Khi nào bị tước quốc tịch Việt Nam? Phản bội tổ quốc có bị tước quốc tịch không?
Dạo gần đây vấn đề về gìn giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được người dân Việt Nam rất quan tâm. Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan về nghĩa vụ của công dân và quy định về hành vi phạm tội phản bội Tổ quốc theo Hiến pháp 2013. Phản bội Tổ quốc đi tù bao nhiêu năm? Theo Hiến pháp 2013 tại Điều 45 nêu rõ Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. Hành vi phản bội tổ quốc có mức phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, cụ thể: Căn cứ tại Điều 108 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội phản bội Tổ quốc như sau: Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho: - Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc - Chế độ xã hội chủ nghĩa - Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tiềm lực quốc phòng, an ninh thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt tù từ 07-15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01-05 năm. Ngoài ra, căn cứ tại Điều 122 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người phạm tội phản bội tổ quốc còn có thể bị tước một số quyền công dân, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01-05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xem thêm: Cổng TTĐT Công an Quảng Bình nêu rõ: Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phản bội Tổ quốc: Người phạm tội có hành vi câu kết với nước ngoài. Thuật ngữ “nước ngoài” được hiểu là tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội hay cá nhân nước ngoài; câu kết với nước ngoài được hiểu là sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nước ngoài nhằm chống lại Tổ quốc. Người phạm tội câu kết với nước ngoài, dưới những hình thức cụ thể sau đây: - Bàn bạc với nước ngoài về mưu đồ chính trị, chủ trương, phương thức, kế hoạch hoạt động trước mắt cũng như lâu dài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. - Nhận sự giúp đỡ của nước ngoài về vật chất, phi vật chất như tiền bạc, vũ khí, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, lương thực thực phẩm, khoa học, công nghệ…để chống lại Tổ quốc. - Hoạt động dựa vào thế lực nước ngoài hoặc tiếp tay, tạo điều kiện cho nước ngoài chống lại Tổ quốc. Dù được thực hiện dưới hình thức nào, về thực chất, người thực hiện hành vi phản bội Tổ quốc chỉ là tay sai cho nước ngoài, được nước ngoài sử dụng như công cụ chống lại Tổ quốc mình. Người phạm tội phản bội Tổ quốc có bị tước quốc tịch hay không? Theo Điều 31 Luật Quốc tịch Việt Nam, các trường hợp công dân bị tước quốc tịch Việt Nam được quy định như sau: - Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi: Gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi quy định thuộc căn cứ tước quốc tịch Việt Nam nêu trên. Đồng thời, tại Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam cũng nêu rõ, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp vừa nêu trên. Như vậy, công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam trừ khi công dân đang cư trú ở nước ngoài hoặc người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị tước quốc tịch Việt Nam. Tóm lại, nếu người nào là công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài mà phạm tội phản bội Tổ quốc câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh có thể bị tước quốc tịch Việt Nam. Trình tự, thủ tục tước quốc tịch Việt Nam Theo Điều 32 Luật Quốc tịch Việt Nam quy định về trình tự, thủ tục tước quốc tịch Việt Nam như sau: - Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày phát hiện hoặc nhận được đơn, thư tố cáo về hành vi thuộc căn cứ tước quốc tịch Việt Nam, UBND cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm xác minh, nếu có đầy đủ căn cứ thì lập hồ sơ kiến nghị Chủ tịch nước tước quốc tịch Việt Nam của người có hành vi đó. Tòa án đã xét xử đối với bị cáo có hành vi thuộc căn cứ bị tước quốc tịch Việt Nam lập hồ sơ kiến nghị Chủ tịch nước tước quốc tịch Việt Nam của người có hành vi đó. - Hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam được gửi đến Bộ Tư pháp. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ kiến nghị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc của Tòa án, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành khác có liên quan thẩm tra hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. - Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam Hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam quy định tại Điều 22 Nghị định 16/2020/NĐ-CP, theo đó, trường hợp UBND cấp tỉnh hoặc Cơ quan đại diện kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam của người có hành vi thuộc căn cứ bị tước quốc tịch Việt Nam thì hồ sơ gồm có: - Văn bản kiến nghị của UBND cấp tỉnh hoặc Cơ quan đại diện về việc tước quốc tịch Việt Nam; - Hồ sơ, tài liệu điều tra, xác minh, kết luận của cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm của người bị đề nghị tước quốc tịch Việt Nam; - Đơn, thư tố cáo người bị đề nghị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có. Trường hợp Tòa án đã xét xử bị cáo có hành vi thuộc căn cứ bị tước quốc tịch Việt Nam kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam của người đó thì hồ sơ gồm có: - Văn bản kiến nghị của Tòa án về việc tước quốc tịch Việt Nam; - Bản án đã có hiệu lực pháp luật và các tài liệu có liên quan.
So sánh UBND qua 5 bản Hiến pháp?
Cho e hỏi sự khác nhau cũng như quá trình thay đổi của ỦY BAN NHÂN DÂN qua 5 bản Hiến pháp là như thế nào ạ?
Tại sao Hiến pháp của xã hội chủ nghĩa không quy định quyền con người?
Tại sao Hiến pháp của xã hội chủ nghĩa không quy định về quyền con người mà thay vào đó chỉ quy định về quyền công dân ?
Giải thích Điều luật trong Hiến pháp 2013
Tại sao có điều 11. điều 12. điều 13 trong Hiến pháp 2013?
Vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy định tại Chương II – “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1, Điều 31). Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Nguyên tắc suy đoán vô tội. >>> Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải áp dụng triệt để tư duy suy đoán vô tội + Quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về suy đoán vô tội: - Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. + Quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy rõ 3 nhóm nội dung của nguyên tắc: Thứ nhất, trình tự, thủ tục của việc chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội phải được thu thập cụ thể, chính xác. Thứ hai, tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó >>> Thực tiễn hiện nay cho thấy một số hành vi đưa tin không trung thực, chính xác, khách quan, quy kết tội danh, luận tội... khi chưa có bản án kết tội của Tòa án như: + Sử dụng ngôn từ, hình ảnh miệt thị đối với người bị quy kết có tội và gia đình của họ + Suy diễn diễn biến câu chuyện từ đó biến tấu nhằm thu hút người xem + “đào bới” thông tin trong quá khứ của nghi phạm, “moi móc” thông tin về người thân theo hướng bất lợi cho nghi phạm >>> Với những hành vi trên, chủ thể có thể bị áp chế tài theo quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 như sau: Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Đối với người đang thi hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%75. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên76; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Điều 156. Tội vu khống 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đ) Đối với người đang thi hành công vụ; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%77; h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Vì động cơ đê hèn; b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên78; c) Làm nạn nhân tự sát. Với những nôi dung trên đang giác ngộ chúng ta hãy hành xử một cách đúng đắn, những điều ta nghe và thấy chưa chắc là đúng sự thật, đừng vội "kết luận" bất cứ điều gì.
Hiến pháp 2013 được làm ra như thế nào?
- Quy trình làm Hiến pháp năm 2013 đã được thực hiện qua những bước nào? Những bước đó diễn ra cụ thể trên thực tế như thế nào? Ở mỗi bước có những ai tham gia và với nội dung gì? - Quy trình làm Hiến pháp năm 2013 nếu đối chiếu với vai trò quan trọng của Hiến pháp thì đã có những điểm tích cực và những điểm bất cập nào?
Re:Dạng đề kiểm tra năng lực Đại học Luật TpHCM
đề dạng này nếu là đề thi dạng THPTQG thì mình thấy hay. các bạn không chỉ dừng lại ở kiến thức 12, mà các bạn còn phải biết chút ít về luật chẳng hạn như công dân từ đủ 18 tuồi trở lên có quyền bầu cử, từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử,...
Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013
>>> Toàn văn điểm mới trong Hiến pháp 2013 >>> Phân tích toàn văn Hiến pháp 2013 >>> Tên gọi các cơ quan nhà nước qua những bản Hiến pháp Hiến pháp 2013 ra đời và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, theo đó, về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức có sự thay đổi so với trước. Vì vậy, sau đây mình giới thiệu sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013 như sau:
Quốc hội Việt Nam – sự hình thành từ những "Lá phiếu máu"
Vào ngày 06-01-1946, sự kiện Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã diễn ra, tạo nên dấu mốc lịch sử và pháp lý quan trọng trong hành trình xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như là tiền đề tạo nên Hiến pháp năm 1946. Tổng tuyển cử đồng thời đã khẳng định người dân Việt Nam, trong thời điểm đó, đã mang một thân phận khác – công dân tự do của một quốc gia độc lâp, lần đầu được thực hiện quyền bầu cử. Họ đã có thể tự quyết định vận mệnh của bản thân bằng lá phiều bầu cử thành lập Quốc hội, một trong ba nhánh cơ quan quyết định của thuyết Tam quyền phân lập – Lập pháp. Có thể nhận xét rằng, hoàn cảnh lịch sử thời điểm bấy giờ là vô cùng nhạy cảm và khó khăn khi chúng ta phải đối mặt với thù trong - giặc ngoài. Miền bắc, hơn 200.000 quân Tưởng đã tiến vào Việt Nam; trong khi tại miền nam, thực dân Pháp đã sẵn sàng trở lại, tạo nên thế gọng kìm với chính quyền còn non trẻ. Trong nước, các tổ chức Việt quốc, Việt cách ra sức phá hoại, đòi xóa bỏ ủy ban nhân dân, đòi 2/3 ghế Quốc hội không thông qua bầu cử. Trước tình thế cấp bách đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức phiên họp Chính phủ lâm thời vào ngày 03/9/1945, đề ra phương án đẩy nhanh tiến độ tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội trên toàn quốc. Cử tri Hà Nội bỏ phiếu ngày 6/1/1946. Ảnh tư liệu. Với tinh thần đề cao tính dân chủ và công bằng, tổng tuyển cử năm 1945 đã được tiến hành theo các nguyên tắc bầu cử phổ thông đầu phiều, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 89%. Không phân biệt đảng phái, tôn giáo, nam nữ, già trẻ nếu muốn lo việc nước đều có quyền ứng cử và thông qua bầu cử để trở thành đại biểu Quốc hội. Với những người không biết chữ thì ủy ban bỏ phiếu cử ra 3 người. Cử tri muốn bỏ phiếu cho ai thì nói tên người đó, nhờ một người viết vào phiếu, hai người bên cạnh kiểm tra rồi đọc lên cho cử tri nghe lại lần nữa rồi mới bỏ lá phiếu vào hòm. Nhiều cử tri yêu cầu Chủ tịch Hồ Chí Minh miễn ứng cử và bầu làm Chủ tịch nước vĩnh viễn, nhưng Người từ chối với lý do không thể vượt khỏi quy tắc bầu cử đã định. Sáng 06/01/1946, người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, đã đồng loạt xuống đường đi bầu cử; nhiều địa điểm bỏ phiếu thậm chí đã đổ máu bở sự phá hoại của các lực lượng thù địch. Trong hồi ký của cố đại biểu Quốc hội khóa I Lâm Quang Thự đã viết: “Ở miền Bắc, phần tử Quốc dân đảng chĩa súng về nhân dân đi bầu cử. Tại Hà Nội, chúng mang tiểu liên đến làng Ngũ Xã không cho dân đặt hòm phiếu. Ở Phú Thọ, chúng sai người tháo khẩu hiệu, thu thẻ cử tri. Nhân dân miền Trung, miền Nam đi bầu cử trong vòng vây của súng đạn thực dân Pháp. Máy bay Pháp ném bom khu vực Mỹ Tho, Khánh Hòa, có nơi cách hòm phiếu chỉ vài trăm mét. Tại Sài Gòn, hơn 40 cán bộ trong ban tuyên truyền bầu cử hy sinh. Lá phiếu của nhân dân miền Nam lúc ấy được ví như những lá phiếu máu.” Cố đại biểu Quốc hội khóa I Lâm Quang Thự. Ảnh tư liệu. Quốc hội khóa I đã chính thức ra đời trên bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và máu của người dân Việt Nam. Thông qua tổng tuyển cử, nhân dân bầu ra 333 đại biểu Quốc hội, trong đó Bắc Bộ 152 người, Trung Bộ 108 và Nam Bộ 73 đại diện. Đặc biệt, đây cũng là nhiệm kỳ Quốc hội duy nhất trong lịch sử 70 năm qua có sự tham gia của hai đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử. Tuy nhiên trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng phái này theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Việt Minh và hai đảng này. Đoàn đại biểu Quốc hội miền Nam khóa 1. Ảnh tư liệu. Ngày 02/03/1946, phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I diễn ra tại Nhà hát lớn (Hà Nội) với vỏn vẹn 04 giờ, nhưng Quốc hội đã bắt đầu tiến hành nhiệm vụ được giao, nghe Chính phủ báo cáo, thành lập và công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến thay cho Chính phủ lâm thời. Quốc hội khóa I đã có nhiệm kỳ 14 năm (1946-1960), là nhiệm kỳ Quốc hội dài nhất đến nay với tổng cộng 12 kỳ họp do tình hình lịch sử đặc thù, đất nước chiến tranh, hai miền chia cắt nên không thể tổ chức cuộc bầu cử trên cả nước. và các vấn đề quan trọng của đất nước đã được ủy quyền cho Ban Thường vụ Quốc hội giải quyết. Ngày nay, Quốc hội Việt Nam đã có những thay đổi nhất đinh, tổ chức theo mô hình một viện với tổng số đại biểu Quốc hội không quá 500 người và xây dựng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 được kế thừa và phát huy tinh thần, tư tưởng từ Hiến pháp 1946 được Quốc hội Khóa I thông qua ngày 09/11/1946. Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội điều hành một phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Ảnh tư liệu. Đại biểu Quốc hội được bầu với nhiệm kỳ 5 năm, thay mặt Nhân dân quyết định các vấn đề liên quan đến lợi ích của cả đất nước và mỗi cá nhân. Bổn phận cao cả của đại biểu Quốc hội là đại diện và bảo vệ lợi ích của cử tri, liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo, trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đã 70 năm trôi qua, với vị thế là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho hơn 93 triệu nhân dân Việt Nam, Quốc hội đã có những bước tiến, thể hiện tốt hơn vai trò, chức năng lập Hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, đưa Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế.
Phân biệt nghi can, nghi phạm, bị can, bị cáo?
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. (Theo Điều 31 Hiến pháp 2013) Song song đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng có quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thế nhưng, dân mình lại ít khi quan tâm vấn đề này, khi một vụ án được điều tra, một người bị phía công an mời lên để thẩm vấn, hoặc điều tra, bị tình nghi và tạm giữ, tạm giam đối tượng đó. Họ luôn cho rằng người đó có tội..và có những ý nghĩ xấu về người này. Quá trình xét xử, oan sai là vấn đề không tránh khỏi, có thể do rủi ro nghề nghiệp, có thể do không cẩn trọng khi thực hiện…Hậu quả cho người bị oan là không nhỏ, hơn nữa về danh dự, nhân phẩm, danh tiếng…của họ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhận thấy được điều đó, quy định tố tụng hình sự đã có những phân loại cho từng tên gọi với đối tượng bị tình nghi, tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra. Dưới đây là cách phân biệt các tên gọi này: Tiêu chí Bị can Bị cáo Khái niệm Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử Quyền - Được biết mình bị khởi tố về tội gì. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Trình bày lời khai. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Tham gia phiên toà. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa. - Nói lời sau cùng trước khi nghị án. - Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Như vậy, bị can và bị cáo là tên gọi khác nhau của người bị bắt trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Còn nghi can, nghi phạm là gì? Trong Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không tồn tại hai thuật ngữ “nghi can” và “nghi phạm”. Thế nhưng, chúng ta có thể hiểu 2 thuật ngữ này như sau: Nghi can: Được hiểu là người bị nghi có liên quan đến vụ án và thuộc trường hợp chưa bị bắt. Nghi phạm: Được hiểu là người bị nghi là tội phạm, có dấu hiệu của một tội phạm và đã bị lệnh bắt.
Luật, Bộ luật và Đạo luật cái nào có giá trị cao hơn?
Học Luật chắc hẳn các bạn thường nghe nhắc đến nhiều các từ Luật, Bộ luật và Đạo luật trong các bài giảng, nhưng có bao giờ bạn thăc mắc Luật, Bộ luật và Đạo luật khác nhau ở chỗ nào chưa, tại sao có lúc giảng viên dùng từ đạo luật, khi khác lại dùng bộ luật… Mình thử tìm các văn bản pháp luật xem có quy định về vấn đề này không? Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất – không có quy định. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 – văn bản Luật – không có khái niệm về Luật, Bộ luật, Đạo luật. Chỉ quy định khái niệm của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ có nhắc đến Luật, không hề nhắc đến Bộ luật hay Đạo luật. Vậy Bộ luật và Đạo luật không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam sao? Thực tế, nếu các bạn có lần tham khảo qua, hiện nay, chúng ta có các Bộ luật lao động 2012, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật hình sự 1999…Vậy những bộ luật này không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam? Vì rõ ràng theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ nêu hệ thống bao gồm…trong đó có luật, nhưng không có Bộ luật, Đạo luật? Thử tìm trên Gu-Gồ, thì thấy có một bạn trong Dân Luật giải thích 3 từ này, nhưng mình chưa tìm ra căn cứ bạn này nói, có thể do cách hiểu của bạn ấy: - Luật là văn bản do Quốc hội ban hành để quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. - Bộ luật là Văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua có giá trị pháp lí cao (chỉ sau Hiến pháp). Tổng hợp có hệ thống theo chương, mục những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội quan trọng của từng lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vd. Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hàng hải của Việt Nam. - Đạo luật là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, trong đó đạo luật quy định những chế tài nghiêm khắc nhất đối với tội phạm, và đạo luật chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Nếu là cách hiểu thì có thể đúng hoặc sai, tùy quan điểm của mỗi người. Chuyện này không phải chỉ xảy ra ở nước ta, các nước bạn trên thế giới cũng từng nhầm lẫn giữa 3 khái niệm này. Việc giải thích nghĩa của từng từ này dường như rất mơ hồ: Đạo luật: luật được thông qua bởi Quốc hội. Bộ luật: hệ thống các luật hay các quy định bằng văn bản quy định cách ứng xử của mọi người trong một tổ chức hay một quốc gia. Luật: là hệ thống các nguyên tắc mà mọi người trong quốc gia hay trong xã hội bắt buộc phải tuân thủ. Dẫn chứng sự nhập nhằng đó là tại Pháp, trong bài báo của họ cũng đề cập ban đầu dự thảo luật, sau đó nâng thành dự thảo đạo luật… (Nguồn: http://vtv.vn/tin-tuc/nguoi-dan-phap-co-the-bi-co-quan-an-ninh-theo-doi-toan-dien-20150625194131083.htm) Nếu được hỏi đến 3 khái niệm này nhiều người cho rằng nó là một, nhưng có thật sự là một không khi vấn đề giá trị pháp lý của chúng chưa rõ ràng? Các bạn thành viên Dân Luật có thể giúp mình vụ này hông?
