Án Tây - Luật ta: Bí ẩn đằng sau chiếc kim tiêm tử thần của bác sĩ
Một bác sĩ, người được xã hội tin tưởng, lại trở thành nghi phạm trong một vụ án mạng bí ẩn. Chiếc kim tiêm, vốn là công cụ cứu người, nay lại trở thành hung khí gây chết người. (1) Bí ẩn đằng sau chiếc kim tiêm tử thần của bác sĩ Tòa án Newcastle (Anh) đang tiến hành phiên xét xử bác sĩ T.K, người bị cáo buộc âm mưu sát hại ông P.O, 72 tuổi. Tại tòa, bác sĩ K đã thừa nhận hành vi của mình. Bà J (mẹ của bác sĩ K) đã quyết định để lại ngôi nhà của mình cho ông O, người tình 20 năm qua của bà. Khi biết tin này, K đã rất tức giận. Vào tháng 11/2022, bác sĩ này đã gây ra một cuộc tranh cãi với mẹ về di chúc và bị cảnh sát can thiệp. Ông ta thậm chí còn cài đặt phần mềm theo dõi trên laptop của mẹ mình. Theo cáo trạng, K đã mạo danh Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh (NHS) để gửi thư thông báo rằng sẽ có y tá đến tiêm vắc xin Covid-19 cho ông O vào ngày 22/1. Thực tế, K đã cải trang bằng tóc giả, râu giả, và đeo khẩu trang để tự mình tiêm chất độc vào nạn nhân. Ông ta còn làm giả thẻ căn cước, biển số xe và bịa đặt thông tin để đặt phòng tại địa phương. Sau khi được tiêm, ông O đã bị sưng viêm, da đổi màu và đau đớn tại vị trí tiêm, tình trạng ngày càng nghiêm trọng. Khi nhập viện, ông được chẩn đoán viêm cân mạc hoại tử, một loại nhiễm trùng sâu dưới da rất nguy hiểm, và phải nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt, cắt bỏ một phần thịt ở bắp tay. Hiện tại, ông vẫn đang điều trị tại bệnh viện. Ông O bắt đầu nghi ngờ về một số tình tiết trước đó. Bạn gái của ông, bà J, đã nhận xét rằng nam y tá "cao gần bằng" con trai của K. Ban đầu, bác sĩ K đã phủ nhận mọi cáo buộc. Tuy nhiên, cảnh sát đã thu thập đủ bằng chứng chứng minh tội ác của ông. Bồi thẩm đoàn đã xem video từ camera an ninh ghi lại cảnh K đến Premier Inn, gần nhà mẹ mình ở Newcastle. Sau đó, ông ta đã đeo khẩu trang phẫu thuật, găng tay, mũ và kính râm khi đến nhà để tiêm cho ông O. Các chuyên gia cho rằng K đã sử dụng iodomethane, một loại thuốc trừ sâu. Đại diện Bộ Quốc phòng Anh cho biết chưa từng có trường hợp nào liên quan đến việc tiêm loại hóa chất này. Công tố viên Peter Makepeace KC nhận định: "Bị cáo T.K là một bác sĩ có uy tín và nhiều kinh nghiệm tại một phòng khám ở Sunderland. Trước tháng 11/2023, ông ta đã lập kế hoạch phức tạp để giết bạn đời của mẹ mình, lợi dụng kiến thức của mình về chất độc để thực hiện âm mưu này ngay trước mặt nạn nhân." Hiện tại, bác sĩ K đang sống cùng vợ và con trai nhỏ trong một ngôi nhà trị giá gần 400.000 USD. Tại đây, cảnh sát đã tịch thu được nhiều loại thuốc độc và hướng dẫn sử dụng, bao gồm thông tin chi tiết về liều lượng cần thiết để giết người. (2) Án Tây - Luật ta Ở nước ta, tội Giết người được quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015. Tại điểm k khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định rằng tình tiết tăng nặng đối với tội phạm này là việc giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp. Ví dụ, bác sĩ có thể giết bệnh nhân nhưng lại lập hồ sơ bệnh án cho rằng nạn nhân đã qua đời do bệnh hiểm nghèo, hay bảo vệ bắn chết người rồi vu oan cho họ là kẻ cướp. Việc lợi dụng nghề nghiệp để sát hại người khác được đánh giá là một thủ đoạn rất tinh vi. Đơn cử như trường hợp trên, bác sĩ K đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để thực hiện hành vi giết người một cách dễ dàng và kín đáo. Tuy nhiên, cảnh sát cần xác định và chứng minh rằng K đã lợi dụng công việc của mình để thực hiện tội ác thì mới có thể xem xét trường hợp phạm tội này có tình tiết tăng nặng. Theo đó, mức xử phạt đối với tội phạm giết người được quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 như sau: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên; - Giết người dưới 16 tuổi; - Giết phụ nữ mà biết là có thai; - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; - Thực hiện tội phạm một cách man rợ; - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; - Thuê giết người hoặc giết người thuê; - Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; - Vì động cơ đê hèn. Đối với việc phạm tội nhưng không thuộc các trường hợp nêu trên thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra. người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Cố ý giết người đi tù bao nhiêu năm 2024?
Cố ý giết người là hành vi mà người phạm tội nhận thức rõ ràng về tính chất nguy hiểm cho xã hội và mong muốn gây ra hậu quả chết người. Vậy, năm 2024 cố ý giết người sẽ đi tù bao nhiêu năm? Cố ý giết người đi tù bao nhiêu năm 2024? Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết người như sau: - Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: + Giết 02 người trở lên; + Giết người dưới 16 tuổi; + Giết phụ nữ mà biết là có thai; + Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; + Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; + Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; + Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; + Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; + Thực hiện tội phạm một cách man rợ; + Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; + Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; + Thuê giết người hoặc giết người thuê; + Có tính chất côn đồ; + Có tổ chức; + Tái phạm nguy hiểm; + Vì động cơ đê hèn. - Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định trên, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. - Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, năm 2024 tùy vào tính chất, hậu quả mà người cố ý giết người sẽ phạt tù từ 7 - 20 năm hoặc tù chung thân và cao nhất có thể bị áp dụng hình phạt tử hình. Nếu chuẩn bị phạm tội sẽ bị phạt tù từ 1 - 5 năm. Như thế nào là tội cố ý? Theo Điều 10 Bộ luật Hình sự 2015 thì cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Như vậy, tội cố ý là người phạm tội nhận thức rõ ràng hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó, nhưng vẫn chấp nhận để hậu quả xảy ra. Cố ý giết người có phải là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không? Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: - Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; - Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; - Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; - Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, tội phạm cố ý giết người sẽ thuộc nhóm tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, còn đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội thì sẽ thuộc nhóm tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng.
Vụ lái xe đâm vào CSGT thành Án lệ tội giết người
Thay vì xử tội chống người thi hành công vụ như trước đây, thì theo Án lệ 18, những vụ lái xe đâm CSGT tương tự có thể bị xét xử tội giết người. (1) Vụ lái xe đâm vào CSGT thành Án lệ tội giết người Án lệ là các phán quyết của Tòa án (hay còn gọi là bản án) được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ việc tương tự về sau. Tính đến nay, Việt Nam đã có 63 án lệ được công bố và áp dụng. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”. Theo Án lệ số 18/2018/AL Khoảng 16 giờ ngày 30/6/2017, Tổ Tuần tra kiểm soát Phòng CSGT Công an tỉnh Hà Tĩnh ra tín hiệu dừng xe để xử lý lỗi chạy quá tốc độ với xe container BKS 77C - 016.47 kéo theo rơ-moóc BKS 77R - 001.37 do Phan Thành H (SN 1995, Bình Định) cầm lái. Sau khi thông báo lỗi và cho xem hình ảnh vi phạm, tổ công tác yêu cầu H xuất trình giấy tờ để kiểm tra. Tuy nhiên, H cho rằng xe mình không vi phạm tốc độ, nên không xuất trình giấy tờ rồi tranh cãi với Tổ tuần tra. Dù được giải thích nhưng nhưng H vẫn không chấp nhận mà tiếp tục tranh cãi, rồi lên xe đóng cửa lại, lúc này xe vẫn đang nổ máy. Thấy vậy, đồng chí Lê Hồ Việt A đang đứng phía trước bên phải đầu xe, còn đồng chí Nguyễn Anh Đ đang đứng phía trước bên trái cách đầu xe khoảng 1 mét, ra hiệu cho H không được di chuyển. Tuy nhiên, H không chấp hành hiệu lệnh mà bất ngờ điều khiển xe lao thẳng vào đồng chí A và đồng chí Đ đang đứng phía trước đầu xe để bỏ chạy. Nhận thấy tình hình nguy hiểm, đồng chí A nhảy ra lề đường phía bên phải tránh được, còn đồng chí Đ không kịp tránh nên buộc phải bám vào gọng gương chiếu hậu phía trước, bên trái trên nắp capo của xe. Dù đã thấy đồng chí Đ đang bám phía trước nhưng Phan Thành H vẫn tiếp tục điều khiển xe tăng tốc. Đi được khoảng 400 mét thì H bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái, chuyển hướng đầu xe vào sát dải phân cách cứng giữa đường. Do lúc này đồng chí Đ chỉ bám hai tay vào gọng gương chiếu hậu của xe, hai chân không có điểm tựa nên khi xe đánh lái đột ngột đã bị văng khỏi xe va vào dải phân cách cứng, rồi rơi xuống mặt đường. Hậu quả, đồng chí Đ bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thị xã Hồng Lĩnh, sau đó chuyển đến điều trị tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, đến ngày 10-7-2017 được chuyển về điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh cho đến ngày 18-7-2017 thì ra viện. H bị bắt và bị khởi tố về tội Chống người thi hành công vụ. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi và quá trình phạm tội của H, ngày 22/7/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh quyết định khởi tố bị can H tội Giết người. Tại phiên tòa xét xử, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, TAND tỉnh Hà Tĩnh tuyên phạt Phan Thành H 8 năm tù về tội Giết người và 2 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” (làm giả bằng lái hạng FC). Mặc dù có kháng cáo, H vẫn bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tuyên phạt 7 năm tù về tội “Giết người”. Sau khi được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua, ngày 6/11/2018, Chánh án TAND Tối cao đã công bố Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”. Việc TAND Tối cao đưa vụ án này thành án lệ là một bước tiến quan trọng, tạo tiền đề cho các tòa cấp dưới xét xử những vụ án tương tự. Đồng thời, tăng tính răn đe, giáo dục và cảnh tỉnh người tham gia giao thông về việc chấp hành các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật ATGT nói riêng. (2) Tội Giết người bị phạt như thế nào? Theo quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015, người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên - Giết người dưới 16 tuổi - Giết phụ nữ mà biết là có thai - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân - Thực hiện tội phạm một cách man rợ - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người - Thuê giết người hoặc giết người thuê - Có tính chất côn đồ - Có tổ chức - Tái phạm nguy hiểm - Vì động cơ đê hèn Người phạm tội nhưng không thuộc các trường hợp trên thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người nào chuẩn bị phạm tội Giết người thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Ngộ sát là tội gì? Phân biệt tội giết người và ngộ sát như thế nào?
Ngộ sát là tội gì? Làm thế nào để phân biệt giữa ngộ sát và giết người? Tội ngộ sát bị xử phạt ra sao? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Ngộ sát là tội gì? Hiện nay, trong hệ thống văn bản pháp luật không có văn bản nào có đề cập đến ngộ sát. Thực chất, đây là một thuật ngữ pháp lý dùng để đề cập đến hành vi vô ý làm chết người. Theo đó, ngộ sát hay vô ý làm chết người là hành vi gây ra hậu quả dẫn đến tính mạng của nạn nhân bị xâm hại. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi, người thực hiện cho rằng hậu quả này sẽ không xảy ra hoặc không nhận thấy hành động của mình sẽ dẫn đến hậu quả gây chết người. (2) Phân biệt tội giết người và ngộ sát (vô ý làm chết người) như thế nào? Căn cứ theo Bộ Luật Hình sự 2015, có thể phân biệt tội giết người và ngộ sát (vô ý làm chết người) qua những tiêu chí như sau: Tiêu chí Giết người Ngộ sát (vô ý làm chết người) Hành vi Là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Là hành vi của một người vô tình làm cho người khác bị chết. Khách thể Xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền sống). Làm chết người, xâm phạm đến quyền sống của con người, khách thể trực tiếp của tội này là quyền sống hay còn gọi là quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng của con người. Khách quan Hậu quả của tội giết người là làm cho nạn nhân chết. Hậu quả nghiêm trọng về tính mạng của nạn nhân, ảnh hưởng đến gia đình và người thân. Là hành vi vi phạm các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người, qua đó gây hậu quả chết người. Các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định, cũng có thể chỉ là những quy tắc xử sự trong xã hội thông thường mà mọi người đều biết và thừa nhận. Chủ quan Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) với mục đích tước đoạt mạng sống của người khác. Không có ý thức và mục đích tước đoạt tính mạng của người khác. Theo đó, có thể xảy ra hai trường hợp như sau: - Lỗi vô ý do quá tự tin: Nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. - Lỗi vô ý do cẩu thả: Không nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải nhìn thấy trước và có thể nhìn thấy trước hậu quả đó. Ví dụ: - Giết người để cướp tài sản. - Người nông dân mắc điện ở đồng để bẫy rắn, bẫy chuột nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nguy hiểm và tin rằng hậu quả chết người không thể xảy ra...Tuy nhiên, hậu quả có người bị điện giật chết. (3) Tội ngộ sát bị xử phạt như thế nào? Căn cứ Điều 128 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định về hình phạt đối với tội vô ý làm chết người (ngộ sát) như sau: - Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được Điều 129 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định về khung hình phạt như sau: - Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Trường hợp phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Bên cạnh đó, người phạm tội trong trường hợp này còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Theo đó, đối với người có hành vi ngộ sát (vô ý làm chết người) thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định như đã nêu trên.
Nhắn tin dọa giết người khác bị phạt tù bao nhiêu năm?
Trong thời đại kỹ thuật số, việc sử dụng các phương tiện điện tử để liên lạc đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên, không ít trường hợp lợi dụng các phương tiện này để nhắn tin đe dọa người khác. Việc nhắn tin dọa giết người khác có bị phạt tù bao nhiêu năm? Bài viết này cung cấp thông tin chi tiết về mức xử phạt đối với hành vi này Nhắn tin đe dọa là một hành vi không chỉ vi phạm đạo đức mà còn vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Tùy theo mức độ và tính chất của hành vi, người vi phạm có thể phải đối mặt với những hình phạt nghiêm khắc. Vậy pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về hành vi nhắn tin dọa giết người khác? (1) Nhắn tin dọa giết người khác bị xử phạt hành chính thế nào? Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể hành vi nhắn tin đe dọa giết người là như thế nào. Tuy nhiên bất kỳ hành vi nào kể cả nhắn tin, gọi điện thoại, dùng lời nói đe dọa trực tiếp liên quan đến sức khỏe người khác đều có thể bị coi là đe dọa giết người. Căn cứ Điều 133 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định như sau: Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, có thể hiểu đe dọa giết người là việc làm cho người bị đe dọa lo sợ người đe dọa sẽ có hành vi giết người. Đối với việc nhắn tin đe dọa giết người là việc dùng các phương tiện thông tin liên lại gửi tin nhắn dù nội dung có thể không đề cập cụ thể về việc đâm, chém, gây tai nạn giao thông,...gây hoảng sợ cho người nhận tin nhắn. Đối với hành vi vi phạm pháp luật này, theo điểm g khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau: Bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Ngoài bị phạt tiền, người vi phạm còn bị hình phạt bổ sung theo điểm b khoản 8 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm b, g, h và q khoản 3, điểm a khoản 4 và khoản 7 Điều 102. (2) Nhắn tin dọa giết người khác bị phạt tù bao nhiêu năm? Không những bị xử phạt hành chính, hành vi nhắn tin dọa giết người người khác còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể: Căn cứ theo Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 - 07 năm: - Đối với 02 người trở lên. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn. - Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. - Đối với người dưới 16 tuổi. - Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác. Như vậy, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người đe dọa có thể bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù, mức phạt cao nhất là 07 năm. (3) Cần làm gì khi nhận được tin nhắn dọa giết người? Trong trường hợp nhận được tin nhắn dọa giết người có thể đến cơ quan điều tra công an để tố cáo hành vi này. Việc tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 7 Thông tư 28/2020/TT-BCA. Người nhận tin nhắn dọa giết cần cung cấp hình ảnh, tin nhắn và các chứng cứ liên quan khác cho cơ quan điều tra Theo Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được hướng dẫn bởi được hướng dẫn bởi Điều 9 và Điều 11 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy định thời hạn như sau: Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định sau: - Quyết định khởi tố vụ án hình sự. - Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. - Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tóm lại, việc nhắn tin dọa giết người khác là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt. Mức xử phạt hành chính là phạt tiền từ 10 - 20 triệu. Ngoài ra, người đe dọa còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà mức phạt sẽ khác nhau, mức phạt cao nhất là 07 năm. Bên cạnh đó, khi nhận được tin nhắn dọa giết, người nhận tin nhắn cần đến cơ quan điều tra công an để tố cáo hành vi này.
Vô ý làm chết người có phải là tình tiết giảm nhẹ của Tội giết người?
Vô ý làm chết người bị xử bao nhiêu năm tù? Phân biệt giữa Tội giết người và tội vô ý làm chết người? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Phân biệt giữa Tội giết người và Tội vô ý làm chết người Tội giết người và Tội vô ý làm chết người là hai tội độc lập hoàn toàn với nhau và được Bộ luật Hình sự 2015 quy định rõ tại Điều 123 và Điều 128 có những điểm khác nhau như sau: Tội giết người Tội vô ý làm chết người Căn cứ pháp lý Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015 Hành vi Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Vô ý làm chết người là hành vi của một người vô tình làm cho người khác bị chết. Khách thể Tội giết người xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền sống). Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền sống của con người, khách thể trực tiếp của tội này là quyền sống hay còn gọi là quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng của con người. Khách quan Tội giết người: Hậu quả của tội giết người là làm cho nạn nhân chết. Hậu quả nghiêm trọng về tính mạng của nạn nhân, ảnh hưởng đến gia đình và người thân. Hành vi khách quan của tội này là hành vi vi phạm các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người, qua đó gây hậu quả chết người. Các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định, cũng có thể chỉ là những quy tắc xử sự trong xã hội thông thường mà mọi người đều biết và thừa nhận. Chủ quan Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) với mục đích tước đoạt mạng sống của người khác Người phạm tội không có ý thức và mục đích tước đoạt tính mạng của người khác. Có thể xảy ra hai trường hợp: Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải nhìn thấy trước và có thể nhìn thấy trước hậu quả đó. Hình phạt Người phạm tội giết người thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Người phạm tội không thuộc trường hợp sau thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: - Giết 02 người trở lên - Giết người dưới 16 tuổi - Giết phụ nữ mà biết là có thai - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân - Thực hiện tội phạm một cách man rợ - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người - Thuê giết người hoặc giết người thuê - Có tính chất côn đồ - Có tổ chức - Tái phạm nguy hiểm - Vì động cơ đê hèn Người chuẩn bị phạm tội giết người thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Người nào vô ý làm chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội vô ý làm chết người. Người phạm tội vô ý làm chết người bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Trường hợp người vô ý làm chết 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Như vậy, Tội giết người và Tội vô ý làm chết người là 2 tội danh hoàn toàn khác nhau, song vô ý làm chết người không phải là tình tiết giảm nhẹ của Tội giết người. Theo đó, mức án cao nhất cho Tội giết người là chung thân hoặc tử hình, trong khi mức cao nhất cho Tội vô ý làm chết người là 10 năm. Vô ý làm chết người bị xử phạt bao nhiêu năm tù theo BLHS 2015? Theo Bộ luật Hình sự 2015 quy định hành vi vô ý làm chết người như sau: (1) Tội vô ý làm chết (căn cứ tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015) Khung 1: Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. (2) Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (căn cứ tại Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015) Khung 1: Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Ngoài ra, còn áp dụng hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, mức cao nhất đối với Tội vô ý làm chết người là 10 năm tù và Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là 12 năm tù. Tham khảo: Hiện có bao nhiêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Căn cứ tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: - Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; - Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; - Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; - Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; - Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; - Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; - Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; - Phạm tội do lạc hậu; - Người phạm tội là phụ nữ có thai; - Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; - Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; - Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; - Người phạm tội tự thú; - Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án - Người phạm tội đã lập công chuộc tội; - Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; - Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Trên đây là một số thông tin liên quan đến hành vi vô ý làm chết người và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Từ vụ thi thể nạn nhân nữ đeo ba lô có gạch dưới hồ Láng: Giết người giấu xác có bị tăng án không?
Vừa qua thông tin phát hiện thi thể nạn nhân nữ đeo ba lô có chứa gạch dưới hồ Láng làm chấn động dư luận. Vậy nếu đây là hành vi giết người giấu xác thì có phải là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Thông tin thêm về vụ việc Theo Báo Hà Nội Mới đưa tin, khoảng 10h50 sáng 07/5/2024, người dân đi qua khu vực cổng sau Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, ven hồ Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa (Hà Nội), phát hiện dưới mặt hồ nổi lên một phần thi thể người. Tổ công tác đã tiến hành đưa nạn nhân lên bờ. Thông tin ban đầu, nạn nhân là nữ (sinh năm 2003; ở phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội), sinh viên một trường đại học. Nạn nhân đeo ba lô học sinh, trong ba lô có nhiều gạch. Nạn nhân được xác định đã tử vong trước đó nhiều giờ. Nguyên nhân vụ việc đang được điều tra làm rõ. Hành vi giấu xác có phải là tình tiết tăng nặng tội giết người không? Theo Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: - Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: + Phạm tội có tổ chức; + Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; + Phạm tội có tính chất côn đồ; + Phạm tội vì động cơ đê hèn; + Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; + Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; + Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; + Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; + Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; + Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; + Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. - Các tình tiết đã được Bộ luật hình sự 2015 quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Như vậy, hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, tùy theo tính chất của hành vi giấu xác sau khi giết người mà nếu hành vi đó được xác định là hành vi xảo quyệt hoặc hung hãn thì đây sẽ là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu phạm nhiều tội thì hình phạt sẽ được quyết định như thế nào? Theo Điều 55 Bộ luật hình sự 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội như sau: Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây: - Đối với hình phạt chính: + Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; + Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự 2015; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình; + Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; - Đối với hình phạt bổ sung: + Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật hình sự 2015 quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên. Như vậy, việc tổng hợp hình phạt của nhiều tội sẽ thực hiện theo quy định như trên. Theo đó, nếu hình phạt chung thì không được được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn. Ví dụ, hình phạt 1 là 15 năm tù, hình phạt 2 là 20 năm tù, tổng hợp hai hình phạt là 30 năm tù chứ không phải 35 năm tù.
