất các biện pháp bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Bên cạnh đó, nếu người chưa thành niên có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn; lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn sẽ được xem xét giảm mức hình phạt đã tuyên. Bài được viết theo dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/24/du-thao-luat-chua-thanh-nien.pdf
Đùa giỡn bắn súng hơi thể thao vào bạn, gây thương tích nặng bị xử phạt thế nào?
Bài viết này đề cập đến súng hơi thể thao (airsoft), loại súng đang được bán tràn lan trên mạng hiện nay. Vậy súng hơi thể thao là gì? Đùa giỡn bắn súng hơi vào bạn, gây thương tích nặng bị xử phạt thế nào? (1) Súng hơi thể thao là gì? Ai được sử vũ khí thể thao Theo khoản 4 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 quy định: Vũ khí thể thao là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, được sử dụng để luyện tập, thi đấu thể thao, bao gồm: - Súng trường hơi, súng trường bắn đạn nổ, súng ngắn hơi, súng ngắn bắn đạn nổ, súng thể thao bắn đạn sơn, súng bắn đĩa bay và đạn sử dụng cho các loại súng này; - Vũ khí thô sơ dùng để luyện tập, thi đấu thể thao. Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 24 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 quy định đối tượng được trang bị vũ khí thể thao gồm có: - Quân đội nhân dân; - Dân quân tự vệ; - Công an nhân dân; - Câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao có giấy phép hoạt động; - Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh; - Cơ quan, tổ chức khác được thành lập, cấp phép hoạt động trong luyện tập, thi đấu thể thao. Như vậy, súng hơi thể thao là loại súng chỉ được cấp cho một số đối tượng tại khoản 1 Điều 24 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017. Những người không thuộc đối tượng được trang bị vũ khí thể thao theo phạm vi quản lý của Bộ Quốc Phòng nêu trên thì phải có Giấy phép trang bị vũ khí thể thao theo các thủ tục trang bị vũ khí thể thao theo quy định tại Điều 25 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017. Tuy nhiên hiện nay, với một vài từ khóa đơn giản, không khó để tìm ra nhiều trang web bán các loại súng hơi thể thao (airsoft) cùng nhiều công cụ hỗ trợ khác mà người không có giấy phép cũng có thể mua được. Theo người bán, người mua thể sử dụng chúng để "tự vệ". Không ít bạn trẻ mua súng hơi phần vì tò mò, phần vì để cho “oai” và “phòng thân” tuy nhiên, đằng sau những vũ khí có tính sát thương, gây nguy hiểm cho con người là những nguy cơ phạm tội tiềm ẩn. Người mua bán và người sử dụng vũ khí thể thao mà không có giấy phép hoặc không thuộc đối tượng được trang bị vũ khí thể thao là hành vi vi phạm pháp luật. (2) Đùa giỡn bắn súng hơi vào bạn, gây thương tích nặng bị xử phạt thế nào? Súng hơi thể thao với tính chất là một loại vũ khí có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe con người, nó tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, hoặc cũng có thể vô tình hoặc hữu ý trở thành phương tiện phạm tội. . Người có hành vi sử dụng súng hơi thể thao tùy vào tính chất, mức độ của hành vi mà có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Về xử lý hành chính: Hành vi sử dụng súng hơi có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP "sử dụng vũ khí mà không có giấy phép". Theo đó, mức phạt tiền đối với hành vi này là từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng, đồng thời sẽ bị tịch thu vũ khí. Về truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo Điều 306 Bộ Luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định: Người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các loại vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự như súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao đã bị xử phạt hành chính mà còn tái phạm thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Phạm tội trên mà thuộc các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: - Có tổ chức; - Có 11 đơn vị súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ hoặc vũ khí không thuộc danh mục vũ khí do Chính phủ ban hành nhưng có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng trở lên; - Vận chuyển, mua bán qua biên giới; - Làm chết 01 người trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; - Gây thiệt hại về tài sản 100.000.000 đồng trở lên; - Tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Bên cạnh đó, nếu sử dụng súng hơi thể thao mà gây tổn hại đến sức khỏe và tính mạng của người khác còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Việc mua, bán, sử dụng súng hơi thể thao hiện nay khá phức tạp, đa phần là mua bán trên mạng và không rõ danh tính người bán. Nhiều người mua ngoài mục đích “tự vệ” còn có mục đích phạm tội. Do đó, tuyệt đối không mua, bán, sở hữu vũ khí thể thao, không sử dụng súng hơi để đùa giỡn bắn vào người khác vì đó là hành vi vi phạm pháp luật, nếu sau đó có dẫn đến các hành vi gây thương tích, gây chết người thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh trên.
Cách xác định tuổi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nếu tội phạm là người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) thì sẽ được áp dụng các thủ tục tố tụng đặc biệt để phù hợp với lứa tuổi này. Vậy, việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như thế nào? Cách xác định tuổi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi: - Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. - Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định: + Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. + Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Có thể thấy, trong các trường hợp không thể xác định được chính xác tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội thì pháp luật luôn quy định một cách có lợi nhất để có thể đảm bảo độ tuổi được xác định không nhỏ hơn tuổi thật của người đó. Những căn cứ nào dùng để xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội? Theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định về phối hợp trong việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi như sau: - Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: + Giấy chứng sinh; + Giấy khai sinh; + Chứng minh nhân dân; + Thẻ căn cước công dân; + Sổ hộ khẩu; + Hộ chiếu. - Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu trên có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó. Như vậy, các căn cứ để xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: giấy chứng sinh, khai sinh, CMND, CCCD, sổ hộ khẩu, hộ chiếu. Nếu không xác định được qua các giấy tờ này thì phải có sự phối hợp với gia đình, người đại diện và các tổ chức khác. Người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì sẽ xử lý như thế nào? Theo Điều 103 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội như sau: - Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015. Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội. - Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định - Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Như vậy, khi người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa sẽ quyết định hình phạt với riêng từng tội và tổng hợp lại theo quy định. Việc tổng hợp tội phải đảm bảo mức hình phạt cao nhất đối với cải tạo không giam giữ không quá 03 năm, đối với tù có thời hạn không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.
Đề xuất khung hình phạt tối đa 15 năm tù cho người chưa thành niên
Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên được xây dựng để đảm bảo việc thực hiện pháp luật đối với người chưa thành niên vừa mang tính nghiêm khắc, vừa mang tính nhân văn… (1) Các hình thức xử phạt người chưa thành niên Việc áp dụng khung hình phạt tù đối với người chưa thành niên là điều thường gây tranh cãi. Các tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được thực hiện bởi người chưa thành niên rất được xã hội quan tâm, trong đó hình phạt dành cho bị cáo chưa thành niên là được quan tâm nhất. Như mới gần đây, vụ án thiếu nữ 15 tuổi ở Hải Phòng bị bạn trai sát hại, nghi phạm của vụ án cũng đang trong tuổi chưa thành niên và đang học lớp 9. Trong xã hội đã xuất hiện nhiều luồng ý kiến trái chiều về mức hình phạt sẽ được áp dụng trong trường hợp này. Nghi phạm T được cho là hung thủ trong vụ sát hại thiếu nữ ở Hải Phòng chỉ mới học lớp 9. Xem Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/18/Du_thao_Luat_Tu_phap_nguoi_chua_thanh_nien.pdf Theo Điều 90 dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm: - Cảnh cáo; - Phạt tiền; - Cải tạo không giam giữ; - Tù có thời hạn. Trong đó, có một hình thức xử phạt mới là cảnh cáo. Theo điều 91 Luật Tư pháp người chưa thành niên, cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do vô ý và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Bên cạnh phạt cảnh cáo, nếu người chưa thành niên vi phạm các các tội được quy định trong Bộ Luật Hình sự thì sẽ áp dụng các biện pháp xử phạt như người đã thành niên tuy nhiên mức phạt có nhiều điểm khác biệt. (2) Khung hình phạt dành cho người chưa thành niên phạm tội Mức phạt của người chưa thành niên đối với các tội được quy định trong Bộ Luật Hình sự thường sẽ được giảm một nửa hoặc hai phần ba so với mức phạt dành cho một người đã thành niên. Xem Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/18/Du_thao_Luat_Tu_phap_nguoi_chua_thanh_nien.pdf Cụ thể, hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 92 Luật Tư pháp người chưa thành niên như sau: - Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. - Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu người đó có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật quy định. Hay hình đối với hình thức phạt cải tạo không giam giữ được quy định tại Điều 93 Luật Tư pháp người chưa thành niên như sau: - Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. - Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. Tương tự đối với hình phạt tù có thời hạn, người chưa thành niên cũng sẽ được giảm nhẹ mức phạt so với khung hình phạt được quy định trong luật. Theo Điều 94 Luật Tư pháp người chưa thành niên, người chưa thành niên bị áp dụng hình thức phạt tù có thời hạn được quy định như sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật quy định. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định. Như vậy, khung hình phạt tù có thời hạn tối đa mà dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên đề xuất cho người chưa thành niên phạm tội là không quá 15 năm, nếu người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì phạt tù tối đa không qua 09 năm. Người chưa thành niên mà phạm các tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt tù chung thân, tử hình thì sẽ được miễn áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, điều này thể hiện sự nhân từ của pháp luật đối với ngưởi chưa thành niên, mong muốn cho họ có thể làm lại cuộc đời, sửa chữa sai lầm. Theo dự kiến, dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp 7 vào tháng 5 tới. Xem Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/18/Du_thao_Luat_Tu_phap_nguoi_chua_thanh_nien.pdf
Hình phạt của tội trốn thuế và rửa tiền là gì?
Ngày 26/3 vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang tuyên án hình sự sơ thẩm bị cáo Ngô Phú Cường, ngụ thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang về tội "Trốn thuế" và “Rửa tiền” sau nhiều ngày xét xử và nghị án. (1) Từ trốn thuế đến rửa tiền. Theo bản cáo trạng, bị cáo Ngô Phú Cường đã thành lập và điều hành 04 công ty là công ty TNHH Phú Cường, các công ty TNHH Cường Cát, Sông Thoại, Ngô Phú Cường cùng 1 chi nhánh để mua bán cát. Trong lúc hoạt động kinh doanh, bị cáo Cường đã mua cát không rõ nguồn gốc tại tỉnh An Giang và Đồng Tháp sau đó bán cho các công ty tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và thành phố HCM. Tuy nhiên, Cường không xuất hóa đơn, kê khai thuế không đúng doanh thu bán ra nhằm làm giảm số tiền thuế GTGT phải nộp. Năm 2017, Cường biết Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh An Giang bán lô đất gần 3.000m2 của một công ty đang thế chấp vay tiền ngân hàng không còn khả năng thanh toán nợ. Cường liên hệ với ngân hàng, chủ lô đất thỏa thuận mua với giá hơn 30 tỷ đồng. Bị cáo Cường đã thanh toán chuyển khoản 8 tỷ cho Ngân hàng Công thương Việt Nam tỉnh An Giang, số còn lại Cường thanh toán bằng tiền mặt. Cơ quan chức năng nhận định, hành vi của Cường khi bán cát không xuất hóa đơn giá trị gia tăng, kê khai thuế không đúng gây thất thu tiền thuế nhà nước hơn 8 tỷ đồng. Việc Cường sử dụng nguồn tiền trốn thuế giá trị gia tăng để trả tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng gần 3.000m2 đất là hành vi rửa tiền. Vì thế, Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Ngô Phú Cường 4,5 tỷ đồng sung vào ngân sách Nhà nước tội “Trốn thuế”. Đồng thời, truy thu để tịch thu sung vào ngân sách số tiền hơn 8 tỷ đồng mà bị cáo Cường đã trốn thuế. Đối với tội “Rửa tiền”, Hội đồng xét xử tuyên án bị cáo Cường 3 năm tù giam, đồng thời phạt bổ sung 100 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà nước. (Nguồn: tham khảo từ trang báo điện tử nhandan.vn) (2) Tội trốn thuế bị xử khung hình phạt thế nào? Trốn thuế là tập hợp các hành vi vi phạm pháp luật nhằm làm giảm hoặc không phải đóng thuế theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 200 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bởi khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Hình sự 2017, người thực hiện các hành vi sau đây thì được coi là phạm tội trốn thuế: - Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; - Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; - Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; - Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; - Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; - Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 Bộ Luật Hình sự 2015; - Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; - Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa; - Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. Cá nhân trốn thuế bao nhiêu tiền thì bị xử lí hình sự? Căn cứ theo quy định tại Điều 200 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Hình sự 2017 thì mức tiền trốn thuế bị xử lý hình sự đối với cá nhân như sau: - Từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng: + Đối với các hành vi trốn thuế quy định tại khoản 47 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017. + Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm - Dưới 100.000.000 đồng: + Đối với hành vi đã bị xử phạt vi phạm hành chính về tội trốn thuế + Đối với hành vi đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật Hình sự 2015 chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. + Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. - Từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm - Từ 1.000.000.000 đồng trở lên: Phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. (3) Tội rửa tiền bị xử lí ra sao? Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống rửa tiền 2013 có quy định rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Tội rửa tiền được thành lập khi cá nhân có các hành vi sau đây: - Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có; - Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác; - Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó; - Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có. Căn cứ tại Điều 324 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bởi khoản 122 Điều 1 Luật sửa đổi bộ Luật Hình sự 2017, tội rửa tiền sẽ bị xử theo các mức phạt sau: - Người thực hiện một trong các hành vi rửa tiền nêu trên bị phạt tù từ 01 năm đên 05 năm. - Người thực hiện hành các hành vi rửa tiền mà thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: + Có tổ chức; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Có tính chất chuyên nghiệp; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; + Tiền, tài sản phạm tội trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; + Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; + Tái phạm nguy hiểm. - Người thực hiện các hành vi rửa tiền mà thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: + Tiền, tài sản phạm tội trị giá 500.000.000 đồng trở lên; + Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên; + Gây ảnh hưởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Ngoài ra, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam, tiền thuế sẽ được Nhà nước sử dụng để phát triển đất nước, ổn định xã hội. Mỗi công dân nên có ý thức về việc đóng thuế, tránh thực hiện các hành vi phạm tội, vừa bị phạt tù, truy thu lại tiền đã trốn thuế, còn bị phạt thêm tiền.