Quyền được làm những gì pháp luật không cấm?
Đó là câu hỏi đặt ra cho các nhà làm luật hiện nay, liệu các quy định mới ban hành đã thực sự áp dụng Điều 33 Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” chưa? Cùng xem bài viết chia sẻ dưới đây nhé. Một tháng rưỡi trước ngày Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã “điểm danh” được 1.697 điều kiện kinh doanh do các bộ ban hành bằng các thông tư vẫn đang còn hiệu lực. Phát biểu tại hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp góp ý dự thảo nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung nói rằng Luật Đầu tư mới quy định các bộ, UBND các cấp không được ban hành điều kiện kinh doanh và với cách tiếp cận những gì pháp luật không cấm, mọi người dân được tự do kinh doanh thì các điều kiện này đương nhiên bị bãi bỏ, không còn hiệu lực từ ngày 1-7-2015. Đây rõ ràng là điều đang được rất nhiều nhà doanh nghiệp mong đợi. Nhưng câu hỏi đặt ra là các bộ, các cơ quan quản lý nhà nước có chấp nhận “đương nhiên” bãi bỏ các điều kiện kinh doanh này hay không? Về nguyên tắc, khi luật mới có hiệu lực thì những gì trái với quy định của luật đương nhiên phải mất hiệu lực. Thế nhưng, với thói quen “chờ hướng dẫn” tồn tại từ bấy lâu nay ở những cơ quan thực thi pháp luật, việc “đương nhiên” bãi bỏ 1.697 điều kiện kinh doanh mà CIEM liệt kê khó có thể xảy ra. Đây là điều từng xảy ra trong quá trình triển khai rất nhiều luật, bộ luật trước đây. Hơn nữa, nhiều thông tư của các bộ ban hành về điều kiện kinh doanh thực chất là văn bản hướng dẫn của nghị định. Vì vậy, để quyền được làm những gì pháp luật không cấm được thực thi hiệu quả từ ngày 1-7, như mong đợi của cộng đồng doanh nghiệp, thì Chính phủ cần ban hành những văn bản chấm dứt hiệu lực của các điều kiện kinh doanh trái với Luật Doanh nghiệp mới. Một vấn đề quan trọng nữa là nên xây dựng cơ chế để ngăn các điều kiện kinh doanh (trái luật hoặc không cần thiết) và các biến tướng của chúng quay trở lại. Trong nhiều năm qua, đây là những chướng ngại vật không nhỏ đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp. Từ năm 2000, Chính phủ đã nhìn thấy việc cần thiết phải dẹp bỏ những rào cản này nhưng đó là một cuộc chiến cam go. Sau nhiều năm nỗ lực, Chính phủ cũng chỉ dẹp được gần 160 giấy phép con, nhưng 15 năm sau những giấy phép con này đã quay trở lại, nhiều hơn gấp hàng chục lần so với trước. Điểm đáng nói là nhiều điều kiện kinh doanh được hình thành sau này không chỉ xuất phát từ các cơ quan quản lý nhà nước như trước, mà do chính các hiệp hội doanh nghiệp đề xuất. Mặc dù các điều kiện kinh doanh được đề xuất đều nhằm mục tiêu được cho là tốt, đó là ngăn chặn những doanh nghiệp làm ăn bất chính, nhưng thực tế nó lại cản trở quyền tiếp cận thị trường của rất nhiều doanh nghiệp khác, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo là một ví dụ. Vô tình, các điều kiện kinh doanh do cơ quan nhà nước ban hành hoặc do hiệp hội doanh nghiệp đề xuất đã trở thành công cụ phục vụ cho những nhóm lợi ích nào đó. Nguồn: saigontimes Luật doanh nghiệp chỉ là ví dụ điển hình, hiện nay nhiều Luật khác vẫn còn tồn tại nhiều hình thức ràng buộc quyền tự do của nhân dân. Thiết nghĩ các cơ quan nhà nước cần sớm có cơ chế đẩy mạnh tinh gọn các thủ tục hành chính, các quy trình thực hiện nhiêu khê, gây rắc rối phức tạp cho dân, hạn chế khả năng tiếp cận để thực hiện quyền của dân.
PHÂN TÍCH TOÀN VĂN HIẾN PHÁP 2013
GIỚI THIỆU Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 (có hiệu lực từ 01/01/2014[1]), như vậy sau hơn 21 năm nước ta đã có bản Hiến pháp mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, đổi mới và phát triển[2]. Hiến pháp là Luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp, mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý[3]. Mỗi bản Hiến pháp đều có vai trò, sứ mệnh lịch sử riêng nhưng tựu chung lại đều góp phần phát triển đất nước, công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện, thời gian để hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về Hiến pháp; một bộ phận không nhỏ coi Hiến pháp là điều cao xa. Nhằm đưa Hiến pháp đến gần gũi với quần chúng nhân dân, tác giả sẽ phân tích toàn văn Hiến pháp 2013, nêu ra những điểm mới cơ bản của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992[4] PHẦN 1: TỔNG QUAN CHUNG HIẾN PHÁP 2013 Hiến pháp 2013 bao gồm 11 chương và 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp 1992). Hiến pháp 2013 chỉ giữ nguyên 5 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 103 điều. Trong đó có sự sắp xếp lại các chương, như sau: - Chương 11: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh được ghép vào Chương 1. - Chương 5: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đưa lên Chương 2 với tên gọi quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. - Một chương hoàn toàn mới, đó là chương 10: Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước. Đặc biệt, từ “nhân dân” được thay thế bằng từ “Nhân dân” nhằm đề cao hơn nữa vai trò của Nhân dân. Xem danh sách tổng quan so sánh Hiến pháp 1992 với 2013 tại phụ lục 3.1. (Còn nữa - tiếp tục cập nhật cho đến khi hoàn thành) [1] Xem điều 1 Nghị quyết 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội. [2] Đến nay nước ta đã trải qua các bản Hiến pháp sau 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. [3] Xem khoản 1 điều 119 Hiến pháp 2013. [4] “Hiến pháp 1992” được hiểu là nội dung đã được “hợp nhất” của Hiến pháp 1992 và Nghị quyết 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội (sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992).
Đặc xá, đại xá thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với những người phạm tội hình sự và có ý nghĩa lớn về mặt chính trị - xã hội. Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt[1]; đại xã cũng là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước nhưng do Quốc hội quyết định[2]. Sau đây là những điểm khác biệt của đặc xá với đại xá về thẩm quyền, nôi dung, phạm vi và hậu quả pháp lý. Đại xá Đặc xá 1. Thẩm quyền Quốc hội (Hiến pháp 2013, điều 70, khoản 11) Chủ tịch nước (Hiến pháp 2013, điều 88, khoản 3) 2. Nội dung Thông thường căn cứ vào tình hình kinh tế chính trị cũng như diễn biến tội phạm trong từng thời kỳ mà Quốc hội quyết định đại xá cho những hành vi phạm tội hay loại tội phạm nào. Người phạm tội thực hiện những hành vi được nêu trong văn bản đại xá thì dù đang ở giai đoạn điều tra, truy tố hay xét xử đều được miễn trách nhiệm hình sự; Nếu đã bị tuyên hình phạt, đang chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại và được xóa án tích; nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định khác của Tòa án thì được xóa án tích. Đặc xá được xem xét cụ thể theo yêu cầu (có đơn) của người bị kết án. Việc xét đặc xá bao gồm xét đặc xá tha tù và xét ân giảm án tử hình, có nghĩa là đối tượng được xét đặc xá phải là những người đang thi hành án phạt tù; người bị kết án tử hình có đơn xin ân giảm gửi Chủ tịch nước. Chế định đặc xá nhằm khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng cải tạo tốt, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng, trở thành con người có ích cho xã hội. 3. Phạm vi Được áp dụng đối với một hoặc một số hành vi phạm tội nhất định, theo đó, hàng loạt người đã thực hiện hành vi được xác định trong quyết định đại xá sẽ được tha, miễn trách nhiệm hình sự. Điều này có nghĩa đại xá được thi hành rộng rãi, tuy nhiên, vẫn có loại trừ một số tội phạm nguy hiểm mà nếu tha sẽ ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. * Ví dụ: Thông tư Liên Bộ Nội vụ - Công an – Tư pháp số 80-TT/LB ngày 6/12/1958[3] có quy định: Những người phạm tội và bị xử phạt trước ngày 9/10/1954 đều được đại xá và được khôi phục công quyền. Riêng mấy loại phạm nhân sau đây không được đại xá là: địa chủ cường hào gian ác, bọn có nhiều nợ máu với nhân dân, bọn côn đồ chưa thực sự cải tạo. Phạm vi áp dụng hẹp hơn đại xá, được quy định cụ thể tại Luật đặc xá 2007, điều 10, 11, 21. 4. Hậu quả pháp lý Dù đang ở trong giai đoạn nào từ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đều được tha tội hoàn toàn, có nghĩa sẽ được trả tự do ngay, phục hồi toàn bộ quyền công dân và được coi như không phạm tội. Người được đại xá sẽ là người không có tội và cũng sẽ không có án tích trong lý lịch tư pháp của mình. Quyết định đặc xá chỉ tính trong giai đoạn đang thi hành án phạt tù và người được đặc xá sẽ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại nhưng không được xóa án tích ngay như người được quyết định đại xá và vẫn có tiền án trong lí lịch tư pháp. Rất mong nhận được sự chia sẻ, góp ý chân thành từ quý thành viên! [1] Khoản 1 điều 3 Luật đặc xá năm 2007. [2] Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào đại xá. [3] Xem “gián tiếp” tại Thông tư 15-TTg ngày 12/01/1961 của Thủ tướng Chính phủ.