Vụ nam sinh lớp 8 bị đánh chết não: Chết não theo pháp luật có được tính là đã chết không?
Xôn xao dư luận gần đây vụ việc một nam sinh lớp 8 bị đánh đến chết não. Vậy trong trường hợp chết não này, theo pháp luật có được xem như đã chết không? Gia đình của nghi phạm trong vụ việc nêu trên có khả năng phải chịu hậu quả pháp lý gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Chết não theo pháp luật có được tính là đã chết không? Căn cứ theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác 2006 định nghĩa về chết não như sau: “Chết não là tình trạng toàn não bộ bị tổn thương nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được.” Đồng thời, tại Điểm c Khoản 1 Điều 71 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về tuyên bố đã chết đối với một người như sau: “1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: … c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; …” Từ những quy định nêu trên, có thể thấy, sau khi được chẩn đoán là đã chết não, Người có quyền, lợi ích liên quan đến bệnh nhân sau 02 năm tính từ thời điểm gặp tai nạn có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết về mặt pháp lý. (2) Gia đình của nghi phạm trong vụ việc có khả năng phải chịu hậu quả pháp lý gì? Đối với nghi phạm: Theo những tình tiết hiện được cung cấp từ phía Công an, việc bước đầu xem xét trách nhiệm của nghi phạm về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 là có cơ sở. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ theo Điều 12 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Mà theo quy định tại Điều 9 Luật Hình sự 2015 thì tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm tới 15 năm tù còn tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có khung hình phạt cao nhất từ trên 15 năm tù tới tử hình. Kế đến theo quy định tại Thông tư 22/2019/TT-BYT có đề cập đến trường hợp người bị hành hung dẫn tới chấn thương sọ não, gây di chứng sống kiểu thực vật, mức độ tổn hại sức khỏe được xác định là 99%. Theo đó, đối chiếu mức xử phạt cho hành vi cố ý gây thương tích cho người khác từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Như vậy, trường hợp kết quả giám định của Trung tâm pháp y Hà Nội phản ánh đúng tình trạng của nạn nhân, thì nghi phạm trong trường hợp này được xếp vào nhóm tội phạm rất nghiêm trọng theo Khoản 3 hoặc Khoản 4 Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 với mức phạt áp dụng lần lượt là từ 05 đến 10 năm và 07 đến 14 năm tù. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, những thông tin về nghi phạm vẫn chưa chính thức được công bố. Chính vì thế, tại đây sẽ xảy ra 02 trường hợp như sau: Trường hợp 01: Nghi phạm chưa đủ 16 tuổi, căn cứ Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 về việc áp dụng mức phạt bằng ½ khung hình phạt tù của tội danh bị truy tố, mức phạt cao nhất có thể áp dụng là 05 năm (khoản 3) và 07 năm tù (khoản 4). Trường hợp 02: Nghi phạm đã đủ 16 tuổi, mức phạt tối đa áp dụng sẽ tương đương ¾ khung hình phạt của tội danh bị truy tố, có nghĩa là 07 năm 6 tháng tù và 10 năm 6 tháng tù. Đối với em trai của nghi phạm (12 tuổi): Đối với trường hợp này, Luật sư Hoàng Trọng Giáp (Giám đốc Công ty Luật Hoàng Sa, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) chia sẻ như sau: Theo quy định tại Điều 12 Bộ Luật Hình sự 2015, độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi. Với trường hợp người dưới 14 tuổi thực hiện các hành vi có dấu hiệu phạm tội, việc xử lý hình sự sẽ không được nhắc tới. Tuy nhiên vẫn có thể áp dụng các biện pháp giáo dục tại địa phương. Cụ thể, Khoản 1 Điều 90 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự 2015 thì bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Còn theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, nếu hành vi có dấu hiệu của tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người vi phạm có thể bị đưa vào trường giáo dưỡng. Về trách nhiệm dân sự, theo Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015, người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại thì cha, mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thay cho con theo quy định của pháp luật. Theo đó, do em trai của nghi phạm hiện chưa đủ 14 tuổi cho nên trách nhiệm hình sự sẽ không được bàn tới. Tuy nhiên, cơ quan chức năng vẫn sẽ tiến hành lấy lời khai, xác minh vai trò của người em trai trong vụ án để đánh giá về tính chất, mức độ hành vi của thiếu niên này. Trong trường hợp kết quả xác minh cho thấy hành vi có dấu hiệu phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương hoặc nặng hơn là đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với bố của nghi phạm: Theo chia sẻ của Luật sư Quách Thành Lực (Giám đốc Công ty Luật Pháp trị) qua nhìn nhận những thông tin được phía cảnh sát thì tính đến thời điểm hiện tại hoàn toàn chưa có cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự đối với bố của nghi phạm. Tuy nhiên, Luật sư cũng nhấn mạnh rằng đây mới là lời khai ban đầu, chưa thể hiện một cách toàn diện, khách quan vụ việc. Việc xem xét trách nhiệm hình sự sẽ được đề cập nếu có cơ sở cho thấy bố của nghi phạm tạo điều kiện về mặt vật chất hoặc tinh thần để nghi phạm thực hiện hành vi phạm tội hoặc biết nghi phạm thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội Giết người (nếu cơ quan điều tra chuyển tội danh sang Giết người) nhưng cố tình che giấu, không tố giác hoặc thấy nạn nhân trong trường hợp nguy hiểm về tính mạng mà không cứu giúp, dẫn tới hậu quả chết người xảy ra. Nếu như không thuộc các trường hợp như đã nêu trên thì trách nhiệm hình sự của người bố sẽ không được bàn tới. Tuy nhiên, vì là bố của nghi phạm, người này có trách nhiệm bồi thường dân sự cho gia đình phía bị hại. Việc bồi thường sẽ dựa trên tài sản hiện có của nghi phạm, đối với phần nghĩa vụ bồi thường nằm ngoài phạm vi giá trị tài sản của nghi phạm thì người bố trong trường hợp này có trách nhiệm bồi thường thay cho con trai.
Vụ nam sinh lớp 8 bị đánh chết não: Nghi phạm có bị truy cứu tội danh giết người không?
Tối ngày 27/03/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Long Biên (Hà Nội) đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam đối với thiếu niên 16 tuổi đánh người gây chết não để điều tra về hành vi cố ý gây thương tích. (1) Nguồn cơn sự việc Theo Báo Tuổi trẻ, vụ việc trên xảy ra vào ngày 17/03/2024, bắt nguồn từ mâu thuẫn trong lúc chơi bóng rổ giữa T.V.K. (lớp 6) và N.H.Đ (lớp 8). Sau khi bị đánh, T.V.K. đã nhờ anh ruột mình là T.V.M sinh năm 2008 (16 tuổi) đến giải quyết mâu thuẫn. Tại đây, T.V.M đã có hành vi hành hung nạn nhân. Sau đó, Đ. có biểu hiện choáng, tái mặt và được bố nghi phạm cùng người dân đưa đến Bệnh viện 108 để điều trị. Tại đây, Bệnh viện 108 xác định Đ. bị chấn thương sọ não nặng, hôn mê, tiên lượng tử vong cao. Đến ngày 26/03/2024, Đ. được gia đình chuyển về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ và đang được điều trị tích cực. Chiều cùng ngày, Trung tâm pháp y Hà Nội đã kết luận tỷ lệ tổn hại sức khỏe của Đ. là 99%. (2) Nghi phạm đánh người khác gây chết não bị xử phạt như thế nào? Theo những thông tin nêu trên, có thể thấy nghi phạm T.V.M hiện đang theo học lớp 10, sinh năm 2008. Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ Luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật hình sự 2017 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” Từ dẫn chiếu quy định nêu trên, có thể thấy, tính đến thời điểm 2024, nghi phạm trong vụ việc nêu trên đã đủ 16 tuổi. Tức đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để xác định hành vi hành hung nêu trên cấu thành tội danh “Giết người” được quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 hay tội danh “Cố ý gây thương tích” được quy định tại Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 còn phụ thuộc vào kết quả giám định pháp y của của cơ quan chuyên môn về nguyên nhân và cơ chế hình thành vết thương. Bởi theo lý luận định tội, 02 tội danh nêu trên đều là những tội phạm rất nguy hiểm, có cấu thành riêng biệt, khác nhau về khách thể, về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả. Chính vì thế, tại vụ việc này có thể xảy ra 02 trường hợp như sau: Trường hợp 01: Nếu kết quả giám định xác định được nghi phạm sử dụng vũ lực đấm liên tiếp vào vùng gáy, đầu dẫn tới chấn thương sọ não nặng sẽ cấu thành tội “Giết người”. Bởi nạn nhân trong trường hợp này hiện đang theo học lớp 8 (dưới 16 tuổi) Chính vì thế, nghi phạm có thể bị truy tố theo Khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên và có thể tới 18 năm tù đối với các đối tượng từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Trường hợp 02: Nếu xác định được nạn nhân bị chấn thương sọ não là do lực tác động làm ngã đập đầu xuống nền thì trường hợp này sẽ cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Trường hợp tỷ lệ tổn hại sức khỏe của nạn nhân là 99% theo kết luận giám định của Trung tâm pháp y Hà Nội thì nghi phạm trong trường hợp này có thể bị truy cứu với mức hình phạt từ 05 đến 10 năm tù (Khoản 3) hoặc từ 07 đến 14 năm (Khoản 4) Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015. Bên cạnh đó, theo quan điểm của một số Luật sư cho rằng cần xem xét vai trò đồng phạm bởi những căn cứ như: “Biết con xảy ra mâu thuẫn nhưng do bênh con đã cùng 02 con đi xe máy đến gặp cháu bé để giải quyết. Đáng lẽ, người bố cần phải hỏi rõ cháu bé sự việc, khuyên giải nhưng đã bỏ mặc để cho 02 con xông vào đánh cháu N.H.Đ mà không can ngăn.” Còn theo Luật sư Nguyễn Anh Thơm - Người bảo vệ quyền lợi của nạn nhân cho biết: “Nếu người bố có mặt, đứng ngay gần để mặc con xông vào đánh cháu bé, được coi là người giúp sức, ủng hộ về tinh thần. Hành vi của người bố trong trường hợp này nếu xem xét với vai trò đồng phạm là có căn cứ”.
Rút kinh nghiệm về định tội danh trong vụ án giết người và cố ý gây thương tích
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Đặng Anh Việc (cùng các đồng phạm) bị xét xử về các tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo để các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phó nghiên cứu, rút kinh nghiệm như sau: I. Tóm tắt nội dung vụ án Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc mua bán điện thoại giữa Trịnh Nhật Tân và Đặng Anh Tú, nên khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/6/2021 Trịnh Nhật Tân cùng với Phạm Hữu Nghĩa đến nhà Trần Anh Tuấn (là anh ruột của Tú) để tìm gặp Tú. Khi gặp nhau hai bên đã xảy ra xô xát, cãi vã và thách thức đánh nhau. Nghe tiếng ồn ào Đặng Anh Việc (là em ruột của Tú ở nhà sát bên) liền chạy ra phía trước nhà của Tuấn đến gần chỗ Tân và nói “Do cái điện thoại của mày mà sinh chuyện”, đồng thời Việc dùng tay đấm trúng vào mặt của Tân. Thấy vậy, Nghĩa cầm 01 con dao Thái Lan xông đến định đâm Việc thì Việc liền sử dụng 01 thanh kiếm (cán màu đen dài 20cm, lưỡi kim loại dài 80cm) giơ lên cao và la lớn “Giết chết mẹ nó luôn”. Tuấn liền cầm 01 khúc cây gỗ dài 1,3m chạy ra đánh 01 cái trúng vào người của Nghĩa thì Nghĩa bỏ chạy. Tuấn cầm khúc cây cùng với Tú cầm 01 thanh kiếm tiếp tục truy đuổi theo Nghĩa. Trong khi Nghĩa đang bỏ chạy Tuấn ném khúc cây về phía Nghĩa nhưng không trúng. Nghĩa chạy đến bãi đất trống gần trường mẫu giáo An Hoà thì bị vấp ngã. Tuấn và Tú đuổi kịp dùng tay, chân đánh nhiều cái vào người của Nghĩa làm Nghĩa bất tỉnh. Sau đó Tuấn và Tú kéo Nghĩa ra đặt gần đường bê tông. Lúc sau người nhà của Nghĩa đến đề nghị được đưa Nghĩa đi cấp cứu nhưng Việc, Tuấn, Tú ngăn cản và yêu cầu chờ Công an đến giải quyết. Khi Công an xã Ân Phong đến thì Nghĩa mới được người nhà đưa đi cấp cứu. Kết quả giám định Nghĩa bị tổn hại 17% sức khoẻ. Cùng thời điểm này Tân gọi điện cho Trần Văn Bình kể lại việc Nghĩa bị đánh. Bình đang ngồi nhậu với Lê Tiến Sỹ và Đỗ Minh Thẩm nên rủ Sỹ, Thẩm đi cùng thì Sỹ, Thẩm đồng ý. Sau đó Sỹ điều khiển xe mô tô chở Thẩm, Bình về nhà Sỹ lấy 02 cây phảng phát bờ, rồi cùng nhau đến nhà Tuấn. Khi Sỹ, Thẩm, Bình đến nơi là khoảng 22 giờ 30 phút lúc này Công an xã đang lập biên bản tại hiên nhà của Tuấn. Sỹ đến đứng trước nhà của Việc (sát nhà Tuấn) nói lớn “Tao là chó Sỹ nè, đứa nào ăn được thì ăn”. Bình, Thẩm cũng la lớn tiếng đòi sang bằng nhà này. Tiếp đó, Bình cầm theo 01 cây phảng đi vào sân nhà Việc để đánh Việc, thấy vậy Việc đi lùi lại thì bị vấp ngã ngồi bệt xuống sân. Bình cầm cây Phảng đâm 01 nhát vào đầu gối chân trái của Việc (gây thương tích 2%). Việc nhào người lên giằng co cây phảng trên tay Bình và dùng tay đấm 02 cái trúng mặt Bình làm Bình gục ngã xuống đất. Việc đoạt được cây phảng trên tay Bình thì tiếp tục dùng cây Phảng đánh 02 cái vào người Bình. Sau khi đánh Bình thì Việc nhìn thấy Sỹ đang đứng trước cổng nhà của Việc cầm 01 cây phảng la lớn “Gọi mấy thằng thị trấn vô chém chết mẹ nó”. Nghe vậy Việc cầm cây phảng (mới giật được của Bình) chạy ra chém ngang 01 phát trúng tay trái của Sỹ, Sỹ bỏ chạy được khoảng 03 mét thi bị ngã nằm nghiêng bên đường, hai chân co lại, hai tay ôm đầu. Việc đến cầm phảng bằng hai tay giơ lên chém mạnh xuống trúng vào gối cẳng chân phải làm chẻ đôi từ bờ ngoài xương chày đến đoạn 1/3 giữa cẳng chân phải, gây đứt hoàn toàn bó mạch thần kinh kheo, được đưa đi cấp cứu đến 7 giờ 30 phút ngày 26/6/2021 thì Sỹ chết. Trước đó, trong lúc Việc đuổi đánh Sỹ thì Tú lấy 01 cây gỗ dài 120cm, đường kính 3,5cm chạy đến đánh nhiều cái vào người của Bình (đang nằm bất tình tại sân nhà Việc). Kết quả giám định Bình tổn hại 20% sức khoẻ. - Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HSST, ngày 14/6/2023 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh B; tuyên bố: Bị cáo Đặng Anh Việc phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích các bị cáo Đặng Anh Tú, Đặng Anh Tuấn phạm tội “Cố ý gây thương tích”. + Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b khoản 2, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Việc 09 năm tù về tội “Giết người” và 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, Buộc chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 12 năm tù. + Áp dụng điểm b,d khoản 2 Điều 134; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tú 04 năm tù. + Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tuấn 02 năm tù. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo. Bản án sơ thẩm nêu trên đã bị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận toàn bộ nội dung kháng nghị về các vi phạm của bản án sơ thẩm đã được kháng nghị nêu ra và tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. II. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm 1. Đối với bị cáo Đặng Anh Việc: Thông qua hành động cầm cây kiếm giơ lên cao và hô to “Giết chết mẹ luôn” thể hiện bị cáo Việc chính là người khởi xướng để Tuấn và Tú “dùng hung khí nguy hiểm” đánh gây thương tích 17% cho Nghĩa. Ngay sau khi nghe Việc hô thì Tuấn liền sử dụng cây gỗ dài 1,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Bị đánh nên Nghĩa bỏ chạy thì Tuấn cầm cây và Tú cầm kiếm tiếp tục rượt đuối, đánh Nghĩa. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” khi xử lý hành vi phạm tội của Tuấn theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Với vai trò là người chủ mưu, khởi xướng thì bị cáo Việc cũng phải cùng bị xem xét áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” như đã áp dụng để xử lý đối với bị cáo Tuấn. Trong khi gây thương tích cho bị hại Bình thì bị cáo Việc cũng đã trực tiếp “dùng hung khí nguy hiểm” là cây phảng đánh 02 cái vào người của bị hại Bình. Tổng thương tích gây ra cho Bình là 20%. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo điểm b khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt của tội “cố ý gây thương tích” bị cáo đã thực hiện. Vì hành vi trên của bị cáo Việc đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS đó là: “d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thế của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” (dẫn chiếu điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS là “dùng hung khí nguy hiểm”). Trường hợp truy cứu bị cáo Việc về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS (là tội rất nghiêm trọng) thì đồng thời phải truy cứu TNHS với bị cáo Việc về tội “Giết người” theo điểm e khoản 1 Điều 123 BLHS đó là “e) Giết người mà liền trước đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng”, cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo khoản 2 Điều 123 BLHS là không đúng khung hình phạt đối với tội “Giết người” 2. Đối với bị cáo Đặng Anh Tú: Bị cáo Tú trực tiếp chứng kiến bị cáo Việc cầm cây kiếm giơ lên cao và nghe Việc hô to “Giết chết mẹ nó luôn”, đồng thời chứng kiến bị cáo Tuấn cầm cây gỗ dài l,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Liền sau đó bị cáo Tú đã tiếp nhận ý chí của Việc và Tuấn, cầm kiếm đuổi theo cùng với Tuấn đánh Nghĩa gây thương tích 17%, đồng thời Tú còn sử dụng cây gỗ dài 120cm có đường kính 3,5cm đánh nhiều cái vào người của Bình trong khi Bình đã bị Việc đánh đang nằm bất tỉnh (hậu quả Bình bị tổn thương 20% sức khoẻ). Hành vi của bị cáo Tú đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Tú theo khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt bị cáo Tú đã thực hiện. 3. Đối với hành vi của các đối tượng Trịnh Nhật Tân, Phạm Hữu Nghĩa, Trần Văn Bình, Đỗ Minh Thẩm: Các đối tượng Tân và Nghĩa đã chủ động đến nhà của Tú gây sự, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vụ án làm 01 người chết và 02 người bị thương trong khoảng thời gian dài từ 21 giờ 30 đến hơn 22 giờ 30 phút tại khu vực đông dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Khi nhóm của mình bị đánh và bị yếu thế Tân tiếp tục gọi cho Bình, thì Bình rủ Thẩm, Sỹ cùng đi và được Thẩm, Sỹ đồng ý. Khi đến nơi Sỹ, Bình và Thẩm cùng la lối to tiếng đòi san bằng nhà của Việc, đồng thời Bình cầm cây Phảng đánh Việc nên bị Việc đánh lại làm cho Sỹ bị chết, Bình bị thương. Hành vi của nhóm: Tân, Nghĩa, Bình, Thẩm đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự với các đối tượng trên là bỏ lọt tội phạm.
Phân biệt giữa Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ và Tội giết người
Được biết Việt Nam nằm trong những nước có hiện trạng nạo phá thai đáng báo động. Không chỉ vậy, hậu quả của sinh con không kế hoạch hay có con ngoài ý muốn là ngày càng nhiều có hành vi đẻ con xong vứt bỏ hay thậm chí giết con mới đẻ. Vậy hình phạt nào dành cho người mẹ vứt bỏ hoặc giết con mới đẻ? (1) Thế nào là con mới đẻ? Theo Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015, con mới đẻ là trẻ được sinh ra trong 07 ngày tuổi. Người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. (2) Tội giết con mới đẻ bị xử lý thế nào? Căn cứ Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015, người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. (3) Phân biệt Tội giết người và Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ Tiêu chí Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015) Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015) Khái niệm Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết Khách thể Đối tượng tác động - Xâm phạm tới tính mạng con người được Nhà nước bảo hộ - Con người đang sống - Xâm phạm tới tính mạng con người được Nhà nước bảo hộ - Con người đang sống Khách quan Hành vi: Thực hiện các hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật, được thể hiện qua hành vi dùng mọi thủ đoạn nhằm làm cho người khác chấm dứt sự sống. - Hành vi làm chết người được thực hiện bằng các hình thức sau: - Hành động: thể hiện qua việc người phạm tội đã cố tình thực hiện các hành vi mà pháp luật không cho phép nhằm tước đoạt mạng sống người khác. - Không hành động: thể hiện qua việc người phạm tội đã không thực hiện nghĩa vụ phải làm để cứu giúp người khác nhằm giết người. Thông thường tội phạm được thực hiện trong trường hợp bằng cách lợi dụng nghề nghiệp. Hậu quả: Tội giết người có cấu thành vật chất, nghĩa là đòi hỏi phải có hậu quả chết người xảy ra. Tuy nhiên, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp mà hậu quả chết người xảy ra thì tội phạm hoàn thành; nếu hậu quả chết người chưa xảy ra thì vẫn cấu thành Tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi: Hành vi khách quan là người mẹ thực hiện hành vi giết (bóp cổ, bỏ đói cho đến chết,…) hoặc hành vi vứt bỏ (bỏ vào rừng sâu không có ai qua lại, nhà hoang, thùng rác và đậy nắp,…) dẫn tới đứa trẻ không được ai phát hiện, cứu và bị chết Hậu quả: Hậu quả của hành vi là đứa trẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ dẫn đến chết. Chủ quan - Lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. +) Với lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng vì mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội. +) Với lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng để đạt được mục đích của mình nên đã có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (có ý thức chấp nhận hậu quả đó). - Mục đích: +) Với lỗi cố ý trực tiếp: Mục đích là tước đoạt tính mạng +) Với lỗi cố ý gián tiếp: Không có mục đích là tước đoạt tính mạng. Người mẹ thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Chủ thể - Chủ thể thường, đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS +) Chủ thể của tội giết người là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nghĩa là khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người đó có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. +) Phải đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được chia như sau: + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ các quy định khác. + Về tuổi: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304. (Điều 12 sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, đối với tội giết người trong bộ luật hình sự 2015 thì chủ thể là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. - Chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là chủ thể đặc biệt, đó là người mẹ của nạn nhân. Tuy nhiên, người mẹ của nạn nhân chỉ được coi là chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ nếu người mẹ đó chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ đứa con do mình đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thì sẽ không cấu thành tội phạm này. Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là chịu ảnh hưởng của những tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một cách khác, những tư tưởng, những quan niệm sống này đã không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. Có thể ví dụ như, cùng là một chuyện người phụ nữ không chồng mà có con, theo tư tưởng phong kiến, đây là trường hợp đại kỵ, bị dư luận xã hội lên án và sẽ phải chịu những hình phạt rất nặng. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội mới, việc có con ngoài giá thú được pháp luật thừa nhận và bảo hộ nên người phụ nữ không còn bị lên án, chỉ trích và chịu phạt nặng nề như trong chế độ cũ nữa. Hình phạt 7 đến 15 năm tù 6 tháng đến 3 năm 3 tháng đến 2 năm Xem thêm bài viết: Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hình thức tử hình nào?
