Phương pháp xác định hàm lượng ma túy khi bị phối trộn để xử lý vi phạm
Tình huống phát sinh là đang có vướng mắc trong cách xác định khối lượng chất ma túy để khởi tố hình sự đối với cỏ mỹ. Cụ thể chất Xlr-11 được phun lên thảo dược thành cỏ mỹ thì khi cân khối lượng sẽ tính theo hàm lượng chất Xlr-11 trong cỏ mỹ thôi hay cân toàn bộ khối lượng cỏ? Nguyên tắc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy Liên quan vấn đề này, tại Điểm i Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 do Quốc hội ban hành có hướng dẫn về việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 rằng: Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, xái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được. Đối với các trường hợp khác thì thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13. Việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy được hướng dẫn bởi Nghị định 19/2018/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 02/02/2018, cụ thể tại Điều 3 nêu các nguyên tắc như sau: - Việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy phải đảm bảo khách quan, khoa học và được thực hiện theo phương pháp, trình tự quy định của Nghị định này. - Khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy theo quy định của Nghị định này là khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy thu giữ hoặc chứng minh được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Việc xác định khối lượng thuốc phiện trong xái thuốc phiện, thuốc phiện pha loãng, thuốc phiện pha trộn được tính theo thuốc phiện chứa 10% morphine làm căn cứ quy đổi. - Tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy được tính theo quy định của Nghị định này nếu là số thập phân thì gồm một chữ số sau dấu phẩy và không làm tròn. Căn cứ theo các quy định trên thì khi xác định khối lượng chất ma túy thì cần căn cứ vào kết luận giám định về hàm lượng để xác định khối lượng chất ma túy làm cơ sở để xử lý hình sự chứ không phải cân toàn bộ nguyên liệu được sử dụng để phối trộn. Xử lý khi có nhiều chất ma túy dưới mức xử lý hình sự Đối với trường hợp vụ việc sau khi giám định phát hiện có nhiều chất ma túy nhưng các chất ma túy đều có khối lượng hoặc thể tích dưới mức tối thiểu đối với từng chất đó theo quy định tại khoản 1 Điều 249 hoặc khoản 1 Điều 250 hoặc khoản 1 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì việc xử lý được áp dụng theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP theo trình tự như sau: (1) Tính tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 1 của một trong các Điều 249, 250, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Sau đó cộng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy lại với nhau để xác định tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy. (2) Căn cứ vào tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy đã được xác định tại điểm a khoản này để xác định tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của một trong các Điều 249, 250, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo nguyên tắc: - Nếu tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy dưới 100%, thì tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp dưới mức tối thiểu theo quy định tại khoản 1 Điều 249; hoặc khoản 1 Điều 250; hoặc khoản 1 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015. - Nếu tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy từ 100% trở lên, thì cần tiếp tục tính tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 2 của một trong các Điều 249, 250, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo trình tự quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều này. Theo đó, cần tính tổng lại theo nguyên tắc nêu trên để xem mức xử lý như thế nào. Nếu dưới mức 100% thì khộng chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp xác định hành vi vi phạm theo khối lượng hoặc thể tích.