Hiến pháp mới nhưng Luật khó mới (?!)
Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Đây được xem là bước tiến vượt bậc của nền lập Hiến nước nhà nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mọi người tự do kinh doanh. So với Hiến pháp 1992 thì Hiến pháp 2013 có điểm mới sau: - Một là, “mọi người” đều được quyền tự do kinh doanh, không còn bó hẹp trong từ “công dân”. - Hai là, được “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, thay thế cho cụm “tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Dẫu rằng Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, tuy nhiên thực tiễn nước nhà cho thấy “Hiến pháp chỉ đi vào cuộc sống khi có văn bản quy định chi tiết”. Bởi vậy, Quốc hội, Chính phủ đã đốc thúc các Bộ rà soát và báo cáo danh mục những ngành nghề cấm đầu tư, kinh doanh và đầu tư, kinh doanh có điều kiện để đưa vào Luật doanh nghiệp sửa đổi và Luật đầu tư sửa đổi nhằm hiện thực Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, đến nay nhiều Bộ vẫn “Án binh bất động”. Liệu các Bộ không thể báo cáo số liệu hay cố ý không làm theo yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ? 1. Báo cáo số liệu khó quá! Chính các bộ là người ban hành văn bản quy định về ngành, nghề cấm kinh doanh hoặc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì không có chuyện, giờ tìm lại văn bản mình đã ban hành không được. Nếu tìm không được thì thử hỏi mấy mươi năm qua các bộ quản lý ngành, nghề kinh doanh trên thực tế bằng cái gì? 2. Cố ý không làm theo yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ? Khả năng này có thể xảy ra hay không? Câu trả lời: rất có thể. Bởi “giấy phép con” là món mồi ngon của các bộ trong mấy mươi năm qua, giờ tức khắc đòi nhả ra thì khó lòng làm liền được. Thực sự mà nói “cố ý không làm” thì hơi quá nhưng chẳng có sai chút nào; Quốc hội, Chính phủ đốc thúc nhưng bộ vẫn không báo cáo theo kiểu tiếc quá, nhưng chẳng dám nói ra là “không muốn báo cáo” nên im lặng nhằm kéo dài thời gian (bởi một năm quốc hội họp có hai lần, kéo thêm chút nào thì đỡ chút đó). Với tình hình như thế này, thì năm nay Quốc hội không thể thông qua Luật doanh nghiệp sửa đổi, Luật đầu tư sửa đổi có danh mục ngành nghề cấm đầu tư, kinh doanh; đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Hiến pháp mới nhưng Luật khó mới – tự do kinh doanh đúng nghĩa vẫn còn nằm trong chữ "chờ"!
Những quy định ít người biết – mình nghĩ vậy vì thực tế nhiều người vi phạm các quy định này như thể không có gì. 1. Cấm vượt đèn vàng Nhiều người cho rằng: chỉ khi tin hiệu đèn giao thông MÀU ĐỎ mới phải dừng, tuy nhiên tại điểm c khoản 3 điều 10 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định: “Tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng”. Trường hợp nào vượt đèn vàng sẽ bị xử phạt từ 100 – 200 nghìn đồng (Điểm o khoản 3 điều 6 Nghị định 171/2013/NĐ-CP). 2. Phạt tiền hành vi “ghẹo gái” Theo điểm a khoản 1 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì hành vi “ghẹo gái” bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 – 300 nghìn đồng. 3. Xử phạt hành vi “ở dơ” Theo điểm a khoản 1 điều 7 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì hành vi “không thực hiện các quy định về quét dọn rác, khai thông cống rãnh trong và xung quanh nhà ở, cơ quan, doanh nghiệp, doanh trại gây mất vệ sinh chung” bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 – 300 nghìn đồng. 4. Bán nhà bằng “giấy tờ viết tay” cũng phải đóng thuế TNCN Nhiều người cho rằng bán nhà bằng “giấy tờ viết tay” không phải đóng thuế thu nhập cá nhân tuy nhiên theo khoản 5 điều 30 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì vẫn phải đóng thuế. 5. Bộ không có thẩm quyền ban hành Thông tư Chúng ta thường “dùng gọn” Thông tư X do Bộ Tài chính ban hành, Thông tư Y do Bộ Công thương ban hành… lâu ngày dẫn đến “nhầm tưởng” Thông tư do Bộ ban hành. Nhưng sự thật, Thông tư do Bộ trưởng ban hành vì Bộ không có thẩm quyền ban hành Thông tư (Điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008). 6. “Gián đoạn” quyền được kết hôn Có những trường hợp, hiện tại đã đủ tuổi kết hôn và được quyền kết hôn nhưng nếu họ không kết hôn thì tới 01/01/2015 họ không được kết hôn mà phải đợi cho đến khi … (Xem chi tiết tại đây). 7. Học tập cũng là nghĩa vụ Nhiều người cho rằng học tập là quyền – nghĩa là thích học thì học, không thì thôi. Tuy nhiên, theo điều 39 Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”, như vậy học tập là quyền nhưng đồng thời là nghĩa vụ của công dân.
Ai cũng hiểu Hiến pháp 2013 nên không cần văn bản hướng dẫn
Sáng 11/04/2014, tại phiên họp Hội nghị đại biểu chuyên trách về luật Đầu tư công sửa đổi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”. Chiếu theo điều 6 Hiến pháp năm 2013 quả là câu nói trên rất đúng, xét về bản chất vấn đề thì các quyết định của Quốc hội là đang thực thi quyền lực nhà nước của Nhân dân bằng hình thức đại diện. Nên việc Quốc hội quyết sai nghĩa là Nhân dân quyết sai nên Nhân dân phải chịu chứ không thể kỷ luật ai cả. Từ đó có thể thấy, Nhân dân đã thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội để ban hành Hiến pháp năm 2013. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến pháp được tiếp thu ý kiến Nhân dân cả nước. Triết lý ngàn đời nay, chỉ có người viết mới biết rõ về thứ mình viết, nghĩa là trong trường hợp này Nhân dân đã hiểu rõ các quy định trong Hiến pháp năm 2013. Một khi, Nhân dân đã hiểu rõ Hiến pháp năm 2013 thì họ sẽ tự giác thực hiện và không cần văn bản hướng dẫn thi hành. Bởi, văn bản hướng dẫn chỉ có ý nghĩa khi Nhân dân chưa hiểu rõ điều luật.
Ban hành 82 luật, pháp lệnh triển khai Hiến pháp 2013
Ngày 13/02/2014, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 251/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai Hiến pháp 2013. Theo đó, dự kiến giao cho các Bộ chủ trì soạn thảo 82 luật, pháp lệnh mới trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét thông qua trong thời gian tới.
LỜI KHUYÊN CHO NHỮNG AI ĐANG HỌC LUẬT…
1/ Những ai đang học Luật thì cố gắng học tốt để được ra trường đúng hoặc trước tiến độ. Nếu không sẽ đối diện với một khối lượng Luật và Pháp lệnh mới “khổng lồ” (Theo Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 về Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp 2013 thì phải ban hành 89 Luật và Pháp lệnh trong thời gian tới). 2/ Phải thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới để khỏi bị lạc hậu nhé!
Xác định ngày hiệu lực của Nghị quyết 64 hướng dẫn Hiến pháp 2013?
>Toàn văn những điểm mới trong Hiến pháp 2013 >Nghị quyết thi hành Hiến pháp 2013 Ngày 28/11/2013, Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013 (không đề cập gì đến ngày hiệu lực), bởi vậy trong cùng ngày Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 64 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp 2013. Theo đó, Hiến pháp 2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Tuy nhiên, ngày có hiệu lực của Nghị quyết 64 không được nhắc đến. Như vậy, ngày có hiệu lực của Nghị quyết 64 vẫn là dấu hỏi lớn chưa có lời giải. Rất mong nhận được ý kiến từ thành viên. Trân trọng cảm ơn!
Khi nào bị tước quốc tịch Việt Nam? Phản bội tổ quốc có bị tước quốc tịch không?