Cố tình thả chó cắn người, người chủ bị xử lý thế nào?
Mới đây, vụ việc đánh nhau ở Đà Nẵng, một người thả chó dữ cắn đối thủ bị thương nặng bị tuyên án về tội giết người. Theo đó, ngày 20/6, TAND TP Đà Nẵng đã xét xử và tuyên anh T.Đ.T về tội giết người với hành vi thả chó dữ để tấn công đối thủ, làm nạn nhân bị thương tích ở nhiều vị trí trên cơ thể như đầu, cổ tay chân. Được biết nhóm ẩu đả gồm có 03 người, vì bị 02 người còn lại tấn công nên anh T.Đ-T đã về nhà dẫn một con chó pitpull, một con chó béc giê đang nhốt trong chuồng qua. Theo đó, hành vi về nhà dẫn hai con chó chạy qua nhà đối thủ để cho chó pitpull cắn ở nhiều vị trí trên cơ thể của nạn nhân gây tỷ lệ thương tích 29% nên anh T.Đ.T đã bị tuyên về tội giết người. Theo Bộ luật Hình sự 2015, quy định về Tội Giết người như sau: Căn cứ theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Khung 1: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên; - Giết người dưới 16 tuổi; - Giết phụ nữ mà biết là có thai; - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; - Thực hiện tội phạm một cách man rợ; - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; - Thuê giết người hoặc giết người thuê; - Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; - Vì động cơ đê hèn. Khung 2: Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 3: Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Tham khảo: Sau đây là những điều mà người nuôi chó cần biết: Thứ nhất, theo Quyết định 193/QĐ-TTg ban hành ngày 13/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ, để khống chế và loại trừ bệnh dại, người nuôi chó phải quản lý chó nuôi, phải tiêm phòng vac-xin dại cho đàn chó, cam kết nuôi nhốt (hoặc xích), giữ chó trong khuôn viên của gia đình, khi ra ngoài còn phải đeo rọ mõm cho chó, khi đưa chó ra nơi công cộng phải xích giữ chó hoặc có người dắt. Thứ hai, căn cứ theo Khoản 2 Điều 7 Nghị định 90/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 04/2020/NĐ-CP, chủ nuôi không tiêm phòng vắc xin phòng bệnh dại cho chó; không đeo rọ mõm cho chó hoặc không xích giữ chó, khô có người dắt chó ra nơi nông cộng có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Thứ ba, đối với các trường hợp chó dữ tấn công người khác gây tổn hại sức khỏe, tài sản thì tùy theo mức độ tổn hại mà chủ nuôi chó phải bồi thường cho người bị hại theo Điều 603 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể: - Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. - Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. - Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Thứ tư, trường hợp chó nuôi gây thiệt hại đến sức khỏe của người khác thì chủ chó cần tiến hành bồi thường căn cứ tại Điều 590 BLDS 2015 quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Trong trường hợp dẫn đến hậu quả chết người, chủ nuôi chó phải bồi thường thiệt hại do súc vật mình nuôi gây ra theo Khoản 1 Điều 591 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm” và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần theo khoản 2 Điều này. Thứ năm, chủ nuôi chó phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sơ suất trong việc quản lý, nuôi thả chó gây ra hậu quả chết người “Tội vô ý làm chết người” theo Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: - Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Án lệ 59/2023/AL về xác định tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp
Đây là một trong 07 những án lệ được Tòa án nhân dân tối cao công bố tại Quyết định 39/QĐ-CA năm 2023 Cụ thể, Án lệ số 59/2023/AL đưa ra hướng xác định tội danh đối với trường hợp bị cáo dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị hại. Bị hại điều khiển xe mô tô bỏ chạy, bị cáo tiếp tục truy đuổi làm bị hại lo sợ phải tăng tốc bỏ chạy. Khi bị hại bị tai nạn thì bị cáo mới dừng việc truy đuổi. Bị hại tử vong trên đường đi cấp cứu. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên, kháng cáo của các bị cáo và Đại diện hợp pháp của bị hại đúng hình thức, trong hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết phúc thẩm. [2] Lời khai tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo Đặng Văn T, bị cáo Triệu Văn M phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như lời khai của Nguyễn Thị L, các Kết luận giám định, Biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ trong vụ án, từ đó đã đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 20-12-2018, Đặng Văn T và Triệu Văn M dùng tay, chân đấm đá, rồi sử dụng gậy kim loại đánh nhiều nhát vào đầu, mặt, tay, sườn, lưng của Nguyễn Ngọc V. Khi V điều khiển xe mô tô bỏ chạy thì T và M dùng xe mô tô tiếp tục truy đuổi theo V để đánh với vận tốc trên 50km/giờ. T cầm theo gậy sắt, còn M hô to “Địt mẹ chúng mày đứng lại”. V thấy vậy tăng ga bỏ chạy, khi đến ngã ba thuộc địa phận thôn 4, xã Tân Đồng, huyện Trấn Yên do đi nhanh không làm chủ tay lái, V lao xe qua đường lên bãi đất trống thì bị ngã xe và tử vong trên đường đi cấp cứu. Hành vi của các bị cáo T và M sử dụng gậy kim loại, là hung khí nguy hiểm đánh nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, thân thể V, sau đó dùng xe mô tô truy đuổi V là rất nguy hiểm. Anh V trong tình trạng vừa bị đánh đau, lại vẫn bị các bị cáo truy đuổi, uy hiếp, đe dọa, buộc anh V lo sợ tiếp tục bị đánh nên đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy với vận tốc nhanh, trên đường bê tông liên thôn có nhiều khúc cua liên tiếp, nhiều đoạn có độ dốc lớn trong điều kiện trời tối, có khả năng gây tai nạn nguy hiểm dẫn đến chết người. Các bị cáo buộc phải nhận thức được điều đó, nhưng vẫn tiếp tục đuổi theo anh V 1300 mét, cho đến khi thấy anh V bị ngã xe mới dừng lại. Với hành vi nguy hiểm nêu trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi phạm tội của các bị cáo là rất quyết liệt, chứng tỏ về mặt chủ quan các bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, nhưng có ý thức chấp nhận để hậu quả chết người xảy ra và thực tế là anh V đã chết. Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo T và M đã phạm vào tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp. Việc cấp sơ thẩm điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là không chính xác. Do đó, cần hủy Bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong Bản án sơ thẩm, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự. [3] Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có căn cứ cho thấy hành vi của các bị can đã thực hiện cấu thành tội “Giết người”, nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên giữ nguyên quyết định truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”, nên Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên đã xét xử theo thẩm quyền và kiến nghị kháng nghị về tội danh trong bản án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không có lỗi trong việc cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm. [4] Do Bản án sơ thẩm bị hủy để điều tra lại nên những nội dung kháng cáo, kháng nghị về hình phạt và trách nhiệm dân sự được xem xét, giải quyết trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án. [5] Các bị cáo và Đại diện hợp pháp của người bị hại không phải chịu án phí phúc thẩm. Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự, QUYẾT ĐỊNH: 1. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái để điều tra lại. Giao hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. 2. Về án phí: Căn cứ điểm f khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Các bị cáo và Đại diện hợp pháp của người bị hại không phải chịu án phí phúc thẩm. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. NỘI DUNG ÁN LỆ: “[3] Lời khai tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo Đặng Văn T, bị cáo Triệu Văn M phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như lời khai của Nguyễn Thị L, các kết luận giám định, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ trong vụ án, từ đó đã đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 20/12/2018, Đặng Văn T và Triệu Văn M dùng tay, chân đấm đá, rồi sử dụng gậy kim loại đánh nhiều nhát vào đầu, mặt, tay, sườn, lưng của Nguyễn Ngọc V. Khi V điều khiển xe mô tô bỏ chạy thì T và M dùng xe mô tô tiếp tục truy đuổi theo V để đánh với vận tốc trên 50km/giờ. T cầm theo gậy sắt, còn M hô to “Đ** mẹ chúng mày đứng lại”. V thấy vậy tăng ga bỏ chạy, khi đến ngã ba thuộc địa phận thôn 4, xã T, huyện Y do đi nhanh không làm chủ tay lái, V lao xe qua đường lên bãi đất trống thì bị ngã xe và tử vong trên đường đi cấp cứu. [4] Hành vi của các bị cáo T và M sử dụng gậy kim loại, là hung khí nguy hiểm đánh nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, thân thể V, sau đó dùng xe mô tô truy đuổi V là rất nguy hiểm. Anh V trong tình trạng vừa bị đánh đau, lại vẫn bị các bị cáo truy đuổi, uy hiếp, đe dọa, buộc anh V lo sợ tiếp tục bị đánh nên đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy với vận tốc nhanh, trên đường bê tông liên thôn có nhiều khúc cua liên tiếp, nhiều đoạn có độ dốc lớn trong điều kiện trời tối, có khả năng gây tai nạn nguy hiểm dẫn đến chết người. Các bị cáo buộc phải nhận thức được điều đó, nhưng vẫn tiếp tục đuổi theo anh V 1300 mét, cho đến khi thấy anh V bị ngã xe mới dừng lại. Với hành vi nguy hiểm nêu trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi phạm tội của các bị cáo là rất quyết liệt, chứng tỏ về mặt chủ quan các bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, nhưng có ý thức chấp nhận để hậu quả chết người xảy ra và thực tế là anh V đã chết. [5] Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo T và M đã phạm vào tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp…”
Mẹ đánh con ruột dẫn đến tử vong có thể bị tử hình!
Mới đây, vụ việc người phụ nữ nhiều lần dùng gậy tre, móc phơi quần áo, ống nhựa, ghế nhựa, muôi múc canh đánh vào đầu con trai ruột 6 tuổi dẫn đến tử vong gây phẫn nộ trong dư luận. Theo đó, mức phạt về hành vi đánh đập con ruột dẫn đến tử vong là gì? Cụ thể, vụ việc xảy ra vào ngày 9/12, khi công an nhận được tin báo của bệnh viện nơi nạn nhân đang cấp trong tình trạng ngừng tim, môi tím, đồng tử giãn hai bên, ngưng tuần hoàn, có nhiều vết thương tích trên mặt và người, đã tử vong. Trước đó, được biết vì không nghe lời, lười học, có hành động như xé sách vở nên người mẹ đã nhiều lần dùng gậy tre dài khoảng 1,4m; móc phơi quần áo dài khoảng 40-50cm; ống nhựa (dạng ống nhựa pvc) dài khoảng 50cm và ghế nhựa đánh vào mông, chân tay và người của nạn nhân. Đến đầu tháng 12, bức xúc trước việc con ruột nhiều lần đi vệ sinh ra quần, giường ngủ và nền nhà, nên người mẹ tiếp tục có hành vi dùng một chiếc muôi múc canh màu trắng bằng kim loại dài khoảng 25cm có sẵn đánh 2 phát vào vùng đỉnh đầu của nạn nhân. Cú đánh khiến nạn nhân phải nhập viện cấp cứu nhưng không qua khỏi. Hành vi đánh con ruột dẫn đến tử vong của người mẹ gây bức xúc trong dư luận và là hồi chuông cảnh tỉnh cho các phụ huynh có con nhỏ. Vậy mức phạt nào dành cho hành vi đánh trẻ em dẫn đến tử vong? Về mặt pháp lý hành vi bạo hành trẻ em đã xâm phạm quyền xâm phạm quyền cơ bản của con người, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể con người, thậm chí có thể là cả quyền được sống được công nhận trong hiến pháp. Ngoài ra, thuộc một trong các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 6 Luật Trẻ em 2016 “Tước đoạt quyền sống của trẻ em”. Hành vi đánh đập người dẫn đến tử vong có thể xét theo Bộ luật Hình sự 2015 như sau: 1) Hành vi đánh đập không nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của người khác, hậu quả chết người nằm ngoài ý muốn thì có thể bị xử lý về hành vi cố ý gây thương tích với tình tiết định khung tăng nặng là làm chết người. Theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp tại điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Mức phạt cao nhất cho Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tù chung thân. Ngoài ra, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 2) Tuy nhiên, nếu hành vi đánh đập tác động ngoại lực vào những bộ phận nguy hiểm trên cơ thể nạn nhân, nhằm mục đích tước đoạt tính mạng sống của nạn nhân. Mặc dù có thể không nghĩ đến việc tước đoạt tính mạng, nhưng chỉ vì nóng giận mà đánh đập vào vùng xung yếu của cơ thể nạn nhân, người phạm tội cần nhận thức được rằng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng cho nạn nhân nhưng vẫn hành động không quan tâm đến hậu quả có thể xảy ra. Thì có thể bị truy cứu về Tội giết người theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Mức phạt cao nhất cho tội này khi giết người dưới 16 tuổi có thể bị tử hình theo điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS 2015. Trên đây là bài viết tham khảo về mức phạt đối với hành vi đánh đập con ruột dẫn đến tử vong.
Giết người rồi tự sát, trách nhiệm còn lại ai sẽ chịu?
Thời gian gần đây, dư luận nhận được hàng loạt thông tin thương tâm về các vụ án giết người vì mâu thuẫn tình cảm. Sự nhẫn tâm, dã man trong các vụ án làm dư luận phải rùng mình. Mới đây nhất là vụ án ở Hải Dương, được biết người đàn ông vì mâu thuẫn trong quan hệ tình cảm mà giết bạn gái rồi tự sát nhưng không thành. Vấn đề đặt ra, nếu giết người rồi tự sát thì trách nhiệm còn lại thuộc về ai? Trách nhiệm hình sự trong trường hợp hung thủ đã chết - Người có hành vi giết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). - Theo quy định tại khoản 7 Điều 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, trong trường hợp vụ việc chỉ có một người duy nhất là hung thủ và có kết luận là người này đã chết mà không cần tái thẩm đối với người khác thì Viện kiểm sát không khởi tố vụ án hình sự. Ngoài ra, nếu có căn cứ xác định trong vụ án còn có những đồng phạm khác hỗ trợ hung thủ thực hiện hành vi phạm tội thì những người này phải chịu trách nhiệm hình sự theo phán quyết của Tòa án. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hung thủ đã chết Theo khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Vì hung thủ đã giết người nên người thừa kế của hung thủ có nghĩa vụ bồi thường về tính mạng, tài sản và tinh thần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nạn nhân. Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mức bồi thường như sau: - Theo Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm: + Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. + Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút. + Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. + Thiệt hại khác do luật quy định. - Theo Điều 591 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: + Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự 2015; + Chi phí hợp lý cho việc mai táng; + Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; + Thiệt hại khác do luật quy định. + Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại. Nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Hiện hành, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng. Như vậy mức bù đắp tổn thất về tinh thần cho người nhà nạn nhân tối đa là 149.000.000 đồng.