Hướng dẫn cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân
Bộ Công an hướng dẫn, thực hiện một số nội dung trong công tác cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân. Theo đó, kể từ ngày 21/11/2023, công dân có Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt bị mất, thất lạc hoặc hư hỏng; có yêu cầu, nguyện vọng được cơ quan hồ sơ nghiệp vụ thuộc Bộ Công an xem xét cấp bản sao; thủ tục, trình tự giải quyết được thực hiện thông qua Công an cấp xã, phường, thị trấn nơi công dân đang cư trú (Cục Hồ sơ nghiệp vụ không trực tiếp tiếp nhận, trả kết quả cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân). Việc xem xét, giải quyết yêu cầu cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân được thực hiện trên cơ sở đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục đích chính đáng; trong đó lưu ý: - Công dân khi có yêu cầu cung cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt phải có Đơn xin cấp bản sao tài liệu (viết tay hoặc đánh máy theo mẫu) gửi đến Công an cấp xã nơi công dân đang cư trú để được tiếp nhận, giải quyết. - Nội dung Đơn của công dân phải nêu rõ thông tin lai lịch bản thân (gồm họ tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú, số căn cước công dân/ số hộ chiếu....); lý do, mục đích, phạm vi, loại tài liệu, số lượng bản sao cần cung cấp; các thông tin về quá trình chấp hành hình phạt và các biện pháp xử lý hành chính và các thông tin cần thiết khác có liên quan đến tài liệu cần cung cấp. - Trường hợp công dân xin cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt của người khác phải có văn bản ủy quyền theo quy định; trường hợp không có văn bản ủy quyền phải có tài liệu chứng minh được mục đích đề nghị, mối quan hệ với người có tên trong Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cả nhân đó. Tham khảo: Trước đó, ngày 17/8/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 22/2023/QĐ-TTg về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù, như sau: Điều kiện vay vốn Có nhu cầu vay vốn; có tên trong danh sách người chấp hành xong án phạt tù về cư trú tại địa phương, chấp hành tốt các quy định của pháp luật, không tham gia các tệ nạn xã hội, do Công an cấp xã lập và được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận theo Mẫu số 01. Xem và tải Mẫu số 01 https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/08/19/mau-so-01.docx Thời gian kể từ khi chấp hành xong án phạt tù đến thời điểm vay vốn tối đa là 05 năm. Phương thức cho vay Thực hiện phương thức cho vay thông qua hộ gia đình. Đại diện hộ gia đình của người chấp hành xong án phạt tù là người đứng tên vay vốn và giao dịch với Ngân hàng Chính sách xã hội. Trường hợp trong hộ gia đình không còn thành viên nào từ đủ 18 tuổi trở lên hoặc thành viên còn lại không còn sức lao động, không có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật thì người chấp hành xong án phạt tù trực tiếp đứng tên vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội; Ngân hàng Chính sách xã hội nơi cho vay thực hiện cho vay theo phương thức ủy thác cho các tổ chức chính trị - xã hội Mức vốn cho vay Đối với vay vốn để đào tạo nghề Mức vốn cho vay tối đa là 04 triệu đồng/tháng/người chấp hành xong án phạt tù. Đối với vay vốn để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm - Người chấp hành xong án phạt tù: Mức vốn cho vay tối đa là 100 triệu đồng/người chấp hành xong án phạt tù. - Cơ sở sản xuất kinh doanh: Mức vốn cho vay tối đa là 02 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng/người lao động tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay - Lãi suất cho vay bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo quy định theo từng thời kỳ. - Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Xem chi tiết tại Quyết định 22/2023/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ 10/10/2023.
Tổng hợp hình phạt trong nhiều bản án
Cho em hỏi cách tổng hợp hình phạt trong trường hợp sau: Một người đang chấp hành hình phạt tù 15 năm, khi chấp hành được 8 năm thì được giảm hình phạt đã tuyên xuống còn 12 năm. Sau đó bị xét xử 1 tội mới với hình phạt tù 5 năm. Vậy tổng hợp hình phạt chung 2 bản án phải chấp hành là: (12-8)+5=9 (năm) phải không ạ.
Giáo viên phạm tội nhưng có nhiều đóng góp trong giáo dục thì có được giảm án?
Một số trường hợp giáo viên phạm tội, nhưng họ là người thầy, người cô có tâm huyết với nghề, đạt được nhiều thành tích, có nhiều đóng góp to lớn trong ngành giáo dục, được mọi người quý trọng, yêu mến. Vậy khi họ phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì những đóng góp của họ trong ngành có được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không? 1. Giáo viên phạm tội nhưng có nhiều đóng góp trong hoạt động giáo dục thì có được giảm án? Căn cứ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi điểm a, b khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định: Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: - Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; - Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; - Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; - Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; - Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; - Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; - Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; - Phạm tội do lạc hậu; - Người phạm tội là phụ nữ có thai; - Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; - Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; - Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; - Người phạm tội tự thú; - Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; - Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; - Người phạm tội đã lập công chuộc tội; - Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; - Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. Theo đó, có quy định người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cho nên, trường hợp giáo viên phạm tội nhưng là người có nhiều đóng góp trong giáo dục thì cũng có thể được xem là có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. 2. Quyết định hình phạt và quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thế nào? Căn cứ theo Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015, Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có các quy định: Căn cứ quyết định hình phạt 1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. 2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Theo đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trường hợp áp dụng hình phạt tiền thì Tòa án còn căn cứ thêm tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Tòa án cũng có thể xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. Như vậy, giáo viên phạm tội nhưng có nhiều đóng góp trong hoạt động giáo dục thì có thể được xem xét giảm án theo như các quy định trên.
Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có bị xử phạt không?
Hiện nay, Có nhiều hành vi quảng cáo rượu để buôn bán thu hút khách hàng hơn. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp quảng cáo rượu với các hình thức trái quy định pháp luật. Vậy trường hợp Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu thì bị xử phạt vi phạm hành chính như thế nào? Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng rượu bia? Hiện nay, Có nhiều hành vi quảng cáo rượu để buôn bán thu hút khách hàng hơn. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp quảng cáo rượu với các hình thức trái quy định pháp luật. Theo đó, đối với hành vi kể trên được xem là một trong những hành vi bị cấm bởi pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật Phòng chống tác hại của rượu bia 2019 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống tác hại của rượu, bia như sau: - Xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia. - Người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia. - Bán, cung cấp, khuyến mại rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi. - Sử dụng lao động là người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc sản xuất, mua bán rượu, bia. - Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân, học sinh, sinh viên uống rượu, bia ngay trước, trong giờ làm việc, học tập và nghỉ giữa giờ làm việc, học tập. - Điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. - Quảng cáo rượu có độ cồn từ 15 độ trở lên. - Cung cấp thông tin không chính xác, sai sự thật về ảnh hưởng của rượu, bia đối với sức khỏe. - Khuyến mại trong hoạt động kinh doanh rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên; sử dụng rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức. - Sử dụng nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến không được phép dùng trong thực phẩm; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm không bảo đảm chất lượng và không rõ nguồn gốc, xuất xứ để sản xuất, pha chế rượu, bia. - Kinh doanh rượu không có giấy phép hoặc không đăng ký; bán rượu, bia bằng máy bán hàng tự động. - Kinh doanh, tàng trữ, vận chuyển rượu, bia giả, nhập lậu, không bảo đảm chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, nhập lậu rượu, bia. - Các hành vi bị nghiêm cấm khác liên quan đến rượu, bia do luật định. Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có bị xử phạt không? (Hình từ internet) Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu bị xử phạt hành chính như thế nào? Việc sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu là một trong những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. - Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định 117/2020/NĐ-CP đã có quy định về việc xử phạt hành vi này như sau: Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu, bia. Mức phạt nêu trên là mức phạt đối với cá nhân vi phạm, mức phạt tiền cao nhất có thể lên đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu. - Căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Nghị định 117/2020/NĐ-CP, quy định về mức phạt tiền đối với tổ chức có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu như sau: Mức phạt tiền được quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt tiền đối với cá nhân. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Theo đó, tổ chức có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Ngoài bị phạt tiền ra, cá nhân hoặc tổ chức vi phạm còn phải chịu biện pháp khắc phục hậu quả như sau: Buộc thu hồi, gỡ quảng cáo để loại bỏ yếu tố vi phạm đối với hành vi Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu. Như vậy, Mức phạt tiền đối với cá nhân có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Đối với tổ chức có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức còn bị buộc thu hồi, gỡ quảng cáo để loại bỏ yếu tố vi phạm đối với hành vi Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu theo quy định.
Cấm đi khỏi nơi cứ trú theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng quy định rõ biện pháp này. Cấm đi khỏi nơi cư trú Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Nghĩa vụ của bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú Theo quy định bị can, bị cáo cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: - Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép; - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan nêu trên thì bị tạm giam. Thẩm quyền quyết định và thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú Theo quy định tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì những người sau đây, có thẩm quyền quyết định ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; - Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; - Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Theo quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Đồng thời, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền. Theo quy định của điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 ở trên, ta thấy biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với mọi loại tội phạm; người được áp dụng biện pháp này phải có có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, phải làm giấy cam đoan, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập. Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của người đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.
