Rút kinh nghiệm việc ban hành cáo trạng sai quy định về hình thức và nội dung
Ngày 27/6/2023, VKSNDTC đã có Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 đây về việc rút kinh nghiệm trong việc xây dựng Cáo trạng. Cụ thể, qua công tác nghiên cứu Cáo trạng do VKSND các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chuyển đến, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC tổng hợp nhận thấy một số bản Cáo trạng ban hành chưa thực hiện đúng theo hướng dẫn về hình thức và có những nội dung cần thông báo rút kinh nghiệm. Cụ thể: (1) Rút kinh nghiệm về ban hành hình thức Cáo trạng Một số bản Cáo trạng của VKSND các tỉnh, Thành phố ghi, không ghi hoặc ghi không đúng hướng dẫn tại Mẫu số 144/HS ngày 09/01/2018 ban hành kèm theo Quyết định 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSNDTC. Ngoài ra, một số bản Cáo trạng còn có lỗi chính tả và chưa đúng phông chữ theo quy định: - Tại phần căn cứ: + Ghi tắt nhiều cụm từ: “CQĐT” và “BLHS”. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ). + Không ghi tội danh, khoản, Điều luật của Quyết định khởi tố vụ án hình sự. (Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB, Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB, Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ) hoặc ghi thiếu khoản của Điều luật (Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 và Cáo trạng số 40/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh BĐ). - Tại phần kết luận: + Ghi các nội dung: “Từ những tình tiết, chủng cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận các bị can có lý lịch dưới đây phạm tội”, “Vì các lẽ trên ” hoặc không ghi nội dung “Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên, ”... - Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ. - Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB. - Cáo trạng các số 45,50,51/CT-VKS ngày 12,27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. - Cáo trạng các số 21,22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB. - Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh ĐB. - Cáo trạng các số 121,125,129,139/CT-VKS ngày 06,11,17/04/2023 của VKSND Thành phố HN. - Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh BG. - Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh TB. - Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. - Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ ... + Không ghi rõ thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn (Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh Lâm Đồng). + Không ghi điểm, khoản, Điều nào của Bộ luật Hình sự 2015 về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Cáo Trạng 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ). + Ghi nội dung kết quả thu giữ vật chứng tại phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS). - Tại phần quyết định: + Ghi các nội dung: “Truy tố các bị can có lý lịch và hành vi phạm tội nêu trên ra trước Tòa án nhân dân tỉnh...đê xét xử" hoặc không ghi "Bảng kê vật chứng" (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Hòa Bình, Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 11/05/2023 của VKSND tỉnh Lào Cai, Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Sơn La, Cáo trạng số 41/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Điện Biên, Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh Yên Bái, Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Quảng Ninh, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 18/04/2023 của VKSND tỉnh Thái Nguyên, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh Bình Định). + Ghi nội dung xử lý vật chứng (Cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 31/05/2023 của VKSND tỉnh Vĩnh Phúc). - Nơi nhận: Ghi không đúng thứ tự hoặc không ghi Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc không ghi Luật sư bào chừa. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 129,139/CT-VKS ngày 11,17/04/2023 của VKSND Thành phố Hà Nội...). (2) Rút kinh nghiệm về nội dung Cáo trạng - Trích dẫn không đầy đủ các chất ma túy quy định tại điểm, khoản của Điều luật: “c) ...MDMA...