Tóm tắt: Việc đánh giá chứng cứ, xác định chính xác tội danh trong nhóm tội xâm phạm tính mạng sức khỏe (Giết người, Cố ý gây thương tích) và một số tội danh liên quan (Gây rối trật tự công cộng) do hành vi vượt quá của các đồng phạm gây ra trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Bài viết nêu lên một số trường hợp dễ nhầm lẫn trong quá trình định tội danh từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, bất cập về quy định pháp luật; đồng thời đề xuất một số định hướng pháp luật giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh chính xác, tránh tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Hành vi của các nhóm đối tượng tụ tập đông người, sử dụng dao, kiếm, vũ khí hoặc các hung khí nguy hiểm khác tấn công lẫn nhau, gây huyên náo làm mất an ninh trật tự, làm tổn hại tính mạng, sức khỏe của người khác… đã xâm phạm đến những khách thể chung của nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe được Bộ luật Hình sự (BLHS) bảo vệ thông qua các quy định tại các Điều 123 tội Giết người (GN), Điều 134 tội Cố ý gây thương tích (CYGTT) và một số tội danh khác có liên quan thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 tội Gây rối trật tự công cộng (GRTTCC). Một trong những đặc điểm chung của các tội danh trên là các đối tượng trong cùng vụ án, là đồng phạm, có những hành vi tương tự nhau, có hoặc không bàn bạc trước về hậu quả xẩy ra hoặc bỏ mặc hậu quả xảy ra... Để cá thể hóa hành vi phạm tội, cá thể hóa tội danh, hình phạt đối với từng trường hợp đồng phạm trong vụ án, đòi hỏi các cơ quan tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ, đánh giá chính xác tội danh để không bị sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Sau đây, chúng tôi nêu lên một số căn cứ phân biệt các dấu hiệu cơ bản giữa các tội danh GN, CYGTT, GRTTCC và một số chú ý trong trường hợp vượt quá của đồng phạm, dễ nhầm lẫn khi đánh giá chứng cứ xác định tội danh và đề xuất một số kiến giải hoàn thiện pháp luật, cụ thể: 1. Một số căn cứ cơ bản phân biệt các tội danh Giết người, Cố ý gây thương tích, Gây rối trật tự công cộng có đồng phạm. Khi phân biệt những tội danh trên cần chú ý đến các dấu hiệu thuộc yếu tố cấu thành cơ bản: Căn cứ Tội Giết người (Điều 123) Tội CYGTT (Điều 134) Tội GRTTCC (Điều 318) Loại tội Đặc biệt nghiêm trọng Nghiêm trọng Ít nghiêm trọng Khách thể Tính mạng, sức khỏe của con người Tính mạng, sức khỏe của con người Tính mạng, sức khỏe của con người. Sự hoạt động bình thường cơ quan, tổ chức, xã hội... Hành vi khách quan Hành vi hành động quyết liệt. Sử dụng vũ lực để tước đoạt tính mạng của người khác. Hành vi hành động. Sử dụng vũ lực để gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Có thể là hành vi hành động và không hành động. Có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp gây thương tích cho người khác. Sử dụng vũ lực để tấn công gây huyên náo, làm mất an ninh trật tự, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của con người Vị trí gây thương tích Vùng trọng yếu của cơ thể quyết định sự tồn tại, tử vong của con người như: Đầu, cổ, gáy, ngực, bụng... Có thể là vùng trọng yếu của cơ thể. Chủ yếu là các vùng không phải trọng yếu của cơ thể như: Tổn thương ngoài phần thân không làm tổn thương hoặc tổn thương nhẹ các cơ quan nội tạng. Không gây thương tích hoặc gây thương tích rất nhẹ ở những vị trí không nguy hiểm. Tính chất hành vi phạm tội Mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra cao nhất. Cường độ tấn công liên tục, nhanh, quyết liệt trong việc tước đoạt tính mạng của người khác. Mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra cao. Cường độ tấn công có thể liên tục, nhanh nhưng không quyết liệt như hành vi GN. Không mong tước đoạt tính mạng của người khác. Mong muốn làm tổn thương sức khỏe của người khác. Mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra thấp nhất trong 3 tội danh. Việc tấn công gây tổn hại cho sức khỏe, tính mạng của người khác có thể có hoặc không có. Thông thường là những đồng phạm cùng tham gia đánh nhau nhưng thực hiện hành vi không hành động hoặc không gây tổn thương đến sức khỏe của người khác. Hậu quả - Chết người - Gây tổn hại sức khỏe của người khác - Gây tổn hại sức khỏe của người khác - Chết người - Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự - Gây tổn hại sức khỏe của người khác - Chết người Chủ thể Cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên. Cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên. Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên. Lỗi Cố ý trực tiếp Cố ý trực tiếp, Cố ý gián tiếp Cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp 2. Thực trạng đánh giá chứng cứ, xác định tội danh Giết người, Cố ý gây thương tích, Gây rối trật tự công cộng 2.1 Các trường hợp dễ nhầm lẫn tội danh a) Nhầm lẫn giữa tội GN và tội CYGTT dẫn đến hậu quả chết người: Việc định tội danh trong trường hợp này thường khó, rất có thể nhầm lẫn cần chú ý việc chứng minh ý thức chủ quan, động cơ, mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả chết người là một trong những điều kiện quyết định việc xác định tội danh. Nhưng có phải trường hợp nào có hậu quả chết người đều là hành vi GN không? Việc xác định tội danh GN hay CGYTT chủ yếu phải dựa vào ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội (mong muốn tước đoạt tính mạng của người khác hay mong muốn làm tổn thương sức khỏe của người khác). Hậu quả chết người có thể là mong muốn hoặc không mong muốn của người thực hiện hành vi phạm tội. Có thể nói khái quát là hậu quả chết người là một trong những căn cứ quan trọng mang tính quyết định để xác định tội danh: khi sử dụng làm yếu tố định tội thì là tội GN, khi sử dụng làm tình tiết định khung tăng nặng thì là tội CYGTT. Việc chứng minh ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội không thừa nhận có mục đích, động cơ GN. Đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải chứng minh “ý thức chủ quan thông qua hành vi khách quan”. Dựa vào kết quả chứng minh này, cơ quan tố tụng sẽ quyết định hành vi của người phạm tội là GN hay CYGTT. Bên cạnh đó, khi định tội danh cũng cần chú ý một số yếu tố quan trọng khác góp phần quyết định việc xác định chính xác tội danh GN hay CGYTT là tư thế, vị trí, chiều hướng tác động, cường độ tấn công của hung khí lên cơ thể con người để gây ra hậu quả thương tích hoặc chết người[1]. Thực tiễn giải quyết các vụ án GN, CGYTT trong thời gian vừa qua cũng có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định “vùng nguy hiểm”, “vùng trọng yếu của cơ thể”[2]. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về những khái niệm này nên còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)[3] và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)[4] có thể hiểu vùng trọng yếu của cơ thể là những vùng quan trọng, chủ yếu của cơ thể con người nếu bị tổn thương có thể quyết định việc tồn tại hoặc tử vong của con người. Những vùng này bao gồm các vị trí đầu, cổ, gáy (các thương tích làm tổn thương sọ, não, động mạch cảnh, đốt sống cổ...); ngực, lưng, bụng (các thương tích làm tổn thương tim, phổi hoặc cơ quan nội tạng khác); vùng hông, đùi trên (các thương tích làm tổn thương động mạch chủ...). Nghiên cứu các Thông báo rút kinh nghiệm số 05/TB-VC1-HS ngày 13/02/2019 và số 06/TB-VC1-HS ngày 25/3/2019 của VKSNDTC thấy việc xác định tội danh CGYTT hay GN cần phải căn cứ vào các yếu tố: hung khí sử dụng, vị trí tấn công, tư thế, chiều hướng, cường độ tấn công, thái độ của người thực hiện tội phạm đối với hậu quả gây ra (tưởng chết bỏ đi hoặc tấn công cho đến khi không còn chống cự, bỏ mặc hậu quả). Vụ án Tạ Duy H[5] cho thấy cách chứng minh ý thức chủ quan thông qua hành vi khách quan của người thực hiện hành vi phạm tội: Bị cáo đứng trực diện, tấn công làm bị hại ngã, mất khả năng chống cự rồi lại tấn công vào vùng đầu, cổ bị hại với cường độ liên tiếp cho đến khi thấy bị hại nằm im (tưởng đã chết hoặc bỏ mặc không đưa bị hại đi cấp cứu) thì bị cáo mới dừng việc tấn công lại. Điều này cho thấy diễn biến hành vi khách quan mà bị cáo H thực hiện đã thể hiện ý thức muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại (không phụ thuộc vào hậu quả chết người). Cả hai Thông báo rút kinh nghiệm trên đều nêu về trường hợp phạm tội GN mà không căn cứ vào hậu quả chết người, chỉ cần người phạm tội sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công vào vùng trọng yếu có khả năng dẫn đến chết người là có dấu hiệu của tội GN (thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt). Do đó, quá trình định tội danh cần lưu ý: Khi có hậu quả chết người xảy ra thì việc xác định tội danh GN thường chính xác. Còn đối với các trường hợp hậu quả chết người chưa xảy ra, chỉ có hậu quả thương tích có thể nhẹ (khoản 2) hoặc rất nhẹ (khoản 1) của tội CYGTT thì việc chứng minh ý thức chủ quan thông qua hành vi khách quan là rất quan trọng. Chúng ta phải làm rõ diễn biến khách quan của hành vi phạm tội, xem xét lời khai của người phạm tội, người bị hại, người làm chứng một cách chi tiết, rồi đối chiếu với đặc điểm thương tích, xác định cơ chế hình thành thương tích của người bị hại để chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội. Việc hiểu không chính xác tinh thần hướng dẫn của VKSND tối cao đã dẫn đến một số sai sót trong nhận thức đánh giá chứng cứ: Hành vi “sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng nguy hiểm là hành vi giết người” mà không cần quan tâm đến các yếu tố ý thức chủ quan của người phạm tội. Do đó, khi đánh giá chứng cứ xác định tội danh cần chú ý tránh những sai sót thường mắc phải: Một là, xác định mục đích tấn công vào vùng trọng yếu không chính xác: Trường hợp người phạm tội không mong muốn tước đoạt tính mạng của bị hại nhưng do quá trình ẩu đả hai bên cùng tấn công nhau, tư thế vị trí của các bên liên tục thay đổi do việc giằng co, vật lộn thì việc dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu (không nhằm vào vị trí này tấn công) dẫn đến hậu quả chết người hoặc thương tích nặng thì theo chúng tôi cần xác định đây là trường hợp phạm tội CYGTT (hậu quả chết người sẽ sử dụng là tình tiết tăng nặng định khung). Trường hợp này cần thận trọng xem xét chi tiết diễn biến hành vi tấn công, tư thế, vị trí của người phạm tội và bị hại để định tội danh chính xác. Hai là, việc xác định tội danh chỉ dựa vào hung khí nguy hiểm, vùng trọng yếu nhưng không dựa vào yếu tố khác: Trường hợp người phạm tội dùng que tre (dài khoảng 02m-03m, nhỏ dần về ngọn, dạng mềm) để tấn công bị hại trong tư thế, khoảng cách đứng xa 03m-04m gây thương tích vào cùng đầu mặt (vùng trọng yếu) của bị hại gây thương tích không lớn. Trường hợp này không nên hiểu một cách máy móc về cách xác định hung khí nguy hiểm[6] mà cần nghiên cứu kỹ diễn biến hành vi phạm tội, đối chiếu với khả năng gây nguy hiểm xảy ra trên thực tế với các văn bản pháp luật hướng dẫn để đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra. b) Nhầm lẫn giữa hành vi CYGTT với hành vi GRTTCC Tội CYGTT (Điều 134) và GRTTCC (Điều 318) là hai tội danh thuộc hai nhóm khác nhau. Tội CYGTT thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe còn tội GRTTCC thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng. Hai tội danh này có hai nhóm khách thể bảo vệ khác nhau nhưng lại liên quan trực tiếp đến nhau. Thông thường các nhóm thực hiện hành vi phạm tội thuộc hai tội danh trên đều thuộc các vụ án có đông người tham gia. Tùy tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của các đối tượng trong vụ án để phân hóa, cá thể từng hành vi của các đối tượng có thuộc trường hợp vượt quá của đồng phạm hay không hoặc giữa các nhóm đối tượng với nhau (nhóm của bị can, bị cáo và nhóm của bị hại) để xác định tội danh cụ thể. Khi định tội danh đối với nhóm hành vi này thường nhầm lẫn tội danh trong trường hợp sau: Một là, xác định tội danh không chính xác trong trường hợp vượt quá của đồng phạm: Đây là trường hợp gây rối trật tự công cộng có hậu quả gây thương tích. Việc xác định tội danh trong trường hợp này đòi hỏi phải làm rõ sự bàn bạc, thỏa thuận của các đối tượng cùng nhau thực hiện hành vi gây huyên náo, mất an ninh trật tự là mục đích chính hay việc thỏa thuận cùng nhau gây thương cho người khác. Nếu có thỏa thuận việc gây thương tích cho người khác thì hành vi của các đối tượng là đồng phạm tội CYGTT. Việc các đối tượng thống nhất đi đánh nhau, có thỏa thuận chỉ gây thương tích (đánh cảnh cáo) thì trong nhóm có đối tượng gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người tùy từng trường hợp định tội danh GN hoặc CGYTT trong trường hợp vượt quá của đồng phạm (vượt quá hậu quả). Các đối tượng thỏa thuận đi đánh nhau nhưng không thực hiện được hành vi phạm tội do gặp phải sự cản trở của người khác nhưng những đối tượng còn lại không bị cản trở, vẫn gây thương tích cho người bị hại thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội CYGTT. Ngoài những đối tượn trực tiếp chuẩn bị hung khí, tham gia gây thương tích cho người bị hại còn những đối tượng khác cùng tham gia gây huyên náo trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự thì cần phải xử lý về tội GRTTCC. Hai là, phân hóa vai trò người đồng phạm giúp sức với người thực hành trong trường hợp phạm tội chưa đạt: Cũng cần chú ý phân biệt giữa vai trò của các đồng phạm trong trường hợp chuẩn bị hung khí cho các đối tượng khác đi đánh nhau (khoản 6 Điều 134)[7] với trường hợp đồng phạm với vai trò là người thực hành chưa gây thương tích cho người khác (chịu chung hậu quả với người thực hành). Đây là trường hợp đồng phạm với vai trò giúp sức nhưng hành vi chưa gây hậu quả thương tích còn trường hợp các đồng phạm khác đã gây hậu quả thương tích rồi thì không xử lý theo khoản 6 Điều 134 mà xử lý theo khung, khoản mà các đồng phạm khác cùng thực hiện. Ví dụ: A cung cấp hung khí cho cả nhóm của mình đi đánh nhau nhưng trên đường đi bị cơ quan Công an phát hiện, ngăn chặn việc thực hiện hành vi phạm tội thì A bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 6 Điều 134 BLHS. Còn trường hợp đồng bọn của A đi đánh B gây thương tích cho B thì tùy theo tỷ lệ tổn thương của B thì A và đồng bọn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội CYGTT. Ba là, cá thể hóa hành vi phạm tội theo các nhóm đối tượng (nhóm bị hại, nhóm người phạm tội): Khi các đối tượng thuộc các nhóm đối tượng gây thương tích cho nhau thì tùy từng trường hợp các cơ quan tố tụng sẽ phân hóa vai trò, cá thể hóa hành vi của từng đối tượng để buộc các đối tượng phải chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Thông thường nhóm đối tượng gây thương tích sẽ cùng chịu trách nhiệm hình sự về tội CYGTT với đồng phạm của mình trực tiếp hoặc tham gia gây thương tích cho người khác. Còn các đối tượng trong nhóm của người hại hoặc trong nhóm của đối tượng gây thương tích nhưng không phải là người giúp sức và trực tiếp hoặc tham gia gây thương tích cho người khác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC. Trường hợp này sẽ xảy ra vấn đề bất hợp lý trong việc phân hóa vai trò giữa các đối tượng CYGTT (khoản 1 Điều 134) với các đối tượng (khoản 2 Điều 318 BLHS). So sánh quy định giữa hai điều luật Điều 134, Điều 318 BLHS thì tội CYGTT nặng hơn tội GRTTCC. Nhưng khi các đối tượng cùng một nhóm tham gia đánh nhau với nhóm khác, đối tượng sử dụng hung khí gây thương tích (khoản 1) lại chịu trách hiệm hình sự nhẹ hơn đối tượng sử dụng hung khí gây rối trật tự (khoản 2). Nếu người bị hại rút đơn thì người phạm tội được đình chỉ điều tra (khoản 1 Điều 134), còn khoản 2 Điều 318 chỉ được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Như vậy, xét về khía cạnh tội phạm học và nguyên tắc có lợi cho người cho phạm tội thì khởi tố tội GRTTCC nhẹ hơn tội CYGTT, nhưng như trên đã phân tích cùng hành vi thì tội GRTTCC lại nặng hơn CYGTT. Thực tiễn còn có nhiều ý kiến trái chiều nhau trong trường hợp người phạm tội CYGTT (khoản 1 Điều 134) khi người bị hại rút đơn được đình chỉ điều tra thì có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC (khoản 2 Điều 318) nữa hay không? Chúng tôi cho rằng: theo nguyên tắc một hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần thì khi các đối tượng thực hiện một chuỗi hành vi phạm tội, đã thu hút các hành vi để xử lý theo tội danh CYGTT (nặng hơn) thì không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC (nhẹ hơn). Trường hợp người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố là tình tiết miễn truy cứu trách nhiệm hình sự (vẫn thuộc trường hợp có tội nhưng pháp luật trao quyền xử lý cho người bị hại, khi họ không yêu cầu khởi tố thì người phạm tội được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự) thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC. c) Nhầm lẫn giữa hành vi can ngăn của người làm chứng với hành vi đồng phạm tham gia đánh nhau Đây là trường hợp căn cứ vào ý thức chủ quan, hành vi khách quan của người liên quan trong vụ án để xác định tư cách tham gia tố tụng. Việc xác định ý thức chủ quan của những người đi cùng trong nhóm đối tượng đánh nhau gây thương tích rất quan trọng đặc biệt là trường hợp khi họ có thực hiện một số hành động chống trả cần thiết để can ngăn các đối tượng đánh nhau. Việc xác định chính xác hành vi nào là can ngăn, là tấn công gây thương tích đòi hỏi KSV phải nghiên cứu hồ sơ chi tiết, tỉ mỉ, hệ thống hóa chứng cứ rõ ràng để tránh bị sai sót trong quá trình giải quyết vụ án. 2.2 Các trường hợp loại trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 136 BLHS): Để các định chính xác người thực hiện hành vi tấn công gây thương tích cho người khác trong trường hợp này có cấu thành tội phạm hay không thì KSV cần chú ý xác định ai là người tấn công trước; mức độ tấn công, hành vi chống trả có tương xứng với hành vi tấn công hay không để từ đó xác định có thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hay không. Để đảm bảo việc phân loại, đánh giá chứng cứ đối với những trường hợp này KSV cần tham gia hỏi, ghi lời khai của đối tượng, người bị hại, người làm chứng ngay từ đầu để nắm bắt chính xác diễn biến hành vi, triệt tiêu các mâu thuẫn một cách kịp thời. Đồng thời phải tiến hành trưng cầu giám định thương tích sớm để xác định hậu quả thương tích có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Cần lưu ý, trường hợp thương tích nặng (từ 31% trở lên) thì dù hành vi thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vẫn cấu thành tội phạm. Trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 BLHS): Trường hợp này KSV cần chú ý các tài liệu chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Có nhiều trường hợp người phạm tội bị tấn công trước, bị dồn nén, áp chế về tinh thần nên đã tấn công lại người bị hại. Khi người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần, gây thương tích cho người khác với hậu quả thương tích dưới 31% thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn với hậu quả thương tích trên 31% thì tương tự như trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc đánh giá thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, sau khi BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể, vẫn đang áp dụng tinh thần hướng dẫn của văn bản cũ.[8] Tùy từng trường hợp, người tiến hành tố tụng sẽ đánh giá trạng thái tinh thần của người phạm tội để xem xét là yếu tố định tội hay là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 3. Những khó khăn, vướng mắc và kiến giải hoàn thiện pháp luật phục vụ cho việc đánh giá chứng cứ, xác định chính xác tội danh đối với nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Quá trình giải quyết các vụ án CYGTT ở địa phương chúng tôi thấy có một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến hoạt động giám định tư pháp, cụ thể: Một là, theo quy định của Luật Giám định tư pháp thì việc giám định thương tích phải có bệnh nhân, không tiến hành giám định trên hồ sơ nên một số trường hợp tiến hành giám định chậm, người bị hại từ chối giám định vì nhiều lý do khác nhau thì không thể xử lý được đối với hành vi gây thương tích cho người khác đặc biệt là những trường hợp gây thương tích nặng. Việc người bị hại từ chối giám định thương tích hoặc vì lý do khách quan mà họ vắng mặt tại địa phương nơi cư trú, chưa thể tiến hành hoạt động giám định thương tích nên không thể xác định hậu quả thương tích của người bị hại đã dẫn đến tình trạng tạm đình chỉ giải quyết tin báo hoặc không thể khởi tố vụ án hình sự trong những trường hợp thương tích nặng. Đối với những trường hợp đã được điều trị tại cơ sở y tế, có hồ sơ bệnh án nhưng người bị hại cố tình vắng mặt, gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm thì cần sửa đổi bổ sung Luật giám định tư pháp theo hướng cho phép tiến hành giám định trên hồ sơ bệnh án trong một số trường hợp cần thiết (có thể liệt kê cụ thể từng trường hợp) để tránh việc bỏ lọt tội phạm. Hai là, theo hướng dẫn tại Thông tư 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013 của Bộ Y tế về quy trình giám định tư pháp (Thông tư 47/2013) thì bên cạnh quyết định trưng cầu giám định các cơ quan tố tụng cần phải gửi các tài liệu kèm theo gồm “Bản sao hợp pháp tất cả hồ sơ bệnh án liên quan đến thương tích cần giám định; Các hồ sơ về y tế có liên quan giám định pháp y; Biên bản lời khai của bị hại, nghi can, nhân chứng” và trong trường hợp cần thiết, muốn giám định thương tích cho người bị hại sớm thì cơ quan điều tra phải gửi văn bản yêu cầu đề nghị cơ quan giám định. Hiện tại, bệnh viện và các cơ sở y tế điều trị chuyên khoa chỉ cung cấp hồ sơ bệnh án khi người bệnh đã xuất viện (hồ sơ do phòng hành chính tổng hợp cung cấp). Do đó, để tiến hành giám định được thương tích của người bị hại thì phải đợi họ điều trị khỏi thương tích, xuất viện mới có thể giám định được. Như vậy, một số trường hợp thương tích nặng, phải điều trị lâu dài (không tiên lượng được thời gian xuất viện) hoặc trường hợp thương tích không nặng, nhưng không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (khoản 2, khoản 3) nhưng thời gian điều trị thương tích lâu (quá thời gian giải quyết tin báo tố giác tội phạm, vụ án) thì sẽ dẫn đến tình trạng tồn đọng tin báo; gây khó khăn, cản trở, kéo dài thời gian xử lý đối tượng phạm tội. Đồng thời nếu người bị hại từ chối giám định thương tích sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, việc cung cấp “biên bản ghi lời khai của bị hại, nghi can, nhân chứng” trong một số trường hợp là hợp lý. Cơ quan giám định là cơ quan chuyên môn tiến hành giám định độc lập trên cơ sở chuyên môn y tế mới đảm bảo tính khách quan khi thực hiện nhiệm vụ. Việc tham khảo tài liệu điều tra có các nội dung liên quan đến diễn biến hành vi phạm tội của các đối tượng chỉ trong trường hợp gặp khó khăn khi xác định cơ chế hình thành thương tích. Hiện tại tất cả các quy trình giám định ban hành kèm theo Thông tư 47/2013 đều quy định phải có những tài liệu gửi kèm như trên là bất cập, không cần thiết, làm ảnh hưởng đến bí mật điều tra vụ án - đây là những tài liệu tuyệt mật nếu lỡ bị rò rỉ thông tin sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Do đó, cần phải sửa đổi các quy định này cho phù hợp với thực tiễn. Việc cơ quan giám định yêu cầu cơ quan điều tra phải có Công văn yêu cầu giám định sớm trong một số trường hợp khi bệnh nhân chưa xuất viện là máy móc, đôi khi cản trở hoạt động điều tra. Việc điều trị bệnh nhân phải có bệnh án ghi lại quá trình điều trị hàng ngày, việc bệnh viện quy định chỉ cung cấp hồ sơ bệnh án khi bệnh nhân xuất viện là thủ tục hành chính thông thường nhưng với các cơ quan tố tụng, khi cần các cơ quan chức năng phối hợp cung cấp tài liệu để kịp thời xử lý đối tượng phạm tội mà cơ sở y tế vẫn không cung cấp tài liệu, chờ đến khi bệnh nhân xuất viện thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xử lý hành vi vi phạm pháp luật. Cần xây dựng cơ chế phối hợp để đảm bảo việc cung cấp tài liệu phục vụ hoạt động giám định là nguồn chứng cứ quan trọng để cơ quan điều tra giải quyết vụ án hình sự. Do đó, cần sửa đổi quy định tại Thông tư 47/2013 theo hướng: Hồ sơ giám định gồm... “biên bản ghi lời khai của bị hại, nghi can, nhân chứng khi cần thiết.” Bên cạnh đó, các cơ quan tố tụng cũng cần xây dựng Quy chế phối hợp với Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hải Phòng để tiến hành giám định tư pháp kịp thời đối với những trường hợp cơ quan điều tra trưng cầu giám định để đảm bảo tiến độ điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mà không phải đòi hỏi văn bản yêu cầu giám định sớm. Ba là, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Nghị quyết số 02/2003 hướng dẫn BLHS năm 1999 không còn hiệu lực pháp luật nhưng chưa có văn bản thay thế hướng dẫn cách xác định trường hợp “hậu quả nghiêm trọng” trong tội GRTTCC. BLHS hiện hành không quy định yếu tố gây “hậu quả nghiêm trọng” trong tội GRTTCC nữa mà quy định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu” cho xã hội. Việc xác định thế nào là “ảnh hưởng xấu” tùy thuộc vào người tiến hành tố tụng. Có nhiều quan điểm về việc xác định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu”. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Các quy định của BLHS hiện hành so với các quy định BLHS năm 1999, không chỉnh sửa lớn về cấu thành tội phạm đối với tội danh này, chỉ là sửa về câu từ nên vẫn có thể vận dụng các quy định tại Nghị quyết 02/2003 để xác định hậu quả của vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng: BLHS hiện hành quy định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu” là nhẹ hơn các quy định tại Nghị quyết 02/2003 nên khi xử lý các đối tượng có hành vi gây rối chỉ cần xác định chính quyền địa phương làm rõ hậu quả phi vật chất này, xác định bằng văn bản ghi rõ “gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương” là đủ căn cứ đẻ xác định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu”. Liên ngành Trung ương cũng cần sớm có hướng dẫn chính thức về vấn đề này để tạo điều kiện cho các cơ quan tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ. Bốn là, cần có hướng dẫn, giải thích về nguyên tắc đánh giá chứng cứ trong một só trường hợp cụ thể đối với hậu quả chung của vụ án đã được dùng để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh độc lập (vượt quá của đồng phạm) thì có dùng để làm căn cứ để xem xét truy cứu trách nhiệm sự về tội danh khác nữa hay không hoặc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự của đồng phạm khác hay không? Ví dụ: Hậu quả thương tích đã được dùng để xử lý hành vi CYGTT thì có được dùng hậu quả này để xác định làm hậu quả chung khi xử lý hành vi GRTTCC đối với chính người bị hại có hành vi gây rối không? Hoặc tương tự trong những trường hợp đối tượng đồng phạm trong cùng nhóm bị can có dấu hiệu vượt quá. Việc phân loại, phân hóa vai trò đồng phạm trong vụ án GYGTT, GN, GRTTCC là rất khó. Tùy từng vụ án mà người tiến hành tố tụng đánh giá chứng cứ, xác định ý thức chủ quan của người phạm tội, để đánh giá sự vượt quá của đồng phạm. Đòi hỏi những người tiến hành tố tụng đặc biệt là những ĐTV, KSV cần phải có kỹ năng nghiệp vụ tốt, có trình độ chuyên môn tương đối đồng đều để xác định chính xác tội danh, phân hóa chính xác vai trò của các đồng phạm trong vụ án là cơ sở để đảm bảo tính đúng đắn của vụ án, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Tài liệu tham khảo 1. Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người” có đồng phạm có nêu: trường hợp thương tích bị tổn thương ở vùng đầu, cổ, ngực... được xác định là vùng trọng yếu của cơ thể 2. Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; 3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; 4. Nghị quyết số 04/HĐTP/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn BLHS năm 1985 5. Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 6. Thông tư 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013 của Bộ Y tế hướng dẫn về quy trình giám định tư pháp 7. Thông báo rút kinh nghiệm số 05/TB-VC1-HS ngày 13/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 8. Thông báo rút kinh nghiệm số 06/TB-VC1-HS ngày 25/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Ts. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Phó Viện trưởng VKSND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng https://vksndtc.gov.vn/
Bài tập hình sự về xác định mục đích và động cơ khi giết người?