Quy định về xử phạt hành vi hủy hoại tiền
Theo quy định tại Điều 3 Quyết định số 130/2003/QĐ-TTg, Điều 23 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 về các hành vi bị cấm liên quan đến đồng tiền Việt Nam, cụ thể: - Làm tiền giả; vận chuyển, tàng trữ, lưu hành tiền giả. - Huỷ hoại đồng tiền trái pháp luật. - Từ chối nhận, lưu hành đồng tiền đủ tiêu chuẩn lưu thông do Ngân hàng Nhà nước phát hành. - Sao chụp tiền Việt Nam với bất kỳ mục đích nào không có sự chấp thuận trước bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước. - Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, việc một số người dùng tiền để gấp hoa, trang trí tranh, cây thần tài nhưng không cắt, xé, đốt, làm biến dạng ảnh hưởng đến giá trị có thể sử dụng được sau khi trang trí thì hành vi đó chưa có dấu hiệu phạm hủy hoại tiền và không vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tiền Việt Nam. Do đó, đối với những hành vi cắt, xé, đốt, phá hoại tiền của người khác là hành vi phạm tội lần đầu, với tính chất và mức độ nhẹ thì có thể bị phạt hành chính từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Tuy nhiên nếu đó là hành vi tái phạm, đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, tiền là di vật, cổ vật của người khác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hình phạt lúc này sẽ phải chịu đối với hành vi trên là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, đối với các hành vi hủy hoại tiền ngoài phải chịu phạt hành chính từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng thì nếu tái phạm thì có thể bị chịu hình phạt tù cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Rút kinh nghiệm xét xử vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy theo thủ tục giám đốc thẩm
Ngày 30/11/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND tối cao về vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” để xét xử phúc thẩm lại. Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 7) thông báo rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, quyết định hình phạt đối với bị cáo. nhàm bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 27/02/2019, Nguyễn Văn H điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Khoa Vũ N đi từ thành phố Huế đến tỉnh Quảng Trị để vận chuyển ma túy của Lương Đình V và Nguyễn Thị N vào tỉnh Thừa Thiên Huế giao cho Phạm Hoàng M nhận tiền công 20 triệu đồng: Cùng ngày, H gặp V tại bãi đỗ xe của khách sạn Bảo Sơn, V cho H 04 viên ma túy tổng hợp đề sử dụng. H lấy 04 viên ma túy tổng hợp cất giấu vào ngăn đựng phía trước xe ô tô. Ngày 01/3/2019, N đến phòng nghỉ gặp H nói có ma túy rồi xuống khu vực Massage của khách sạn Bảo S để nhận. H và N đi xuống khu vực Massage và bãi đỗ xe, H bảo N vào ngồi trong xe ô tô. Còn H ngồi ở ghế lái, V đi đến mở cửa sau bên trái ô tô biển kiểm soát 75A-095.59 bỏ 01 túi xách phía ghế sau. Sau đó, H điều khiển xe ô tô chở N về thành phố Huế. Quá trình bị lực lượng chức năng kiểm tra Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 01/3/2019, H điều khiển xe ô tô đến quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã Hải Trường, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị thì bị lực lượng chức năng phát hiện kiểm tra bắt quả tang thu giữ tang vật 01 gói ma túy tổng hợp có khối lượng 997,7547 gam Methamphetamine, 04 viên nén màu hồng có khối lượng 0,3947 gam Methamphetamine và một số tài sản khác. Quá trình điều tra, ngày 21/5/2019, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Trị tiến hành khám xét ô tô biển kiểm soát 75A-095.59, Nguyễn Khoa Vũ N giao nộp 10 gói ma túy tổng hợp được cất giấu trên cửa cách nhiệt phía trên trần xe ô tô có khối lượng 198,8713 gam Methamphetamine. Quá trình giải quyết vụ án (1) Bản án sơ thẩm Tại Bản án hình sự sơ thẩm ngày 18/02/2020, TAND tỉnh Quảng Trị áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm a, khoản 1, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 01 năm tù về tội “Tàng trữ' trái phép chất ma túy”; Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội là 21 năm tù. Áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm r, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt Nguyễn Khoa Vũ N tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. (2) Bản án phúc thẩm Ngày 25/02/2020, Nguyễn Khoa Vũ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 12/3/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Kháng nghị số 12/QĐ-VC2 kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Văn H từ 20 năm tù lên tù chung thân. Tại Bản án hình sự phúc thẩm 154/2021/HSPT ngày 07/4/2021, TAND cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. Theo đó, giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với Nguyễn Văn H; chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Khoa Vũ Ngân từ chung thân xuống 20 năm tù. (3) Bản án giám đốc thẩm Ngày 28/02/2022, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Kháng nghị số 03/QĐ-VKSTC-V7 kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên theo hướng đề nghị hủy phần trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn H để xét xử phúc thẩm lại. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không đúng với các tình tiết, nội dung vụ án bởi lẽ: - Chiếc xe ô tô là do H mượn của em trai ruột của H, không phải xe ô tô của Ngân. - Lời khai của N là chính xác, phù hợp với diễn biến và kết quả khám xét ngày 21/5/2019. - Khi lập biên bản niêm phong xe ô tô ngày 01/3/2019 thì H, N đều đã chứng kiến và ký vào biên bản niêm phong. - Khi mở niêm phong xe ô tô ngày 21/5/2019 bảo đảm thực hiện đúng theo quy định tại Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tại đó, có sự chứng kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến là ông Nguyễn Đức Hiếu nên việc khám xét xe ô tô bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật. Do đó, có đủ cơ sở xác định Nguyền Văn H cùng Nguyễn Khoa Vũ N tham gia vận chuyển trái phép 1.196,2313 gam Methamphetamine. Thứ hai, bị cáo Nguyễn Văn H giữ vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Khoa Vũ N, là người chủ động, trực tiếp điều khiển xe ô tô vận chuyển ma túy. H hướng dẫn bị cáo N cất giấu ma túy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá vai trò của hai bị cáo ngang nhau, từ dó quyết định mức hình phạt ngang nhau là không chính xác. Hành vi phạm tội của H thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 250 Bộ luật hình sự 2015, có khung hình phạt từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khối lượng ma túy vận chuyển cao hơn gần 10 lần so với mức khởi điểm 100 gam và bị cáo H không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù. Mức án khởi điểm của khung hình phạt là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, không công bằng với các bị cáo khác bị xét xử hình phạt tử hình khi vận chuyển trái phép với khối lượng ma túy tương tự. Kể cả trường hợp bị cáo H chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vận chuyển trái phép 997,7547 gam Methamphetamine nên cần xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đà kịp thời phát hiện và báo cáo đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao ban hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tải bản án tại đây bản án
Trường hợp nào người phạm tội không được hưởng án treo?
Hưởng án treo được xem là biện pháp khoan hồng của pháp luật đối với những đối tượng vi phạm pháp luật hình sự ở mức độ nhẹ cũng như có lý lịch nhân thân tốt để họ có cơ hội sửa sai. Dù vậy, không phải bất kỳ đối tượng nào cũng được hưởng án treo. Vậy, trong trường hợp nào người phạm tội không được hưởng án treo? 1. Án treo là gì? Án treo là một biện pháp miễn chấp hành phạt tù áp dụng cho các tội phạm có mức án nhẹ và nhân thân, lý lịch tốt được Tòa án xem xét và quyết định cho hưởng án treo. Cụ thể, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP 2. Khi nào áp dụng án treo đối với người phạm tội? Người phạm tội được hưởng án treo theo từ phán quyết của Tòa án và tuân thủ Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 và chấp hành các biện pháp tại quy định này như sau: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. Thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2019. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Bệnh cạnh đó, gia đình của người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2019 từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015. 3. 06 trường hợp không áp dụng án treo Theo Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi bởi Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP) quy định những trường hợp người phạm tội sẽ không được hưởng án treo bao gồm: (1) Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. (2) Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. (3) Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo. (4) Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi. - Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể. (5) Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi. - Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng. - Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể. - Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú. (6) Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Như vậy, người phạm tội dù có hành vi vi phạm không đáng kể nhưng tái phạm, có tính chất chuyên nghiệp, chủ mưu và có những hành vi không chấp hành các biện pháp của cơ quan có thẩm quyền thì sẽ không được hưởng án treo.
Trường hợp nào được giảm mức hình phạt đã tuyên?
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế cao nhất trong hệ thống xử lý hình sự đối với một cá nhân hay pháp nhân thương mại. Một khi Tòa án ra quyết định hay bản án có hiệu lực thì người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, trong một số trường hợp được quy định cụ thể thì người đang chấp hành hình phạt tù vẫn có thể giảm mức hình phạt đã tuyên. Vậy đó là những trường hợp nào? Giảm mức hình phạt đã tuyên là gì? Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc Tòa án căn cứ vào lời đề nghị của các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát và giáo dục người phạm tội, để ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt. Một người sẽ được Tòa án ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt khi trong thời gian chấp hành hình phạt đó người phạm tội có nhiều điểm tiến bộ; tích cực chấp hành các quy định. Khi nào được giảm mức hình phạt đã tuyên? Giảm mức hình phạt tù là một trong những chính sách nhân đạo của pháp luật Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước đối với phạm nhân, căn cứ Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 quy định giảm mức hình phạt đã tuyên như sau: (1) Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân đáp ứng được các điều kiện sau đây: - Đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định. - Có nhiều tiến bộ trong cải tạo. - Đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. Thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 1/3 thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân. (2) Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được 1/2 mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm. (3) Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm khi đã chấp hành được 15 năm tù nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm. (4) Người đã được giảm một phần hình phạt mà thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung. (5) Người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo mục (3). (6) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm. Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt Tòa án sẽ xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt sớm hơn hoặc cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm: - Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công. - Người đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Như vậy, người phạm tội đang chấp hành hình phạt tù có thể được giảm mức án đã tuyên khi đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Các quy định về hình phạt không những vì mục đích trừng phạt các hành vi xâm phạm đến các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ pháp luật. Bên cạnh đó, khi một hình phạt áp dụng cho một hoặc một số hành vi phạm tội thì vấn đề này không đồng nghĩa với việc hình phạt phải được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ trên thực tế mà dựa trên ý thức và mức độ của người phạm tội. Qua đó, giúp người phạm tội ăn năn, hối cải, nhận thức được sai lầm của mình mà còn tạo động lực cho họ trong việc phấn đấu cải tạo tốt nhằm hưởng các chính sách khoan hồng của Nhà nước.
Nhận biết tín dụng đen và các hình phạt khi hoạt động tín dụng đen?
Những dấu hiệu nhận biết tín dụng đen? Hiện nay, tín dụng đen vẫn chưa được pháp luật quy định cụ thể khái niệm như thế nào là tín dụng đen. Tuy nhiên, thực tế có thể hiểu tín dụng đen là một hình thức cho vay tín dụng với lãi suất cao hơn quy định của pháp luật từ các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động cho vay tiền nhưng không đăng ký kinh doanh và không được sự cấp phép của nhà nước. Tín dụng đen hay còn gọi là cho vay nặng lãi có các dấu hiệu nhận biết sau đây: Về thủ tục cho vay: thủ tục rất đơn giản, có hoặc không có tài sản thế chấp vẫn vay được. Người vay chỉ cần chụp hình giấy tờ tùy thân gửi bên cho vay là hoàn tất thủ tục vay. Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay vượt mức lãi suất theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 về tội “ Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” thì: Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100 triệu đồng trở lên thì bị phạt tiền 200 triệu đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm… Về hình thức cho vay: Các hợp đồng, giao dịch vay tiền thường được soạn thảo và ký nhận với nội dung giả tạo để che dấu mức lãi suất bất hợp pháp và tạo điều kiện cho chủ nợ dễ dàng khống chế con nợ để thu được nợ đồng thời cũng là ràng buộc pháp lý để khi con nợ không trả được thì chủ nợ có thể đề nghị cơ quan pháp luật xử lý bằng hình sự với con nợ. Hình thức thu hồi nợ: Khi đến hạn mà các con nợ không trả thì bên cho vay sẽ có các hình thức đòi nợ mang tính chất côn đồ như: thuê giang hồ đến tận nhà để quấy rối, khủng bố tinh thần hoặc nặng hơn là gây thương tích cho người khác để đòi được nợ. Ngoài ra, còn rất nhiều chiêu trò xâm phạm đến hình ảnh cá nhân như đăng giấy đòi nợ công khai lên mạng xã hội hoặc khung bố tin nhắn, cuộc gọi 24/24…. Hình phạt khi hoạt động tín dụng đen? Căn cứ Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) ,người phạm tội cho vay nặng lãi (tín dụng đen) bị xử lý như sau: - Cho vay trong giao dịch dân sự với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Theo đó, nếu thấy các quảng cáo hoặc lời mời gọi vay tiền nhanh chóng, đơn giản thì người dân nên cẩn thận và cảnh báo đến những người xung quanh
Vi phạm tội giả mạo chữ ký trong công tác bị xử lý ra sao?