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam... ". + Cáo trạng số 50,51/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. + Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. Hoặc không trích dẫn tên Điều luật hoặc không trích đúng quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ, Cáo trạng số 48/CT- VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh KH, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ). Cần ghi đầy đủ các chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và trích dẫn đầy đủ tên Điều luật để phổ biến, tuyên truyền giáo dục chung. - Xác định khối lượng chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự: Phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS) ghi nội dung: “ ...bản trái phép 06 bánh Heroine...có khối lượng từ 1.920 gam đến 2.280 gam ”. Cần xác định cụ thể khối lượng chất ma túy đề đảm bảo căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị can theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015. Những bản Cáo trạng của các Viện kiểm sát tỉnh, Thành phố nêu trên còn tồn tại một số nội dung khi ban hành, dẫn tới phải đính chính bản Cáo trạng hoặc bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đây là văn bản pháp lý quan trọng trong giai đoạn truy tố đòi hỏi phải bảo đảm sự thận trọng, chính xác, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Trên đây là tổng hợp những tồn tại khi ban hành bản Cáo trạng VKSND địa phương, Vụ Thực hành quyền công tố điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC thông báo, kiểm sát nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương biết rút chung trong quá trình Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều 1 hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng theo đúng quy định của pháp luật. Xem thêm Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Phạt nặng cá nhân ghi âm, chụp hình tại phiên tòa
Hoạt động ghi âm, ghi hình là công việc chính của báo chí, phóng viên trực tiếp tại sự kiện, nhằm ghi lại những tư liệu hữu ích để viết tin, bài về sự kiện đó. Đặc biệt là tại các phiên tòa, nơi xảy ra nhiều vụ kiện, vụ án được nhiều người quan tâm thì chắc chắn cánh phóng viên báo chí sẽ không thể bỏ lỡ cơ hội này. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nhà báo có hành vi ghi âm lời nói, ghi hình ảnh trong phiên tòa xét xử nhằm lưu lại những thông tin để đăng bài một cách nhanh nhất mà chưa được sự cho phép của tòa diễn ra rất nhiều. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình xét xử, thì ngày 01/9/2022 tới đây Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, sẽ có hiệu lực. Theo đó, tại Điều 23 Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH quy định mức xử phạt đối với cá nhân có hành vi vi phạm nội quy phiên tòa như sau: - Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng - 500.000 đồng đối với các hành vi: Sử dụng điện thoại, tạo các tạp âm hoặc thực hiện các hành vi khác gây mất trật tự tại phiên tòa. Để thiết bị điện tử ở trạng thái tắt camera hoặc tắt âm thanh micro mặc dù được chủ tọa phiên tòa nhắc nhở. Không đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, khi Hội đồng xét xử tuyên án mà không được chủ tọa phiên tòa cho phép. Hút thuốc, ăn uống trong phòng xử án. Mặc trang phục không nghiêm túc, đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án không có lý do chính đáng và không được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. - Phạt tiền từ 500.000 đồng - 1.000.000 đồng đối với các hành vi sau: Không chấp hành việc kiểm tra an ninh của lực lượng có trách nhiệm bảo vệ phiên tòa. Hỏi, trình bày ý kiến khi chưa được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Gây rối tại phòng xử án. Không chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa mặc dù đã được nhắc nhở. Có thái độ không tôn trọng Hội đồng xét xử. Nhà báo không thực hiện yêu cầu của Tòa án về việc xuất trình thẻ nhà báo khi tham dự phiên tòa để hoạt động nghiệp vụ báo chí. - Phạt tiền từ 1 triệu đồng - 7 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Lôi kéo, xúi giục, kích động người khác gây mất trật tự, gây rối tại phòng xử án. Mang đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu hoặc tài liệu, đồ vật khác vào phòng xử án ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa. Cố ý ngắt hệ thống chiếu sáng, âm thanh, ghi âm, ghi hình ảnh hưởng đến phiên tòa. - Phạt tiền từ 7 triệu đồng - 15 triệu đồng đối với các hành vi sau: Đổ, ném chất thải, chất bẩn, hóa chất, gạch, đất, đá, cát hoặc vật khác vào phòng xử án. Mang vũ khí, hung khí, chất nổ, chất cháy hoặc chất độc vào phòng xử án, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa. Ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử mà không được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa hoặc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tham gia tố tụng mà không được sự đồng ý của họ trong phiên tòa xét xử vụ án dân sự, vụ án hành chính; không tuân theo sự điều hành của Chủ tọa phiên tòa về hoạt động ghi âm lời nói, ghi hình ảnh trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Ngoài ra, người có mặt tại phiên tòa khi mang vật dụng không được phép vào phiên tòa sẽ bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm. Nhằm hạn chế việc người này có những hành vi gây rối gây mất an ninh tại tòa. Bên cạnh đó, còn buộc thu hồi, nộp lại tư liệu, tài liệu, hình ảnh đối với hành vi trên mà không được sự cho phép của tòa, buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi ghi âm, ghi hình tại phiên tòa. Lưu ý: đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm tương tự cá nhân thì mức phạt sẽ gấp 02 lần, theo đó nếu nhà báo là người trực thuộc cơ quan báo chí, thông tấn mà vi phạm các quy định về nội quy của tòa án sẽ áp dụng mức xử phạt đối tổ chức. Như vậy, nhà báo, phóng viên có hành vi ghi âm, hình ảnh mà chưa được sự cho phép của người có thẩm quyền thì có thể bị phạt tiền lên đến 15 triệu đồng, để tránh bị xử phạt dù là hành vi đó có là vô ý thì trước hết nhà báo khi đến tòa án lấy tin thì phải xuất trình giấy tờ và xin phép người có thẩm quyền tại phòng xét xử trước về những nội dung nào có thể ghi lại và không. Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH có hiệu lực ngày 01/9/2022, kịp thời nhằm giảm các hành vi cản trở hoạt động tố tụng qua đó góp phần bảo đảm quá trình tố tụng được diễn ra đúng quy trình xét xử và sự tôn nghiêm của pháp đình.
Cá nhân cố ý vắng mặt xét xử theo giấy triệu tập hợp lệ có thể bị phạt đến 20 triệu đồng
Ngày 15/08/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho lấy ý kiến dự thảo Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (dự thảo Pháp lệnh). Nội dung dự thảo lần này ban hành chế tài đối với những hành vi cản trở hoạt động tố tụng được xem là cần thiết. Qua đó, đảm bảo sự tôn nghiêm và quy chuẩn trong hoạt động tố tụng. Theo đó, tại Điều 14 dự thảo Pháp lệnh quy định chi tiết các hành vi làm cản trở hoạt động tố tụng. Trong đó, cá nhân có hành vi vi phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập của người tiến tố tụng sẽ được áp dụng theo các mức phạt cho từng hành vi cụ thể như sau: Đối với người có hành vi vi phạm quy định về lệnh triệu tập của phiên tòa lần đầu thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 ngàn - 5 triệu đồng. Trong thực tế, các trường hợp cố tình không tham gia phiên tòa nhằm mục đích hoãn phiên tòa qua đó kéo dài thời gian tiến hành tố tụng. Điều này làm việc thực hiện giải quyết vụ việc, vụ án gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không chấp hành mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc giải quyết vụ án. Mức phạt này nhằm cảnh cáo người tham gia tố tụng cố ý vi phạm, qua đó nhắc nhở cần tuân thủ các quy định và đảm bảo việc tiến hành tố tụng được diễn ra kịp thời và nhanh chóng. Tại lần triệu tập hợp lệ thứ hai, người tham gia tố tụng cố ý vắng mặt tiếp mà không phải vì lý do chính đáng hay trở ngại khách quan thì phạt tiền từ 5 triệu - 10 triệu đồng. Mức phạt này tương đối cao đối với người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập nhưng từ chối tham gia xét xử. Việc tăng mức phạt này nhằm răn đe đối với hành vi tái phạm. Thực trạng này diễn ra không ít trong hoạt động tố tụng, điều này làm gián đoạn thời gian tố tụng dẫn đến ùn ứ việc giải quyết các vấn đề khác. Bên cạnh 02 mức phạt mà người tham gia tố tụng vi phạm lệnh triệu tập trong điều kiện thông thường thì Pháp lệnh đặc biệt xử lý nghiêm người có