Giải đáp một số khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án ma túy
Ngày 16/12/2019, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4), VKSND tối cao ban hành Công văn số 464 /CV-V4 về việc trả lời những khó khăn, vướng mắc của VKSND địa phương. Trang tin điện tử VKSND tối cao xin tổng hợp các khó khăn, vướng mắc và giải đáp của Vụ 4. 1. Vấn đề thứ nhất: Hiện nay khi giải quyết các vụ án ma túy, các đối tượng cai nghiện bằng chất Methadone đã bớt và sau đó bán cho người khác, khi bị phát hiện, bắt giữ, tổ chức giám định thì kết luận giám định: “chất lỏng màu vàng gửi tới giám định là dung dịch Methadone có thể tích..., nồng độ Methadone là ...mg/ml”. Methadone là chất ma túy nằm trong Danh mục C của Nghị định 73. Vậy có cần giám định hàm lượng Methadone không hay truy tố, xét xử theo khối lượng ml đã thu giữ? * Trả lời: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Methadone là chất ma túy, có số thứ tự 48 mục IIA-Danh mục II Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất. Như vậy, Methadone dưới dạng chất lỏng thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích. 2. Vấn đề thứ hai: Đề nghị hướng dẫn thống nhất thực hiện ma túy ở thể rắn có nhiều chất hợp thành (Methamphetamine + MDMA + Ketamine hoặc Methamphetamine + MDMA + Methylphenidate) vì quy định của pháp luật hiện hành với ma túy ở thể rắn chỉ giám định khối lượng, không giám định hàm lượng; do đó trong quá trình yêu cầu giám định, phải yêu cầu cơ quan giám định khối lượng từng chất ma túy. * Trả lời: Theo quy định của pháp luật, chất ma túy ở thể rắn thì không phải giám định hàm lượng. Tuy nhiên, khi gặp trường hợp vật chứng thu giữ là chất ma túy ở thể rắn hợp thành từ nhiều chất ma túy ở thể rắn khác nhau thì yêu cầu Cơ quan điều tra xác định tỷ trọng của từng chất ma túy trong chất ma túy hợp thành để xác định khối lượng từng chất ma túy. Trên cơ sở đó, áp dụng tình tiết định khung: có hai chất ma túy trở lên... để xử lý tội phạm. Việc xác định khối lượng của từng chất ma túy trong chất ma túy hợp thành là bắt buộc vì có những trường hợp các chất ma túy thành phần không cùng quy định trong cùng một điểm của điều luật. Trong trường hợp cơ quan giám định không thể xác định được khối lượng từng chất ma túy thành phần thì vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo. 3. Vấn đề thứ ba: Đề nghị hướng dẫn để thống nhất giải quyết những tranh chấp, xung đột trong định tội danh đối với trường hợp tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán nhưng không xác định được người mua là cần thiết để phục vụ tốt hơn trong công tác xét xử các tội phạm về ma túy. * Trả lời: Bộ luật Hình sự năm 2015 đã đưa ra phần giả định rất rõ ràng trong các điều luật. Cụ thể đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy…”. Như vậy, việc xác định tội danh phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội, nếu người phạm tội khai tàng trữ nhằm mục đích mua bán, tuy nhiên chưa kịp thực hiện đã bị phát hiện bắt giữ (chưa bán được cho ai) thì phải xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, không xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải củng cố chặt chẽ tài liệu, chứng cứ không để bị can phản cung thay đổi lời khai ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Thực tế, việc bị can, bị cáo thay đổi lời khai từ nhằm để bán sang nhằm sử dụng cá nhân chỉ gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng đối với trường hợp lượng ma túy thu giữ được nhỏ (vài gram hoặc vài chục gram), nếu khối lượng ma túy thu giữ được rất lớn (từ kilogram Heroin hoặc Methamphetamine trở lên), mặc dù không xác định được người mua, bị can có thay đổi lời khai so với ban đầu từ “nhằm” mục đích mua bán sang “nhằm” mục đích tàng trữ để sử dụng thì không chấp nhận. 4. Vấn đề thứ tư: Đề nghị VKSND tối cao phối hợp liên ngành Tư pháp Trung ương có quan điểm thống nhất, hướng dẫn việc giải quyết án ma túy trên cơ sở Bộ luật Hình sự năm 2015, thay thế Nghị quyết số 01/2001/HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao và các Thông tư số 17 và Thông tư số 08. * Trả lời: Thực tế hiện nay Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có hiệu lực thi hành với nhiều quy định mới hoặc nội dung sửa đổi căn bản trong khi chưa có văn bản giải thích pháp luật hoặc hướng dẫn thực hiện. Các văn bản hướng dẫn cũ không còn phù hợp về hình thức vì đối tượng hướng dẫn của các văn bản này (Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) đã hết hiệu lực thi hành dẫn đến thiếu thống nhất giữa các ngành, các cấp trong đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ án. Trong khi theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao mới có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn luật về nội dung; trong thực tiễn Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hiếm khi thực hiện giải thích luật, còn Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có ban hành Nghị quyết hướng dẫn, giải thích nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của lĩnh vực tội phạm về ma tuý. Do vậy, về nội dung này VKSND tối cao sẽ tổng hợp các khó khăn vướng mắc gặp phải để kiến nghị với Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nghiên cứu ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 01/2001/HĐTP ngày 15/3/2001. Đề nghị VKSND địa phương gửi những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn về VKSND tối cao (Vụ 4) để tổng hợp văn bản chung, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền giải quyết. 5. Vấn đề thứ năm: Hiện đang vướng mắc về thành phần mở niêm phong vật chứng là ma túy. * Trả lời: Đề nghị nghiên cứu các quy định tại khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 7 Nghị định số 127/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 quy định chi tiết việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng. Đối với các vụ án về ma túy cần tuân thủ các quy định nêu trên về thành phần mở niêm phong vật chứng là ma túy. Nguồn: VKSND tối cao
Vướng mắc về vấn đề xác định hàm lượng ma túy tinh chất để làm căn cứ truy tố, xét xử.
