Bị đơn xin nguyên đơn hoãn thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án có chấp thuận?
Bị đơn gặp khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án và có văn bản gửi cho nguyên đơn xin hoãn thi hành án. Vậy cơ quan thi hành án có chấp thuận yêu cầu này không? (1) Hoãn thi hành án là gì? Hoãn thi hành án là việc chuyển thời điểm thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án sang một thời điểm muộn hơn. Nói cách khác, thay vì thực hiện nghĩa vụ thi hành án theo thời hạn được quy định trong quyết định thi hành án, bị đơn có thể xin hoãn thi hành án để có thêm thời gian chuẩn bị hoặc vì một số lý do chính đáng khác. Việc hoãn thi hành án do Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định dựa trên căn cứ của các trường hợp mà pháp luật quy định được phép hoãn việc thi hành án. (2) Bị đơn xin nguyên đơn hoãn thi hành án, cơ quan thi hành án có chấp thuận? Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi năm 2014), Thủ trưởng cơ quan thi hành án quyết định chấp thuận yêu cầu hoãn thi hành án trong các trường hợp sau đây: - Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án - Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định - Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác - Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự 2008; tài sản được kê biên theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự 2008 nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm - Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự 2008 - Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận - Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án dân sự 2008 chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; - Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự 2008 Như vậy, với quy định trên, bị đơn hoàn toàn được quyền xin nguyên đơn cho tạm hoãn việc thi hành án, và cơ quan thi hành án sẽ dựa trên văn bản đồng ý cho phép hoãn thi hành án của đương sự mà ra quyết định chấp thuận cho hoãn thi hành án. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, văn bản đồng ý cho phép hoãn thi hành án đó phải nêu rõ thời hạn hoãn là bao lâu và phải có chữ ký của hai bên. Ngoài ra, bị đơn không phải trả thêm tiền lãi suất chậm thi hành án cho việc hoãn thời hạn thi hành án của mình. (3) Thời hạn tối đa được hoãn thi hành án là bao lâu? Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008, thời hạn hoãn thi hành án dân sự theo yêu cầu của đương sự tối đa không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án. Lưu ý: - Việc hoãn thi hành án chỉ được thực hiện trong một số trường hợp nhất định và có thời gian cụ thể. - Bị đơn phải có lý do chính đáng và căn cứ pháp lý để xin hoãn thi hành án. - Việc hoãn thi hành án không có nghĩa là bị đơn được miễn thực hiện nghĩa vụ. Hy vọng những thông tin trên đã giúp bạn hiểu rõ hơn về các quy định liên quan đến việc hoãn thi hành án dân sự.
Người mang thai đang được hoãn thi hành án tiếp tục phạm tội thì xử lý thế nào?
Phụ nữ đang mang thai là một chủ thể đặc biệt trong việc tố tụng hình sự, pháp luật có những chính sách khoan hồng đối với phụ nữ đang mang thai mà phạm tội. Nhiều ý kiến cho rằng sẽ có nhiều người lợi dụng điều này để trốn tránh thực hiện thi hành án phạt, tiếp tục phạm tội khi đang được hoãn thi hành án. Vậy người mang thai đang được hoãn thi hành án tiếp tục phạm tội thì có bị xử lý không? (1) Phụ nữ mang thai được hưởng những chế độ khoan hồng nào của pháp luật? Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ Luật Hình sự 2015, người bị phạt tù mà là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi Căn cứ theo khoản 4 Điều 36 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định cải tạo không giam giữ, người phụ nữ mang thai cũng được pháp luật cho hưởng khoan hồng: “Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.” Người bị kết án cải tạo không giam giữ vẫn phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự. Hay tại khoản 2 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tử hình: ”Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.” Phụ nữ đang mang thai còn được xét là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: “1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: … n) Người phạm tội là phụ nữ có thai” Như vậy, đối với phụ nữ mang thai, pháp luật có các sự khoan hồng sau: - Được hoãn chấp hành hình phạt tù tới khi con đủ 36 tháng tuổi - Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ mang thai. - Không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai. - Người phạm tội là phụ nữ có thai được xem là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. (2) Người phạm tội cố tình mang thai để trốn thực hiện nghĩa vụ thì xử lí ra sao? Pháp luật có nhiều điều khoản khoan hồng dành cho tội phạm là phụ nữ đang mang thai, do đó, nhiều phạm nhân nữ lợi dụng những Điều luật này, mang thai liên tục nhằm