B là sinh viên giỏi, tương lai tươi sáng khi có thể nhận học bổng du học. Nhưng mẹ của b bị liệt nửa người khiến b bỏ nỡ việc học và học bổng. Nghĩ do mẹ ảnh hưởng tương lai b đã sát hại mẹ mình. Động cơ và mục đích của b là gì ạ?
Công an sử dụng súng sai mục đích bị xử lý như thế nào?
Vừa qua đã có sự việc một cán bộ công an chĩa súng vào nhân viên y tế khi bị yêu cầu đảm bảo nguyên tắc phòng ngừa dịch bệnh. Trên nguyên tắc, công an được sử dụng súng nhưng chỉ trong những trường hợp cần thiết khi đang thi hành công vụ để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội chứ không để đe dọa người khác. Việc công an sử dụng súng sai mục đích sẽ bị xử lý như thế nào trong quy định của pháp luật? Công an dùng súng sai mục đích thì bị xử lý như thế nào - Minh họa Để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội thì công an nhân dân là đối tượng được phép sử dụng súng theo quy định tại điểm d Điều 18, Luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ năm 2017. Tuy nhiên, pháp luật quy định nghiêm ngặt về nguyên tắc chỉ sử dụng vũ khí trong trường hợp cần thiết. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 23 Luật này,công an chỉ được dùng súng trong 06 trường hợp sau: 1. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó; 2. Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác; 5. Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ; 6. Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác. Việc sử dụng vũ khí quân dụng sẽ tuân theo nguyên tắc tại điều 22 của luật này, cụ thể như sau: - Phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng; - Chỉ dùng súng khi đang thi hành công vụ nhằm đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội - Chỉ nổ súng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. - Không sử dụng vũ khí quân dụng khi biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; Hậu quả của việc nổ súng gây ra thiệt hại sẽ được chia ra thành hai trường hợp sau: 1. Nếu cán bộ công an sử dụng súng trong khi đang thi đang thi hành công vụ Cán bộ, công an đảm bảo các nguyên tắc sử dụng súng theo đúng các nguyên tắc tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 luật này như đã nêu trên, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc sử dụng súng gây ra. (Căn cứ theo khoản 4, điều 23 luật này) Trường hợp gây thiệt hại rõ ràng quá yêu cầu tình thế cấp thiết, thì cán bộ, công an có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ căn cứ theo Điều 127 Bộ luật hình sự 2015. Mức phạt có thể lên đến 15 năm tù đồng thời có có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm Trường hợp cán bộ, công an trong lúc đang thi hành công vụ mà do lợi dụng, lạm dụng vũ khí để xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác mà không nhằm mục đích thi hành công vụ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người với tình tiết tăng nặng là lợi dụng nghề nghiệp theo điểm k điều 123 Bộ luật hình sự, tùy vào mức độ mà mức phạt có thể từ 12 năm tù đến chung thân, tử hình. 2. Nếu cán bộ công an sử dụng súng khi không đang thi hành công vụ: Người không đang thi hành công vụ mà sử dụng súng sai mục đích thì tùy vào mức độ vi phạm mà sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự: Về trách nhiệm hành chính:Căn cứ Khoản 3 Khoản 3 điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: Công an có thể bị phạt tiền từ mức từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng vũ khí phép nếu việc sử dụng súng chưa gây ra hậu quả. Về trách nhiệm hình sự: Người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều Điều 306 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ. - Nếu họ có hành vi sử dụng súng, lời nói đe dọa giết người và làm cho người bị đe dọa tin rằng mình có thể bị giết thì sẽ là dấu hiệu cấu thành tội “ Đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự” có thể bị phạt tù lên đến 07 năm. - Nếu công an dùng súng làm chết người trong trường hợp này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, mức phạt tù từ 12 năm đến chung thân, tử hình. Tóm lại, việc công an sử dụng súng mà gây ra hậu quả thì phải xem xét đến nhiều yếu tố để kết luận họ sẽ bị xử lý như thế nào. Một trong những yếu tố quan trọng là họ có đang trong thời gian thi hành công vụ hay không, mục đích của việc sử dụng súng có nhằm đảm bảo việc thi hành công vụ, có đáp ứng các nguyên tắc của pháp luật khi sử dụng vũ khí quân dụng hay không. Nếu cán bộ, công an sử dụng sai mục đích thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên.
Dọa ma làm người khác tử vong phải chịu trách nhiệm gì?
“Sợ ma” không phải là một biểu hiện hiếm gặp, tuy nhiên riêng đối với những người có vấn đề liên quan đến thần kinh, tim mạch thì việc hoảng sợ khi bị dọa ma còn có thể gây ra những hậu quả khôn lường như choáng váng, ngất xỉu, thậm chí là tử vong. Giả sử hành vi dọa ma làm người khác tử vong, lúc này người dọa ma có bị xử lý hình sự hay không? Dọa mà làm người khác tử vong - Minh họa Trước hết, về mặt dân sự, Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Trong đó, Điều 590 Bộ luật này cũng quy định việc bồi thường do xâm phạm tính mạng người khác bao gồm các khoản như Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, thiệt hại khác nếu có. Ngoài những khoản tiền trên, để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đã chết phải gánh chịu, mức bồi thường này tối đa bằng 50 lần mức lương cơ sở. Đây là nghĩ vụ bồi thường thiệt hại, tuy nhiên về mặt hình sự thì khả năng cao người này sẽ bị truy cứu một tội quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015, đó là tội Vô ý làm chết người. Tội này được quy định như sau: “Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Lỗi “vô ý” ở đây bao gồm 2 trường hợp: + Làm chết người do vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (khoản 1 Điều 11 BLHS) => Tức là bạn biết rõ dọa ma có thể làm người khác giật mình và ảnh hưởng đến sức khỏe, nhưng tin rằng sự ảnh hưởng tiêu cực đó sẽ không xảy ra hoặc nếu xả ra thì bạn có thể ngăn chặn được bằng cách sơ cứu, gọi cấp cứu,... + Làm chết người do lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. (khoản 2 Điều 11 BLHS) => Tức là bạn không biết rằng việc dọa ma này có thể gây ra nguy hiểm đến tính mạng, mặc dù bạn phải thấy trước, hoặc có thể thấy trước hậu quả đó. Cần phải hiểu là việc dọa ma dù ít hay nhiều cũng sẽ gây giật mình, mà việc giật mình này ảnh hưởng đến thần kinh, tim mạch. Đây là chuyện mà pháp luật buộc bạn phải biết! Dù bạn mắc lỗi vô ý nào trong hai trường hợp ở trên thì khi hậu quả “làm chết người” xảy ra (đây là hậu quả bắt buộc nếu mới , pháp luật quy định trách nhiệm hình sự mà bạn phải đối mặt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu người nào đó biết chắc chắn người khác có vấn đề về sức khỏe, dễ gặp tai nạn nếu bị dọa ma mà vẫn cố tình thực hiện thì thậm chí còn có thể bị truy cứu về tội Giết người, với hình phạt ít nhất 7 năm tù. Hành vi dọa ma có thể chỉ là vui đùa, không nhằm múc đích xấu, tuy nhiên chúng ta phải hiểu rõ tình hình sức khỏe của đối phương, bởi lẽ pháp luật bảo vệ quyền quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, hành vi xâm phạm sức khỏe mà gây thiệt hại đến tính mạng chắc chắn phải bị xử lý!
Từ vụ giết người tại Quận 7: Thế nào là Giết người có tính chất “Man rợ”?
Vụ giết người tại Quận 7 TP. HCM xảy ra hôm 26/9 làm nhiều người không khỏi bàng hoàng. Sau khi hung thủ ra tay, phần đầu của nạn nhân rời hoàn toàn khỏi thân. Trong quy định của Bộ luật Hình sự có nhắc đến khái niệm “tính chất man rợ” đối với hành vi giết người, vậy có thể áp dụng tình tiết đó vào vụ án này hay không? Như thế nào là giết người man rợ - Minh họa Theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 thì hành vì giết người “man rợ” là một trong những tình tiết tăng nặng, khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. “Giết người” là hành vi tước đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật, khi thực hiện hành vi này, có rất nhiều phương thức để thực hiện tội phạm, tùy vào tính chất, mức độ mà hình phạt nhẹ nhất theo quy định tại Điều 123 BLHS là 7 năm tù trở lên, nặng nhất có thể là tù chung thân. Hiện nay, văn bản được tham khảo để giải thích tính “man rợ” của hành vi giết người là Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ năm 1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong đó: “1) Tội giết người (Điều 101) a) Một số tình tiết thể hiện tính nguy hiểm cao của tội phạm (ở khoản 1)” + Thực hiện tội giết người một cách man rợ (điểm b) như kẻ phạm tội không còn tính người, dùng những thủ đoạn gây đau đớn cao độ, gây khiếp sợ đối với nạn nhân hoặc gây khủng khiếp, rùng rợn trong xã hội (như: móc mắt, xẻo thịt, moi gan, chặt người ra từng khúc…).” Theo đó, thẩm phán sẽ căn cứ vào mức độ tàn bạo, sự mất nhân tính của hành vi giết người để xem xét tính “man rợ”. Theo tâm lý của người bình thường thì những hành động như trên không hề dễ dàng để thực hiện mà chỉ có thể xuất hiện trên phim kinh dị, phim tội phạm,… những hành vi này không những trái với đạo đức, vi phạm pháp luật mà còn gây ảnh hưởng tới dư luận xã hội cũng như an ninh trật tự, gây ra sự sợ hãi trong cộng đồng. Thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp “thực hiện tội phạm một cách man rợ”. Ví dụ: sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” thì nên quy định trường hợp phạm tội này là “phạm tội một cách man rợ”, vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người. Như vậy, kể cả trường hợp nạn nhân trong vụ án ở quận 7 bị chặt đầu khi còn sống hay sau khi giết người hung thủ mới ra tay với thi thể thì đều có thể được coi là hành vi giết người man rợ và nằm ở khung tăng nặng của tội Giết người.
Án Tây - Luật ta: Bí ẩn đằng sau chiếc kim tiêm tử thần của bác sĩ
Một bác sĩ, người được xã hội tin tưởng, lại trở thành nghi phạm trong một vụ án mạng bí ẩn. Chiếc kim tiêm, vốn là công cụ cứu người, nay lại trở thành hung khí gây chết người. (1) Bí ẩn đằng sau chiếc kim tiêm tử thần của bác sĩ Tòa án Newcastle (Anh) đang tiến hành phiên xét xử bác sĩ T.K, người bị cáo buộc âm mưu sát hại ông P.O, 72 tuổi. Tại tòa, bác sĩ K đã thừa nhận hành vi của mình. Bà J (mẹ của bác sĩ K) đã quyết định để lại ngôi nhà của mình cho ông O, người tình 20 năm qua của bà. Khi biết tin này, K đã rất tức giận. Vào tháng 11/2022, bác sĩ này đã gây ra một cuộc tranh cãi với mẹ về di chúc và bị cảnh sát can thiệp. Ông ta thậm chí còn cài đặt phần mềm theo dõi trên laptop của mẹ mình. Theo cáo trạng, K đã mạo danh Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh (NHS) để gửi thư thông báo rằng sẽ có y tá đến tiêm vắc xin Covid-19 cho ông O vào ngày 22/1. Thực tế, K đã cải trang bằng tóc giả, râu giả, và đeo khẩu trang để tự mình tiêm chất độc vào nạn nhân. Ông ta còn làm giả thẻ căn cước, biển số xe và bịa đặt thông tin để đặt phòng tại địa phương. Sau khi được tiêm, ông O đã bị sưng viêm, da đổi màu và đau đớn tại vị trí tiêm, tình trạng ngày càng nghiêm trọng. Khi nhập viện, ông được chẩn đoán viêm cân mạc hoại tử, một loại nhiễm trùng sâu dưới da rất nguy hiểm, và phải nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt, cắt bỏ một phần thịt ở bắp tay. Hiện tại, ông vẫn đang điều trị tại bệnh viện. Ông O bắt đầu nghi ngờ về một số tình tiết trước đó. Bạn gái của ông, bà J, đã nhận xét rằng nam y tá "cao gần bằng" con trai của K. Ban đầu, bác sĩ K đã phủ nhận mọi cáo buộc. Tuy nhiên, cảnh sát đã thu thập đủ bằng chứng chứng minh tội ác của ông. Bồi thẩm đoàn đã xem video từ camera an ninh ghi lại cảnh K đến Premier Inn, gần nhà mẹ mình ở Newcastle. Sau đó, ông ta đã đeo khẩu trang phẫu thuật, găng tay, mũ và kính râm khi đến nhà để tiêm cho ông O. Các chuyên gia cho rằng K đã sử dụng iodomethane, một loại thuốc trừ sâu. Đại diện Bộ Quốc phòng Anh cho biết chưa từng có trường hợp nào liên quan đến việc tiêm loại hóa chất này. Công tố viên Peter Makepeace KC nhận định: "Bị cáo T.K là một bác sĩ có uy tín và nhiều kinh nghiệm tại một phòng khám ở Sunderland. Trước tháng 11/2023, ông ta đã lập kế hoạch phức tạp để giết bạn đời của mẹ mình, lợi dụng kiến thức của mình về chất độc để thực hiện âm mưu này ngay trước mặt nạn nhân." Hiện tại, bác sĩ K đang sống cùng vợ và con trai nhỏ trong một ngôi nhà trị giá gần 400.000 USD. Tại đây, cảnh sát đã tịch thu được nhiều loại thuốc độc và hướng dẫn sử dụng, bao gồm thông tin chi tiết về liều lượng cần thiết để giết người. (2) Án Tây - Luật ta Ở nước ta, tội Giết người được quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015. Tại điểm k khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định rằng tình tiết tăng nặng đối với tội phạm này là việc giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp. Ví dụ, bác sĩ có thể giết bệnh nhân nhưng lại lập hồ sơ bệnh án cho rằng nạn nhân đã qua đời do bệnh hiểm nghèo, hay bảo vệ bắn chết người rồi vu oan cho họ là kẻ cướp. Việc lợi dụng nghề nghiệp để sát hại người khác được đánh giá là một thủ đoạn rất tinh vi. Đơn cử như trường hợp trên, bác sĩ K đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để thực hiện hành vi giết người một cách dễ dàng và kín đáo. Tuy nhiên, cảnh sát cần xác định và chứng minh rằng K đã lợi dụng công việc của mình để thực hiện tội ác thì mới có thể xem xét trường hợp phạm tội này có tình tiết tăng nặng. Theo đó, mức xử phạt đối với tội phạm giết người được quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 như sau: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên; - Giết người dưới 16 tuổi; - Giết phụ nữ mà biết là có thai; - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; - Thực hiện tội phạm một cách man rợ; - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; - Thuê giết người hoặc giết người thuê; - Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; - Vì động cơ đê hèn. Đối với việc phạm tội nhưng không thuộc các trường hợp nêu trên thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra. người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Cố ý giết người đi tù bao nhiêu năm 2024?
Cố ý giết người là hành vi mà người phạm tội nhận thức rõ ràng về tính chất nguy hiểm cho xã hội và mong muốn gây ra hậu quả chết người. Vậy, năm 2024 cố ý giết người sẽ đi tù bao nhiêu năm? Cố ý giết người đi tù bao nhiêu năm 2024? Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội giết người như sau: - Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: + Giết 02 người trở lên; + Giết người dưới 16 tuổi; + Giết phụ nữ mà biết là có thai; + Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; + Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; + Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; + Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; + Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; + Thực hiện tội phạm một cách man rợ; + Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; + Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; + Thuê giết người hoặc giết người thuê; + Có tính chất côn đồ; + Có tổ chức; + Tái phạm nguy hiểm; + Vì động cơ đê hèn. - Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định trên, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. - Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, năm 2024 tùy vào tính chất, hậu quả mà người cố ý giết người sẽ phạt tù từ 7 - 20 năm hoặc tù chung thân và cao nhất có thể bị áp dụng hình phạt tử hình. Nếu chuẩn bị phạm tội sẽ bị phạt tù từ 1 - 5 năm. Như thế nào là tội cố ý? Theo Điều 10 Bộ luật Hình sự 2015 thì cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; - Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Như vậy, tội cố ý là người phạm tội nhận thức rõ ràng hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó, nhưng vẫn chấp nhận để hậu quả xảy ra. Cố ý giết người có phải là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không? Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: - Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; - Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; - Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; - Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, tội phạm cố ý giết người sẽ thuộc nhóm tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, còn đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội thì sẽ thuộc nhóm tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng.
Vụ lái xe đâm vào CSGT thành Án lệ tội giết người
Thay vì xử tội chống người thi hành công vụ như trước đây, thì theo Án lệ 18, những vụ lái xe đâm CSGT tương tự có thể bị xét xử tội giết người. (1) Vụ lái xe đâm vào CSGT thành Án lệ tội giết người Án lệ là các phán quyết của Tòa án (hay còn gọi là bản án) được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết các vụ việc tương tự về sau. Tính đến nay, Việt Nam đã có 63 án lệ được công bố và áp dụng. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”. Theo Án lệ số 18/2018/AL Khoảng 16 giờ ngày 30/6/2017, Tổ Tuần tra kiểm soát Phòng CSGT Công an tỉnh Hà Tĩnh ra tín hiệu dừng xe để xử lý lỗi chạy quá tốc độ với xe container BKS 77C - 016.47 kéo theo rơ-moóc BKS 77R - 001.37 do Phan Thành H (SN 1995, Bình Định) cầm lái. Sau khi thông báo lỗi và cho xem hình ảnh vi phạm, tổ công tác yêu cầu H xuất trình giấy tờ để kiểm tra. Tuy nhiên, H cho rằng xe mình không vi phạm tốc độ, nên không xuất trình giấy tờ rồi tranh cãi với Tổ tuần tra. Dù được giải thích nhưng nhưng H vẫn không chấp nhận mà tiếp tục tranh cãi, rồi lên xe đóng cửa lại, lúc này xe vẫn đang nổ máy. Thấy vậy, đồng chí Lê Hồ Việt A đang đứng phía trước bên phải đầu xe, còn đồng chí Nguyễn Anh Đ đang đứng phía trước bên trái cách đầu xe khoảng 1 mét, ra hiệu cho H không được di chuyển. Tuy nhiên, H không chấp hành hiệu lệnh mà bất ngờ điều khiển xe lao thẳng vào đồng chí A và đồng chí Đ đang đứng phía trước đầu xe để bỏ chạy. Nhận thấy tình hình nguy hiểm, đồng chí A nhảy ra lề đường phía bên phải tránh được, còn đồng chí Đ không kịp tránh nên buộc phải bám vào gọng gương chiếu hậu phía trước, bên trái trên nắp capo của xe. Dù đã thấy đồng chí Đ đang bám phía trước nhưng Phan Thành H vẫn tiếp tục điều khiển xe tăng tốc. Đi được khoảng 400 mét thì H bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái, chuyển hướng đầu xe vào sát dải phân cách cứng giữa đường. Do lúc này đồng chí Đ chỉ bám hai tay vào gọng gương chiếu hậu của xe, hai chân không có điểm tựa nên khi xe đánh lái đột ngột đã bị văng khỏi xe va vào dải phân cách cứng, rồi rơi xuống mặt đường. Hậu quả, đồng chí Đ bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thị xã Hồng Lĩnh, sau đó chuyển đến điều trị tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, đến ngày 10-7-2017 được chuyển về điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh cho đến ngày 18-7-2017 thì ra viện. H bị bắt và bị khởi tố về tội Chống người thi hành công vụ. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi và quá trình phạm tội của H, ngày 22/7/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh quyết định khởi tố bị can H tội Giết người. Tại phiên tòa xét xử, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, TAND tỉnh Hà Tĩnh tuyên phạt Phan Thành H 8 năm tù về tội Giết người và 2 năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” (làm giả bằng lái hạng FC). Mặc dù có kháng cáo, H vẫn bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tuyên phạt 7 năm tù về tội “Giết người”. Sau khi được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thông qua, ngày 6/11/2018, Chánh án TAND Tối cao đã công bố Án lệ số 18/2018/AL về hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”. Việc TAND Tối cao đưa vụ án này thành án lệ là một bước tiến quan trọng, tạo tiền đề cho các tòa cấp dưới xét xử những vụ án tương tự. Đồng thời, tăng tính răn đe, giáo dục và cảnh tỉnh người tham gia giao thông về việc chấp hành các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật ATGT nói riêng. (2) Tội Giết người bị phạt như thế nào? Theo quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015, người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên - Giết người dưới 16 tuổi - Giết phụ nữ mà biết là có thai - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân - Thực hiện tội phạm một cách man rợ - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người - Thuê giết người hoặc giết người thuê - Có tính chất côn đồ - Có tổ chức - Tái phạm nguy hiểm - Vì động cơ đê hèn Người phạm tội nhưng không thuộc các trường hợp trên thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Người nào chuẩn bị phạm tội Giết người thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Ngộ sát là tội gì? Phân biệt tội giết người và ngộ sát như thế nào?