Tội phạm ma túy hiện nay trên thực tế còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan tới vấn đề xác định hàm lượng ma túy tinh chất để làm căn cứ truy tố, xét xử. Hiện nay, tình hình tội phạm ma túy trên cả nước ngày càng gia tăng, việc thực hiện các hành vi mua bán, vẩn chuyển tàng trữ trái phép chất ma túy ngày càng nhiều với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Nói đến ma túy chắc hẳn ai cũng biết những tác hại vô cùng lớn mà nó gây ra cho người sử dụng và cho toàn xã hội, do đó, việc áp dụng các chế tài hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội liên quan đến tội phạm ma túy là cần thiết và phải thật nghiêm khắc để có tính răn đe, phòng ngừa, giáo dục chung. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã có quy định chi tiết về tội phạm và hình phạt đối với các tội về ma túy. Để thống nhất trong việc xét xử và giải quyết một số bất cập tại TTLT số 17/2007 , ngày 14/11/2015 Bộ Công an, Bộ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp ban hành TTLT số 08/2015. Tại TTLT số 08/2015 các Bộ đã thống nhất việc xác định hàm lượng chất ma túy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Theo đó, TTLT số 08/2015 đã liệt kê ra 04 trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng chất ma túy, gồm: “a, Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; b, Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; c, Xái thuốc phiện; d, Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật.” Gần đây, dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 chính thức được thông qua. Có thể thấy, 04 trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng được quy định trong thông tư liên tịch số 08/2015 đã được cụ thể hóa tại khoản 6 của các Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252, ngoài ra, các nhà làm luật còn quy định thêm trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng là các trường hợp mà bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 4 tại các điều luật trên. Có thể thấy, việc các nhà làm luật quy trực tiếp các trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng như trên là hợp lý, tránh việc không thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, việc chỉ quy định bắt buộc giám định hàm lượng đối ma túy khi bị can, bị cáo phạm tội tại khoản 4 các điều luật tương ứng là không công bằng. Bởi lẽ, sẽ có trường hợp ban đầu bị truy tố theo khoản 4, nhưng sau khi giám định hàm lượng ma túy thì do không đủ định lượng theo quy định tại khoản 4 bị cáo có thể được chuyển xuống khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 với mức hình phạt nhẹ hơn rất nhiều. Trong khi đó, giả sử một người bị truy tố theo khoản 3 điều luật tương ứng thì lại không thuộc trường hợp bắt buộc giám định hàm lượng. Đương cử như vụ án của Ngô Minh Hiếu đã đề cập ở trên. Theo Cáo trạng của Viện kiếm sát thì bị cáo Hiếu bị truy tố theo khoản 4 Điều 194 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 với mức án tử hình. Nhưng sau khi Tòa án trưng cầu giám định hàm lượng ma túy, do không đủ định lượng theo khoản 4 Điều 194 BLHS nên bị cáo được chuyển xuống khung hình phạt phù hợp với định lượng sau khi giám định (khoản 3 Điều 194) và được Tòa án tuyên xử 20 năm tù. Giả sử A phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 3 Điều 194 