Chữ ký và điểm chỉ (dấu vân tay) là một trong những dấu hiệu xác thực từ người thực hiện để đảm bảo hơn việc người tham gia hợp đồng giao dịch. Bởi không ít trường hợp các bên sau khi ký vào các hợp đồng, giao dịch nhưng sau đó vì lý do, mục đích nhất định đã chối bỏ, phủ nhận chữ ký của mình nên xảy ra tranh chấp. Vừa qua, sự việc một cựu cán bộ công chức trong thi hành nhiệm vụ đã giả mạo chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng đất và đang được khởi tố. Điều này gây ra rất nhiều thiệt hại cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, vậy tội giả mạo chữ ký sẽ bị xử lý ra sao? Giả mạo chữ ký là gì? Trước tiên chữ ký được hiểu như sau: Đây là một dạng chữ viết, ký tự mà nói lên được tên, biệt danh hay đặc điểm và trở thành một dấu ấn của một người. Chữ ký thường được dùng trong các văn bản, hợp đồng để chứng minh sự hiện diện của người đó. Giả mạo chữ ký là hành vi mà người thực hiện thường là người có chức vụ, quyền hạn theo đó họ sẽ thực hiện hành vi tạo lập lại chữ ký của người khác nhằm mục đích vụ lợi. Hành vi này thường gây ra thiệt hại lớn cho những người có liên quan và cũng là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Mức phạt tiền hành vi giả mạo chữ ký Việc giả mạo chữ ký hiện nay được thực hiện rất tinh vi và thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên việc xử phạt cũng được quy định rất cụ thể. Một số ngành nghề nổi bật hiện nay trong việc giả mạo chữ ký có thể kể đến: (1) Hoạt động công chứng, chứng thực Cá nhân có hành vi giả mạo chữ trong hoạt động công chứng, chứng thực có thể bị xử phạt hành chính trong các trường hợp sau: - Phạt tiền từ 25 triệu đồng - 35 triệu đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của công chứng viên và buộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ liên quan về hành vi vi phạm (căn cứ điểm b khoản 6 Điều 15 Nghị định 82/2020/NĐ-CP). - Phạt 3 triệu đồng - 5 triệu đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của người thực hiện chứng thực (căn cứ điểm a khoản 2 Điều 34 Nghị định 82/2020/NĐ-CP). Lưu ý: Các mức phạt trên sẽ tăng 02 nếu người vi phạm là do tổ chức thực hiện. (2) Hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm Căn cứ khoản 2 Điều 54 Nghị định 82/2020/NĐ-CP cá nhân có hành vi giả mạo chữ ký trong hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ bị xử phạt như sau: Phạt 3 triệu đồng - 5 triệu đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của người yêu cầu đăng ký trong phiếu yêu cầu đăng ký hoặc chữ ký trong văn bản thông báo về việc kê biên hoặc giải tỏa kê biên tài sản để thi hành án dân sự. Ngoài ra, tịch thu tang vật là phiếu yêu cầu đăng ký, văn bản thông báo về việc kê biên hoặc giải tỏa kê biên tài sản để thi hành án dân sự. Lưu ý: Đối với tổ chức có hành vi vi phạm tương tự cá nhân mức phạt tăng gấp 02 lần. (3) Hoạt động kiểm toán Hoạt động kế toán là một trong những lĩnh vực quan trọng, cá nhân giả mạo chữ ký trong hoạt động này có thể bị xử phạt căn cứ tại điểm d khoản 2 Điều 8 Nghị định 41/2018/NĐ-CP với mức phạt như sau: Phạt 5 triệu đồng - 10 triệu đồng đối với hành vi chữ ký của một người không thống nhất hoặc không đúng với sổ đăng ký mẫu chữ ký. Đối với tổ chức có hành vi vi phạm tương tự mức phạt tiền gấp 02 lần so với cá nhân. 3. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội giả mạo chữ ký Hành vi giả mạo chữ ký mà được thực hiện bởi người có quyền hạn, chức vụ với mức độ vi phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì căn cứ theo Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015 về tội giả mạo trong công tác sẽ có các khung hình phạt sau: (1) Người nào vì vụ lợi thực hiện giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn thì bị phạt tù từ 01 năm - 05 năm. (2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm - 10 năm: - Có tổ chức. - Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu. - Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả. (3) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm - 15 năm: - Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 05 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả. - Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. (4) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm - 20 năm: - Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 11 giấy tờ giả trở lên. - Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. (5) Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm - 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Như vậy, hành vi giả mạo chữ ký có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực và với nhiều mức độ vi phạm khác nhau thì sẽ có nhiều khung hình phạt dành cho từng mức độ vi phạm đó. Việc vi phạm tội này có thể bị xử phạt lên đến 20 năm tù.
Hình phạt và mục đích của hình phạt
Hình phạt được ghi nhận là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến nhất và có lịch sử lâu đời trong các biện pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nhà nước sử dụng hình phạt đối với người phạm tội để bảo vệ mình, bảo vệ xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Theo điều luật quy định trong Bộ Luật Hình sự thì mục đích của hình phạt thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Trong lý luận thể hiện bằng thuật ngữ phòng ngừa riêng. Nội dung chủ yếu của phòng ngừa riêng là hình phạt đưa lại những tước bỏ, hạn chế nhất định về quyền và lợi ích đối với người bị kết án. Mức độ phải chịu những tước bỏ và hạn chế quyền lợi này tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó càng nghiêm khắc. Cái chủ yếu trong phòng ngừa riêng của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ từ một con người lầm lỗi, vi phạm pháp luật trở thành người có ý thức tôn trọng pháp luật và quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ngoài mục đích phòng ngừa riêng, hình phạt còn có mục đích nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Áp dụng hình phạt bao giờ cũng tác động đến các thành viên khác trong xã hội. tùy vào mức độ, tính chất từng vụ việc mà mức độ tác động của hình phạt đối với họ khác nhau. Để đạt được mục đích phòng ngừa chung của hình phạt, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp về kinh tế, tư tưởng, tổ chức, pháp lý, văn hóa, giáo dục,... qua đó tuyên truyền nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. Phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng là hai mặt không thể tách rời của hình phạt, chúng ảnh hưởng qua lại với nhau trong mục đích chung của hình phạt. Mục đích phòng ngừa chung không thể đạt được nếu phòng ngừa riêng bị triệt tiêu, cũng như khi phòng ngừa chung bị hạn chế thì phòng ngừa riêng sẽ thiếu môi trường xã hội thuận lợi.
Phạt tiền trong Bộ luật hình sự
Với tư cách là một hình phạt được liệt kê quy định trong Điều 32 Bộ luật hình sự là hình phạt tiền mang tính nghiêm khắc nhất so với hình phạt tiền được quy định trong các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước. Tính nghiêm khắc của hình phạt tiền trong Bộ Luật hình sự thể hiện ở chỗ là nó tước đi ở người phạm tội một khoản tiền nhất định, nghĩa là trực tiếp hạn chế về mặt lợi ích vật chất của người phạm tội. Đồng thời, người bị kết án phạt tiền còn phải gánh chịu hậu quả pháp lý là mang án tích trong một thời hạn nhất định của pháp luật. Phạt tiền là buộc người bị kết án phải nộp khoản tiền nhất định để sung công quỹ nhà nước trong những trường hợp do luật quy định. Một khoản tiền nhất định được hiểu là khoản nằm trong giới hạn giữa mức tối thiểu và mức tối đa của từng điều luật cụ thể trong phần các tội phạm có quy định về hình phạt tiền. Hiện nay, Bộ luật hình sự chỉ quy định mức phạt tiền tối thiểu là 1.000.000 đồng và không quy định mức tối đa. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả. Khi quyết định hình phạt và mức phạt tiền, Tòa án phải xem xét và cân nhắc đến các quy định của bộ luật hình sự; tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện; nhân thân người phạm tội; các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời xem xét đến tình hình tài sản của người phạm tội và biến động giá cả thị trường. Trên cơ sở đó Tòa án quyết định mức phạt tiền hợp lý, tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Có như vậy mới đảm bảo tính khả thi của hình phạt tiền trên thực tế. Phạt tiền là hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc áp dụng là hình phạt bổ sung. Hình phạt phạt tiền được áp dụng chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ luật hình sự quy định; Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định và được áp dụng là hình phạt bổ sung khi hình phạt tiền không phải là hình phạt chính đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội khác do bộ luật hình sự quy định. Hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân thương mại thì được quy định tại điều 77 của bộ luật hình sự hiện hành.
Vợ, chồng cưới xong không đeo nhẫn có vi phạm về pháp luật hôn nhân và gia đình?
Chúng ta thường thấy khi xử phạt về hôn nhân và gia đình thì thông thường nổi bật lên những hành vi như Vi phạm chế độ một vợ, một chồng; Cưỡng ép hoặc cản trở hôn nhân, ly hôn tự nguyện, tiến bộ; hay Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ Cản trở kết hôn, ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác. Tuy nhiên , liệu trường hợp hai vợ chồng đã cưới mà có nhẫn đính hôn trước đó nhưng trong quá trình chung sống thì cả hai đều không đeo nhẫn cưới thì liệu về nguyên tắc có vi phạm về pháp luật hôn nhân và gia đình không Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tình nghĩa của vợ chồng là: 1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Như vậy, pháp luật hiện hành không có bất cứ quy định nào về vấn đề xử phạt hay vi phạm về hành vi sau khi cưới mà các bên không đeo nhẫn cưới, hơn nữa nhẫn cưới không phải là cơ sở để chứng minh quan hệ vợ chồng về mặt pháp luật. Do đó, việc đeo hay không đeo thì pháp luật không quy định về chế tài. Tuy nhiên, trong đời sống gia đình thì cả hai vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
Tổng mức phạt tiền vi phạm hành chính vượt quá thẩm quyền phạt thì xử lý thế nào?
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính nhưng tổng mức phạt tiền quá thẩm quyền xử phạt thì có được ra quyết định xử phạt không? Cùng làm rõ vấn đề này qua bài viết dưới đây nhé! (1) Mức phạt tiền tối đa đối với vi phạm hành chính là bao nhiêu? Căn cứ theo quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020), mức phạt tiền tối đa đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước đối với cá nhân được quy định như sau: - Phạt tiền đến 30.000.000 đồng: hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; bạo lực gia đình; lưu trữ; tín ngưỡng, tôn giáo; thi đua, khen thưởng; hành chính tư pháp; dân số; vệ sinh môi trường; thống kê; đối ngoại; - Phạt tiền đến 40.000.000 đồng: an ninh trật tự, an toàn xã hội; cản trở hoạt động tố tụng; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; giao dịch điện tử; bưu chính; - Phạt tiền đến 50.000.000 đồng: phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; bổ trợ tư pháp; y tế dự phòng; phòng, chống HIV/AIDS; văn hóa; thể thao; du lịch; quản lý khoa học, công nghệ; chuyển giao công nghệ; bảo vệ, chăm sóc trẻ em; bảo trợ, cứu trợ xã hội; phòng, chống thiên tai; bảo vệ và kiểm dịch thực vật; quản lý và bảo tồn nguồn gen (trừ nguồn gen giống vật nuôi); trồng trọt (trừ phân bón); thú y; kế toán; kiểm toán độc lập; phí, lệ phí; quản lý tài sản công; hóa đơn; dự trữ quốc gia; hóa chất; khí tượng thủy văn; đo đạc và bản đồ; đăng ký doanh nghiệp; kiểm toán nhà nước; - Phạt tiền đến 75.000.000 đồng: cơ yếu; quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia; quốc phòng, an ninh quốc gia; lao động; giáo dục; giáo dục nghề nghiệp; giao thông đường bộ; giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội địa; bảo hiểm y tế; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm thất nghiệp; phòng, chống tệ nạn xã hội; - Phạt tiền đến 100.000.000 đồng: đê điều; khám bệnh, chữa bệnh; mỹ phẩm; dược, trang thiết bị y tế; chăn nuôi; phân bón; quảng cáo; đặt cược và trò chơi có thưởng; quản lý lao động ngoài nước; giao thông hàng hải; hoạt động hàng không dân dụng; quản lý và bảo vệ công trình giao thông; công nghệ thông tin; viễn thông; tần số vô tuyến điện; an ninh mạng; an toàn thông tin mạng; xuất bản; in; thương mại; hải quan, thủ tục thuế; kinh doanh xổ số; kinh doanh bảo hiểm; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; quản lý vật liệu nổ; điện lực; - Phạt tiền đến 150.000.000 đồng: quản lý giá; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý, phát triển nhà và công sở; đấu thầu; đầu tư; - Phạt tiền đến 200.000.000 đồng: sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; - Phạt tiền đến 250.000.000 đồng: điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thủy lợi; sở hữu trí tuệ; báo chí; - Phạt tiền đến 500.000.000 đồng: xây dựng; lâm nghiệp; đất đai; kinh doanh bất động sản; - Phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng: quản lý các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý hạt nhân và chất phóng xạ, năng lượng nguyên tử; tiền lệ, kim loại quý, đá quý, ngân hàng, tín dụng; hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; thủy sản. - Mức phạt tiền tối đa đối với các lĩnh vực: thuế; đo lường; an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; chứng khoán; cạnh tranh thì thực hiện theo quy định tại các luật tương ứng. Như vậy, tùy theo vi phạm thuộc lĩnh vực gì mà mức tiền phạt tối đa cho hành vi đó sẽ có sự khác nhau, dao động từ 30 triệu đến 1 tỷ đồng. Tuy nhiên, đây chỉ là mức phạt đối với cá nhân, nếu là tổ chức thì phải chịu mức phạt gấp đôi. (2) Tổng mức phạt tiền vượt quá thẩm quyền phạt có được ra quyết định xử phạt không? Liên quan đến vấn đề này, theo điểm a khoản 4 Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi, bổ sung 2020) có quy định như sau: Trường hợp vụ việc vi phạm hành chính có nhiều hành vi vi phạm thì thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định theo nguyên tắc sau đây: - Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với từng hành vi đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó; - Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt vi phạm hành chính thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt; - Nếu hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của nhiều người thuộc các ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm. Dựa vào quy định trên, có 02 trường hợp có thể xảy ra: Trường hợp 1: Một người có nhiều hành vi vi phạm mà mức phạt đối từng hành vi vận trong thẩm quyền của người xử phạt ⇒ Người xử phạt vẫn được ra quyết định xử phạt Trường hợp 2: Một người có nhiều hành vi vi phạm mà trong đó có một hành vi có mức xử phạt vượt quá thẩm quyền của người xử phạt ⇒ Người xử phạt không ra quyết định xử phạt và chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền để cấp này xử phạt. Như vậy, việc có quyền ra quyết định xử phạt đối với trường hợp có nhiều hành vi vi phạm hành chính hay không không liên quan đến tổng mức phạt tiền. Nếu tổng mức phạt tiền vượt quá thẩm quyền phạt nhưng mức phạt tiền đối với mỗi hành vi cụ thể chưa vượt quá thẩm quyền xử phạt thì người xử phạt vẫn được ra quyết định phạt Nếu mức phạt tiền của một trong nhiều hành vi vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt thì người xử phạt mới không được ra quyết định phạt, lúc này người xử phạt phải chuyển vụ vi phạm này đến cấp có thẩm quyền để xử lý.