Ngộ sát là tội gì? Làm thế nào để phân biệt giữa ngộ sát và giết người? Tội ngộ sát bị xử phạt ra sao? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Ngộ sát là tội gì? Hiện nay, trong hệ thống văn bản pháp luật không có văn bản nào có đề cập đến ngộ sát. Thực chất, đây là một thuật ngữ pháp lý dùng để đề cập đến hành vi vô ý làm chết người. Theo đó, ngộ sát hay vô ý làm chết người là hành vi gây ra hậu quả dẫn đến tính mạng của nạn nhân bị xâm hại. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi, người thực hiện cho rằng hậu quả này sẽ không xảy ra hoặc không nhận thấy hành động của mình sẽ dẫn đến hậu quả gây chết người. (2) Phân biệt tội giết người và ngộ sát (vô ý làm chết người) như thế nào? Căn cứ theo Bộ Luật Hình sự 2015, có thể phân biệt tội giết người và ngộ sát (vô ý làm chết người) qua những tiêu chí như sau: Tiêu chí Giết người Ngộ sát (vô ý làm chết người) Hành vi Là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Là hành vi của một người vô tình làm cho người khác bị chết. Khách thể Xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền sống). Làm chết người, xâm phạm đến quyền sống của con người, khách thể trực tiếp của tội này là quyền sống hay còn gọi là quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng của con người. Khách quan Hậu quả của tội giết người là làm cho nạn nhân chết. Hậu quả nghiêm trọng về tính mạng của nạn nhân, ảnh hưởng đến gia đình và người thân. Là hành vi vi phạm các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người, qua đó gây hậu quả chết người. Các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định, cũng có thể chỉ là những quy tắc xử sự trong xã hội thông thường mà mọi người đều biết và thừa nhận. Chủ quan Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) với mục đích tước đoạt mạng sống của người khác. Không có ý thức và mục đích tước đoạt tính mạng của người khác. Theo đó, có thể xảy ra hai trường hợp như sau: - Lỗi vô ý do quá tự tin: Nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. - Lỗi vô ý do cẩu thả: Không nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải nhìn thấy trước và có thể nhìn thấy trước hậu quả đó. Ví dụ: - Giết người để cướp tài sản. - Người nông dân mắc điện ở đồng để bẫy rắn, bẫy chuột nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nguy hiểm và tin rằng hậu quả chết người không thể xảy ra...Tuy nhiên, hậu quả có người bị điện giật chết. (3) Tội ngộ sát bị xử phạt như thế nào? Căn cứ Điều 128 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định về hình phạt đối với tội vô ý làm chết người (ngộ sát) như sau: - Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính được Điều 129 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định về khung hình phạt như sau: - Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Trường hợp phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Bên cạnh đó, người phạm tội trong trường hợp này còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Theo đó, đối với người có hành vi ngộ sát (vô ý làm chết người) thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định như đã nêu trên.
Nhắn tin dọa giết người khác bị phạt tù bao nhiêu năm?
Trong thời đại kỹ thuật số, việc sử dụng các phương tiện điện tử để liên lạc đã trở nên phổ biến. Tuy nhiên, không ít trường hợp lợi dụng các phương tiện này để nhắn tin đe dọa người khác. Việc nhắn tin dọa giết người khác có bị phạt tù bao nhiêu năm? Bài viết này cung cấp thông tin chi tiết về mức xử phạt đối với hành vi này Nhắn tin đe dọa là một hành vi không chỉ vi phạm đạo đức mà còn vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Tùy theo mức độ và tính chất của hành vi, người vi phạm có thể phải đối mặt với những hình phạt nghiêm khắc. Vậy pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về hành vi nhắn tin dọa giết người khác? (1) Nhắn tin dọa giết người khác bị xử phạt hành chính thế nào? Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể hành vi nhắn tin đe dọa giết người là như thế nào. Tuy nhiên bất kỳ hành vi nào kể cả nhắn tin, gọi điện thoại, dùng lời nói đe dọa trực tiếp liên quan đến sức khỏe người khác đều có thể bị coi là đe dọa giết người. Căn cứ Điều 133 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định như sau: Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, có thể hiểu đe dọa giết người là việc làm cho người bị đe dọa lo sợ người đe dọa sẽ có hành vi giết người. Đối với việc nhắn tin đe dọa giết người là việc dùng các phương tiện thông tin liên lại gửi tin nhắn dù nội dung có thể không đề cập cụ thể về việc đâm, chém, gây tai nạn giao thông,...gây hoảng sợ cho người nhận tin nhắn. Đối với hành vi vi phạm pháp luật này, theo điểm g khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau: Bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Ngoài bị phạt tiền, người vi phạm còn bị hình phạt bổ sung theo điểm b khoản 8 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại các điểm b, g, h và q khoản 3, điểm a khoản 4 và khoản 7 Điều 102. (2) Nhắn tin dọa giết người khác bị phạt tù bao nhiêu năm? Không những bị xử phạt hành chính, hành vi nhắn tin dọa giết người người khác còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể: Căn cứ theo Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 2015, người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 - 07 năm: - Đối với 02 người trở lên. - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn. - Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. - Đối với người dưới 16 tuổi. - Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác. Như vậy, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người đe dọa có thể bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù, mức phạt cao nhất là 07 năm. (3) Cần làm gì khi nhận được tin nhắn dọa giết người? Trong trường hợp nhận được tin nhắn dọa giết người có thể đến cơ quan điều tra công an để tố cáo hành vi này. Việc tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 7 Thông tư 28/2020/TT-BCA. Người nhận tin nhắn dọa giết cần cung cấp hình ảnh, tin nhắn và các chứng cứ liên quan khác cho cơ quan điều tra Theo Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được hướng dẫn bởi được hướng dẫn bởi Điều 9 và Điều 11 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy định thời hạn như sau: Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định sau: - Quyết định khởi tố vụ án hình sự. - Quyết định không khởi tố vụ án hình sự. - Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tóm lại, việc nhắn tin dọa giết người khác là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt. Mức xử phạt hành chính là phạt tiền từ 10 - 20 triệu. Ngoài ra, người đe dọa còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà mức phạt sẽ khác nhau, mức phạt cao nhất là 07 năm. Bên cạnh đó, khi nhận được tin nhắn dọa giết, người nhận tin nhắn cần đến cơ quan điều tra công an để tố cáo hành vi này.
Vô ý làm chết người có phải là tình tiết giảm nhẹ của Tội giết người?
Vô ý làm chết người bị xử bao nhiêu năm tù? Phân biệt giữa Tội giết người và tội vô ý làm chết người? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. Phân biệt giữa Tội giết người và Tội vô ý làm chết người Tội giết người và Tội vô ý làm chết người là hai tội độc lập hoàn toàn với nhau và được Bộ luật Hình sự 2015 quy định rõ tại Điều 123 và Điều 128 có những điểm khác nhau như sau: Tội giết người Tội vô ý làm chết người Căn cứ pháp lý Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015 Hành vi Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Vô ý làm chết người là hành vi của một người vô tình làm cho người khác bị chết. Khách thể Tội giết người xâm phạm quyền cơ bản của con người (quyền sống). Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền sống của con người, khách thể trực tiếp của tội này là quyền sống hay còn gọi là quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng của con người. Khách quan Tội giết người: Hậu quả của tội giết người là làm cho nạn nhân chết. Hậu quả nghiêm trọng về tính mạng của nạn nhân, ảnh hưởng đến gia đình và người thân. Hành vi khách quan của tội này là hành vi vi phạm các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người, qua đó gây hậu quả chết người. Các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định, cũng có thể chỉ là những quy tắc xử sự trong xã hội thông thường mà mọi người đều biết và thừa nhận. Chủ quan Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) với mục đích tước đoạt mạng sống của người khác Người phạm tội không có ý thức và mục đích tước đoạt tính mạng của người khác. Có thể xảy ra hai trường hợp: Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải nhìn thấy trước và có thể nhìn thấy trước hậu quả đó. Hình phạt Người phạm tội giết người thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Người phạm tội không thuộc trường hợp sau thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: - Giết 02 người trở lên - Giết người dưới 16 tuổi - Giết phụ nữ mà biết là có thai - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân - Thực hiện tội phạm một cách man rợ - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người - Thuê giết người hoặc giết người thuê - Có tính chất côn đồ - Có tổ chức - Tái phạm nguy hiểm - Vì động cơ đê hèn Người chuẩn bị phạm tội giết người thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Người nào vô ý làm chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội vô ý làm chết người. Người phạm tội vô ý làm chết người bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Trường hợp người vô ý làm chết 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Như vậy, Tội giết người và Tội vô ý làm chết người là 2 tội danh hoàn toàn khác nhau, song vô ý làm chết người không phải là tình tiết giảm nhẹ của Tội giết người. Theo đó, mức án cao nhất cho Tội giết người là chung thân hoặc tử hình, trong khi mức cao nhất cho Tội vô ý làm chết người là 10 năm. Vô ý làm chết người bị xử phạt bao nhiêu năm tù theo BLHS 2015? Theo Bộ luật Hình sự 2015 quy định hành vi vô ý làm chết người như sau: (1) Tội vô ý làm chết (căn cứ tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015) Khung 1: Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. (2) Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (căn cứ tại Điều 129 Bộ luật Hình sự 2015) Khung 1: Người nào vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Ngoài ra, còn áp dụng hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, mức cao nhất đối với Tội vô ý làm chết người là 10 năm tù và Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là 12 năm tù. Tham khảo: Hiện có bao nhiêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Căn cứ tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: - Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; - Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; - Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; - Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; - Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; - Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; - Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; - Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; - Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; - Phạm tội do lạc hậu; - Người phạm tội là phụ nữ có thai; - Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; - Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; - Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; - Người phạm tội tự thú; - Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án - Người phạm tội đã lập công chuộc tội; - Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác; - Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Trên đây là một số thông tin liên quan đến hành vi vô ý làm chết người và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Từ vụ thi thể nạn nhân nữ đeo ba lô có gạch dưới hồ Láng: Giết người giấu xác có bị tăng án không?
Vừa qua thông tin phát hiện thi thể nạn nhân nữ đeo ba lô có chứa gạch dưới hồ Láng làm chấn động dư luận. Vậy nếu đây là hành vi giết người giấu xác thì có phải là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự không? Thông tin thêm về vụ việc Theo Báo Hà Nội Mới đưa tin, khoảng 10h50 sáng 07/5/2024, người dân đi qua khu vực cổng sau Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, ven hồ Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa (Hà Nội), phát hiện dưới mặt hồ nổi lên một phần thi thể người. Tổ công tác đã tiến hành đưa nạn nhân lên bờ. Thông tin ban đầu, nạn nhân là nữ (sinh năm 2003; ở phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội), sinh viên một trường đại học. Nạn nhân đeo ba lô học sinh, trong ba lô có nhiều gạch. Nạn nhân được xác định đã tử vong trước đó nhiều giờ. Nguyên nhân vụ việc đang được điều tra làm rõ. Hành vi giấu xác có phải là tình tiết tăng nặng tội giết người không? Theo Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: - Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: + Phạm tội có tổ chức; + Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; + Phạm tội có tính chất côn đồ; + Phạm tội vì động cơ đê hèn; + Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; + Phạm tội 02 lần trở lên; + Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; + Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; + Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; + Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; + Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; + Dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội; + Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội; + Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm. - Các tình tiết đã được Bộ luật hình sự 2015 quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Như vậy, hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, tùy theo tính chất của hành vi giấu xác sau khi giết người mà nếu hành vi đó được xác định là hành vi xảo quyệt hoặc hung hãn thì đây sẽ là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu phạm nhiều tội thì hình phạt sẽ được quyết định như thế nào? Theo Điều 55 Bộ luật hình sự 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội như sau: Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây: - Đối với hình phạt chính: + Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; + Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự 2015; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân; + Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình; + Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; - Đối với hình phạt bổ sung: + Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật hình sự 2015 quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung; + Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên. Như vậy, việc tổng hợp hình phạt của nhiều tội sẽ thực hiện theo quy định như trên. Theo đó, nếu hình phạt chung thì không được được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn. Ví dụ, hình phạt 1 là 15 năm tù, hình phạt 2 là 20 năm tù, tổng hợp hai hình phạt là 30 năm tù chứ không phải 35 năm tù.
Vụ nam sinh lớp 8 bị đánh chết não: Chết não theo pháp luật có được tính là đã chết không?
Xôn xao dư luận gần đây vụ việc một nam sinh lớp 8 bị đánh đến chết não. Vậy trong trường hợp chết não này, theo pháp luật có được xem như đã chết không? Gia đình của nghi phạm trong vụ việc nêu trên có khả năng phải chịu hậu quả pháp lý gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Chết não theo pháp luật có được tính là đã chết không? Căn cứ theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác 2006 định nghĩa về chết não như sau: “Chết não là tình trạng toàn não bộ bị tổn thương nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được.” Đồng thời, tại Điểm c Khoản 1 Điều 71 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về tuyên bố đã chết đối với một người như sau: “1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: … c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; …” Từ những quy định nêu trên, có thể thấy, sau khi được chẩn đoán là đã chết não, Người có quyền, lợi ích liên quan đến bệnh nhân sau 02 năm tính từ thời điểm gặp tai nạn có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết về mặt pháp lý. (2) Gia đình của nghi phạm trong vụ việc có khả năng phải chịu hậu quả pháp lý gì? Đối với nghi phạm: Theo những tình tiết hiện được cung cấp từ phía Công an, việc bước đầu xem xét trách nhiệm của nghi phạm về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 là có cơ sở. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ theo Điều 12 Bộ Luật Hình sự 2015 có quy định người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Mà theo quy định tại Điều 9 Luật Hình sự 2015 thì tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm tới 15 năm tù còn tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có khung hình phạt cao nhất từ trên 15 năm tù tới tử hình. Kế đến theo quy định tại Thông tư 22/2019/TT-BYT có đề cập đến trường hợp người bị hành hung dẫn tới chấn thương sọ não, gây di chứng sống kiểu thực vật, mức độ tổn hại sức khỏe được xác định là 99%. Theo đó, đối chiếu mức xử phạt cho hành vi cố ý gây thương tích cho người khác từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Như vậy, trường hợp kết quả giám định của Trung tâm pháp y Hà Nội phản ánh đúng tình trạng của nạn nhân, thì nghi phạm trong trường hợp này được xếp vào nhóm tội phạm rất nghiêm trọng theo Khoản 3 hoặc Khoản 4 Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 với mức phạt áp dụng lần lượt là từ 05 đến 10 năm và 07 đến 14 năm tù. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, những thông tin về nghi phạm vẫn chưa chính thức được công bố. Chính vì thế, tại đây sẽ xảy ra 02 trường hợp như sau: Trường hợp 01: Nghi phạm chưa đủ 16 tuổi, căn cứ Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 về việc áp dụng mức phạt bằng ½ khung hình phạt tù của tội danh bị truy tố, mức phạt cao nhất có thể áp dụng là 05 năm (khoản 3) và 07 năm tù (khoản 4). Trường hợp 02: Nghi phạm đã đủ 16 tuổi, mức phạt tối đa áp dụng sẽ tương đương ¾ khung hình phạt của tội danh bị truy tố, có nghĩa là 07 năm 6 tháng tù và 10 năm 6 tháng tù. Đối với em trai của nghi phạm (12 tuổi): Đối với trường hợp này, Luật sư Hoàng Trọng Giáp (Giám đốc Công ty Luật Hoàng Sa, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) chia sẻ như sau: Theo quy định tại Điều 12 Bộ Luật Hình sự 2015, độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi. Với trường hợp người dưới 14 tuổi thực hiện các hành vi có dấu hiệu phạm tội, việc xử lý hình sự sẽ không được nhắc tới. Tuy nhiên vẫn có thể áp dụng các biện pháp giáo dục tại địa phương. Cụ thể, Khoản 1 Điều 90 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ Luật Hình sự 2015 thì bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Còn theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, nếu hành vi có dấu hiệu của tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người vi phạm có thể bị đưa vào trường giáo dưỡng. Về trách nhiệm dân sự, theo Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015, người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại thì cha, mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thay cho con theo quy định của pháp luật. Theo đó, do em trai của nghi phạm hiện chưa đủ 14 tuổi cho nên trách nhiệm hình sự sẽ không được bàn tới. Tuy nhiên, cơ quan chức năng vẫn sẽ tiến hành lấy lời khai, xác minh vai trò của người em trai trong vụ án để đánh giá về tính chất, mức độ hành vi của thiếu niên này. Trong trường hợp kết quả xác minh cho thấy hành vi có dấu hiệu phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương hoặc nặng hơn là đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với bố của nghi phạm: Theo chia sẻ của Luật sư Quách Thành Lực (Giám đốc Công ty Luật Pháp trị) qua nhìn nhận những thông tin được phía cảnh sát thì tính đến thời điểm hiện tại hoàn toàn chưa có cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự đối với bố của nghi phạm. Tuy nhiên, Luật sư cũng nhấn mạnh rằng đây mới là lời khai ban đầu, chưa thể hiện một cách toàn diện, khách quan vụ việc. Việc xem xét trách nhiệm hình sự sẽ được đề cập nếu có cơ sở cho thấy bố của nghi phạm tạo điều kiện về mặt vật chất hoặc tinh thần để nghi phạm thực hiện hành vi phạm tội hoặc biết nghi phạm thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội Giết người (nếu cơ quan điều tra chuyển tội danh sang Giết người) nhưng cố tình che giấu, không tố giác hoặc thấy nạn nhân trong trường hợp nguy hiểm về tính mạng mà không cứu giúp, dẫn tới hậu quả chết người xảy ra. Nếu như không thuộc các trường hợp như đã nêu trên thì trách nhiệm hình sự của người bố sẽ không được bàn tới. Tuy nhiên, vì là bố của nghi phạm, người này có trách nhiệm bồi thường dân sự cho gia đình phía bị hại. Việc bồi thường sẽ dựa trên tài sản hiện có của nghi phạm, đối với phần nghĩa vụ bồi thường nằm ngoài phạm vi giá trị tài sản của nghi phạm thì người bố trong trường hợp này có trách nhiệm bồi thường thay cho con trai.
Vụ nam sinh lớp 8 bị đánh chết não: Nghi phạm có bị truy cứu tội danh giết người không?
Tối ngày 27/03/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Long Biên (Hà Nội) đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam đối với thiếu niên 16 tuổi đánh người gây chết não để điều tra về hành vi cố ý gây thương tích. (1) Nguồn cơn sự việc Theo Báo Tuổi trẻ, vụ việc trên xảy ra vào ngày 17/03/2024, bắt nguồn từ mâu thuẫn trong lúc chơi bóng rổ giữa T.V.K. (lớp 6) và N.H.Đ (lớp 8). Sau khi bị đánh, T.V.K. đã nhờ anh ruột mình là T.V.M sinh năm 2008 (16 tuổi) đến giải quyết mâu thuẫn. Tại đây, T.V.M đã có hành vi hành hung nạn nhân. Sau đó, Đ. có biểu hiện choáng, tái mặt và được bố nghi phạm cùng người dân đưa đến Bệnh viện 108 để điều trị. Tại đây, Bệnh viện 108 xác định Đ. bị chấn thương sọ não nặng, hôn mê, tiên lượng tử vong cao. Đến ngày 26/03/2024, Đ. được gia đình chuyển về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ và đang được điều trị tích cực. Chiều cùng ngày, Trung tâm pháp y Hà Nội đã kết luận tỷ lệ tổn hại sức khỏe của Đ. là 99%. (2) Nghi phạm đánh người khác gây chết não bị xử phạt như thế nào? Theo những thông tin nêu trên, có thể thấy nghi phạm T.V.M hiện đang theo học lớp 10, sinh năm 2008. Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ Luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ Luật hình sự 2017 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” Từ dẫn chiếu quy định nêu trên, có thể thấy, tính đến thời điểm 2024, nghi phạm trong vụ việc nêu trên đã đủ 16 tuổi. Tức đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để xác định hành vi hành hung nêu trên cấu thành tội danh “Giết người” được quy định tại Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 hay tội danh “Cố ý gây thương tích” được quy định tại Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 còn phụ thuộc vào kết quả giám định pháp y của của cơ quan chuyên môn về nguyên nhân và cơ chế hình thành vết thương. Bởi theo lý luận định tội, 02 tội danh nêu trên đều là những tội phạm rất nguy hiểm, có cấu thành riêng biệt, khác nhau về khách thể, về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả. Chính vì thế, tại vụ việc này có thể xảy ra 02 trường hợp như sau: Trường hợp 01: Nếu kết quả giám định xác định được nghi phạm sử dụng vũ lực đấm liên tiếp vào vùng gáy, đầu dẫn tới chấn thương sọ não nặng sẽ cấu thành tội “Giết người”. Bởi nạn nhân trong trường hợp này hiện đang theo học lớp 8 (dưới 16 tuổi) Chính vì thế, nghi phạm có thể bị truy tố theo Khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên và có thể tới 18 năm tù đối với các đối tượng từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Trường hợp 02: Nếu xác định được nạn nhân bị chấn thương sọ não là do lực tác động làm ngã đập đầu xuống nền thì trường hợp này sẽ cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Trường hợp tỷ lệ tổn hại sức khỏe của nạn nhân là 99% theo kết luận giám định của Trung tâm pháp y Hà Nội thì nghi phạm trong trường hợp này có thể bị truy cứu với mức hình phạt từ 05 đến 10 năm tù (Khoản 3) hoặc từ 07 đến 14 năm (Khoản 4) Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015. Bên cạnh đó, theo quan điểm của một số Luật sư cho rằng cần xem xét vai trò đồng phạm bởi những căn cứ như: “Biết con xảy ra mâu thuẫn nhưng do bênh con đã cùng 02 con đi xe máy đến gặp cháu bé để giải quyết. Đáng lẽ, người bố cần phải hỏi rõ cháu bé sự việc, khuyên giải nhưng đã bỏ mặc để cho 02 con xông vào đánh cháu N.H.Đ mà không can ngăn.” Còn theo Luật sư Nguyễn Anh Thơm - Người bảo vệ quyền lợi của nạn nhân cho biết: “Nếu người bố có mặt, đứng ngay gần để mặc con xông vào đánh cháu bé, được coi là người giúp sức, ủng hộ về tinh thần. Hành vi của người bố trong trường hợp này nếu xem xét với vai trò đồng phạm là có căn cứ”.