tránh né việc chấp hành án thì sao? Theo Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC của TAND tối cao đã trả lời vấn đề này như sau: Nếu phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi bị kết án tù thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không. Do đó, phụ nữ đang mang thai sẽ được hoãn thi hành án, bất kể người đó cố tình mang thai để trốn tránh nghĩa vụ. (3) Người mang thai đang được hoãn thi hành án tiếp tục phạm tội thì xử lý thế nào? Ta có thể thấy, trong các điều khoản kết tội đều giảm nhẹ cho phụ nữ mang thai, nhưng nếu người này đang được hoãn chấp hành án phạt mà tiếp tục phạm tội thì sao? Tại khoản 2 Điều 67 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định về việc tiếp tục phạm tội khi đang được hoãn thi hành án như sau: “Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ Luật Hình sự 2015” Ngoài ra, có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giam theo khoản 4 Điều 119 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: - Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; - Tiếp tục phạm tội; - Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; - Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. (4) Kết luận Có thể thấy, pháp luật Việt Nam khá ưu ái cho đối tượng là phụ nữ đang mang thai, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi có nhiều các tình tiết giảm nhẹ, hoãn các hình phạt cho phụ nữ phạm tội trong lúc đang mang thai, bất kể người đó mang thai là do cố tình hay không. Chính sách này của pháp luật không chỉ thể hiện sự khoan hồng mà còn bảo đảm quyền được sinh con của phụ nữ, quyền được chăm sóc của trẻ em. Tuy nhiên, nếu người phạm tội tiếp tục phạm tội khi đang được hoãn chấp hành án thì pháp luật vẫn có các Điều khoản để điều chỉnh như buộc phải chấp hành hình phạt, hay sử dụng biện pháp tạm giam nhằm không bỏ lọt tội phạm gây hại cho xã hội.
8 trường hợp hoãn thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động của tổ chức, cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự và pháp luật có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại. Trong một số trường hợp luật định, hoạt động thi hành án cũng có thể bị hoãn theo quyết định của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự. Căn cứ Khoản 21 Điều 1 Luật thi hành án Dân sự sửa đổi 2014 (Sửa đổi Khoản 1 Điều 48 Luật thi hành án Dân sự 2008), có quy định một số trường hợp hoãn thi hành án, cụ thể như sau: - Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án; - Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định; - Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác; - Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; - Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này; - Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; - Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; - Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này. Trên đây là 08 trường hợp làm căn cứ để hoãn thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
Từ vụ Trung Nguyên: Trường hợp nào không được hoãn thi hành án?
Ngày 10/02/2020, VKSNDTC có văn bản gửi các đơn vị có liên quan về việc hoãn thi hành án vụ tranh chấp ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo. Từ vụ việc trên, cùng xem xét trong các trường hợp nào không được hoãn thi hành án. Khoản 21 Điều 1 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 quy định về các trường hợp hoãn thi hành án, cụ thể như sau: a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án; b) Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định; c) Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác; d) Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này; e) Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; g) Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; h) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này. Bên cạnh đó, khoản 2 điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về việc hoãn thi hành án trong trường hợp: "Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được. Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án." Có thể thấy, VKSNDTC yêu cầu hoãn thi hành án vụ án tranh chấp ly hôn giữa vợ chồng Trung Nguyên trong thời hạn 03 tháng là việc vận dụng quyền được hoãn thi hành án 01 lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được (theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008). Như vậy, những trường hợp không thuộc quy định tại Khoản 21 Điều 1 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 và khoản 2 điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008 thì không được hoãn thi hành án.
Hoãn thi hành án cho tội rất nghiêm trọng
8 năm ma tuý co xin hoãn thi hành án được không vì lý do lao đong duy nhất , hộ nghèo, mẹ già ốm đau, con vừa đủ 36 tháng tuổi?
Bị đơn xin nguyên đơn hoãn thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án có chấp thuận?