BLHS, giả sử đây không thuộc một trong 4 trường hợp bắt buộc giám định theo TTLT số 08/2015 và theo tinh thần của Điều 251 BLHS năm 2015 thì đây cũng không thuộc trường hợp bắt buộc giám định vì khung hình phạt cao nhất tại khoản 3 Điều 194 BLHS là 15 năm tù và theo khoản 3 Điều 251 BLHS năm 2015 là 20 năm tù. Như vậy, có thể có trường hợp A mua bán trái phép chất ma túy với trọng lượng 200 gam (theo điểm h khoản 3 Điều 194 BLHS, không thuộc trường hợp phải giám định hàm lượng) nên bị truy tố, xét xử theo khoản 3 Điều 194 BLHS và bị xử phạt 20 năm tù. B mua bán trái phép chất ma túy với trọng lượng 600g (theo điểm h khoản 4 Điều 194 BLHS) nên bị truy tố theo khoản 4 Điều 194 BLHS với mức án 20 năm tù. Do B bị tuy tố theo khoản 4 Điều 194 nên thuộc trường hợp phải giám định hàm lượng theo tinh thần tại khoản 6 Điều 251 BLHS (vì có lợi cho bị cáo). Sau khi giám định thì trọng lượng để làm căn cứ xác định khung hình phạt là dưới 100g nên được chuyển xuống khoản 2 Điều 194 BLHS. Như vậy, xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội thì rõ ràng hành vi mua bán trái phép chất ma túy của B sẽ nguy hiểm hơn A của A nhưng B lại được hưởng lợi do áp dụng quy định giám định hàm lượng ma túy. Điều đó tạo sự bất công bằng cho A và các bị cáo khác bị truy tố, xét xử theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 của các điều luật tương ứng. Do đó, theo quan điểm cá nhân để đảm bảo tình công bằng cho các bị cáo thì cần phải áp dụng quy định xác định hàm lượng ma túy đối với tất cả các khoản của các điều luật tương ứng. Không có lý do gì để có thể cho rằng: Một người có hành vi nguy hiểm hơn cho xã hội lại được quyền hưởng những quy định có lợi hơn so với một người có hành vi ít nguy hiểm cho xã hội. Thứ hai, Điều 241 BLTTHS 2003 quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Tuy nhiên quy định của BLTTHS về vấn đề này có một số điểm chưa phù hợp. Thứ nhất, Điều 230 BLTTHS quy định, xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực, bị kháng cáo, kháng nghị. Quy định này có thể hiểu, Tòa án xét xử lại hoặc xét lại chứ không “xem xét” như quy định tại Điều 241 BLTTHS. Ngoài ra, việc dùng thuật ngữ “xem xét” sẽ có thể dẫn đến hiểu nhầm xét xử phúc thẩm không phải là cấp xét xử mà giống như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Thứ hai, việc quy định chỉ xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị cũng có thể dẫn đến hiểu nhầm là đối tượng của xét xử phúc thẩm chỉ là nội dung của kháng cáo, kháng nghị chứ không phải là vụ án mà bản án có kháng cáo, kháng nghị. Thứ ba, theo tinh thần quy định về thẩm quyền tại khoản 2 Điều 248, Điều 249 BLTTHS 2003 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể quyết định những nội dung không có kháng cáo, kháng nghị nếu phần đó có tính chất giảm nhẹ cho bị cáo. Vì vậy, “phần khác” không bị cáo, kháng nghị được xem xét mà Điều 241 BLTTHS quy định là quá rộng. Vì vậy, cần phải có sự giới hạn các phần không bị kháng cáo, kháng nghị được xem xét chỉ là những nội dung vụ án có tính giảm nhẹ cho bị cáo. Để khắc phục các vướng mắc về phạm vi xét xử phúc thẩm, theo mình Điều 241 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm có thể xét xử lại các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị nếu việc xét xử lại có lợi cho bị cáo”.