Rút kinh nghiệm về định tội danh trong vụ án giết người và cố ý gây thương tích
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Đặng Anh Việc (cùng các đồng phạm) bị xét xử về các tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo để các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phó nghiên cứu, rút kinh nghiệm như sau: I. Tóm tắt nội dung vụ án Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc mua bán điện thoại giữa Trịnh Nhật Tân và Đặng Anh Tú, nên khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/6/2021 Trịnh Nhật Tân cùng với Phạm Hữu Nghĩa đến nhà Trần Anh Tuấn (là anh ruột của Tú) để tìm gặp Tú. Khi gặp nhau hai bên đã xảy ra xô xát, cãi vã và thách thức đánh nhau. Nghe tiếng ồn ào Đặng Anh Việc (là em ruột của Tú ở nhà sát bên) liền chạy ra phía trước nhà của Tuấn đến gần chỗ Tân và nói “Do cái điện thoại của mày mà sinh chuyện”, đồng thời Việc dùng tay đấm trúng vào mặt của Tân. Thấy vậy, Nghĩa cầm 01 con dao Thái Lan xông đến định đâm Việc thì Việc liền sử dụng 01 thanh kiếm (cán màu đen dài 20cm, lưỡi kim loại dài 80cm) giơ lên cao và la lớn “Giết chết mẹ nó luôn”. Tuấn liền cầm 01 khúc cây gỗ dài 1,3m chạy ra đánh 01 cái trúng vào người của Nghĩa thì Nghĩa bỏ chạy. Tuấn cầm khúc cây cùng với Tú cầm 01 thanh kiếm tiếp tục truy đuổi theo Nghĩa. Trong khi Nghĩa đang bỏ chạy Tuấn ném khúc cây về phía Nghĩa nhưng không trúng. Nghĩa chạy đến bãi đất trống gần trường mẫu giáo An Hoà thì bị vấp ngã. Tuấn và Tú đuổi kịp dùng tay, chân đánh nhiều cái vào người của Nghĩa làm Nghĩa bất tỉnh. Sau đó Tuấn và Tú kéo Nghĩa ra đặt gần đường bê tông. Lúc sau người nhà của Nghĩa đến đề nghị được đưa Nghĩa đi cấp cứu nhưng Việc, Tuấn, Tú ngăn cản và yêu cầu chờ Công an đến giải quyết. Khi Công an xã Ân Phong đến thì Nghĩa mới được người nhà đưa đi cấp cứu. Kết quả giám định Nghĩa bị tổn hại 17% sức khoẻ. Cùng thời điểm này Tân gọi điện cho Trần Văn Bình kể lại việc Nghĩa bị đánh. Bình đang ngồi nhậu với Lê Tiến Sỹ và Đỗ Minh Thẩm nên rủ Sỹ, Thẩm đi cùng thì Sỹ, Thẩm đồng ý. Sau đó Sỹ điều khiển xe mô tô chở Thẩm, Bình về nhà Sỹ lấy 02 cây phảng phát bờ, rồi cùng nhau đến nhà Tuấn. Khi Sỹ, Thẩm, Bình đến nơi là khoảng 22 giờ 30 phút lúc này Công an xã đang lập biên bản tại hiên nhà của Tuấn. Sỹ đến đứng trước nhà của Việc (sát nhà Tuấn) nói lớn “Tao là chó Sỹ nè, đứa nào ăn được thì ăn”. Bình, Thẩm cũng la lớn tiếng đòi sang bằng nhà này. Tiếp đó, Bình cầm theo 01 cây phảng đi vào sân nhà Việc để đánh Việc, thấy vậy Việc đi lùi lại thì bị vấp ngã ngồi bệt xuống sân. Bình cầm cây Phảng đâm 01 nhát vào đầu gối chân trái của Việc (gây thương tích 2%). Việc nhào người lên giằng co cây phảng trên tay Bình và dùng tay đấm 02 cái trúng mặt Bình làm Bình gục ngã xuống đất. Việc đoạt được cây phảng trên tay Bình thì tiếp tục dùng cây Phảng đánh 02 cái vào người Bình. Sau khi đánh Bình thì Việc nhìn thấy Sỹ đang đứng trước cổng nhà của Việc cầm 01 cây phảng la lớn “Gọi mấy thằng thị trấn vô chém chết mẹ nó”. Nghe vậy Việc cầm cây phảng (mới giật được của Bình) chạy ra chém ngang 01 phát trúng tay trái của Sỹ, Sỹ bỏ chạy được khoảng 03 mét thi bị ngã nằm nghiêng bên đường, hai chân co lại, hai tay ôm đầu. Việc đến cầm phảng bằng hai tay giơ lên chém mạnh xuống trúng vào gối cẳng chân phải làm chẻ đôi từ bờ ngoài xương chày đến đoạn 1/3 giữa cẳng chân phải, gây đứt hoàn toàn bó mạch thần kinh kheo, được đưa đi cấp cứu đến 7 giờ 30 phút ngày 26/6/2021 thì Sỹ chết. Trước đó, trong lúc Việc đuổi đánh Sỹ thì Tú lấy 01 cây gỗ dài 120cm, đường kính 3,5cm chạy đến đánh nhiều cái vào người của Bình (đang nằm bất tình tại sân nhà Việc). Kết quả giám định Bình tổn hại 20% sức khoẻ. - Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HSST, ngày 14/6/2023 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh B; tuyên bố: Bị cáo Đặng Anh Việc phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích các bị cáo Đặng Anh Tú, Đặng Anh Tuấn phạm tội “Cố ý gây thương tích”. + Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b khoản 2, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Việc 09 năm tù về tội “Giết người” và 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, Buộc chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 12 năm tù. + Áp dụng điểm b,d khoản 2 Điều 134; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tú 04 năm tù. + Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tuấn 02 năm tù. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo. Bản án sơ thẩm nêu trên đã bị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận toàn bộ nội dung kháng nghị về các vi phạm của bản án sơ thẩm đã được kháng nghị nêu ra và tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. II. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm 1. Đối với bị cáo Đặng Anh Việc: Thông qua hành động cầm cây kiếm giơ lên cao và hô to “Giết chết mẹ luôn” thể hiện bị cáo Việc chính là người khởi xướng để Tuấn và Tú “dùng hung khí nguy hiểm” đánh gây thương tích 17% cho Nghĩa. Ngay sau khi nghe Việc hô thì Tuấn liền sử dụng cây gỗ dài 1,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Bị đánh nên Nghĩa bỏ chạy thì Tuấn cầm cây và Tú cầm kiếm tiếp tục rượt đuối, đánh Nghĩa. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” khi xử lý hành vi phạm tội của Tuấn theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Với vai trò là người chủ mưu, khởi xướng thì bị cáo Việc cũng phải cùng bị xem xét áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” như đã áp dụng để xử lý đối với bị cáo Tuấn. Trong khi gây thương tích cho bị hại Bình thì bị cáo Việc cũng đã trực tiếp “dùng hung khí nguy hiểm” là cây phảng đánh 02 cái vào người của bị hại Bình. Tổng thương tích gây ra cho Bình là 20%. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo điểm b khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt của tội “cố ý gây thương tích” bị cáo đã thực hiện. Vì hành vi trên của bị cáo Việc đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS đó là: “d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thế của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” (dẫn chiếu điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS là “dùng hung khí nguy hiểm”). Trường hợp truy cứu bị cáo Việc về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS (là tội rất nghiêm trọng) thì đồng thời phải truy cứu TNHS với bị cáo Việc về tội “Giết người” theo điểm e khoản 1 Điều 123 BLHS đó là “e) Giết người mà liền trước đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng”, cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo khoản 2 Điều 123 BLHS là không đúng khung hình phạt đối với tội “Giết người” 2. Đối với bị cáo Đặng Anh Tú: Bị cáo Tú trực tiếp chứng kiến bị cáo Việc cầm cây kiếm giơ lên cao và nghe Việc hô to “Giết chết mẹ nó luôn”, đồng thời chứng kiến bị cáo Tuấn cầm cây gỗ dài l,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Liền sau đó bị cáo Tú đã tiếp nhận ý chí của Việc và Tuấn, cầm kiếm đuổi theo cùng với Tuấn đánh Nghĩa gây thương tích 17%, đồng thời Tú còn sử dụng cây gỗ dài 120cm có đường kính 3,5cm đánh nhiều cái vào người của Bình trong khi Bình đã bị Việc đánh đang nằm bất tỉnh (hậu quả Bình bị tổn thương 20% sức khoẻ). Hành vi của bị cáo Tú đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Tú theo khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt bị cáo Tú đã thực hiện. 3. Đối với hành vi của các đối tượng Trịnh Nhật Tân, Phạm Hữu Nghĩa, Trần Văn Bình, Đỗ Minh Thẩm: Các đối tượng Tân và Nghĩa đã chủ động đến nhà của Tú gây sự, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vụ án làm 01 người chết và 02 người bị thương trong khoảng thời gian dài từ 21 giờ 30 đến hơn 22 giờ 30 phút tại khu vực đông dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Khi nhóm của mình bị đánh và bị yếu thế Tân tiếp tục gọi cho Bình, thì Bình rủ Thẩm, Sỹ cùng đi và được Thẩm, Sỹ đồng ý. Khi đến nơi Sỹ, Bình và Thẩm cùng la lối to tiếng đòi san bằng nhà của Việc, đồng thời Bình cầm cây Phảng đánh Việc nên bị Việc đánh lại làm cho Sỹ bị chết, Bình bị thương. Hành vi của nhóm: Tân, Nghĩa, Bình, Thẩm đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự với các đối tượng trên là bỏ lọt tội phạm.
Phân biệt giữa Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ và Tội giết người
Được biết Việt Nam nằm trong những nước có hiện trạng nạo phá thai đáng báo động. Không chỉ vậy, hậu quả của sinh con không kế hoạch hay có con ngoài ý muốn là ngày càng nhiều có hành vi đẻ con xong vứt bỏ hay thậm chí giết con mới đẻ. Vậy hình phạt nào dành cho người mẹ vứt bỏ hoặc giết con mới đẻ? (1) Thế nào là con mới đẻ? Theo Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015, con mới đẻ là trẻ được sinh ra trong 07 ngày tuổi. Người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. (2) Tội giết con mới đẻ bị xử lý thế nào? Căn cứ Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015, người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. (3) Phân biệt Tội giết người và Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ Tiêu chí Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015) Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 Bộ luật Hình sự 2015) Khái niệm Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết Khách thể Đối tượng tác động - Xâm phạm tới tính mạng con người được Nhà nước bảo hộ - Con người đang sống - Xâm phạm tới tính mạng con người được Nhà nước bảo hộ - Con người đang sống Khách quan Hành vi: Thực hiện các hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật, được thể hiện qua hành vi dùng mọi thủ đoạn nhằm làm cho người khác chấm dứt sự sống. - Hành vi làm chết người được thực hiện bằng các hình thức sau: - Hành động: thể hiện qua việc người phạm tội đã cố tình thực hiện các hành vi mà pháp luật không cho phép nhằm tước đoạt mạng sống người khác. - Không hành động: thể hiện qua việc người phạm tội đã không thực hiện nghĩa vụ phải làm để cứu giúp người khác nhằm giết người. Thông thường tội phạm được thực hiện trong trường hợp bằng cách lợi dụng nghề nghiệp. Hậu quả: Tội giết người có cấu thành vật chất, nghĩa là đòi hỏi phải có hậu quả chết người xảy ra. Tuy nhiên, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp mà hậu quả chết người xảy ra thì tội phạm hoàn thành; nếu hậu quả chết người chưa xảy ra thì vẫn cấu thành Tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành vi: Hành vi khách quan là người mẹ thực hiện hành vi giết (bóp cổ, bỏ đói cho đến chết,…) hoặc hành vi vứt bỏ (bỏ vào rừng sâu không có ai qua lại, nhà hoang, thùng rác và đậy nắp,…) dẫn tới đứa trẻ không được ai phát hiện, cứu và bị chết Hậu quả: Hậu quả của hành vi là đứa trẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ dẫn đến chết. Chủ quan - Lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. +) Với lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng vì mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội. +) Với lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng để đạt được mục đích của mình nên đã có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (có ý thức chấp nhận hậu quả đó). - Mục đích: +) Với lỗi cố ý trực tiếp: Mục đích là tước đoạt tính mạng +) Với lỗi cố ý gián tiếp: Không có mục đích là tước đoạt tính mạng. Người mẹ thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Chủ thể - Chủ thể thường, đạt độ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS +) Chủ thể của tội giết người là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nghĩa là khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội người đó có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. +) Phải đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được chia như sau: + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ các quy định khác. + Về tuổi: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304. (Điều 12 sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, đối với tội giết người trong bộ luật hình sự 2015 thì chủ thể là người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. - Chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là chủ thể đặc biệt, đó là người mẹ của nạn nhân. Tuy nhiên, người mẹ của nạn nhân chỉ được coi là chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ nếu người mẹ đó chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ đứa con do mình đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thì sẽ không cấu thành tội phạm này. Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là chịu ảnh hưởng của những tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một cách khác, những tư tưởng, những quan niệm sống này đã không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. Có thể ví dụ như, cùng là một chuyện người phụ nữ không chồng mà có con, theo tư tưởng phong kiến, đây là trường hợp đại kỵ, bị dư luận xã hội lên án và sẽ phải chịu những hình phạt rất nặng. Tuy nhiên, trong chế độ xã hội mới, việc có con ngoài giá thú được pháp luật thừa nhận và bảo hộ nên người phụ nữ không còn bị lên án, chỉ trích và chịu phạt nặng nề như trong chế độ cũ nữa. Hình phạt 7 đến 15 năm tù 6 tháng đến 3 năm 3 tháng đến 2 năm Xem thêm bài viết: Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hình thức tử hình nào?
Cố tình thả chó cắn người, người chủ bị xử lý thế nào?
Mới đây, vụ việc đánh nhau ở Đà Nẵng, một người thả chó dữ cắn đối thủ bị thương nặng bị tuyên án về tội giết người. Theo đó, ngày 20/6, TAND TP Đà Nẵng đã xét xử và tuyên anh T.Đ.T về tội giết người với hành vi thả chó dữ để tấn công đối thủ, làm nạn nhân bị thương tích ở nhiều vị trí trên cơ thể như đầu, cổ tay chân. Được biết nhóm ẩu đả gồm có 03 người, vì bị 02 người còn lại tấn công nên anh T.Đ-T đã về nhà dẫn một con chó pitpull, một con chó béc giê đang nhốt trong chuồng qua. Theo đó, hành vi về nhà dẫn hai con chó chạy qua nhà đối thủ để cho chó pitpull cắn ở nhiều vị trí trên cơ thể của nạn nhân gây tỷ lệ thương tích 29% nên anh T.Đ.T đã bị tuyên về tội giết người. Theo Bộ luật Hình sự 2015, quy định về Tội Giết người như sau: Căn cứ theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: Khung 1: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên; - Giết người dưới 16 tuổi; - Giết phụ nữ mà biết là có thai; - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; - Thực hiện tội phạm một cách man rợ; - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; - Thuê giết người hoặc giết người thuê; - Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; - Vì động cơ đê hèn. Khung 2: Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 3: Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Tham khảo: Sau đây là những điều mà người nuôi chó cần biết: Thứ nhất, theo Quyết định 193/QĐ-TTg ban hành ngày 13/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ, để khống chế và loại trừ bệnh dại, người nuôi chó phải quản lý chó nuôi, phải tiêm phòng vac-xin dại cho đàn chó, cam kết nuôi nhốt (hoặc xích), giữ chó trong khuôn viên của gia đình, khi ra ngoài còn phải đeo rọ mõm cho chó, khi đưa chó ra nơi công cộng phải xích giữ chó hoặc có người dắt. Thứ hai, căn cứ theo Khoản 2 Điều 7 Nghị định 90/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 04/2020/NĐ-CP, chủ nuôi không tiêm phòng vắc xin phòng bệnh dại cho chó; không đeo rọ mõm cho chó hoặc không xích giữ chó, khô có người dắt chó ra nơi nông cộng có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Thứ ba, đối với các trường hợp chó dữ tấn công người khác gây tổn hại sức khỏe, tài sản thì tùy theo mức độ tổn hại mà chủ nuôi chó phải bồi thường cho người bị hại theo Điều 603 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể: - Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. - Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. - Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. - Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Thứ tư, trường hợp chó nuôi gây thiệt hại đến sức khỏe của người khác thì chủ chó cần tiến hành bồi thường căn cứ tại Điều 590 BLDS 2015 quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Trong trường hợp dẫn đến hậu quả chết người, chủ nuôi chó phải bồi thường thiệt hại do súc vật mình nuôi gây ra theo Khoản 1 Điều 591 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm” và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần theo khoản 2 Điều này. Thứ năm, chủ nuôi chó phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp sơ suất trong việc quản lý, nuôi thả chó gây ra hậu quả chết người “Tội vô ý làm chết người” theo Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015, cụ thể: - Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. - Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Án lệ 59/2023/AL về xác định tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp
Đây là một trong 07 những án lệ được Tòa án nhân dân tối cao công bố tại Quyết định 39/QĐ-CA năm 2023 Cụ thể, Án lệ số 59/2023/AL đưa ra hướng xác định tội danh đối với trường hợp bị cáo dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị hại. Bị hại điều khiển xe mô tô bỏ chạy, bị cáo tiếp tục truy đuổi làm bị hại lo sợ phải tăng tốc bỏ chạy. Khi bị hại bị tai nạn thì bị cáo mới dừng việc truy đuổi. Bị hại tử vong trên đường đi cấp cứu. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên, kháng cáo của các bị cáo và Đại diện hợp pháp của bị hại đúng hình thức, trong hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết phúc thẩm. [2] Lời khai tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo Đặng Văn T, bị cáo Triệu Văn M phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như lời khai của Nguyễn Thị L, các Kết luận giám định, Biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ trong vụ án, từ đó đã đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 20-12-2018, Đặng Văn T và Triệu Văn M dùng tay, chân đấm đá, rồi sử dụng gậy kim loại đánh nhiều nhát vào đầu, mặt, tay, sườn, lưng của Nguyễn Ngọc V. Khi V điều khiển xe mô tô bỏ chạy thì T và M dùng xe mô tô tiếp tục truy đuổi theo V để đánh với vận tốc trên 50km/giờ. T cầm theo gậy sắt, còn M hô to “Địt mẹ chúng mày đứng lại”. V thấy vậy tăng ga bỏ chạy, khi đến ngã ba thuộc địa phận thôn 4, xã Tân Đồng, huyện Trấn Yên do đi nhanh không làm chủ tay lái, V lao xe qua đường lên bãi đất trống thì bị ngã xe và tử vong trên đường đi cấp cứu. Hành vi của các bị cáo T và M sử dụng gậy kim loại, là hung khí nguy hiểm đánh nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, thân thể V, sau đó dùng xe mô tô truy đuổi V là rất nguy hiểm. Anh V trong tình trạng vừa bị đánh đau, lại vẫn bị các bị cáo truy đuổi, uy hiếp, đe dọa, buộc anh V lo sợ tiếp tục bị đánh nên đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy với vận tốc nhanh, trên đường bê tông liên thôn có nhiều khúc cua liên tiếp, nhiều đoạn có độ dốc lớn trong điều kiện trời tối, có khả năng gây tai nạn nguy hiểm dẫn đến chết người. Các bị cáo buộc phải nhận thức được điều đó, nhưng vẫn tiếp tục đuổi theo anh V 1300 mét, cho đến khi thấy anh V bị ngã xe mới dừng lại. Với hành vi nguy hiểm nêu trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi phạm tội của các bị cáo là rất quyết liệt, chứng tỏ về mặt chủ quan các bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, nhưng có ý thức chấp nhận để hậu quả chết người xảy ra và thực tế là anh V đã chết. Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo T và M đã phạm vào tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp. Việc cấp sơ thẩm điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là không chính xác. Do đó, cần hủy Bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong Bản án sơ thẩm, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự. [3] Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có căn cứ cho thấy hành vi của các bị can đã thực hiện cấu thành tội “Giết người”, nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên giữ nguyên quyết định truy tố về tội “Cố ý gây thương tích”, nên Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên đã xét xử theo thẩm quyền và kiến nghị kháng nghị về tội danh trong bản án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không có lỗi trong việc cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm. [4] Do Bản án sơ thẩm bị hủy để điều tra lại nên những nội dung kháng cáo, kháng nghị về hình phạt và trách nhiệm dân sự được xem xét, giải quyết trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án. [5] Các bị cáo và Đại diện hợp pháp của người bị hại không phải chịu án phí phúc thẩm. Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự, QUYẾT ĐỊNH: 1. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái để điều tra lại. Giao hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái để giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. 2. Về án phí: Căn cứ điểm f khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Các bị cáo và Đại diện hợp pháp của người bị hại không phải chịu án phí phúc thẩm. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. NỘI DUNG ÁN LỆ: “[3] Lời khai tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo Đặng Văn T, bị cáo Triệu Văn M phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như lời khai của Nguyễn Thị L, các kết luận giám định, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ trong vụ án, từ đó đã đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 20 giờ ngày 20/12/2018, Đặng Văn T và Triệu Văn M dùng tay, chân đấm đá, rồi sử dụng gậy kim loại đánh nhiều nhát vào đầu, mặt, tay, sườn, lưng của Nguyễn Ngọc V. Khi V điều khiển xe mô tô bỏ chạy thì T và M dùng xe mô tô tiếp tục truy đuổi theo V để đánh với vận tốc trên 50km/giờ. T cầm theo gậy sắt, còn M hô to “Đ** mẹ chúng mày đứng lại”. V thấy vậy tăng ga bỏ chạy, khi đến ngã ba thuộc địa phận thôn 4, xã T, huyện Y do đi nhanh không làm chủ tay lái, V lao xe qua đường lên bãi đất trống thì bị ngã xe và tử vong trên đường đi cấp cứu. [4] Hành vi của các bị cáo T và M sử dụng gậy kim loại, là hung khí nguy hiểm đánh nhiều nhát vào vùng đầu, mặt, thân thể V, sau đó dùng xe mô tô truy đuổi V là rất nguy hiểm. Anh V trong tình trạng vừa bị đánh đau, lại vẫn bị các bị cáo truy đuổi, uy hiếp, đe dọa, buộc anh V lo sợ tiếp tục bị đánh nên đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy với vận tốc nhanh, trên đường bê tông liên thôn có nhiều khúc cua liên tiếp, nhiều đoạn có độ dốc lớn trong điều kiện trời tối, có khả năng gây tai nạn nguy hiểm dẫn đến chết người. Các bị cáo buộc phải nhận thức được điều đó, nhưng vẫn tiếp tục đuổi theo anh V 1300 mét, cho đến khi thấy anh V bị ngã xe mới dừng lại. Với hành vi nguy hiểm nêu trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi phạm tội của các bị cáo là rất quyết liệt, chứng tỏ về mặt chủ quan các bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra, nhưng có ý thức chấp nhận để hậu quả chết người xảy ra và thực tế là anh V đã chết. [5] Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo T và M đã phạm vào tội “Giết người” với lỗi cố ý gián tiếp…”
Mẹ đánh con ruột dẫn đến tử vong có thể bị tử hình!