Dạo gần đây vấn đề về gìn giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được người dân Việt Nam rất quan tâm. Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan về nghĩa vụ của công dân và quy định về hành vi phạm tội phản bội Tổ quốc theo Hiến pháp 2013. Phản bội Tổ quốc đi tù bao nhiêu năm? Theo Hiến pháp 2013 tại Điều 45 nêu rõ Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất. Hành vi phản bội tổ quốc có mức phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, cụ thể: Căn cứ tại Điều 108 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội phản bội Tổ quốc như sau: Công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho: - Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc - Chế độ xã hội chủ nghĩa - Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Tiềm lực quốc phòng, an ninh thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì bị phạt tù từ 07-15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01-05 năm. Ngoài ra, căn cứ tại Điều 122 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người phạm tội phản bội tổ quốc còn có thể bị tước một số quyền công dân, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01-05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xem thêm: Cổng TTĐT Công an Quảng Bình nêu rõ: Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phản bội Tổ quốc: Người phạm tội có hành vi câu kết với nước ngoài. Thuật ngữ “nước ngoài” được hiểu là tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội hay cá nhân nước ngoài; câu kết với nước ngoài được hiểu là sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nước ngoài nhằm chống lại Tổ quốc. Người phạm tội câu kết với nước ngoài, dưới những hình thức cụ thể sau đây: - Bàn bạc với nước ngoài về mưu đồ chính trị, chủ trương, phương thức, kế hoạch hoạt động trước mắt cũng như lâu dài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. - Nhận sự giúp đỡ của nước ngoài về vật chất, phi vật chất như tiền bạc, vũ khí, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, lương thực thực phẩm, khoa học, công nghệ…để chống lại Tổ quốc. - Hoạt động dựa vào thế lực nước ngoài hoặc tiếp tay, tạo điều kiện cho nước ngoài chống lại Tổ quốc. Dù được thực hiện dưới hình thức nào, về thực chất, người thực hiện hành vi phản bội Tổ quốc chỉ là tay sai cho nước ngoài, được nước ngoài sử dụng như công cụ chống lại Tổ quốc mình. Người phạm tội phản bội Tổ quốc có bị tước quốc tịch hay không? Theo Điều 31 Luật Quốc tịch Việt Nam, các trường hợp công dân bị tước quốc tịch Việt Nam được quy định như sau: - Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi: Gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có hành vi quy định thuộc căn cứ tước quốc tịch Việt Nam nêu trên. Đồng thời, tại Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam cũng nêu rõ, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp vừa nêu trên. Như vậy, công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam trừ khi công dân đang cư trú ở nước ngoài hoặc người đã nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam dù cư trú ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam mà có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị tước quốc tịch Việt Nam. Tóm lại, nếu người nào là công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài mà phạm tội phản bội Tổ quốc câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh có thể bị tước quốc tịch Việt Nam. Trình tự, thủ tục tước quốc tịch Việt Nam Theo Điều 32 Luật Quốc tịch Việt Nam quy định về trình tự, thủ tục tước quốc tịch Việt Nam như sau: - Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày phát hiện hoặc nhận được đơn, thư tố cáo về hành vi thuộc căn cứ tước quốc tịch Việt Nam, UBND cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm xác minh, nếu có đầy đủ căn cứ thì lập hồ sơ kiến nghị Chủ tịch nước tước quốc tịch Việt Nam của người có hành vi đó. Tòa án đã xét xử đối với bị cáo có hành vi thuộc căn cứ bị tước quốc tịch Việt Nam lập hồ sơ kiến nghị Chủ tịch nước tước quốc tịch Việt Nam của người có hành vi đó. - Hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam được gửi đến Bộ Tư pháp. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ kiến nghị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc của Tòa án, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành khác có liên quan thẩm tra hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam và báo cáo Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. - Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam Hồ sơ kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam quy định tại Điều 22 Nghị định 16/2020/NĐ-CP, theo đó, trường hợp UBND cấp tỉnh hoặc Cơ quan đại diện kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam của người có hành vi thuộc căn cứ bị tước quốc tịch Việt Nam thì hồ sơ gồm có: - Văn bản kiến nghị của UBND cấp tỉnh hoặc Cơ quan đại diện về việc tước quốc tịch Việt Nam; - Hồ sơ, tài liệu điều tra, xác minh, kết luận của cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm của người bị đề nghị tước quốc tịch Việt Nam; - Đơn, thư tố cáo người bị đề nghị tước quốc tịch Việt Nam, nếu có. Trường hợp Tòa án đã xét xử bị cáo có hành vi thuộc căn cứ bị tước quốc tịch Việt Nam kiến nghị tước quốc tịch Việt Nam của người đó thì hồ sơ gồm có: - Văn bản kiến nghị của Tòa án về việc tước quốc tịch Việt Nam; - Bản án đã có hiệu lực pháp luật và các tài liệu có liên quan.
So sánh UBND qua 5 bản Hiến pháp?
Cho e hỏi sự khác nhau cũng như quá trình thay đổi của ỦY BAN NHÂN DÂN qua 5 bản Hiến pháp là như thế nào ạ?
Tại sao Hiến pháp của xã hội chủ nghĩa không quy định quyền con người?
Tại sao Hiến pháp của xã hội chủ nghĩa không quy định về quyền con người mà thay vào đó chỉ quy định về quyền công dân ?
Giải thích Điều luật trong Hiến pháp 2013
Tại sao có điều 11. điều 12. điều 13 trong Hiến pháp 2013?
Vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy định tại Chương II – “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1, Điều 31). Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng: Nguyên tắc suy đoán vô tội. >>> Để tránh án oan, người tiến hành tố tụng phải áp dụng triệt để tư duy suy đoán vô tội + Quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về suy đoán vô tội: - Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. + Quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy rõ 3 nhóm nội dung của nguyên tắc: Thứ nhất, trình tự, thủ tục của việc chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội phải được thu thập cụ thể, chính xác. Thứ hai, tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó >>> Thực tiễn hiện nay cho thấy một số hành vi đưa tin không trung thực, chính xác, khách quan, quy kết tội danh, luận tội... khi chưa có bản án kết tội của Tòa án như: + Sử dụng ngôn từ, hình ảnh miệt thị đối với người bị quy kết có tội và gia đình của họ + Suy diễn diễn biến câu chuyện từ đó biến tấu nhằm thu hút người xem + “đào bới” thông tin trong quá khứ của nghi phạm, “moi móc” thông tin về người thân theo hướng bất lợi cho nghi phạm >>> Với những hành vi trên, chủ thể có thể bị áp chế tài theo quy định của BLHS sửa đổi, bổ sung 2017 như sau: Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Phạm tội 02 lần trở lên; b) Đối với 02 người trở lên; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Đối với người đang thi hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%75. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên76; b) Làm nạn nhân tự sát. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Điều 156. Tội vu khống 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Đối với 02 người trở lên; d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; đ) Đối với người đang thi hành công vụ; e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%77; h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: a) Vì động cơ đê hèn; b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên78; c) Làm nạn nhân tự sát. Với những nôi dung trên đang giác ngộ chúng ta hãy hành xử một cách đúng đắn, những điều ta nghe và thấy chưa chắc là đúng sự thật, đừng vội "kết luận" bất cứ điều gì.
Hiến pháp 2013 được làm ra như thế nào?
- Quy trình làm Hiến pháp năm 2013 đã được thực hiện qua những bước nào? Những bước đó diễn ra cụ thể trên thực tế như thế nào? Ở mỗi bước có những ai tham gia và với nội dung gì? - Quy trình làm Hiến pháp năm 2013 nếu đối chiếu với vai trò quan trọng của Hiến pháp thì đã có những điểm tích cực và những điểm bất cập nào?
Re:Dạng đề kiểm tra năng lực Đại học Luật TpHCM
đề dạng này nếu là đề thi dạng THPTQG thì mình thấy hay. các bạn không chỉ dừng lại ở kiến thức 12, mà các bạn còn phải biết chút ít về luật chẳng hạn như công dân từ đủ 18 tuồi trở lên có quyền bầu cử, từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử,...
Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013
>>> Toàn văn điểm mới trong Hiến pháp 2013 >>> Phân tích toàn văn Hiến pháp 2013 >>> Tên gọi các cơ quan nhà nước qua những bản Hiến pháp Hiến pháp 2013 ra đời và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, theo đó, về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức có sự thay đổi so với trước. Vì vậy, sau đây mình giới thiệu sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013 như sau:
Quốc hội Việt Nam – sự hình thành từ những "Lá phiếu máu"
Vào ngày 06-01-1946, sự kiện Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã diễn ra, tạo nên dấu mốc lịch sử và pháp lý quan trọng trong hành trình xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như là tiền đề tạo nên Hiến pháp năm 1946. Tổng tuyển cử đồng thời đã khẳng định người dân Việt Nam, trong thời điểm đó, đã mang một thân phận khác – công dân tự do của một quốc gia độc lâp, lần đầu được thực hiện quyền bầu cử. Họ đã có thể tự quyết định vận mệnh của bản thân bằng lá phiều bầu cử thành lập Quốc hội, một trong ba nhánh cơ quan quyết định của thuyết Tam quyền phân lập – Lập pháp. Có thể nhận xét rằng, hoàn cảnh lịch sử thời điểm bấy giờ là vô cùng nhạy cảm và khó khăn khi chúng ta phải đối mặt với thù trong - giặc ngoài. Miền bắc, hơn 200.000 quân Tưởng đã tiến vào Việt Nam; trong khi tại miền nam, thực dân Pháp đã sẵn sàng trở lại, tạo nên thế gọng kìm với chính quyền còn non trẻ. Trong nước, các tổ chức Việt quốc, Việt cách ra sức phá hoại, đòi xóa bỏ ủy ban nhân dân, đòi 2/3 ghế Quốc hội không thông qua bầu cử. Trước tình thế cấp bách đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức phiên họp Chính phủ lâm thời vào ngày 03/9/1945, đề ra phương án đẩy nhanh tiến độ tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội trên toàn quốc. Cử tri Hà Nội bỏ phiếu ngày 6/1/1946. Ảnh tư liệu. Với tinh thần đề cao tính dân chủ và công bằng, tổng tuyển cử năm 1945 đã được tiến hành theo các nguyên tắc bầu cử phổ thông đầu phiều, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 89%. Không phân biệt đảng phái, tôn giáo, nam nữ, già trẻ nếu muốn lo việc nước đều có quyền ứng cử và thông qua bầu cử để trở thành đại biểu Quốc hội. Với những người không biết chữ thì ủy ban bỏ phiếu cử ra 3 người. Cử tri muốn bỏ phiếu cho ai thì nói tên người đó, nhờ một người viết vào phiếu, hai người bên cạnh kiểm tra rồi đọc lên cho cử tri nghe lại lần nữa rồi mới bỏ lá phiếu vào hòm. Nhiều cử tri yêu cầu Chủ tịch Hồ Chí Minh miễn ứng cử và bầu làm Chủ tịch nước vĩnh viễn, nhưng Người từ chối với lý do không thể vượt khỏi quy tắc bầu cử đã định. Sáng 06/01/1946, người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, đã đồng loạt xuống đường đi bầu cử; nhiều địa điểm bỏ phiếu thậm chí đã đổ máu bở sự phá hoại của các lực lượng thù địch. Trong hồi ký của cố đại biểu Quốc hội khóa I Lâm Quang Thự đã viết: “Ở miền Bắc, phần tử Quốc dân đảng chĩa súng về nhân dân đi bầu cử. Tại Hà Nội, chúng mang tiểu liên đến làng Ngũ Xã không cho dân đặt hòm phiếu. Ở Phú Thọ, chúng sai người tháo khẩu hiệu, thu thẻ cử tri. Nhân dân miền Trung, miền Nam đi bầu cử trong vòng vây của súng đạn thực dân Pháp. Máy bay Pháp ném bom khu vực Mỹ Tho, Khánh Hòa, có nơi cách hòm phiếu chỉ vài trăm mét. Tại Sài Gòn, hơn 40 cán bộ trong ban tuyên truyền bầu cử hy sinh. Lá phiếu của nhân dân miền Nam lúc ấy được ví như những lá phiếu máu.” Cố đại biểu Quốc hội khóa I Lâm Quang Thự. Ảnh tư liệu. Quốc hội khóa I đã chính thức ra đời trên bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và máu của người dân Việt Nam. Thông qua tổng tuyển cử, nhân dân bầu ra 333 đại biểu Quốc hội, trong đó Bắc Bộ 152 người, Trung Bộ 108 và Nam Bộ 73 đại diện. Đặc biệt, đây cũng là nhiệm kỳ Quốc hội duy nhất trong lịch sử 70 năm qua có sự tham gia của hai đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử. Tuy nhiên trong kỳ họp thứ nhất Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng phái này theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Việt Minh và hai đảng này. Đoàn đại biểu Quốc hội miền Nam khóa 1. Ảnh tư liệu. Ngày 02/03/1946, phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I diễn ra tại Nhà hát lớn (Hà Nội) với vỏn vẹn 04 giờ, nhưng Quốc hội đã bắt đầu tiến hành nhiệm vụ được giao, nghe Chính phủ báo cáo, thành lập và công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến thay cho Chính phủ lâm thời. Quốc hội khóa I đã có nhiệm kỳ 14 năm (1946-1960), là nhiệm kỳ Quốc hội dài nhất đến nay với tổng cộng 12 kỳ họp do tình hình lịch sử đặc thù, đất nước chiến tranh, hai miền chia cắt nên không thể tổ chức cuộc bầu cử trên cả nước. và các vấn đề quan trọng của đất nước đã được ủy quyền cho Ban Thường vụ Quốc hội giải quyết. Ngày nay, Quốc hội Việt Nam đã có những thay đổi nhất đinh, tổ chức theo mô hình một viện với tổng số đại biểu Quốc hội không quá 500 người và xây dựng Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 được kế thừa và phát huy tinh thần, tư tưởng từ Hiến pháp 1946 được Quốc hội Khóa I thông qua ngày 09/11/1946. Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội điều hành một phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Ảnh tư liệu. Đại biểu Quốc hội được bầu với nhiệm kỳ 5 năm, thay mặt Nhân dân quyết định các vấn đề liên quan đến lợi ích của cả đất nước và mỗi cá nhân. Bổn phận cao cả của đại biểu Quốc hội là đại diện và bảo vệ lợi ích của cử tri, liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo, trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đã 70 năm trôi qua, với vị thế là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho hơn 93 triệu nhân dân Việt Nam, Quốc hội đã có những bước tiến, thể hiện tốt hơn vai trò, chức năng lập Hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, đưa Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế.
Phân biệt nghi can, nghi phạm, bị can, bị cáo?
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. (Theo Điều 31 Hiến pháp 2013) Song song đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng có quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thế nhưng, dân mình lại ít khi quan tâm vấn đề này, khi một vụ án được điều tra, một người bị phía công an mời lên để thẩm vấn, hoặc điều tra, bị tình nghi và tạm giữ, tạm giam đối tượng đó. Họ luôn cho rằng người đó có tội..và có những ý nghĩ xấu về người này. Quá trình xét xử, oan sai là vấn đề không tránh khỏi, có thể do rủi ro nghề nghiệp, có thể do không cẩn trọng khi thực hiện…Hậu quả cho người bị oan là không nhỏ, hơn nữa về danh dự, nhân phẩm, danh tiếng…của họ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhận thấy được điều đó, quy định tố tụng hình sự đã có những phân loại cho từng tên gọi với đối tượng bị tình nghi, tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra. Dưới đây là cách phân biệt các tên gọi này: Tiêu chí Bị can Bị cáo Khái niệm Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử Quyền - Được biết mình bị khởi tố về tội gì. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Trình bày lời khai. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Tham gia phiên toà. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa. - Nói lời sau cùng trước khi nghị án. - Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Như vậy, bị can và bị cáo là tên gọi khác nhau của người bị bắt trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Còn nghi can, nghi phạm là gì? Trong Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không tồn tại hai thuật ngữ “nghi can” và “nghi phạm”. Thế nhưng, chúng ta có thể hiểu 2 thuật ngữ này như sau: Nghi can: Được hiểu là người bị nghi có liên quan đến vụ án và thuộc trường hợp chưa bị bắt. Nghi phạm: Được hiểu là người bị nghi là tội phạm, có dấu hiệu của một tội phạm và đã bị lệnh bắt.
Luật, Bộ luật và Đạo luật cái nào có giá trị cao hơn?
Học Luật chắc hẳn các bạn thường nghe nhắc đến nhiều các từ Luật, Bộ luật và Đạo luật trong các bài giảng, nhưng có bao giờ bạn thăc mắc Luật, Bộ luật và Đạo luật khác nhau ở chỗ nào chưa, tại sao có lúc giảng viên dùng từ đạo luật, khi khác lại dùng bộ luật… Mình thử tìm các văn bản pháp luật xem có quy định về vấn đề này không? Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất – không có quy định. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 – văn bản Luật – không có khái niệm về Luật, Bộ luật, Đạo luật. Chỉ quy định khái niệm của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thì chỉ có nhắc đến Luật, không hề nhắc đến Bộ luật hay Đạo luật. Vậy Bộ luật và Đạo luật không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam sao? Thực tế, nếu các bạn có lần tham khảo qua, hiện nay, chúng ta có các Bộ luật lao động 2012, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật hình sự 1999…Vậy những bộ luật này không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam? Vì rõ ràng theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ nêu hệ thống bao gồm…trong đó có luật, nhưng không có Bộ luật, Đạo luật? Thử tìm trên Gu-Gồ, thì thấy có một bạn trong Dân Luật giải thích 3 từ này, nhưng mình chưa tìm ra căn cứ bạn này nói, có thể do cách hiểu của bạn ấy: - Luật là văn bản do Quốc hội ban hành để quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. - Bộ luật là Văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông qua có giá trị pháp lí cao (chỉ sau Hiến pháp). Tổng hợp có hệ thống theo chương, mục những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội quan trọng của từng lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vd. Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hàng hải của Việt Nam. - Đạo luật là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, trong đó đạo luật quy định những chế tài nghiêm khắc nhất đối với tội phạm, và đạo luật chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Nếu là cách hiểu thì có thể đúng hoặc sai, tùy quan điểm của mỗi người. Chuyện này không phải chỉ xảy ra ở nước ta, các nước bạn trên thế giới cũng từng nhầm lẫn giữa 3 khái niệm này. Việc giải thích nghĩa của từng từ này dường như rất mơ hồ: Đạo luật: luật được thông qua bởi Quốc hội. Bộ luật: hệ thống các luật hay các quy định bằng văn bản quy định cách ứng xử của mọi người trong một tổ chức hay một quốc gia. Luật: là hệ thống các nguyên tắc mà mọi người trong quốc gia hay trong xã hội bắt buộc phải tuân thủ. Dẫn chứng sự nhập nhằng đó là tại Pháp, trong bài báo của họ cũng đề cập ban đầu dự thảo luật, sau đó nâng thành dự thảo đạo luật… (Nguồn: http://vtv.vn/tin-tuc/nguoi-dan-phap-co-the-bi-co-quan-an-ninh-theo-doi-toan-dien-20150625194131083.htm) Nếu được hỏi đến 3 khái niệm này nhiều người cho rằng nó là một, nhưng có thật sự là một không khi vấn đề giá trị pháp lý của chúng chưa rõ ràng? Các bạn thành viên Dân Luật có thể giúp mình vụ này hông?