hành vi đe dọa, hành hung hoặc lợi dụng sự lệ thuộc nhằm cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án. Qua đó bị phạt tiền từ 10 triệu - 20 triệu đồng đối với người có hành vi như trên. Lưu ý: Tại khoản 2 Điều 6 dự thảo Pháp lệnh quy định đối với người vi phạm là tổ chức thì gấp 2 lần so với cá nhân. Hiện hành, tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định việc tiến hành hoạt động động tố tụng trong các trường hợp đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt theo lệnh triệu tập được thực hiện như sau: Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần một Trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ nhất của Tòa án, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa. Trong trường hợp người đó vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Như vậy, theo quy định trên thông thường người tham gia tố tụng dù có lý do hay vắng mặt không thông báo thì vẫn phải hoãn phiên tòa và triệu tập lại ở lần tiếp theo. Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa. Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần hai Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau: (1) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật. (2) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ. (3) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật. (4) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật. (5) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Như vậy, pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong trường hợp người tham gia hoạt động tố tụng lợi dụng việc vắng mặt nhằm gián đoạn kéo dài thời gian tranh tụng mà chưa có quy định xử phạt các hành vi trên. Điều này gây ra nhiều thiệt hại và mất đi sự tôn nghiêm của quy định về tố tụng. Để hạn chế thực trạng trên thì dự thảo Pháp lệnh đã ban hành một số chế tài nhằm thực thi hoạt động tố tụng được diễn ra nhanh chóng giúp người dân tự ý thức hơn về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng của mình.
Rút kinh nghiệm việc ban hành cáo trạng sai quy định về hình thức và nội dung
Ngày 27/6/2023, VKSNDTC đã có Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 đây về việc rút kinh nghiệm trong việc xây dựng Cáo trạng. Cụ thể, qua công tác nghiên cứu Cáo trạng do VKSND các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chuyển đến, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC tổng hợp nhận thấy một số bản Cáo trạng ban hành chưa thực hiện đúng theo hướng dẫn về hình thức và có những nội dung cần thông báo rút kinh nghiệm. Cụ thể: (1) Rút kinh nghiệm về ban hành hình thức Cáo trạng Một số bản Cáo trạng của VKSND các tỉnh, Thành phố ghi, không ghi hoặc ghi không đúng hướng dẫn tại Mẫu số 144/HS ngày 09/01/2018 ban hành kèm theo Quyết định 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSNDTC. Ngoài ra, một số bản Cáo trạng còn có lỗi chính tả và chưa đúng phông chữ theo quy định: - Tại phần căn cứ: + Ghi tắt nhiều cụm từ: “CQĐT” và “BLHS”. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ). + Không ghi tội danh, khoản, Điều luật của Quyết định khởi tố vụ án hình sự. (Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB, Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB, Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ) hoặc ghi thiếu khoản của Điều luật (Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 và Cáo trạng số 40/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh BĐ). - Tại phần kết luận: + Ghi các nội dung: “Từ những tình tiết, chủng cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận các bị can có lý lịch dưới đây phạm tội”, “Vì các lẽ trên ” hoặc không ghi nội dung “Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên, ”... - Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ. - Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB. - Cáo trạng các số 45,50,51/CT-VKS ngày 12,27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. - Cáo trạng các số 21,22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB. - Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh ĐB. - Cáo trạng các số 121,125,129,139/CT-VKS ngày 06,11,17/04/2023 của VKSND Thành phố HN. - Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh BG. - Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh TB. - Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. - Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ ... + Không ghi rõ thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn (Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh Lâm Đồng). + Không ghi điểm, khoản, Điều nào của Bộ luật Hình sự 2015 về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Cáo Trạng 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ). + Ghi nội dung kết quả thu giữ vật chứng tại phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS). - Tại phần quyết định: + Ghi các nội dung: “Truy tố các bị can có lý lịch và hành vi phạm tội nêu trên ra trước Tòa án nhân dân tỉnh...đê xét xử" hoặc không ghi "Bảng kê vật chứng" (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Hòa Bình, Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 11/05/2023 của VKSND tỉnh Lào Cai, Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Sơn La, Cáo trạng số 41/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Điện Biên, Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh Yên Bái, Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Quảng Ninh, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 18/04/2023 của VKSND tỉnh Thái Nguyên, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh Bình Định). + Ghi nội dung xử lý vật chứng (Cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 31/05/2023 của VKSND tỉnh Vĩnh Phúc). - Nơi nhận: Ghi không đúng thứ tự hoặc không ghi Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc không ghi Luật sư bào chừa. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 129,139/CT-VKS ngày 11,17/04/2023 của VKSND Thành phố Hà Nội...). (2) Rút kinh nghiệm về nội dung Cáo trạng - Trích dẫn không đầy đủ các chất ma túy quy định tại điểm, khoản của Điều luật: “c) ...MDMA...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam... ". + Cáo trạng số 50,51/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. + Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. Hoặc không trích dẫn tên Điều luật hoặc không trích đúng quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ, Cáo trạng số 48/CT- VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh KH, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ). Cần ghi đầy đủ các chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và trích dẫn đầy đủ tên Điều luật để phổ biến, tuyên truyền giáo dục chung. - Xác định khối lượng chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự: Phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS) ghi nội dung: “ ...bản trái phép 06 bánh Heroine...có khối lượng từ 1.920 gam đến 2.280 gam ”. Cần xác định cụ thể khối lượng chất ma túy đề đảm bảo căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị can theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015. Những bản Cáo trạng của các Viện kiểm sát tỉnh, Thành phố nêu trên còn tồn tại một số nội dung khi ban hành, dẫn tới phải đính chính bản Cáo trạng hoặc bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đây là văn bản pháp lý quan trọng trong giai đoạn truy tố đòi hỏi phải bảo đảm sự thận trọng, chính xác, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Trên đây là tổng hợp những tồn tại khi ban hành bản Cáo trạng VKSND địa phương, Vụ Thực hành quyền công tố điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC thông báo, kiểm sát nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương biết rút chung trong quá trình Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều 1 hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng theo đúng quy định của pháp luật. Xem thêm Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Phạt nặng cá nhân ghi âm, chụp hình tại phiên tòa