Các hình phạt dự kiến áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Dự thảo Luật Tư Pháp người chưa thành niên xây dựng nhằm hoàn thiện pháp luật đủ nghiêm khắc nhưng cũng bảo đảm nhân văn đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong dự thảo, các hình phạt dự kiến áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu. Việc xử lý các hành vi phạm tội của người chưa thành niên luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Người chưa thành niên phạm tội thường có những đặc điểm tâm lý, sinh lý khác biệt so với người trưởng thành. Các biện pháp xử phạt cần được cân nhắc kỹ lưỡng để vừa đảm bảo tính răn đe, vừa tạo điều kiện cho người chưa thành niên có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng. Gần đây, nhiều đề xuất về các hình phạt mới đã được đưa ra nhằm cải thiện hiệu quả của hệ thống tư pháp đối với đối tượng này. (1) Các hình phạt dự kiến áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội Nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội ở người chưa thành niên thường xuất phát từ nhiều yếu tố như môi trường gia đình, xã hội, sự thiếu hiểu biết pháp luật và thiếu sự quan tâm, giáo dục từ người lớn. Việc xử lý không đúng cách có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, khiến họ trở thành tội phạm chuyên nghiệp. Theo Điều 90 dự thảo Luật tư pháp người chưa thành niên quy định các hình phạt bao gồm: Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đối với mỗi tội phạm: - Cảnh cáo. - Phạt tiền. - Cải tạo không giam giữ. - Tù có thời hạn. - Trong đó, theo Điều 91 dự thảo quy định về cảnh cáo như sau: Cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do vô ý và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa mức miễn hình phạt. - Hình phạt phạt tiền được quy định theo Điều 92 dự thảo: + Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. + Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu người đó có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật quy định. - Theo Điều 93 dự thảo đề cập đến cải tạo không giam giữ như sau: + Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. + Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. - Đối với hình phạt tù có thời hạn, mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 94 dự thảo: + Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật quy định. + Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định. Bài được viết theo dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/24/du-thao-luat-chua-thanh-nien.pdf (2) Giảm mức hình phạt đã tuyên Theo Điều 98 dự thảo Tư pháp người chưa thành niên quy định về việc giảm mức hình phạt đã tuyên như sau: - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. - Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại. Tóm lại, đối với đối tượng là người chưa thành niên, dự thảo đề xuất các biện pháp bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Bên cạnh đó, nếu người chưa thành niên có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn; lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn sẽ được xem xét giảm mức hình phạt đã tuyên. Bài được viết theo dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/24/du-thao-luat-chua-thanh-nien.pdf
Đùa giỡn bắn súng hơi thể thao vào bạn, gây thương tích nặng bị xử phạt thế nào?
Bài viết này đề cập đến súng hơi thể thao (airsoft), loại súng đang được bán tràn lan trên mạng hiện nay. Vậy súng hơi thể thao là gì? Đùa giỡn bắn súng hơi vào bạn, gây thương tích nặng bị xử phạt thế nào? (1) Súng hơi thể thao là gì? Ai được sử vũ khí thể thao Theo khoản 4 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 quy định: Vũ khí thể thao là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, được sử dụng để luyện tập, thi đấu thể thao, bao gồm: - Súng trường hơi, súng trường bắn đạn nổ, súng ngắn hơi, súng ngắn bắn đạn nổ, súng thể thao bắn đạn sơn, súng bắn đĩa bay và đạn sử dụng cho các loại súng này; - Vũ khí thô sơ dùng để luyện tập, thi đấu thể thao. Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 24 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 quy định đối tượng được trang bị vũ khí thể thao gồm có: - Quân đội nhân dân; - Dân quân tự vệ; - Công an nhân dân; - Câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao có giấy phép hoạt động; - Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh; - Cơ quan, tổ chức khác được thành lập, cấp phép hoạt động trong luyện tập, thi đấu thể thao. Như vậy, súng hơi thể thao là loại súng chỉ được cấp cho một số đối tượng tại khoản 1 Điều 24 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017. Những người không thuộc đối tượng được trang bị vũ khí thể thao theo phạm vi quản lý của Bộ Quốc Phòng nêu trên thì phải có Giấy phép trang bị vũ khí thể thao theo các thủ tục trang bị vũ khí thể thao theo quy định tại Điều 25 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017. Tuy nhiên hiện nay, với một vài từ khóa đơn giản, không khó để tìm ra nhiều trang web bán các loại súng hơi thể thao (airsoft) cùng nhiều công cụ hỗ trợ khác mà người không có giấy phép cũng có thể mua được. Theo người bán, người mua thể sử dụng chúng để "tự vệ". Không ít bạn trẻ mua súng hơi phần vì tò mò, phần vì để cho “oai” và “phòng thân” tuy nhiên, đằng sau những vũ khí có tính sát thương, gây nguy hiểm cho con người là những nguy cơ phạm tội tiềm ẩn. Người mua bán và người sử dụng vũ khí thể thao mà không có giấy phép hoặc không thuộc đối tượng được trang bị vũ khí thể thao là hành vi vi phạm pháp luật. (2) Đùa giỡn bắn súng hơi vào bạn, gây thương tích nặng bị xử phạt thế nào? Súng hơi thể thao với tính chất là một loại vũ khí có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe con người, nó tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, hoặc cũng có thể vô tình hoặc hữu ý trở thành phương tiện phạm tội. . Người có hành vi sử dụng súng hơi thể thao tùy vào tính chất, mức độ của hành vi mà có thể sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Về xử lý hành chính: Hành vi sử dụng súng hơi có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP "sử dụng vũ khí mà không có giấy phép". Theo đó, mức phạt tiền đối với hành vi này là từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng, đồng thời sẽ bị tịch thu vũ khí. Về truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo Điều 306 Bộ Luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định: Người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các loại vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự như súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao đã bị xử phạt hành chính mà còn tái phạm thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Phạm tội trên mà thuộc các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: - Có tổ chức; - Có 11 đơn vị súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ hoặc vũ khí không thuộc danh mục vũ khí do Chính phủ ban hành nhưng có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng trở lên; - Vận chuyển, mua bán qua biên giới; - Làm chết 01 người trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; - Gây thiệt hại về tài sản 100.000.000 đồng trở lên; - Tái phạm nguy hiểm. Ngoài ra còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Bên cạnh đó, nếu sử dụng súng hơi thể thao mà gây tổn hại đến sức khỏe và tính mạng của người khác còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Việc mua, bán, sử dụng súng hơi thể thao hiện nay khá phức tạp, đa phần là mua bán trên mạng và không rõ danh tính người bán. Nhiều người mua ngoài mục đích “tự vệ” còn có mục đích phạm tội. Do đó, tuyệt đối không mua, bán, sở hữu vũ khí thể thao, không sử dụng súng hơi để đùa giỡn bắn vào người khác vì đó là hành vi vi phạm pháp luật, nếu sau đó có dẫn đến các hành vi gây thương tích, gây chết người thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh trên.
Cách xác định tuổi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nếu tội phạm là người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) thì sẽ được áp dụng các thủ tục tố tụng đặc biệt để phù hợp với lứa tuổi này. Vậy, việc xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như thế nào? Cách xác định tuổi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi: - Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. - Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định: + Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. + Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. - Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Có thể thấy, trong các trường hợp không thể xác định được chính xác tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội thì pháp luật luôn quy định một cách có lợi nhất để có thể đảm bảo độ tuổi được xác định không nhỏ hơn tuổi thật của người đó. Những căn cứ nào dùng để xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội? Theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định về phối hợp trong việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi như sau: - Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: + Giấy chứng sinh; + Giấy khai sinh; + Chứng minh nhân dân; + Thẻ căn cước công dân; + Sổ hộ khẩu; + Hộ chiếu. - Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu trên có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó. Như vậy, các căn cứ để xác định tuổi của người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: giấy chứng sinh, khai sinh, CMND, CCCD, sổ hộ khẩu, hộ chiếu. Nếu không xác định được qua các giấy tờ này thì phải có sự phối hợp với gia đình, người đại diện và các tổ chức khác. Người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì sẽ xử lý như thế nào? Theo Điều 103 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội như sau: - Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015. Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội. - Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định - Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Như vậy, khi người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa sẽ quyết định hình phạt với riêng từng tội và tổng hợp lại theo quy định. Việc tổng hợp tội phải đảm bảo mức hình phạt cao nhất đối với cải tạo không giam giữ không quá 03 năm, đối với tù có thời hạn không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.
Đề xuất khung hình phạt tối đa 15 năm tù cho người chưa thành niên
Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên được xây dựng để đảm bảo việc thực hiện pháp luật đối với người chưa thành niên vừa mang tính nghiêm khắc, vừa mang tính nhân văn… (1) Các hình thức xử phạt người chưa thành niên Việc áp dụng khung hình phạt tù đối với người chưa thành niên là điều thường gây tranh cãi. Các tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được thực hiện bởi người chưa thành niên rất được xã hội quan tâm, trong đó hình phạt dành cho bị cáo chưa thành niên là được quan tâm nhất. Như mới gần đây, vụ án thiếu nữ 15 tuổi ở Hải Phòng bị bạn trai sát hại, nghi phạm của vụ án cũng đang trong tuổi chưa thành niên và đang học lớp 9. Trong xã hội đã xuất hiện nhiều luồng ý kiến trái chiều về mức hình phạt sẽ được áp dụng trong trường hợp này. Nghi phạm T được cho là hung thủ trong vụ sát hại thiếu nữ ở Hải Phòng chỉ mới học lớp 9. Xem Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/18/Du_thao_Luat_Tu_phap_nguoi_chua_thanh_nien.pdf Theo Điều 90 dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm: - Cảnh cáo; - Phạt tiền; - Cải tạo không giam giữ; - Tù có thời hạn. Trong đó, có một hình thức xử phạt mới là cảnh cáo. Theo điều 91 Luật Tư pháp người chưa thành niên, cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do vô ý và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Bên cạnh phạt cảnh cáo, nếu người chưa thành niên vi phạm các các tội được quy định trong Bộ Luật Hình sự thì sẽ áp dụng các biện pháp xử phạt như người đã thành niên tuy nhiên mức phạt có nhiều điểm khác biệt. (2) Khung hình phạt dành cho người chưa thành niên phạm tội Mức phạt của người chưa thành niên đối với các tội được quy định trong Bộ Luật Hình sự thường sẽ được giảm một nửa hoặc hai phần ba so với mức phạt dành cho một người đã thành niên. Xem Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/18/Du_thao_Luat_Tu_phap_nguoi_chua_thanh_nien.pdf Cụ thể, hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 92 Luật Tư pháp người chưa thành niên như sau: - Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. - Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu người đó có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật quy định. Hay hình đối với hình thức phạt cải tạo không giam giữ được quy định tại Điều 93 Luật Tư pháp người chưa thành niên như sau: - Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng. - Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. Tương tự đối với hình phạt tù có thời hạn, người chưa thành niên cũng sẽ được giảm nhẹ mức phạt so với khung hình phạt được quy định trong luật. Theo Điều 94 Luật Tư pháp người chưa thành niên, người chưa thành niên bị áp dụng hình thức phạt tù có thời hạn được quy định như sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt mà điều luật quy định. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì khung hình phạt áp dụng không quá một phần hai mức hình phạt mà điều luật quy định. Như vậy, khung hình phạt tù có thời hạn tối đa mà dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên đề xuất cho người chưa thành niên phạm tội là không quá 15 năm, nếu người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì phạt tù tối đa không qua 09 năm. Người chưa thành niên mà phạm các tội nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt tù chung thân, tử hình thì sẽ được miễn áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, điều này thể hiện sự nhân từ của pháp luật đối với ngưởi chưa thành niên, mong muốn cho họ có thể làm lại cuộc đời, sửa chữa sai lầm. Theo dự kiến, dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp 7 vào tháng 5 tới. Xem Dự thảo Luật Tư pháp người chưa thành niên tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/04/18/Du_thao_Luat_Tu_phap_nguoi_chua_thanh_nien.pdf
Hình phạt của tội trốn thuế và rửa tiền là gì?