Phương pháp xác định hàm lượng ma túy khi bị phối trộn để xử lý vi phạm
Tình huống phát sinh là đang có vướng mắc trong cách xác định khối lượng chất ma túy để khởi tố hình sự đối với cỏ mỹ. Cụ thể chất Xlr-11 được phun lên thảo dược thành cỏ mỹ thì khi cân khối lượng sẽ tính theo hàm lượng chất Xlr-11 trong cỏ mỹ thôi hay cân toàn bộ khối lượng cỏ? Nguyên tắc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy Liên quan vấn đề này, tại Điểm i Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 do Quốc hội ban hành có hướng dẫn về việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 rằng: Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, xái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được. Đối với các trường hợp khác thì thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13. Việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy được hướng dẫn bởi Nghị định 19/2018/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 02/02/2018, cụ thể tại Điều 3 nêu các nguyên tắc như sau: - Việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy phải đảm bảo khách quan, khoa học và được thực hiện theo phương pháp, trình tự quy định của Nghị định này. - Khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy theo quy định của Nghị định này là khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy thu giữ hoặc chứng minh được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Việc xác định khối lượng thuốc phiện trong xái thuốc phiện, thuốc phiện pha loãng, thuốc phiện pha trộn được tính theo thuốc phiện chứa 10% morphine làm căn cứ quy đổi. - Tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy được tính theo quy định của Nghị định này nếu là số thập phân thì gồm một chữ số sau dấu phẩy và không làm tròn. Căn cứ theo các quy định trên thì khi xác định khối lượng chất ma túy thì cần căn cứ vào kết luận giám định về hàm lượng để xác định khối lượng chất ma túy làm cơ sở để xử lý hình sự chứ không phải cân toàn bộ nguyên liệu được sử dụng để phối trộn. Xử lý khi có nhiều chất ma túy dưới mức xử lý hình sự Đối với trường hợp vụ việc sau khi giám định phát hiện có nhiều chất ma túy nhưng các chất ma túy đều có khối lượng hoặc thể tích dưới mức tối thiểu đối với từng chất đó theo quy định tại khoản 1 Điều 249 hoặc khoản 1 Điều 250 hoặc khoản 1 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì việc xử lý được áp dụng theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP theo trình tự như sau: (1) Tính tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 1 của một trong các Điều 249, 250, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Sau đó cộng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy lại với nhau để xác định tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy. (2) Căn cứ vào tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy đã được xác định tại điểm a khoản này để xác định tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của một trong các Điều 249, 250, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo nguyên tắc: - Nếu tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy dưới 100%, thì tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp dưới mức tối thiểu theo quy định tại khoản 1 Điều 249; hoặc khoản 1 Điều 250; hoặc khoản 1 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015. - Nếu tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy từ 100% trở lên, thì cần tiếp tục tính tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất đó được quy định tại khoản 2 của một trong các Điều 249, 250, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo trình tự quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều này. Theo đó, cần tính tổng lại theo nguyên tắc nêu trên để xem mức xử lý như thế nào. Nếu dưới mức 100% thì khộng chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp xác định hành vi vi phạm theo khối lượng hoặc thể tích.