Quyền được làm những gì pháp luật không cấm?
Đó là câu hỏi đặt ra cho các nhà làm luật hiện nay, liệu các quy định mới ban hành đã thực sự áp dụng Điều 33 Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” chưa? Cùng xem bài viết chia sẻ dưới đây nhé. Một tháng rưỡi trước ngày Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã “điểm danh” được 1.697 điều kiện kinh doanh do các bộ ban hành bằng các thông tư vẫn đang còn hiệu lực. Phát biểu tại hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp góp ý dự thảo nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Doanh nghiệp và hoàn thiện pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh, Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung nói rằng Luật Đầu tư mới quy định các bộ, UBND các cấp không được ban hành điều kiện kinh doanh và với cách tiếp cận những gì pháp luật không cấm, mọi người dân được tự do kinh doanh thì các điều kiện này đương nhiên bị bãi bỏ, không còn hiệu lực từ ngày 1-7-2015. Đây rõ ràng là điều đang được rất nhiều nhà doanh nghiệp mong đợi. Nhưng câu hỏi đặt ra là các bộ, các cơ quan quản lý nhà nước có chấp nhận “đương nhiên” bãi bỏ các điều kiện kinh doanh này hay không? Về nguyên tắc, khi luật mới có hiệu lực thì những gì trái với quy định của luật đương nhiên phải mất hiệu lực. Thế nhưng, với thói quen “chờ hướng dẫn” tồn tại từ bấy lâu nay ở những cơ quan thực thi pháp luật, việc “đương nhiên” bãi bỏ 1.697 điều kiện kinh doanh mà CIEM liệt kê khó có thể xảy ra. Đây là điều từng xảy ra trong quá trình triển khai rất nhiều luật, bộ luật trước đây. Hơn nữa, nhiều thông tư của các bộ ban hành về điều kiện kinh doanh thực chất là văn bản hướng dẫn của nghị định. Vì vậy, để quyền được làm những gì pháp luật không cấm được thực thi hiệu quả từ ngày 1-7, như mong đợi của cộng đồng doanh nghiệp, thì Chính phủ cần ban hành những văn bản chấm dứt hiệu lực của các điều kiện kinh doanh trái với Luật Doanh nghiệp mới. Một vấn đề quan trọng nữa là nên xây dựng cơ chế để ngăn các điều kiện kinh doanh (trái luật hoặc không cần thiết) và các biến tướng của chúng quay trở lại. Trong nhiều năm qua, đây là những chướng ngại vật không nhỏ đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp. Từ năm 2000, Chính phủ đã nhìn thấy việc cần thiết phải dẹp bỏ những rào cản này nhưng đó là một cuộc chiến cam go. Sau nhiều năm nỗ lực, Chính phủ cũng chỉ dẹp được gần 160 giấy phép con, nhưng 15 năm sau những giấy phép con này đã quay trở lại, nhiều hơn gấp hàng chục lần so với trước. Điểm đáng nói là nhiều điều kiện kinh doanh được hình thành sau này không chỉ xuất phát từ các cơ quan quản lý nhà nước như trước, mà do chính các hiệp hội doanh nghiệp đề xuất. Mặc dù các điều kiện kinh doanh được đề xuất đều nhằm mục tiêu được cho là tốt, đó là ngăn chặn những doanh nghiệp làm ăn bất chính, nhưng thực tế nó lại cản trở quyền tiếp cận thị trường của rất nhiều doanh nghiệp khác, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo là một ví dụ. Vô tình, các điều kiện kinh doanh do cơ quan nhà nước ban hành hoặc do hiệp hội doanh nghiệp đề xuất đã trở thành công cụ phục vụ cho những nhóm lợi ích nào đó. Nguồn: saigontimes Luật doanh nghiệp chỉ là ví dụ điển hình, hiện nay nhiều Luật khác vẫn còn tồn tại nhiều hình thức ràng buộc quyền tự do của nhân dân. Thiết nghĩ các cơ quan nhà nước cần sớm có cơ chế đẩy mạnh tinh gọn các thủ tục hành chính, các quy trình thực hiện nhiêu khê, gây rắc rối phức tạp cho dân, hạn chế khả năng tiếp cận để thực hiện quyền của dân.
PHÂN TÍCH TOÀN VĂN HIẾN PHÁP 2013
GIỚI THIỆU Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 (có hiệu lực từ 01/01/2014[1]), như vậy sau hơn 21 năm nước ta đã có bản Hiến pháp mới, Hiến pháp của thời kỳ hội nhập, đổi mới và phát triển[2]. Hiến pháp là Luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với Hiến pháp, mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý[3]. Mỗi bản Hiến pháp đều có vai trò, sứ mệnh lịch sử riêng nhưng tựu chung lại đều góp phần phát triển đất nước, công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện, thời gian để hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về Hiến pháp; một bộ phận không nhỏ coi Hiến pháp là điều cao xa. Nhằm đưa Hiến pháp đến gần gũi với quần chúng nhân dân, tác giả sẽ phân tích toàn văn Hiến pháp 2013, nêu ra những điểm mới cơ bản của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1992[4] PHẦN 1: TỔNG QUAN CHUNG HIẾN PHÁP 2013 Hiến pháp 2013 bao gồm 11 chương và 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp 1992). Hiến pháp 2013 chỉ giữ nguyên 5 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 103 điều. Trong đó có sự sắp xếp lại các chương, như sau: - Chương 11: Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, thủ đô, ngày quốc khánh được ghép vào Chương 1. - Chương 5: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đưa lên Chương 2 với tên gọi quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. - Một chương hoàn toàn mới, đó là chương 10: Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước. Đặc biệt, từ “nhân dân” được thay thế bằng từ “Nhân dân” nhằm đề cao hơn nữa vai trò của Nhân dân. Xem danh sách tổng quan so sánh Hiến pháp 1992 với 2013 tại phụ lục 3.1. (Còn nữa - tiếp tục cập nhật cho đến khi hoàn thành) [1] Xem điều 1 Nghị quyết 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội. [2] Đến nay nước ta đã trải qua các bản Hiến pháp sau 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. [3] Xem khoản 1 điều 119 Hiến pháp 2013. [4] “Hiến pháp 1992” được hiểu là nội dung đã được “hợp nhất” của Hiến pháp 1992 và Nghị quyết 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội (sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992).
Đặc xá, đại xá thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với những người phạm tội hình sự và có ý nghĩa lớn về mặt chính trị - xã hội. Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt[1]; đại xã cũng là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước nhưng do Quốc hội quyết định[2]. Sau đây là những điểm khác biệt của đặc xá với đại xá về thẩm quyền, nôi dung, phạm vi và hậu quả pháp lý. Đại xá Đặc xá 1. Thẩm quyền Quốc hội (Hiến pháp 2013, điều 70, khoản 11) Chủ tịch nước (Hiến pháp 2013, điều 88, khoản 3) 2. Nội dung Thông thường căn cứ vào tình hình kinh tế chính trị cũng như diễn biến tội phạm trong từng thời kỳ mà Quốc hội quyết định đại xá cho những hành vi phạm tội hay loại tội phạm nào. Người phạm tội thực hiện những hành vi được nêu trong văn bản đại xá thì dù đang ở giai đoạn điều tra, truy tố hay xét xử đều được miễn trách nhiệm hình sự; Nếu đã bị tuyên hình phạt, đang chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại và được xóa án tích; nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định khác của Tòa án thì được xóa án tích. Đặc xá được xem xét cụ thể theo yêu cầu (có đơn) của người bị kết án. Việc xét đặc xá bao gồm xét đặc xá tha tù và xét ân giảm án tử hình, có nghĩa là đối tượng được xét đặc xá phải là những người đang thi hành án phạt tù; người bị kết án tử hình có đơn xin ân giảm gửi Chủ tịch nước. Chế định đặc xá nhằm khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng cải tạo tốt, nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng, trở thành con người có ích cho xã hội. 3. Phạm vi Được áp dụng đối với một hoặc một số hành vi phạm tội nhất định, theo đó, hàng loạt người đã thực hiện hành vi được xác định trong quyết định đại xá sẽ được tha, miễn trách nhiệm hình sự. Điều này có nghĩa đại xá được thi hành rộng rãi, tuy nhiên, vẫn có loại trừ một số tội phạm nguy hiểm mà nếu tha sẽ ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. * Ví dụ: Thông tư Liên Bộ Nội vụ - Công an – Tư pháp số 80-TT/LB ngày 6/12/1958[3] có quy định: Những người phạm tội và bị xử phạt trước ngày 9/10/1954 đều được đại xá và được khôi phục công quyền. Riêng mấy loại phạm nhân sau đây không được đại xá là: địa chủ cường hào gian ác, bọn có nhiều nợ máu với nhân dân, bọn côn đồ chưa thực sự cải tạo. Phạm vi áp dụng hẹp hơn đại xá, được quy định cụ thể tại Luật đặc xá 2007, điều 10, 11, 21. 4. Hậu quả pháp lý Dù đang ở trong giai đoạn nào từ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đều được tha tội hoàn toàn, có nghĩa sẽ được trả tự do ngay, phục hồi toàn bộ quyền công dân và được coi như không phạm tội. Người được đại xá sẽ là người không có tội và cũng sẽ không có án tích trong lý lịch tư pháp của mình. Quyết định đặc xá chỉ tính trong giai đoạn đang thi hành án phạt tù và người được đặc xá sẽ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại nhưng không được xóa án tích ngay như người được quyết định đại xá và vẫn có tiền án trong lí lịch tư pháp. Rất mong nhận được sự chia sẻ, góp ý chân thành từ quý thành viên! [1] Khoản 1 điều 3 Luật đặc xá năm 2007. [2] Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào đại xá. [3] Xem “gián tiếp” tại Thông tư 15-TTg ngày 12/01/1961 của Thủ tướng Chính phủ.