Ngày 26/3 vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang tuyên án hình sự sơ thẩm bị cáo Ngô Phú Cường, ngụ thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang về tội "Trốn thuế" và “Rửa tiền” sau nhiều ngày xét xử và nghị án. (1) Từ trốn thuế đến rửa tiền. Theo bản cáo trạng, bị cáo Ngô Phú Cường đã thành lập và điều hành 04 công ty là công ty TNHH Phú Cường, các công ty TNHH Cường Cát, Sông Thoại, Ngô Phú Cường cùng 1 chi nhánh để mua bán cát. Trong lúc hoạt động kinh doanh, bị cáo Cường đã mua cát không rõ nguồn gốc tại tỉnh An Giang và Đồng Tháp sau đó bán cho các công ty tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và thành phố HCM. Tuy nhiên, Cường không xuất hóa đơn, kê khai thuế không đúng doanh thu bán ra nhằm làm giảm số tiền thuế GTGT phải nộp. Năm 2017, Cường biết Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh An Giang bán lô đất gần 3.000m2 của một công ty đang thế chấp vay tiền ngân hàng không còn khả năng thanh toán nợ. Cường liên hệ với ngân hàng, chủ lô đất thỏa thuận mua với giá hơn 30 tỷ đồng. Bị cáo Cường đã thanh toán chuyển khoản 8 tỷ cho Ngân hàng Công thương Việt Nam tỉnh An Giang, số còn lại Cường thanh toán bằng tiền mặt. Cơ quan chức năng nhận định, hành vi của Cường khi bán cát không xuất hóa đơn giá trị gia tăng, kê khai thuế không đúng gây thất thu tiền thuế nhà nước hơn 8 tỷ đồng. Việc Cường sử dụng nguồn tiền trốn thuế giá trị gia tăng để trả tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng gần 3.000m2 đất là hành vi rửa tiền. Vì thế, Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Ngô Phú Cường 4,5 tỷ đồng sung vào ngân sách Nhà nước tội “Trốn thuế”. Đồng thời, truy thu để tịch thu sung vào ngân sách số tiền hơn 8 tỷ đồng mà bị cáo Cường đã trốn thuế. Đối với tội “Rửa tiền”, Hội đồng xét xử tuyên án bị cáo Cường 3 năm tù giam, đồng thời phạt bổ sung 100 triệu đồng sung vào ngân sách Nhà nước. (Nguồn: tham khảo từ trang báo điện tử nhandan.vn) (2) Tội trốn thuế bị xử khung hình phạt thế nào? Trốn thuế là tập hợp các hành vi vi phạm pháp luật nhằm làm giảm hoặc không phải đóng thuế theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 200 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bởi khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Hình sự 2017, người thực hiện các hành vi sau đây thì được coi là phạm tội trốn thuế: - Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật; - Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; - Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán; - Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn; - Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; - Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 Bộ Luật Hình sự 2015; - Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; - Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa; - Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế. Cá nhân trốn thuế bao nhiêu tiền thì bị xử lí hình sự? Căn cứ theo quy định tại Điều 200 Bộ Luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Hình sự 2017 thì mức tiền trốn thuế bị xử lý hình sự đối với cá nhân như sau: - Từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng: + Đối với các hành vi trốn thuế quy định tại khoản 47 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017. + Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm - Dưới 100.000.000 đồng: + Đối với hành vi đã bị xử phạt vi phạm hành chính về tội trốn thuế + Đối với hành vi đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật Hình sự 2015 chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. + Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. - Từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm - Từ 1.000.000.000 đồng trở lên: Phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. (3) Tội rửa tiền bị xử lí ra sao? Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống rửa tiền 2013 có quy định rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có. Tội rửa tiền được thành lập khi cá nhân có các hành vi sau đây: - Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có; - Sử dụng tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác; - Che giấu thông tin về nguồn gốc, bản chất thực sự, vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do mình phạm tội mà có hoặc biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có hoặc cản trở việc xác minh các thông tin đó; - Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này đối với tiền, tài sản biết là có được từ việc chuyển dịch, chuyển nhượng, chuyển đổi tiền, tài sản do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có. Căn cứ tại Điều 324 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bởi khoản 122 Điều 1 Luật sửa đổi bộ Luật Hình sự 2017, tội rửa tiền sẽ bị xử theo các mức phạt sau: - Người thực hiện một trong các hành vi rửa tiền nêu trên bị phạt tù từ 01 năm đên 05 năm. - Người thực hiện hành các hành vi rửa tiền mà thuộc một trong các trường hợp sau đây bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: + Có tổ chức; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Có tính chất chuyên nghiệp; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; + Tiền, tài sản phạm tội trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; + Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; + Tái phạm nguy hiểm. - Người thực hiện các hành vi rửa tiền mà thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: + Tiền, tài sản phạm tội trị giá 500.000.000 đồng trở lên; + Thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên; + Gây ảnh hưởng xấu đến an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Ngoài ra, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam, tiền thuế sẽ được Nhà nước sử dụng để phát triển đất nước, ổn định xã hội. Mỗi công dân nên có ý thức về việc đóng thuế, tránh thực hiện các hành vi phạm tội, vừa bị phạt tù, truy thu lại tiền đã trốn thuế, còn bị phạt thêm tiền.
Hướng dẫn cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân
Bộ Công an hướng dẫn, thực hiện một số nội dung trong công tác cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân. Theo đó, kể từ ngày 21/11/2023, công dân có Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt bị mất, thất lạc hoặc hư hỏng; có yêu cầu, nguyện vọng được cơ quan hồ sơ nghiệp vụ thuộc Bộ Công an xem xét cấp bản sao; thủ tục, trình tự giải quyết được thực hiện thông qua Công an cấp xã, phường, thị trấn nơi công dân đang cư trú (Cục Hồ sơ nghiệp vụ không trực tiếp tiếp nhận, trả kết quả cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân). Việc xem xét, giải quyết yêu cầu cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cho công dân được thực hiện trên cơ sở đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục đích chính đáng; trong đó lưu ý: - Công dân khi có yêu cầu cung cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt phải có Đơn xin cấp bản sao tài liệu (viết tay hoặc đánh máy theo mẫu) gửi đến Công an cấp xã nơi công dân đang cư trú để được tiếp nhận, giải quyết. - Nội dung Đơn của công dân phải nêu rõ thông tin lai lịch bản thân (gồm họ tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú, số căn cước công dân/ số hộ chiếu....); lý do, mục đích, phạm vi, loại tài liệu, số lượng bản sao cần cung cấp; các thông tin về quá trình chấp hành hình phạt và các biện pháp xử lý hành chính và các thông tin cần thiết khác có liên quan đến tài liệu cần cung cấp. - Trường hợp công dân xin cấp bản sao Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt của người khác phải có văn bản ủy quyền theo quy định; trường hợp không có văn bản ủy quyền phải có tài liệu chứng minh được mục đích đề nghị, mối quan hệ với người có tên trong Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cả nhân đó. Tham khảo: Trước đó, ngày 17/8/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 22/2023/QĐ-TTg về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù, như sau: Điều kiện vay vốn Có nhu cầu vay vốn; có tên trong danh sách người chấp hành xong án phạt tù về cư trú tại địa phương, chấp hành tốt các quy định của pháp luật, không tham gia các tệ nạn xã hội, do Công an cấp xã lập và được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận theo Mẫu số 01. Xem và tải Mẫu số 01 https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/08/19/mau-so-01.docx Thời gian kể từ khi chấp hành xong án phạt tù đến thời điểm vay vốn tối đa là 05 năm. Phương thức cho vay Thực hiện phương thức cho vay thông qua hộ gia đình. Đại diện hộ gia đình của người chấp hành xong án phạt tù là người đứng tên vay vốn và giao dịch với Ngân hàng Chính sách xã hội. Trường hợp trong hộ gia đình không còn thành viên nào từ đủ 18 tuổi trở lên hoặc thành viên còn lại không còn sức lao động, không có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật thì người chấp hành xong án phạt tù trực tiếp đứng tên vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội; Ngân hàng Chính sách xã hội nơi cho vay thực hiện cho vay theo phương thức ủy thác cho các tổ chức chính trị - xã hội Mức vốn cho vay Đối với vay vốn để đào tạo nghề Mức vốn cho vay tối đa là 04 triệu đồng/tháng/người chấp hành xong án phạt tù. Đối với vay vốn để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm - Người chấp hành xong án phạt tù: Mức vốn cho vay tối đa là 100 triệu đồng/người chấp hành xong án phạt tù. - Cơ sở sản xuất kinh doanh: Mức vốn cho vay tối đa là 02 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng/người lao động tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Lãi suất cho vay - Lãi suất cho vay bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo quy định theo từng thời kỳ. - Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Xem chi tiết tại Quyết định 22/2023/QĐ-TTg có hiệu lực kể từ 10/10/2023.
Tổng hợp hình phạt trong nhiều bản án
Cho em hỏi cách tổng hợp hình phạt trong trường hợp sau: Một người đang chấp hành hình phạt tù 15 năm, khi chấp hành được 8 năm thì được giảm hình phạt đã tuyên xuống còn 12 năm. Sau đó bị xét xử 1 tội mới với hình phạt tù 5 năm. Vậy tổng hợp hình phạt chung 2 bản án phải chấp hành là: (12-8)+5=9 (năm) phải không ạ.
Giáo viên phạm tội nhưng có nhiều đóng góp trong giáo dục thì có được giảm án?
Một số trường hợp giáo viên phạm tội, nhưng họ là người thầy, người cô có tâm huyết với nghề, đạt được nhiều thành tích, có nhiều đóng góp to lớn trong ngành giáo dục, được mọi người quý trọng, yêu mến. Vậy khi họ phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì những đóng góp của họ trong ngành có được xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không? 1. Giáo viên phạm tội nhưng có nhiều đóng góp trong hoạt động giáo dục thì có được giảm án? Căn cứ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi điểm a, b khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định: Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: - Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; - Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; - Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; - Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; - Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; - Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; - Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; - Phạm tội do lạc hậu; - Người phạm tội là phụ nữ có thai; - Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; - Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; - Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; - Người phạm tội tự thú; - Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; - Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; - Người phạm tội đã lập công chuộc tội; - Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; - Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. Theo đó, có quy định người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cho nên, trường hợp giáo viên phạm tội nhưng là người có nhiều đóng góp trong giáo dục thì cũng có thể được xem là có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. 2. Quyết định hình phạt và quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thế nào? Căn cứ theo Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015, Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 7 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có các quy định: Căn cứ quyết định hình phạt 1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. 2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Theo đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trường hợp áp dụng hình phạt tiền thì Tòa án còn căn cứ thêm tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. Tòa án cũng có thể xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. Như vậy, giáo viên phạm tội nhưng có nhiều đóng góp trong hoạt động giáo dục thì có thể được xem xét giảm án theo như các quy định trên.
Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có bị xử phạt không?