Giải đáp một số khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án ma túy
Ngày 16/12/2019, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4), VKSND tối cao ban hành Công văn số 464 /CV-V4 về việc trả lời những khó khăn, vướng mắc của VKSND địa phương. Trang tin điện tử VKSND tối cao xin tổng hợp các khó khăn, vướng mắc và giải đáp của Vụ 4. 1. Vấn đề thứ nhất: Hiện nay khi giải quyết các vụ án ma túy, các đối tượng cai nghiện bằng chất Methadone đã bớt và sau đó bán cho người khác, khi bị phát hiện, bắt giữ, tổ chức giám định thì kết luận giám định: “chất lỏng màu vàng gửi tới giám định là dung dịch Methadone có thể tích..., nồng độ Methadone là ...mg/ml”. Methadone là chất ma túy nằm trong Danh mục C của Nghị định 73. Vậy có cần giám định hàm lượng Methadone không hay truy tố, xét xử theo khối lượng ml đã thu giữ? * Trả lời: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Methadone là chất ma túy, có số thứ tự 48 mục IIA-Danh mục II Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất. Như vậy, Methadone dưới dạng chất lỏng thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích. 2. Vấn đề thứ hai: Đề nghị hướng dẫn thống nhất thực hiện ma túy ở thể rắn có nhiều chất hợp thành (Methamphetamine + MDMA + Ketamine hoặc Methamphetamine + MDMA + Methylphenidate) vì quy định của pháp luật hiện hành với ma túy ở thể rắn chỉ giám định khối lượng, không giám định hàm lượng; do đó trong quá trình yêu cầu giám định, phải yêu cầu cơ quan giám định khối lượng từng chất ma túy. * Trả lời: Theo quy định của pháp luật, chất ma túy ở thể rắn thì không phải giám định hàm lượng. Tuy nhiên, khi gặp trường hợp vật chứng thu giữ là chất ma túy ở thể rắn hợp thành từ nhiều chất ma túy ở thể rắn khác nhau thì yêu cầu Cơ quan điều tra xác định tỷ trọng của từng chất ma túy trong chất ma túy hợp thành để xác định khối lượng từng chất ma túy. Trên cơ sở đó, áp dụng tình tiết định khung: có hai chất ma túy trở lên... để xử lý tội phạm. Việc xác định khối lượng của từng chất ma túy trong chất ma túy hợp thành là bắt buộc vì có những trường hợp các chất ma túy thành phần không cùng quy định trong cùng một điểm của điều luật. Trong trường hợp cơ quan giám định không thể xác định được khối lượng từng chất ma túy thành phần thì vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo. 3. Vấn đề thứ ba: Đề nghị hướng dẫn để thống nhất giải quyết những tranh chấp, xung đột trong định tội danh đối với trường hợp tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán nhưng không xác định được người mua là cần thiết để phục vụ tốt hơn trong công tác xét xử các tội phạm về ma túy. * Trả lời: Bộ luật Hình sự năm 2015 đã đưa ra phần giả định rất rõ ràng trong các điều luật. Cụ thể đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy…”. Như vậy, việc xác định tội danh phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội, nếu người phạm tội khai tàng trữ nhằm mục đích mua bán, tuy nhiên chưa kịp thực hiện đã bị phát hiện bắt giữ (chưa bán được cho ai) thì phải xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, không xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải củng cố chặt chẽ tài liệu, chứng cứ không để bị can phản cung thay đổi lời khai ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Thực tế, việc bị can, bị cáo thay đổi lời khai từ nhằm để bán sang nhằm sử dụng cá nhân chỉ gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng đối với trường hợp lượng ma túy thu giữ được nhỏ (vài gram hoặc vài chục gram), nếu khối lượng ma túy thu giữ được rất lớn (từ kilogram Heroin hoặc Methamphetamine trở lên), mặc dù không xác định được người mua, bị can có thay đổi lời khai so với ban đầu từ “nhằm” mục đích mua bán sang “nhằm” mục đích tàng trữ để sử dụng thì không chấp nhận. 4. Vấn đề thứ tư: Đề nghị VKSND tối cao phối hợp liên ngành Tư pháp Trung ương có quan điểm thống nhất, hướng dẫn việc giải quyết án ma túy trên cơ sở Bộ luật Hình sự năm 2015, thay thế Nghị quyết số 01/2001/HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao và các Thông tư số 17 và Thông tư số 08. * Trả lời: Thực tế hiện nay Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có hiệu lực thi hành với nhiều quy định mới hoặc nội dung sửa đổi căn bản trong khi chưa có văn bản giải thích pháp luật hoặc hướng dẫn thực hiện. Các văn bản hướng dẫn cũ không còn phù hợp về hình thức vì đối tượng hướng dẫn của các văn bản này (Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) đã hết hiệu lực thi hành dẫn đến thiếu thống nhất giữa các ngành, các cấp trong đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật khi giải quyết vụ án. Trong khi theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chỉ có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao mới có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn luật về nội dung; trong thực tiễn Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hiếm khi thực hiện giải thích luật, còn Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có ban hành Nghị quyết hướng dẫn, giải thích nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của lĩnh vực tội phạm về ma tuý. Do vậy, về nội dung này VKSND tối cao sẽ tổng hợp các khó khăn vướng mắc gặp phải để kiến nghị với Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nghiên cứu ban hành Nghị quyết mới thay thế Nghị quyết số 01/2001/HĐTP ngày 15/3/2001. Đề nghị VKSND địa phương gửi những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn về VKSND tối cao (Vụ 4) để tổng hợp văn bản chung, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền giải quyết. 5. Vấn đề thứ năm: Hiện đang vướng mắc về thành phần mở niêm phong vật chứng là ma túy. * Trả lời: Đề nghị nghiên cứu các quy định tại khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 7 Nghị định số 127/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 quy định chi tiết việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng. Đối với các vụ án về ma túy cần tuân thủ các quy định nêu trên về thành phần mở niêm phong vật chứng là ma túy. Nguồn: VKSND tối cao
Vướng mắc về vấn đề xác định hàm lượng ma túy tinh chất để làm căn cứ truy tố, xét xử.