Bị đơn gặp khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án và có văn bản gửi cho nguyên đơn xin hoãn thi hành án. Vậy cơ quan thi hành án có chấp thuận yêu cầu này không? (1) Hoãn thi hành án là gì? Hoãn thi hành án là việc chuyển thời điểm thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án sang một thời điểm muộn hơn. Nói cách khác, thay vì thực hiện nghĩa vụ thi hành án theo thời hạn được quy định trong quyết định thi hành án, bị đơn có thể xin hoãn thi hành án để có thêm thời gian chuẩn bị hoặc vì một số lý do chính đáng khác. Việc hoãn thi hành án do Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định dựa trên căn cứ của các trường hợp mà pháp luật quy định được phép hoãn việc thi hành án. (2) Bị đơn xin nguyên đơn hoãn thi hành án, cơ quan thi hành án có chấp thuận? Theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi năm 2014), Thủ trưởng cơ quan thi hành án quyết định chấp thuận yêu cầu hoãn thi hành án trong các trường hợp sau đây: - Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án - Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định - Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác - Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 Luật Thi hành án dân sự 2008; tài sản được kê biên theo Điều 90 Luật Thi hành án dân sự 2008 nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm - Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 Luật Thi hành án dân sự 2008 - Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận - Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án dân sự 2008 chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; - Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự 2008 Như vậy, với quy định trên, bị đơn hoàn toàn được quyền xin nguyên đơn cho tạm hoãn việc thi hành án, và cơ quan thi hành án sẽ dựa trên văn bản đồng ý cho phép hoãn thi hành án của đương sự mà ra quyết định chấp thuận cho hoãn thi hành án. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, văn bản đồng ý cho phép hoãn thi hành án đó phải nêu rõ thời hạn hoãn là bao lâu và phải có chữ ký của hai bên. Ngoài ra, bị đơn không phải trả thêm tiền lãi suất chậm thi hành án cho việc hoãn thời hạn thi hành án của mình. (3) Thời hạn tối đa được hoãn thi hành án là bao lâu? Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008, thời hạn hoãn thi hành án dân sự theo yêu cầu của đương sự tối đa không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án. Lưu ý: - Việc hoãn thi hành án chỉ được thực hiện trong một số trường hợp nhất định và có thời gian cụ thể. - Bị đơn phải có lý do chính đáng và căn cứ pháp lý để xin hoãn thi hành án. - Việc hoãn thi hành án không có nghĩa là bị đơn được miễn thực hiện nghĩa vụ. Hy vọng những thông tin trên đã giúp bạn hiểu rõ hơn về các quy định liên quan đến việc hoãn thi hành án dân sự.
Người mang thai đang được hoãn thi hành án tiếp tục phạm tội thì xử lý thế nào?
Phụ nữ đang mang thai là một chủ thể đặc biệt trong việc tố tụng hình sự, pháp luật có những chính sách khoan hồng đối với phụ nữ đang mang thai mà phạm tội. Nhiều ý kiến cho rằng sẽ có nhiều người lợi dụng điều này để trốn tránh thực hiện thi hành án phạt, tiếp tục phạm tội khi đang được hoãn thi hành án. Vậy người mang thai đang được hoãn thi hành án tiếp tục phạm tội thì có bị xử lý không? (1) Phụ nữ mang thai được hưởng những chế độ khoan hồng nào của pháp luật? Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ Luật Hình sự 2015, người bị phạt tù mà là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi Căn cứ theo khoản 4 Điều 36 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định cải tạo không giam giữ, người phụ nữ mang thai cũng được pháp luật cho hưởng khoan hồng: “Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.” Người bị kết án cải tạo không giam giữ vẫn phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự. Hay tại khoản 2 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tử hình: ”Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.” Phụ nữ đang mang thai còn được xét là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: “1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: … n) Người phạm tội là phụ nữ có thai” Như vậy, đối với phụ nữ mang thai, pháp luật có các sự khoan hồng sau: - Được hoãn chấp hành hình phạt tù tới khi con đủ 36 tháng tuổi - Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ mang thai. - Không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai. - Người phạm tội là phụ nữ có thai được xem là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. (2) Người phạm tội cố tình mang thai để trốn thực hiện nghĩa vụ thì xử lí ra sao? Pháp luật có nhiều điều khoản khoan hồng dành cho tội phạm là phụ nữ đang mang thai, do đó, nhiều phạm nhân nữ lợi dụng những Điều luật này, mang thai liên tục nhằm tránh né việc chấp