Hiến pháp mới nhưng Luật khó mới (?!)
Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Đây được xem là bước tiến vượt bậc của nền lập Hiến nước nhà nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mọi người tự do kinh doanh. So với Hiến pháp 1992 thì Hiến pháp 2013 có điểm mới sau: - Một là, “mọi người” đều được quyền tự do kinh doanh, không còn bó hẹp trong từ “công dân”. - Hai là, được “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, thay thế cho cụm “tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Dẫu rằng Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, tuy nhiên thực tiễn nước nhà cho thấy “Hiến pháp chỉ đi vào cuộc sống khi có văn bản quy định chi tiết”. Bởi vậy, Quốc hội, Chính phủ đã đốc thúc các Bộ rà soát và báo cáo danh mục những ngành nghề cấm đầu tư, kinh doanh và đầu tư, kinh doanh có điều kiện để đưa vào Luật doanh nghiệp sửa đổi và Luật đầu tư sửa đổi nhằm hiện thực Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, đến nay nhiều Bộ vẫn “Án binh bất động”. Liệu các Bộ không thể báo cáo số liệu hay cố ý không làm theo yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ? 1. Báo cáo số liệu khó quá! Chính các bộ là người ban hành văn bản quy định về ngành, nghề cấm kinh doanh hoặc ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì không có chuyện, giờ tìm lại văn bản mình đã ban hành không được. Nếu tìm không được thì thử hỏi mấy mươi năm qua các bộ quản lý ngành, nghề kinh doanh trên thực tế bằng cái gì? 2. Cố ý không làm theo yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ? Khả năng này có thể xảy ra hay không? Câu trả lời: rất có thể. Bởi “giấy phép con” là món mồi ngon của các bộ trong mấy mươi năm qua, giờ tức khắc đòi nhả ra thì khó lòng làm liền được. Thực sự mà nói “cố ý không làm” thì hơi quá nhưng chẳng có sai chút nào; Quốc hội, Chính phủ đốc thúc nhưng bộ vẫn không báo cáo theo kiểu tiếc quá, nhưng chẳng dám nói ra là “không muốn báo cáo” nên im lặng nhằm kéo dài thời gian (bởi một năm quốc hội họp có hai lần, kéo thêm chút nào thì đỡ chút đó). Với tình hình như thế này, thì năm nay Quốc hội không thể thông qua Luật doanh nghiệp sửa đổi, Luật đầu tư sửa đổi có danh mục ngành nghề cấm đầu tư, kinh doanh; đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Hiến pháp mới nhưng Luật khó mới – tự do kinh doanh đúng nghĩa vẫn còn nằm trong chữ "chờ"!
Những quy định ít người biết – mình nghĩ vậy vì thực tế nhiều người vi phạm các quy định này như thể không có gì. 1. Cấm vượt đèn vàng Nhiều người cho rằng: chỉ khi tin hiệu đèn giao thông MÀU ĐỎ mới phải dừng, tuy nhiên tại điểm c khoản 3 điều 10 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định: “Tín hiệu vàng là phải dừng lại trước vạch dừng”. Trường hợp nào vượt đèn vàng sẽ bị xử phạt từ 100 – 200 nghìn đồng (Điểm o khoản 3 điều 6 Nghị định 171/2013/NĐ-CP). 2. Phạt tiền hành vi “ghẹo gái” Theo điểm a khoản 1 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì hành vi “ghẹo gái” bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 – 300 nghìn đồng. 3. Xử phạt hành vi “ở dơ” Theo điểm a khoản 1 điều 7 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì hành vi “không thực hiện các quy định về quét dọn rác, khai thông cống rãnh trong và xung quanh nhà ở, cơ quan, doanh nghiệp, doanh trại gây mất vệ sinh chung” bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 – 300 nghìn đồng. 4. Bán nhà bằng “giấy tờ viết tay” cũng phải đóng thuế TNCN Nhiều người cho rằng bán nhà bằng “giấy tờ viết tay” không phải đóng thuế thu nhập cá nhân tuy nhiên theo khoản 5 điều 30 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì vẫn phải đóng thuế. 5. Bộ không có thẩm quyền ban hành Thông tư Chúng ta thường “dùng gọn” Thông tư X do Bộ Tài chính ban hành, Thông tư Y do Bộ Công thương ban hành… lâu ngày dẫn đến “nhầm tưởng” Thông tư do Bộ ban hành. Nhưng sự thật, Thông tư do Bộ trưởng ban hành vì Bộ không có thẩm quyền ban hành Thông tư (Điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008). 6. “Gián đoạn” quyền được kết hôn Có những trường hợp, hiện tại đã đủ tuổi kết hôn và được quyền kết hôn nhưng nếu họ không kết hôn thì tới 01/01/2015 họ không được kết hôn mà phải đợi cho đến khi … (Xem chi tiết tại đây). 7. Học tập cũng là nghĩa vụ Nhiều người cho rằng học tập là quyền – nghĩa là thích học thì học, không thì thôi. Tuy nhiên, theo điều 39 Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”, như vậy học tập là quyền nhưng đồng thời là nghĩa vụ của công dân.
Ai cũng hiểu Hiến pháp 2013 nên không cần văn bản hướng dẫn
Sáng 11/04/2014, tại phiên họp Hội nghị đại biểu chuyên trách về luật Đầu tư công sửa đổi Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”. Chiếu theo điều 6 Hiến pháp năm 2013 quả là câu nói trên rất đúng, xét về bản chất vấn đề thì các quyết định của Quốc hội là đang thực thi quyền lực nhà nước của Nhân dân bằng hình thức đại diện. Nên việc Quốc hội quyết sai nghĩa là Nhân dân quyết sai nên Nhân dân phải chịu chứ không thể kỷ luật ai cả. Từ đó có thể thấy, Nhân dân đã thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội để ban hành Hiến pháp năm 2013. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 là bản Hiến pháp được tiếp thu ý kiến Nhân dân cả nước. Triết lý ngàn đời nay, chỉ có người viết mới biết rõ về thứ mình viết, nghĩa là trong trường hợp này Nhân dân đã hiểu rõ các quy định trong Hiến pháp năm 2013. Một khi, Nhân dân đã hiểu rõ Hiến pháp năm 2013 thì họ sẽ tự giác thực hiện và không cần văn bản hướng dẫn thi hành. Bởi, văn bản hướng dẫn chỉ có ý nghĩa khi Nhân dân chưa hiểu rõ điều luật.
Ban hành 82 luật, pháp lệnh triển khai Hiến pháp 2013
Ngày 13/02/2014, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 251/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai Hiến pháp 2013. Theo đó, dự kiến giao cho các Bộ chủ trì soạn thảo 82 luật, pháp lệnh mới trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét thông qua trong thời gian tới.
LỜI KHUYÊN CHO NHỮNG AI ĐANG HỌC LUẬT…
1/ Những ai đang học Luật thì cố gắng học tốt để được ra trường đúng hoặc trước tiến độ. Nếu không sẽ đối diện với một khối lượng Luật và Pháp lệnh mới “khổng lồ” (Theo Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 về Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp 2013 thì phải ban hành 89 Luật và Pháp lệnh trong thời gian tới). 2/ Phải thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới để khỏi bị lạc hậu nhé!
Xác định ngày hiệu lực của Nghị quyết 64 hướng dẫn Hiến pháp 2013?
>Toàn văn những điểm mới trong Hiến pháp 2013 >Nghị quyết thi hành Hiến pháp 2013 Ngày 28/11/2013, Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013 (không đề cập gì đến ngày hiệu lực), bởi vậy trong cùng ngày Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 64 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp 2013. Theo đó, Hiến pháp 2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Tuy nhiên, ngày có hiệu lực của Nghị quyết 64 không được nhắc đến. Như vậy, ngày có hiệu lực của Nghị quyết 64 vẫn là dấu hỏi lớn chưa có lời giải. Rất mong nhận được ý kiến từ thành viên. Trân trọng cảm ơn!