Tội phạm ma túy hiện nay trên thực tế còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan tới vấn đề xác định hàm lượng ma túy tinh chất để làm căn cứ truy tố, xét xử. Hiện nay, tình hình tội phạm ma túy trên cả nước ngày càng gia tăng, việc thực hiện các hành vi mua bán, vẩn chuyển tàng trữ trái phép chất ma túy ngày càng nhiều với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Nói đến ma túy chắc hẳn ai cũng biết những tác hại vô cùng lớn mà nó gây ra cho người sử dụng và cho toàn xã hội, do đó, việc áp dụng các chế tài hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội liên quan đến tội phạm ma túy là cần thiết và phải thật nghiêm khắc để có tính răn đe, phòng ngừa, giáo dục chung. Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã có quy định chi tiết về tội phạm và hình phạt đối với các tội về ma túy. Để thống nhất trong việc xét xử và giải quyết một số bất cập tại TTLT số 17/2007 , ngày 14/11/2015 Bộ Công an, Bộ tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp ban hành TTLT số 08/2015. Tại TTLT số 08/2015 các Bộ đã thống nhất việc xác định hàm lượng chất ma túy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Theo đó, TTLT số 08/2015 đã liệt kê ra 04 trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng chất ma túy, gồm: “a, Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; b, Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; c, Xái thuốc phiện; d, Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần; Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật.” Gần đây, dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 chính thức được thông qua. Có thể thấy, 04 trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng được quy định trong thông tư liên tịch số 08/2015 đã được cụ thể hóa tại khoản 6 của các Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252, ngoài ra, các nhà làm luật còn quy định thêm trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng là các trường hợp mà bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 4 tại các điều luật trên. Có thể thấy, việc các nhà làm luật quy trực tiếp các trường hợp bắt buộc phải giám định hàm lượng như trên là hợp lý, tránh việc không thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, việc chỉ quy định bắt buộc giám định hàm lượng đối ma túy khi bị can, bị cáo phạm tội tại khoản 4 các điều luật tương ứng là không công bằng. Bởi lẽ, sẽ có trường hợp ban đầu bị truy tố theo khoản 4, nhưng sau khi giám định hàm lượng ma túy thì do không đủ định lượng theo quy định tại khoản 4 bị cáo có thể được chuyển xuống khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 với mức hình phạt nhẹ hơn rất nhiều. Trong khi đó, giả sử một người bị truy tố theo khoản 3 điều luật tương ứng thì lại không thuộc trường hợp bắt buộc giám định hàm lượng. Đương cử như vụ án của Ngô Minh Hiếu đã đề cập ở trên. Theo Cáo trạng của Viện kiếm sát thì bị cáo Hiếu bị truy tố theo khoản 4 Điều 194 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 với mức án tử hình. Nhưng sau khi Tòa án trưng cầu giám định hàm lượng ma túy, do không đủ định lượng theo khoản 4 Điều 194 BLHS nên bị cáo được chuyển xuống khung hình phạt phù hợp với định lượng sau khi giám định (khoản 3 Điều 194) và được Tòa án tuyên xử 20 năm tù. Giả sử A phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 