hành án thì sao? Theo Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC của TAND tối cao đã trả lời vấn đề này như sau: Nếu phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi bị kết án tù thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không. Do đó, phụ nữ đang mang thai sẽ được hoãn thi hành án, bất kể người đó cố tình mang thai để trốn tránh nghĩa vụ. (3) Người mang thai đang được hoãn thi hành án tiếp tục phạm tội thì xử lý thế nào? Ta có thể thấy, trong các điều khoản kết tội đều giảm nhẹ cho phụ nữ mang thai, nhưng nếu người này đang được hoãn chấp hành án phạt mà tiếp tục phạm tội thì sao? Tại khoản 2 Điều 67 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định về việc tiếp tục phạm tội khi đang được hoãn thi hành án như sau: “Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ Luật Hình sự 2015” Ngoài ra, có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giam theo khoản 4 Điều 119 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: - Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; - Tiếp tục phạm tội; - Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; - Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. (4) Kết luận Có thể thấy, pháp luật Việt Nam khá ưu ái cho đối tượng là phụ nữ đang mang thai, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi có nhiều các tình tiết giảm nhẹ, hoãn các hình phạt cho phụ nữ phạm tội trong lúc đang mang thai, bất kể người đó mang thai là do cố tình hay không. Chính sách này của pháp luật không chỉ thể hiện sự khoan hồng mà còn bảo đảm quyền được sinh con của phụ nữ, quyền được chăm sóc của trẻ em. Tuy nhiên, nếu người phạm tội tiếp tục phạm tội khi đang được hoãn chấp hành án thì pháp luật vẫn có các Điều khoản để điều chỉnh như buộc phải chấp hành hình phạt, hay sử dụng biện pháp tạm giam nhằm không bỏ lọt tội phạm gây hại cho xã hội.
8 trường hợp hoãn thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động của tổ chức, cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự và pháp luật có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại. Trong một số trường hợp luật định, hoạt động thi hành án cũng có thể bị hoãn theo quyết định của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự. Căn cứ Khoản 21 Điều 1 Luật thi hành án Dân sự sửa đổi 2014 (Sửa đổi Khoản 1 Điều 48 Luật thi hành án Dân sự 2008), có quy định một số trường hợp hoãn thi hành án, cụ thể như sau: - Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án; - Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định; - Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác; - Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; - Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này; - Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; - Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; - Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này. Trên đây là 08 trường hợp làm căn cứ để hoãn thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
Từ vụ Trung Nguyên: Trường hợp nào không được hoãn thi hành án?
Ngày 10/02/2020, VKSNDTC có văn bản gửi các đơn vị có liên quan về việc hoãn thi hành án vụ tranh chấp ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo. Từ vụ việc trên, cùng xem xét trong các trường hợp nào không được hoãn thi hành án. Khoản 21 Điều 1 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 quy định về các trường hợp hoãn thi hành án, cụ thể như sau: a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án; b) Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định; c) Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác; d) Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này; e) Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; g) Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; h) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này. Bên cạnh đó, khoản 2 điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về việc hoãn thi hành án trong trường hợp: "Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Toà án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được. Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án." Có thể thấy, VKSNDTC yêu cầu hoãn thi hành án vụ án tranh chấp ly hôn giữa vợ chồng Trung Nguyên trong thời hạn 03 tháng là việc vận dụng quyền được hoãn thi hành án 01 lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh hậu quả không thể khắc phục được (theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008). Như vậy, những trường hợp không thuộc quy định tại Khoản 21 Điều 1 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 và khoản 2 điều 48 Luật thi hành án dân sự 2008 thì không được hoãn thi hành án.
Hoãn thi hành án cho tội rất nghiêm trọng
8 năm ma tuý co xin hoãn thi hành án được không vì lý do lao đong duy nhất , hộ nghèo, mẹ già ốm đau, con vừa đủ 36 tháng tuổi?