Hoạt động ghi âm, ghi hình là công việc chính của báo chí, phóng viên trực tiếp tại sự kiện, nhằm ghi lại những tư liệu hữu ích để viết tin, bài về sự kiện đó. Đặc biệt là tại các phiên tòa, nơi xảy ra nhiều vụ kiện, vụ án được nhiều người quan tâm thì chắc chắn cánh phóng viên báo chí sẽ không thể bỏ lỡ cơ hội này. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nhà báo có hành vi ghi âm lời nói, ghi hình ảnh trong phiên tòa xét xử nhằm lưu lại những thông tin để đăng bài một cách nhanh nhất mà chưa được sự cho phép của tòa diễn ra rất nhiều. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình xét xử, thì ngày 01/9/2022 tới đây Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, sẽ có hiệu lực. Theo đó, tại Điều 23 Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH quy định mức xử phạt đối với cá nhân có hành vi vi phạm nội quy phiên tòa như sau: - Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng - 500.000 đồng đối với các hành vi: Sử dụng điện thoại, tạo các tạp âm hoặc thực hiện các hành vi khác gây mất trật tự tại phiên tòa. Để thiết bị điện tử ở trạng thái tắt camera hoặc tắt âm thanh micro mặc dù được chủ tọa phiên tòa nhắc nhở. Không đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án, khi Hội đồng xét xử tuyên án mà không được chủ tọa phiên tòa cho phép. Hút thuốc, ăn uống trong phòng xử án. Mặc trang phục không nghiêm túc, đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án không có lý do chính đáng và không được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. - Phạt tiền từ 500.000 đồng - 1.000.000 đồng đối với các hành vi sau: Không chấp hành việc kiểm tra an ninh của lực lượng có trách nhiệm bảo vệ phiên tòa. Hỏi, trình bày ý kiến khi chưa được chủ tọa phiên tòa đồng ý. Gây rối tại phòng xử án. Không chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa mặc dù đã được nhắc nhở. Có thái độ không tôn trọng Hội đồng xét xử. Nhà báo không thực hiện yêu cầu của Tòa án về việc xuất trình thẻ nhà báo khi tham dự phiên tòa để hoạt động nghiệp vụ báo chí. - Phạt tiền từ 1 triệu đồng - 7 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Lôi kéo, xúi giục, kích động người khác gây mất trật tự, gây rối tại phòng xử án. Mang đồ vật cấm lưu hành, truyền đơn, khẩu hiệu hoặc tài liệu, đồ vật khác vào phòng xử án ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa. Cố ý ngắt hệ thống chiếu sáng, âm thanh, ghi âm, ghi hình ảnh hưởng đến phiên tòa. - Phạt tiền từ 7 triệu đồng - 15 triệu đồng đối với các hành vi sau: Đổ, ném chất thải, chất bẩn, hóa chất, gạch, đất, đá, cát hoặc vật khác vào phòng xử án. Mang vũ khí, hung khí, chất nổ, chất cháy hoặc chất độc vào phòng xử án, trừ vật chứng của vụ án phục vụ cho công tác xét xử hoặc vũ khí, công cụ hỗ trợ được người có thẩm quyền mang theo để làm nhiệm vụ bảo vệ phiên tòa. Ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử mà không được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa hoặc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tham gia tố tụng mà không được sự đồng ý của họ trong phiên tòa xét xử vụ án dân sự, vụ án hành chính; không tuân theo sự điều hành của Chủ tọa phiên tòa về hoạt động ghi âm lời nói, ghi hình ảnh trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Ngoài ra, người có mặt tại phiên tòa khi mang vật dụng không được phép vào phiên tòa sẽ bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm. Nhằm hạn chế việc người này có những hành vi gây rối gây mất an ninh tại tòa. Bên cạnh đó, còn buộc thu hồi, nộp lại tư liệu, tài liệu, hình ảnh đối với hành vi trên mà không được sự cho phép của tòa, buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi ghi âm, ghi hình tại phiên tòa. Lưu ý: đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm tương tự cá nhân thì mức phạt sẽ gấp 02 lần, theo đó nếu nhà báo là người trực thuộc cơ quan báo chí, thông tấn mà vi phạm các quy định về nội quy của tòa án sẽ áp dụng mức xử phạt đối tổ chức. Như vậy, nhà báo, phóng viên có hành vi ghi âm, hình ảnh mà chưa được sự cho phép của người có thẩm quyền thì có thể bị phạt tiền lên đến 15 triệu đồng, để tránh bị xử phạt dù là hành vi đó có là vô ý thì trước hết nhà báo khi đến tòa án lấy tin thì phải xuất trình giấy tờ và xin phép người có thẩm quyền tại phòng xét xử trước về những nội dung nào có thể ghi lại và không. Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH có hiệu lực ngày 01/9/2022, kịp thời nhằm giảm các hành vi cản trở hoạt động tố tụng qua đó góp phần bảo đảm quá trình tố tụng được diễn ra đúng quy trình xét xử và sự tôn nghiêm của pháp đình.