Hiện nay, Có nhiều hành vi quảng cáo rượu để buôn bán thu hút khách hàng hơn. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp quảng cáo rượu với các hình thức trái quy định pháp luật. Vậy trường hợp Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu thì bị xử phạt vi phạm hành chính như thế nào? Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng rượu bia? Hiện nay, Có nhiều hành vi quảng cáo rượu để buôn bán thu hút khách hàng hơn. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp quảng cáo rượu với các hình thức trái quy định pháp luật. Theo đó, đối với hành vi kể trên được xem là một trong những hành vi bị cấm bởi pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 5 Luật Phòng chống tác hại của rượu bia 2019 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng, chống tác hại của rượu, bia như sau: - Xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia. - Người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia. - Bán, cung cấp, khuyến mại rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi. - Sử dụng lao động là người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc sản xuất, mua bán rượu, bia. - Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân, học sinh, sinh viên uống rượu, bia ngay trước, trong giờ làm việc, học tập và nghỉ giữa giờ làm việc, học tập. - Điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. - Quảng cáo rượu có độ cồn từ 15 độ trở lên. - Cung cấp thông tin không chính xác, sai sự thật về ảnh hưởng của rượu, bia đối với sức khỏe. - Khuyến mại trong hoạt động kinh doanh rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên; sử dụng rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức. - Sử dụng nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến không được phép dùng trong thực phẩm; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm không bảo đảm chất lượng và không rõ nguồn gốc, xuất xứ để sản xuất, pha chế rượu, bia. - Kinh doanh rượu không có giấy phép hoặc không đăng ký; bán rượu, bia bằng máy bán hàng tự động. - Kinh doanh, tàng trữ, vận chuyển rượu, bia giả, nhập lậu, không bảo đảm chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, nhập lậu rượu, bia. - Các hành vi bị nghiêm cấm khác liên quan đến rượu, bia do luật định. Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có bị xử phạt không? (Hình từ internet) Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu bị xử phạt hành chính như thế nào? Việc sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu là một trong những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. - Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Nghị định 117/2020/NĐ-CP đã có quy định về việc xử phạt hành vi này như sau: Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu, bia. Mức phạt nêu trên là mức phạt đối với cá nhân vi phạm, mức phạt tiền cao nhất có thể lên đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu. - Căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Nghị định 117/2020/NĐ-CP, quy định về mức phạt tiền đối với tổ chức có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu như sau: Mức phạt tiền được quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt tiền đối với cá nhân. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Theo đó, tổ chức có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Ngoài bị phạt tiền ra, cá nhân hoặc tổ chức vi phạm còn phải chịu biện pháp khắc phục hậu quả như sau: Buộc thu hồi, gỡ quảng cáo để loại bỏ yếu tố vi phạm đối với hành vi Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu. Như vậy, Mức phạt tiền đối với cá nhân có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Đối với tổ chức có hành vi sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức còn bị buộc thu hồi, gỡ quảng cáo để loại bỏ yếu tố vi phạm đối với hành vi Sử dụng người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc quảng cáo rượu theo quy định.
Cấm đi khỏi nơi cứ trú theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một trong những biện pháp ngăn chặn đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng quy định rõ biện pháp này. Cấm đi khỏi nơi cư trú Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Nghĩa vụ của bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú Theo quy định bị can, bị cáo cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: - Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép; - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan nêu trên thì bị tạm giam. Thẩm quyền quyết định và thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú Theo quy định tại khoản 3 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì những người sau đây, có thẩm quyền quyết định ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; - Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; - Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Theo quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Đồng thời, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền. Theo quy định của điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 ở trên, ta thấy biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với mọi loại tội phạm; người được áp dụng biện pháp này phải có có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, phải làm giấy cam đoan, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập. Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của người đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó.
Quy định về xử phạt hành vi hủy hoại tiền
Theo quy định tại Điều 3 Quyết định số 130/2003/QĐ-TTg, Điều 23 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 về các hành vi bị cấm liên quan đến đồng tiền Việt Nam, cụ thể: - Làm tiền giả; vận chuyển, tàng trữ, lưu hành tiền giả. - Huỷ hoại đồng tiền trái pháp luật. - Từ chối nhận, lưu hành đồng tiền đủ tiêu chuẩn lưu thông do Ngân hàng Nhà nước phát hành. - Sao chụp tiền Việt Nam với bất kỳ mục đích nào không có sự chấp thuận trước bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước. - Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, việc một số người dùng tiền để gấp hoa, trang trí tranh, cây thần tài nhưng không cắt, xé, đốt, làm biến dạng ảnh hưởng đến giá trị có thể sử dụng được sau khi trang trí thì hành vi đó chưa có dấu hiệu phạm hủy hoại tiền và không vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tiền Việt Nam. Do đó, đối với những hành vi cắt, xé, đốt, phá hoại tiền của người khác là hành vi phạm tội lần đầu, với tính chất và mức độ nhẹ thì có thể bị phạt hành chính từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng. Tuy nhiên nếu đó là hành vi tái phạm, đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, tiền là di vật, cổ vật của người khác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hình phạt lúc này sẽ phải chịu đối với hành vi trên là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, đối với các hành vi hủy hoại tiền ngoài phải chịu phạt hành chính từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng thì nếu tái phạm thì có thể bị chịu hình phạt tù cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Rút kinh nghiệm xét xử vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy theo thủ tục giám đốc thẩm
Ngày 30/11/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND tối cao về vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” để xét xử phúc thẩm lại. Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 7) thông báo rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, quyết định hình phạt đối với bị cáo. nhàm bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 27/02/2019, Nguyễn Văn H điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Khoa Vũ N đi từ thành phố Huế đến tỉnh Quảng Trị để vận chuyển ma túy của Lương Đình V và Nguyễn Thị N vào tỉnh Thừa Thiên Huế giao cho Phạm Hoàng M nhận tiền công 20 triệu đồng: Cùng ngày, H gặp V tại bãi đỗ xe của khách sạn Bảo Sơn, V cho H 04 viên ma túy tổng hợp đề sử dụng. H lấy 04 viên ma túy tổng hợp cất giấu vào ngăn đựng phía trước xe ô tô. Ngày 01/3/2019, N đến phòng nghỉ gặp H nói có ma túy rồi xuống khu vực Massage của khách sạn Bảo S để nhận. H và N đi xuống khu vực Massage và bãi đỗ xe, H bảo N vào ngồi trong xe ô tô. Còn H ngồi ở ghế lái, V đi đến mở cửa sau bên trái ô tô biển kiểm soát 75A-095.59 bỏ 01 túi xách phía ghế sau. Sau đó, H điều khiển xe ô tô chở N về thành phố Huế. Quá trình bị lực lượng chức năng kiểm tra Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 01/3/2019, H điều khiển xe ô tô đến quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã Hải Trường, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị thì bị lực lượng chức năng phát hiện kiểm tra bắt quả tang thu giữ tang vật 01 gói ma túy tổng hợp có khối lượng 997,7547 gam Methamphetamine, 04 viên nén màu hồng có khối lượng 0,3947 gam Methamphetamine và một số tài sản khác. Quá trình điều tra, ngày 21/5/2019, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Trị tiến hành khám xét ô tô biển kiểm soát 75A-095.59, Nguyễn Khoa Vũ N giao nộp 10 gói ma túy tổng hợp được cất giấu trên cửa cách nhiệt phía trên trần xe ô tô có khối lượng 198,8713 gam Methamphetamine. Quá trình giải quyết vụ án (1) Bản án sơ thẩm Tại Bản án hình sự sơ thẩm ngày 18/02/2020, TAND tỉnh Quảng Trị áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm a, khoản 1, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 01 năm tù về tội “Tàng trữ' trái phép chất ma túy”; Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội là 21 năm tù. Áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm r, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt Nguyễn Khoa Vũ N tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. (2) Bản án phúc thẩm Ngày 25/02/2020, Nguyễn Khoa Vũ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 12/3/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Kháng nghị số 12/QĐ-VC2 kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Văn H từ 20 năm tù lên tù chung thân. Tại Bản án hình sự phúc thẩm 154/2021/HSPT ngày 07/4/2021, TAND cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. Theo đó, giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với Nguyễn Văn H; chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Khoa Vũ Ngân từ chung thân xuống 20 năm tù. (3) Bản án giám đốc thẩm Ngày 28/02/2022, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Kháng nghị số 03/QĐ-VKSTC-V7 kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên theo hướng đề nghị hủy phần trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn H để xét xử phúc thẩm lại. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không đúng với các tình tiết, nội dung vụ án bởi lẽ: - Chiếc xe ô tô là do H mượn của em trai ruột của H, không phải xe ô tô của Ngân. - Lời khai của N là chính xác, phù hợp với diễn biến và kết quả khám xét ngày 21/5/2019. - Khi lập biên bản niêm phong xe ô tô ngày 01/3/2019 thì H, N đều đã chứng kiến và ký vào biên bản niêm phong. - Khi mở niêm phong xe ô tô ngày 21/5/2019 bảo đảm thực hiện đúng theo quy định tại Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tại đó, có sự chứng kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến là ông Nguyễn Đức Hiếu nên việc khám xét xe ô tô bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật. Do đó, có đủ cơ sở xác định Nguyền Văn H cùng Nguyễn Khoa Vũ N tham gia vận chuyển trái phép 1.196,2313 gam Methamphetamine. Thứ hai, bị cáo Nguyễn Văn H giữ vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Khoa Vũ N, là người chủ động, trực tiếp điều khiển xe ô tô vận chuyển ma túy. H hướng dẫn bị cáo N cất giấu ma túy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá vai trò của hai bị cáo ngang nhau, từ dó quyết định mức hình phạt ngang nhau là không chính xác. Hành vi phạm tội của H thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 250 Bộ luật hình sự 2015, có khung hình phạt từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khối lượng ma túy vận chuyển cao hơn gần 10 lần so với mức khởi điểm 100 gam và bị cáo H không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù. Mức án khởi điểm của khung hình phạt là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, không công bằng với các bị cáo khác bị xét xử hình phạt tử hình khi vận chuyển trái phép với khối lượng ma túy tương tự. Kể cả trường hợp bị cáo H chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vận chuyển trái phép 997,7547 gam Methamphetamine nên cần xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đà kịp thời phát hiện và báo cáo đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao ban hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tải bản án tại đây bản án
Trường hợp nào người phạm tội không được hưởng án treo?
Hưởng án treo được xem là biện pháp khoan hồng của pháp luật đối với những đối tượng vi phạm pháp luật hình sự ở mức độ nhẹ cũng như có lý lịch nhân thân tốt để họ có cơ hội sửa sai. Dù vậy, không phải bất kỳ đối tượng nào cũng được hưởng án treo. Vậy, trong trường hợp nào người phạm tội không được hưởng án treo? 1. Án treo là gì? Án treo là một biện pháp miễn chấp hành phạt tù áp dụng cho các tội phạm có mức án nhẹ và nhân thân, lý lịch tốt được Tòa án xem xét và quyết định cho hưởng án treo. Cụ thể, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 1 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP 2. Khi nào áp dụng án treo đối với người phạm tội? Người phạm tội được hưởng án treo theo từ phán quyết của Tòa án và tuân thủ Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 và chấp hành các biện pháp tại quy định này như sau: Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. Thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2019. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Bệnh cạnh đó, gia đình của người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 2019 từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015. 3. 06 trường hợp không áp dụng án treo Theo Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi bởi Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP) quy định những trường hợp người phạm tội sẽ không được hưởng án treo bao gồm: (1) Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. (2) Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. (3) Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo. (4) Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi. - Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể. (5) Người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau: - Người phạm tội là người dưới 18 tuổi. - Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng. - Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể. - Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú. (6) Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Như vậy, người phạm tội dù có hành vi vi phạm không đáng kể nhưng tái phạm, có tính chất chuyên nghiệp, chủ mưu và có những hành vi không chấp hành các biện pháp của cơ quan có thẩm quyền thì sẽ không được hưởng án treo.
Trường hợp nào được giảm mức hình phạt đã tuyên?
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế cao nhất trong hệ thống xử lý hình sự đối với một cá nhân hay pháp nhân thương mại. Một khi Tòa án ra quyết định hay bản án có hiệu lực thì người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, trong một số trường hợp được quy định cụ thể thì người đang chấp hành hình phạt tù vẫn có thể giảm mức hình phạt đã tuyên. Vậy đó là những trường hợp nào? Giảm mức hình phạt đã tuyên là gì? Giảm mức hình phạt đã tuyên là việc Tòa án căn cứ vào lời đề nghị của các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát và giáo dục người phạm tội, để ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt. Một người sẽ được Tòa án ra quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt khi trong thời gian chấp hành hình phạt đó người phạm tội có nhiều điểm tiến bộ; tích cực chấp hành các quy định. Khi nào được giảm mức hình phạt đã tuyên? Giảm mức hình phạt tù là một trong những chính sách nhân đạo của pháp luật Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước đối với phạm nhân, căn cứ Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 quy định giảm mức hình phạt đã tuyên như sau: (1) Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân đáp ứng được các điều kiện sau đây: - Đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định. - Có nhiều tiến bộ trong cải tạo. - Đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự. Thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 1/3 thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân. (2) Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được 1/2 mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm. (3) Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm khi đã chấp hành được 15 năm tù nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm. (4) Người đã được giảm một phần hình phạt mà thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung. (5) Người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo mục (3). (6) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm. Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt Tòa án sẽ xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt sớm hơn hoặc cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm: - Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công. - Người đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Như vậy, người phạm tội đang chấp hành hình phạt tù có thể được giảm mức án đã tuyên khi đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Các quy định về hình phạt không những vì mục đích trừng phạt các hành vi xâm phạm đến các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ pháp luật. Bên cạnh đó, khi một hình phạt áp dụng cho một hoặc một số hành vi phạm tội thì vấn đề này không đồng nghĩa với việc hình phạt phải được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ trên thực tế mà dựa trên ý thức và mức độ của người phạm tội. Qua đó, giúp người phạm tội ăn năn, hối cải, nhận thức được sai lầm của mình mà còn tạo động lực cho họ trong việc phấn đấu cải tạo tốt nhằm hưởng các chính sách khoan hồng của Nhà nước.