3 Điều 194 BLHS, giả sử đây không thuộc một trong 4 trường hợp bắt buộc giám định theo TTLT số 08/2015 và theo tinh thần của Điều 251 BLHS năm 2015 thì đây cũng không thuộc trường hợp bắt buộc giám định vì khung hình phạt cao nhất tại khoản 3 Điều 194 BLHS là 15 năm tù và theo khoản 3 Điều 251 BLHS năm 2015 là 20 năm tù. Như vậy, có thể có trường hợp A mua bán trái phép chất ma túy với trọng lượng 200 gam (theo điểm h khoản 3 Điều 194 BLHS, không thuộc trường hợp phải giám định hàm lượng) nên bị truy tố, xét xử theo khoản 3 Điều 194 BLHS và bị xử phạt 20 năm tù. B mua bán trái phép chất ma túy với trọng lượng 600g (theo điểm h khoản 4 Điều 194 BLHS) nên bị truy tố theo khoản 4 Điều 194 BLHS với mức án 20 năm tù. Do B bị tuy tố theo khoản 4 Điều 194 nên thuộc trường hợp phải giám định hàm lượng theo tinh thần tại khoản 6 Điều 251 BLHS (vì có lợi cho bị cáo). Sau khi giám định thì trọng lượng để làm căn cứ xác định khung hình phạt là dưới 100g nên được chuyển xuống khoản 2 Điều 194 BLHS. Như vậy, xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội thì rõ ràng hành vi mua bán trái phép chất ma túy của B sẽ nguy hiểm hơn A của A nhưng B lại được hưởng lợi do áp dụng quy định giám định hàm lượng ma túy. Điều đó tạo sự bất công bằng cho A và các bị cáo khác bị truy tố, xét xử theo khoản 1, khoản 2, khoản 3 của các điều luật tương ứng. Do đó, theo quan điểm cá nhân để đảm bảo tình công bằng cho các bị cáo thì cần phải áp dụng quy định xác định hàm lượng ma túy đối với tất cả các khoản của các điều luật tương ứng. Không có lý do gì để có thể cho rằng: Một người có hành vi nguy hiểm hơn cho xã hội lại được quyền hưởng những quy định có lợi hơn so với một người có hành vi ít nguy hiểm cho xã hội. Thứ hai, Điều 241 BLTTHS 2003 quy định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Tuy nhiên quy định của BLTTHS về vấn đề này có một số điểm chưa phù hợp. Thứ nhất, Điều 230 BLTTHS quy định, xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực, bị kháng cáo, kháng nghị. Quy định này có thể hiểu, Tòa án xét xử lại hoặc xét lại chứ không “xem xét” như quy định tại Điều 241 BLTTHS. Ngoài ra, việc dùng thuật ngữ “xem xét” sẽ có thể dẫn đến hiểu nhầm xét xử phúc thẩm không phải là cấp xét xử mà giống như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Thứ hai, việc quy định chỉ xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị cũng có thể dẫn đến hiểu nhầm là đối tượng của xét xử phúc thẩm chỉ là nội dung của kháng cáo, kháng nghị chứ không phải là vụ án mà bản án có kháng cáo, kháng nghị. Thứ ba, theo tinh thần quy định về thẩm quyền tại khoản 2 Điều 248, Điều 249 BLTTHS 2003 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể quyết định những nội dung không có kháng cáo, kháng nghị nếu phần đó có tính chất giảm nhẹ cho bị cáo. Vì vậy, “phần khác” không bị cáo, kháng nghị được xem xét mà Điều 241 BLTTHS quy định là quá rộng. Vì vậy, cần phải có sự giới hạn các phần không bị kháng cáo, kháng nghị được xem xét chỉ là những nội dung vụ án có tính giảm nhẹ cho bị cáo. Để khắc phục các vướng mắc về phạm vi xét xử phúc thẩm, theo mình Điều 241 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm có thể xét xử lại các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị nếu việc xét xử lại có lợi cho bị cáo”.