Cá nhân cố ý vắng mặt xét xử theo giấy triệu tập hợp lệ có thể bị phạt đến 20 triệu đồng
Ngày 15/08/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho lấy ý kiến dự thảo Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (dự thảo Pháp lệnh). Nội dung dự thảo lần này ban hành chế tài đối với những hành vi cản trở hoạt động tố tụng được xem là cần thiết. Qua đó, đảm bảo sự tôn nghiêm và quy chuẩn trong hoạt động tố tụng. Theo đó, tại Điều 14 dự thảo Pháp lệnh quy định chi tiết các hành vi làm cản trở hoạt động tố tụng. Trong đó, cá nhân có hành vi vi phạm quy định về sự có mặt theo giấy triệu tập của người tiến tố tụng sẽ được áp dụng theo các mức phạt cho từng hành vi cụ thể như sau: Đối với người có hành vi vi phạm quy định về lệnh triệu tập của phiên tòa lần đầu thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 ngàn - 5 triệu đồng. Trong thực tế, các trường hợp cố tình không tham gia phiên tòa nhằm mục đích hoãn phiên tòa qua đó kéo dài thời gian tiến hành tố tụng. Điều này làm việc thực hiện giải quyết vụ việc, vụ án gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập hợp lệ nhưng cố ý không chấp hành mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc thu thập, xác minh chứng cứ hoặc giải quyết vụ án. Mức phạt này nhằm cảnh cáo người tham gia tố tụng cố ý vi phạm, qua đó nhắc nhở cần tuân thủ các quy định và đảm bảo việc tiến hành tố tụng được diễn ra kịp thời và nhanh chóng. Tại lần triệu tập hợp lệ thứ hai, người tham gia tố tụng cố ý vắng mặt tiếp mà không phải vì lý do chính đáng hay trở ngại khách quan thì phạt tiền từ 5 triệu - 10 triệu đồng. Mức phạt này tương đối cao đối với người tham gia tố tụng đã được cơ quan, người tiến hành tố tụng triệu tập nhưng từ chối tham gia xét xử. Việc tăng mức phạt này nhằm răn đe đối với hành vi tái phạm. Thực trạng này diễn ra không ít trong hoạt động tố tụng, điều này làm gián đoạn thời gian tố tụng dẫn đến ùn ứ việc giải quyết các vấn đề khác. Bên cạnh 02 mức phạt mà người tham gia tố tụng vi phạm lệnh triệu tập trong điều kiện thông thường thì Pháp lệnh đặc biệt xử lý nghiêm người có hành vi đe dọa, hành hung hoặc lợi dụng sự lệ thuộc nhằm cản trở đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án. Qua đó bị phạt tiền từ 10 triệu - 20 triệu đồng đối với người có hành vi như trên. Lưu ý: Tại khoản 2 Điều 6 dự thảo Pháp lệnh quy định đối với người vi phạm là tổ chức thì gấp 2 lần so với cá nhân. Hiện hành, tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định việc tiến hành hoạt động động tố tụng trong các trường hợp đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt theo lệnh triệu tập được thực hiện như sau: Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần một Trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ nhất của Tòa án, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa. Trong trường hợp người đó vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Như vậy, theo quy định trên thông thường người tham gia tố tụng dù có lý do hay vắng mặt không thông báo thì vẫn phải hoãn phiên tòa và triệu tập lại ở lần tiếp theo. Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa. Từ chối tham gia lệnh triệu tập phiên tòa lần hai Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau: (1) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật. (2) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ. (3) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật. (4) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật. (5) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ. Như vậy, pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều bất cập trong trường hợp người tham gia hoạt động tố tụng lợi dụng việc vắng mặt nhằm gián đoạn kéo dài thời gian tranh tụng mà chưa có quy định xử phạt các hành vi trên. Điều này gây ra nhiều thiệt hại và mất đi sự tôn nghiêm của quy định về tố tụng. Để hạn chế thực trạng trên thì dự thảo Pháp lệnh đã ban hành một số chế tài nhằm thực thi hoạt động tố tụng được diễn ra nhanh chóng giúp người dân tự ý thức hơn về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng của mình.