Nhận biết tín dụng đen và các hình phạt khi hoạt động tín dụng đen?
Những dấu hiệu nhận biết tín dụng đen? Hiện nay, tín dụng đen vẫn chưa được pháp luật quy định cụ thể khái niệm như thế nào là tín dụng đen. Tuy nhiên, thực tế có thể hiểu tín dụng đen là một hình thức cho vay tín dụng với lãi suất cao hơn quy định của pháp luật từ các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động cho vay tiền nhưng không đăng ký kinh doanh và không được sự cấp phép của nhà nước. Tín dụng đen hay còn gọi là cho vay nặng lãi có các dấu hiệu nhận biết sau đây: Về thủ tục cho vay: thủ tục rất đơn giản, có hoặc không có tài sản thế chấp vẫn vay được. Người vay chỉ cần chụp hình giấy tờ tùy thân gửi bên cho vay là hoàn tất thủ tục vay. Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay vượt mức lãi suất theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 về tội “ Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” thì: Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100 triệu đồng trở lên thì bị phạt tiền 200 triệu đến 01 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm… Về hình thức cho vay: Các hợp đồng, giao dịch vay tiền thường được soạn thảo và ký nhận với nội dung giả tạo để che dấu mức lãi suất bất hợp pháp và tạo điều kiện cho chủ nợ dễ dàng khống chế con nợ để thu được nợ đồng thời cũng là ràng buộc pháp lý để khi con nợ không trả được thì chủ nợ có thể đề nghị cơ quan pháp luật xử lý bằng hình sự với con nợ. Hình thức thu hồi nợ: Khi đến hạn mà các con nợ không trả thì bên cho vay sẽ có các hình thức đòi nợ mang tính chất côn đồ như: thuê giang hồ đến tận nhà để quấy rối, khủng bố tinh thần hoặc nặng hơn là gây thương tích cho người khác để đòi được nợ. Ngoài ra, còn rất nhiều chiêu trò xâm phạm đến hình ảnh cá nhân như đăng giấy đòi nợ công khai lên mạng xã hội hoặc khung bố tin nhắn, cuộc gọi 24/24…. Hình phạt khi hoạt động tín dụng đen? Căn cứ Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) ,người phạm tội cho vay nặng lãi (tín dụng đen) bị xử lý như sau: - Cho vay trong giao dịch dân sự với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. - Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Theo đó, nếu thấy các quảng cáo hoặc lời mời gọi vay tiền nhanh chóng, đơn giản thì người dân nên cẩn thận và cảnh báo đến những người xung quanh
Vi phạm tội giả mạo chữ ký trong công tác bị xử lý ra sao?
Chữ ký và điểm chỉ (dấu vân tay) là một trong những dấu hiệu xác thực từ người thực hiện để đảm bảo hơn việc người tham gia hợp đồng giao dịch. Bởi không ít trường hợp các bên sau khi ký vào các hợp đồng, giao dịch nhưng sau đó vì lý do, mục đích nhất định đã chối bỏ, phủ nhận chữ ký của mình nên xảy ra tranh chấp. Vừa qua, sự việc một cựu cán bộ công chức trong thi hành nhiệm vụ đã giả mạo chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng đất và đang được khởi tố. Điều này gây ra rất nhiều thiệt hại cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, vậy tội giả mạo chữ ký sẽ bị xử lý ra sao? Giả mạo chữ ký là gì? Trước tiên chữ ký được hiểu như sau: Đây là một dạng chữ viết, ký tự mà nói lên được tên, biệt danh hay đặc điểm và trở thành một dấu ấn của một người. Chữ ký thường được dùng trong các văn bản, hợp đồng để chứng minh sự hiện diện của người đó. Giả mạo chữ ký là hành vi mà người thực hiện thường là người có chức vụ, quyền hạn theo đó họ sẽ thực hiện hành vi tạo lập lại chữ ký của người khác nhằm mục đích vụ lợi. Hành vi này thường gây ra thiệt hại lớn cho những người có liên quan và cũng là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Mức phạt tiền hành vi giả mạo chữ ký Việc giả mạo chữ ký hiện nay được thực hiện rất tinh vi và thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên việc xử phạt cũng được quy định rất cụ thể. Một số ngành nghề nổi bật hiện nay trong việc giả mạo chữ ký có thể kể đến: (1) Hoạt động công chứng, chứng thực Cá nhân có hành vi giả mạo chữ trong hoạt động công chứng, chứng thực có thể bị xử phạt hành chính trong các trường hợp sau: - Phạt tiền từ 25 triệu đồng - 35 triệu đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của công chứng viên và buộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, nghĩa vụ liên quan về hành vi vi phạm (căn cứ điểm b khoản 6 Điều 15 Nghị định 82/2020/NĐ-CP). - Phạt 3 triệu đồng - 5 triệu đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của người thực hiện chứng thực (căn cứ điểm a khoản 2 Điều 34 Nghị định 82/2020/NĐ-CP). Lưu ý: Các mức phạt trên sẽ tăng 02 nếu người vi phạm là do tổ chức thực hiện. (2) Hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm Căn cứ khoản 2 Điều 54 Nghị định 82/2020/NĐ-CP cá nhân có hành vi giả mạo chữ ký trong hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ bị xử phạt như sau: Phạt 3 triệu đồng - 5 triệu đồng đối với hành vi giả mạo chữ ký của người yêu cầu đăng ký trong phiếu yêu cầu đăng ký hoặc chữ ký trong văn bản thông báo về việc kê biên hoặc giải tỏa kê biên tài sản để thi hành án dân sự. Ngoài ra, tịch thu tang vật là phiếu yêu cầu đăng ký, văn bản thông báo về việc kê biên hoặc giải tỏa kê biên tài sản để thi hành án dân sự. Lưu ý: Đối với tổ chức có hành vi vi phạm tương tự cá nhân mức phạt tăng gấp 02 lần. (3) Hoạt động kiểm toán Hoạt động kế toán là một trong những lĩnh vực quan trọng, cá nhân giả mạo chữ ký trong hoạt động này có thể bị xử phạt căn cứ tại điểm d khoản 2 Điều 8 Nghị định 41/2018/NĐ-CP với mức phạt như sau: Phạt 5 triệu đồng - 10 triệu đồng đối với hành vi chữ ký của một người không thống nhất hoặc không đúng với sổ đăng ký mẫu chữ ký. Đối với tổ chức có hành vi vi phạm tương tự mức phạt tiền gấp 02 lần so với cá nhân. 3. Truy cứu trách nhiệm hình sự tội giả mạo chữ ký Hành vi giả mạo chữ ký mà được thực hiện bởi người có quyền hạn, chức vụ với mức độ vi phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì căn cứ theo Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015 về tội giả mạo trong công tác sẽ có các khung hình phạt sau: (1) Người nào vì vụ lợi thực hiện giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn thì bị phạt tù từ 01 năm - 05 năm. (2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm - 10 năm: - Có tổ chức. - Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu. - Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả. (3) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm - 15 năm: - Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 05 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả. - Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. (4) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm - 20 năm: - Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 11 giấy tờ giả trở lên. - Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. (5) Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm - 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Như vậy, hành vi giả mạo chữ ký có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực và với nhiều mức độ vi phạm khác nhau thì sẽ có nhiều khung hình phạt dành cho từng mức độ vi phạm đó. Việc vi phạm tội này có thể bị xử phạt lên đến 20 năm tù.
Hình phạt và mục đích của hình phạt
Hình phạt được ghi nhận là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến nhất và có lịch sử lâu đời trong các biện pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nhà nước sử dụng hình phạt đối với người phạm tội để bảo vệ mình, bảo vệ xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Theo điều luật quy định trong Bộ Luật Hình sự thì mục đích của hình phạt thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Trong lý luận thể hiện bằng thuật ngữ phòng ngừa riêng. Nội dung chủ yếu của phòng ngừa riêng là hình phạt đưa lại những tước bỏ, hạn chế nhất định về quyền và lợi ích đối với người bị kết án. Mức độ phải chịu những tước bỏ và hạn chế quyền lợi này tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó càng nghiêm khắc. Cái chủ yếu trong phòng ngừa riêng của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ từ một con người lầm lỗi, vi phạm pháp luật trở thành người có ý thức tôn trọng pháp luật và quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ngoài mục đích phòng ngừa riêng, hình phạt còn có mục đích nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Áp dụng hình phạt bao giờ cũng tác động đến các thành viên khác trong xã hội. tùy vào mức độ, tính chất từng vụ việc mà mức độ tác động của hình phạt đối với họ khác nhau. Để đạt được mục đích phòng ngừa chung của hình phạt, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp về kinh tế, tư tưởng, tổ chức, pháp lý, văn hóa, giáo dục,... qua đó tuyên truyền nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. Phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng là hai mặt không thể tách rời của hình phạt, chúng ảnh hưởng qua lại với nhau trong mục đích chung của hình phạt. Mục đích phòng ngừa chung không thể đạt được nếu phòng ngừa riêng bị triệt tiêu, cũng như khi phòng ngừa chung bị hạn chế thì phòng ngừa riêng sẽ thiếu môi trường xã hội thuận lợi.
Phạt tiền trong Bộ luật hình sự
Với tư cách là một hình phạt được liệt kê quy định trong Điều 32 Bộ luật hình sự là hình phạt tiền mang tính nghiêm khắc nhất so với hình phạt tiền được quy định trong các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước. Tính nghiêm khắc của hình phạt tiền trong Bộ Luật hình sự thể hiện ở chỗ là nó tước đi ở người phạm tội một khoản tiền nhất định, nghĩa là trực tiếp hạn chế về mặt lợi ích vật chất của người phạm tội. Đồng thời, người bị kết án phạt tiền còn phải gánh chịu hậu quả pháp lý là mang án tích trong một thời hạn nhất định của pháp luật. Phạt tiền là buộc người bị kết án phải nộp khoản tiền nhất định để sung công quỹ nhà nước trong những trường hợp do luật quy định. Một khoản tiền nhất định được hiểu là khoản nằm trong giới hạn giữa mức tối thiểu và mức tối đa của từng điều luật cụ thể trong phần các tội phạm có quy định về hình phạt tiền. Hiện nay, Bộ luật hình sự chỉ quy định mức phạt tiền tối thiểu là 1.000.000 đồng và không quy định mức tối đa. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả. Khi quyết định hình phạt và mức phạt tiền, Tòa án phải xem xét và cân nhắc đến các quy định của bộ luật hình sự; tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện; nhân thân người phạm tội; các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời xem xét đến tình hình tài sản của người phạm tội và biến động giá cả thị trường. Trên cơ sở đó Tòa án quyết định mức phạt tiền hợp lý, tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Có như vậy mới đảm bảo tính khả thi của hình phạt tiền trên thực tế. Phạt tiền là hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc áp dụng là hình phạt bổ sung. Hình phạt phạt tiền được áp dụng chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ luật hình sự quy định; Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định và được áp dụng là hình phạt bổ sung khi hình phạt tiền không phải là hình phạt chính đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội khác do bộ luật hình sự quy định. Hình phạt tiền áp dụng đối với pháp nhân thương mại thì được quy định tại điều 77 của bộ luật hình sự hiện hành.
Vợ, chồng cưới xong không đeo nhẫn có vi phạm về pháp luật hôn nhân và gia đình?
Chúng ta thường thấy khi xử phạt về hôn nhân và gia đình thì thông thường nổi bật lên những hành vi như Vi phạm chế độ một vợ, một chồng; Cưỡng ép hoặc cản trở hôn nhân, ly hôn tự nguyện, tiến bộ; hay Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ Cản trở kết hôn, ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác. Tuy nhiên , liệu trường hợp hai vợ chồng đã cưới mà có nhẫn đính hôn trước đó nhưng trong quá trình chung sống thì cả hai đều không đeo nhẫn cưới thì liệu về nguyên tắc có vi phạm về pháp luật hôn nhân và gia đình không Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tình nghĩa của vợ chồng là: 1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Như vậy, pháp luật hiện hành không có bất cứ quy định nào về vấn đề xử phạt hay vi phạm về hành vi sau khi cưới mà các bên không đeo nhẫn cưới, hơn nữa nhẫn cưới không phải là cơ sở để chứng minh quan hệ vợ chồng về mặt pháp luật. Do đó, việc đeo hay không đeo thì pháp luật không quy định về chế tài. Tuy nhiên, trong đời sống gia đình thì cả hai vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.