Mới đây, vụ việc người phụ nữ nhiều lần dùng gậy tre, móc phơi quần áo, ống nhựa, ghế nhựa, muôi múc canh đánh vào đầu con trai ruột 6 tuổi dẫn đến tử vong gây phẫn nộ trong dư luận. Theo đó, mức phạt về hành vi đánh đập con ruột dẫn đến tử vong là gì? Cụ thể, vụ việc xảy ra vào ngày 9/12, khi công an nhận được tin báo của bệnh viện nơi nạn nhân đang cấp trong tình trạng ngừng tim, môi tím, đồng tử giãn hai bên, ngưng tuần hoàn, có nhiều vết thương tích trên mặt và người, đã tử vong. Trước đó, được biết vì không nghe lời, lười học, có hành động như xé sách vở nên người mẹ đã nhiều lần dùng gậy tre dài khoảng 1,4m; móc phơi quần áo dài khoảng 40-50cm; ống nhựa (dạng ống nhựa pvc) dài khoảng 50cm và ghế nhựa đánh vào mông, chân tay và người của nạn nhân. Đến đầu tháng 12, bức xúc trước việc con ruột nhiều lần đi vệ sinh ra quần, giường ngủ và nền nhà, nên người mẹ tiếp tục có hành vi dùng một chiếc muôi múc canh màu trắng bằng kim loại dài khoảng 25cm có sẵn đánh 2 phát vào vùng đỉnh đầu của nạn nhân. Cú đánh khiến nạn nhân phải nhập viện cấp cứu nhưng không qua khỏi. Hành vi đánh con ruột dẫn đến tử vong của người mẹ gây bức xúc trong dư luận và là hồi chuông cảnh tỉnh cho các phụ huynh có con nhỏ. Vậy mức phạt nào dành cho hành vi đánh trẻ em dẫn đến tử vong? Về mặt pháp lý hành vi bạo hành trẻ em đã xâm phạm quyền xâm phạm quyền cơ bản của con người, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể con người, thậm chí có thể là cả quyền được sống được công nhận trong hiến pháp. Ngoài ra, thuộc một trong các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 6 Luật Trẻ em 2016 “Tước đoạt quyền sống của trẻ em”. Hành vi đánh đập người dẫn đến tử vong có thể xét theo Bộ luật Hình sự 2015 như sau: 1) Hành vi đánh đập không nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của người khác, hậu quả chết người nằm ngoài ý muốn thì có thể bị xử lý về hành vi cố ý gây thương tích với tình tiết định khung tăng nặng là làm chết người. Theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp tại điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Mức phạt cao nhất cho Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tù chung thân. Ngoài ra, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. 2) Tuy nhiên, nếu hành vi đánh đập tác động ngoại lực vào những bộ phận nguy hiểm trên cơ thể nạn nhân, nhằm mục đích tước đoạt tính mạng sống của nạn nhân. Mặc dù có thể không nghĩ đến việc tước đoạt tính mạng, nhưng chỉ vì nóng giận mà đánh đập vào vùng xung yếu của cơ thể nạn nhân, người phạm tội cần nhận thức được rằng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng cho nạn nhân nhưng vẫn hành động không quan tâm đến hậu quả có thể xảy ra. Thì có thể bị truy cứu về Tội giết người theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Mức phạt cao nhất cho tội này khi giết người dưới 16 tuổi có thể bị tử hình theo điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS 2015. Trên đây là bài viết tham khảo về mức phạt đối với hành vi đánh đập con ruột dẫn đến tử vong.
Giết người rồi tự sát, trách nhiệm còn lại ai sẽ chịu?
Thời gian gần đây, dư luận nhận được hàng loạt thông tin thương tâm về các vụ án giết người vì mâu thuẫn tình cảm. Sự nhẫn tâm, dã man trong các vụ án làm dư luận phải rùng mình. Mới đây nhất là vụ án ở Hải Dương, được biết người đàn ông vì mâu thuẫn trong quan hệ tình cảm mà giết bạn gái rồi tự sát nhưng không thành. Vấn đề đặt ra, nếu giết người rồi tự sát thì trách nhiệm còn lại thuộc về ai? Trách nhiệm hình sự trong trường hợp hung thủ đã chết - Người có hành vi giết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). - Theo quy định tại khoản 7 Điều 157 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, trong trường hợp vụ việc chỉ có một người duy nhất là hung thủ và có kết luận là người này đã chết mà không cần tái thẩm đối với người khác thì Viện kiểm sát không khởi tố vụ án hình sự. Ngoài ra, nếu có căn cứ xác định trong vụ án còn có những đồng phạm khác hỗ trợ hung thủ thực hiện hành vi phạm tội thì những người này phải chịu trách nhiệm hình sự theo phán quyết của Tòa án. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hung thủ đã chết Theo khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Vì hung thủ đã giết người nên người thừa kế của hung thủ có nghĩa vụ bồi thường về tính mạng, tài sản và tinh thần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nạn nhân. Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mức bồi thường như sau: - Theo Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm: + Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. + Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút. + Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. + Thiệt hại khác do luật quy định. - Theo Điều 591 Bộ luật Dân sự 2015, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: + Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự 2015; + Chi phí hợp lý cho việc mai táng; + Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; + Thiệt hại khác do luật quy định. + Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại. Nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Hiện hành, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng. Như vậy mức bù đắp tổn thất về tinh thần cho người nhà nạn nhân tối đa là 149.000.000 đồng.
Tóm tắt: Việc đánh giá chứng cứ, xác định chính xác tội danh trong nhóm tội xâm phạm tính mạng sức khỏe (Giết người, Cố ý gây thương tích) và một số tội danh liên quan (Gây rối trật tự công cộng) do hành vi vượt quá của các đồng phạm gây ra trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Bài viết nêu lên một số trường hợp dễ nhầm lẫn trong quá trình định tội danh từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, bất cập về quy định pháp luật; đồng thời đề xuất một số định hướng pháp luật giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh chính xác, tránh tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Hành vi của các nhóm đối tượng tụ tập đông người, sử dụng dao, kiếm, vũ khí hoặc các hung khí nguy hiểm khác tấn công lẫn nhau, gây huyên náo làm mất an ninh trật tự, làm tổn hại tính mạng, sức khỏe của người khác… đã xâm phạm đến những khách thể chung của nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe được Bộ luật Hình sự (BLHS) bảo vệ thông qua các quy định tại các Điều 123 tội Giết người (GN), Điều 134 tội Cố ý gây thương tích (CYGTT) và một số tội danh khác có liên quan thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 tội Gây rối trật tự công cộng (GRTTCC). Một trong những đặc điểm chung của các tội danh trên là các đối tượng trong cùng vụ án, là đồng phạm, có những hành vi tương tự nhau, có hoặc không bàn bạc trước về hậu quả xẩy ra hoặc bỏ mặc hậu quả xảy ra... Để cá thể hóa hành vi phạm tội, cá thể hóa tội danh, hình phạt đối với từng trường hợp đồng phạm trong vụ án, đòi hỏi các cơ quan tố tụng và những người tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ, đánh giá chính xác tội danh để không bị sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Sau đây, chúng tôi nêu lên một số căn cứ phân biệt các dấu hiệu cơ bản giữa các tội danh GN, CYGTT, GRTTCC và một số chú ý trong trường hợp vượt quá của đồng phạm, dễ nhầm lẫn khi đánh giá chứng cứ xác định tội danh và đề xuất một số kiến giải hoàn thiện pháp luật, cụ thể: 1. Một số căn cứ cơ bản phân biệt các tội danh Giết người, Cố ý gây thương tích, Gây rối trật tự công cộng có đồng phạm. Khi phân biệt những tội danh trên cần chú ý đến các dấu hiệu thuộc yếu tố cấu thành cơ bản: Căn cứ Tội Giết người (Điều 123) Tội CYGTT (Điều 134) Tội GRTTCC (Điều 318) Loại tội Đặc biệt nghiêm trọng Nghiêm trọng Ít nghiêm trọng Khách thể Tính mạng, sức khỏe của con người Tính mạng, sức khỏe của con người Tính mạng, sức khỏe của con người. Sự hoạt động bình thường cơ quan, tổ chức, xã hội... Hành vi khách quan Hành vi hành động quyết liệt. Sử dụng vũ lực để tước đoạt tính mạng của người khác. Hành vi hành động. Sử dụng vũ lực để gây tổn hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Có thể là hành vi hành động và không hành động. Có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp gây thương tích cho người khác. Sử dụng vũ lực để tấn công gây huyên náo, làm mất an ninh trật tự, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của con người Vị trí gây thương tích Vùng trọng yếu của cơ thể quyết định sự tồn tại, tử vong của con người như: Đầu, cổ, gáy, ngực, bụng... Có thể là vùng trọng yếu của cơ thể. Chủ yếu là các vùng không phải trọng yếu của cơ thể như: Tổn thương ngoài phần thân không làm tổn thương hoặc tổn thương nhẹ các cơ quan nội tạng. Không gây thương tích hoặc gây thương tích rất nhẹ ở những vị trí không nguy hiểm. Tính chất hành vi phạm tội Mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra cao nhất. Cường độ tấn công liên tục, nhanh, quyết liệt trong việc tước đoạt tính mạng của người khác. Mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra cao. Cường độ tấn công có thể liên tục, nhanh nhưng không quyết liệt như hành vi GN. Không mong tước đoạt tính mạng của người khác. Mong muốn làm tổn thương sức khỏe của người khác. Mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra thấp nhất trong 3 tội danh. Việc tấn công gây tổn hại cho sức khỏe, tính mạng của người khác có thể có hoặc không có. Thông thường là những đồng phạm cùng tham gia đánh nhau nhưng thực hiện hành vi không hành động hoặc không gây tổn thương đến sức khỏe của người khác. Hậu quả - Chết người - Gây tổn hại sức khỏe của người khác - Gây tổn hại sức khỏe của người khác - Chết người - Gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự - Gây tổn hại sức khỏe của người khác - Chết người Chủ thể Cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên. Cá nhân từ đủ 14 tuổi trở lên. Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên. Lỗi Cố ý trực tiếp Cố ý trực tiếp, Cố ý gián tiếp Cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp 2. Thực trạng đánh giá chứng cứ, xác định tội danh Giết người, Cố ý gây thương tích, Gây rối trật tự công cộng 2.1 Các trường hợp dễ nhầm lẫn tội danh a) Nhầm lẫn giữa tội GN và tội CYGTT dẫn đến hậu quả chết người: Việc định tội danh trong trường hợp này thường khó, rất có thể nhầm lẫn cần chú ý việc chứng minh ý thức chủ quan, động cơ, mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả chết người là một trong những điều kiện quyết định việc xác định tội danh. Nhưng có phải trường hợp nào có hậu quả chết người đều là hành vi GN không? Việc xác định tội danh GN hay CGYTT chủ yếu phải dựa vào ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội (mong muốn tước đoạt tính mạng của người khác hay mong muốn làm tổn thương sức khỏe của người khác). Hậu quả chết người có thể là mong muốn hoặc không mong muốn của người thực hiện hành vi phạm tội. Có thể nói khái quát là hậu quả chết người là một trong những căn cứ quan trọng mang tính quyết định để xác định tội danh: khi sử dụng làm yếu tố định tội thì là tội GN, khi sử dụng làm tình tiết định khung tăng nặng thì là tội CYGTT. Việc chứng minh ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội không thừa nhận có mục đích, động cơ GN. Đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải chứng minh “ý thức chủ quan thông qua hành vi khách quan”. Dựa vào kết quả chứng minh này, cơ quan tố tụng sẽ quyết định hành vi của người phạm tội là GN hay CYGTT. Bên cạnh đó, khi định tội danh cũng cần chú ý một số yếu tố quan trọng khác góp phần quyết định việc xác định chính xác tội danh GN hay CGYTT là tư thế, vị trí, chiều hướng tác động, cường độ tấn công của hung khí lên cơ thể con người để gây ra hậu quả thương tích hoặc chết người[1]. Thực tiễn giải quyết các vụ án GN, CGYTT trong thời gian vừa qua cũng có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định “vùng nguy hiểm”, “vùng trọng yếu của cơ thể”[2]. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về những khái niệm này nên còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Tổng kết thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)[3] và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)[4] có thể hiểu vùng trọng yếu của cơ thể là những vùng quan trọng, chủ yếu của cơ thể con người nếu bị tổn thương có thể quyết định việc tồn tại hoặc tử vong của con người. Những vùng này bao gồm các vị trí đầu, cổ, gáy (các thương tích làm tổn thương sọ, não, động mạch cảnh, đốt sống cổ...); ngực, lưng, bụng (các thương tích làm tổn thương tim, phổi hoặc cơ quan nội tạng khác); vùng hông, đùi trên (các thương tích làm tổn thương động mạch chủ...). Nghiên cứu các Thông báo rút kinh nghiệm số 05/TB-VC1-HS ngày 13/02/2019 và số 06/TB-VC1-HS ngày 25/3/2019 của VKSNDTC thấy việc xác định tội danh CGYTT hay GN cần phải căn cứ vào các yếu tố: hung khí sử dụng, vị trí tấn công, tư thế, chiều hướng, cường độ tấn công, thái độ của người thực hiện tội phạm đối với hậu quả gây ra (tưởng chết bỏ đi hoặc tấn công cho đến khi không còn chống cự, bỏ mặc hậu quả). Vụ án Tạ Duy H[5] cho thấy cách chứng minh ý thức chủ quan thông qua hành vi khách quan của người thực hiện hành vi phạm tội: Bị cáo đứng trực diện, tấn công làm bị hại ngã, mất khả năng chống cự rồi lại tấn công vào vùng đầu, cổ bị hại với cường độ liên tiếp cho đến khi thấy bị hại nằm im (tưởng đã chết hoặc bỏ mặc không đưa bị hại đi cấp cứu) thì bị cáo mới dừng việc tấn công lại. Điều này cho thấy diễn biến hành vi khách quan mà bị cáo H thực hiện đã thể hiện ý thức muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại (không phụ thuộc vào hậu quả chết người). Cả hai Thông báo rút kinh nghiệm trên đều nêu về trường hợp phạm tội GN mà không căn cứ vào hậu quả chết người, chỉ cần người phạm tội sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công vào vùng trọng yếu có khả năng dẫn đến chết người là có dấu hiệu của tội GN (thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt). Do đó, quá trình định tội danh cần lưu ý: Khi có hậu quả chết người xảy ra thì việc xác định tội danh GN thường chính xác. Còn đối với các trường hợp hậu quả chết người chưa xảy ra, chỉ có hậu quả thương tích có thể nhẹ (khoản 2) hoặc rất nhẹ (khoản 1) của tội CYGTT thì việc chứng minh ý thức chủ quan thông qua hành vi khách quan là rất quan trọng. Chúng ta phải làm rõ diễn biến khách quan của hành vi phạm tội, xem xét lời khai của người phạm tội, người bị hại, người làm chứng một cách chi tiết, rồi đối chiếu với đặc điểm thương tích, xác định cơ chế hình thành thương tích của người bị hại để chứng minh ý thức chủ quan của người phạm tội. Việc hiểu không chính xác tinh thần hướng dẫn của VKSND tối cao đã dẫn đến một số sai sót trong nhận thức đánh giá chứng cứ: Hành vi “sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng nguy hiểm là hành vi giết người” mà không cần quan tâm đến các yếu tố ý thức chủ quan của người phạm tội. Do đó, khi đánh giá chứng cứ xác định tội danh cần chú ý tránh những sai sót thường mắc phải: Một là, xác định mục đích tấn công vào vùng trọng yếu không chính xác: Trường hợp người phạm tội không mong muốn tước đoạt tính mạng của bị hại nhưng do quá trình ẩu đả hai bên cùng tấn công nhau, tư thế vị trí của các bên liên tục thay đổi do việc giằng co, vật lộn thì việc dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu (không nhằm vào vị trí này tấn công) dẫn đến hậu quả chết người hoặc thương tích nặng thì theo chúng tôi cần xác định đây là trường hợp phạm tội CYGTT (hậu quả chết người sẽ sử dụng là tình tiết tăng nặng định khung). Trường hợp này cần thận trọng xem xét chi tiết diễn biến hành vi tấn công, tư thế, vị trí của người phạm tội và bị hại để định tội danh chính xác. Hai là, việc xác định tội danh chỉ dựa vào hung khí nguy hiểm, vùng trọng yếu nhưng không dựa vào yếu tố khác: Trường hợp người phạm tội dùng que tre (dài khoảng 02m-03m, nhỏ dần về ngọn, dạng mềm) để tấn công bị hại trong tư thế, khoảng cách đứng xa 03m-04m gây thương tích vào cùng đầu mặt (vùng trọng yếu) của bị hại gây thương tích không lớn. Trường hợp này không nên hiểu một cách máy móc về cách xác định hung khí nguy hiểm[6] mà cần nghiên cứu kỹ diễn biến hành vi phạm tội, đối chiếu với khả năng gây nguy hiểm xảy ra trên thực tế với các văn bản pháp luật hướng dẫn để đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra. b) Nhầm lẫn giữa hành vi CYGTT với hành vi GRTTCC Tội CYGTT (Điều 134) và GRTTCC (Điều 318) là hai tội danh thuộc hai nhóm khác nhau. Tội CYGTT thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe còn tội GRTTCC thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng. Hai tội danh này có hai nhóm khách thể bảo vệ khác nhau nhưng lại liên quan trực tiếp đến nhau. Thông thường các nhóm thực hiện hành vi phạm tội thuộc hai tội danh trên đều thuộc các vụ án có đông người tham gia. Tùy tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của các đối tượng trong vụ án để phân hóa, cá thể từng hành vi của các đối tượng có thuộc trường hợp vượt quá của đồng phạm hay không hoặc giữa các nhóm đối tượng với nhau (nhóm của bị can, bị cáo và nhóm của bị hại) để xác định tội danh cụ thể. Khi định tội danh đối với nhóm hành vi này thường nhầm lẫn tội danh trong trường hợp sau: Một là, xác định tội danh không chính xác trong trường hợp vượt quá của đồng phạm: Đây là trường hợp gây rối trật tự công cộng có hậu quả gây thương tích. Việc xác định tội danh trong trường hợp này đòi hỏi phải làm rõ sự bàn bạc, thỏa thuận của các đối tượng cùng nhau thực hiện hành vi gây huyên náo, mất an ninh trật tự là mục đích chính hay việc thỏa thuận cùng nhau gây thương cho người khác. Nếu có thỏa thuận việc gây thương tích cho người khác thì hành vi của các đối tượng là đồng phạm tội CYGTT. Việc các đối tượng thống nhất đi đánh nhau, có thỏa thuận chỉ gây thương tích (đánh cảnh cáo) thì trong nhóm có đối tượng gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người tùy từng trường hợp định tội danh GN hoặc CGYTT trong trường hợp vượt quá của đồng phạm (vượt quá hậu quả). Các đối tượng thỏa thuận đi đánh nhau nhưng không thực hiện được hành vi phạm tội do gặp phải sự cản trở của người khác nhưng những đối tượng còn lại không bị cản trở, vẫn gây thương tích cho người bị hại thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội CYGTT. Ngoài những đối tượn trực tiếp chuẩn bị hung khí, tham gia gây thương tích cho người bị hại còn những đối tượng khác cùng tham gia gây huyên náo trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự thì cần phải xử lý về tội GRTTCC. Hai là, phân hóa vai trò người đồng phạm giúp sức với người thực hành trong trường hợp phạm tội chưa đạt: Cũng cần chú ý phân biệt giữa vai trò của các đồng phạm trong trường hợp chuẩn bị hung khí cho các đối tượng khác đi đánh nhau (khoản 6 Điều 134)[7] với trường hợp đồng phạm với vai trò là người thực hành chưa gây thương tích cho người khác (chịu chung hậu quả với người thực hành). Đây là trường hợp đồng phạm với vai trò giúp sức nhưng hành vi chưa gây hậu quả thương tích còn trường hợp các đồng phạm khác đã gây hậu quả thương tích rồi thì không xử lý theo khoản 6 Điều 134 mà xử lý theo khung, khoản mà các đồng phạm khác cùng thực hiện. Ví dụ: A cung cấp hung khí cho cả nhóm của mình đi đánh nhau nhưng trên đường đi bị cơ quan Công an phát hiện, ngăn chặn việc thực hiện hành vi phạm tội thì A bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 6 Điều 134 BLHS. Còn trường hợp đồng bọn của A đi đánh B gây thương tích cho B thì tùy theo tỷ lệ tổn thương của B thì A và đồng bọn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội CYGTT. Ba là, cá thể hóa hành vi phạm tội theo các nhóm đối tượng (nhóm bị hại, nhóm người phạm tội): Khi các đối tượng thuộc các nhóm đối tượng gây thương tích cho nhau thì tùy từng trường hợp các cơ quan tố tụng sẽ phân hóa vai trò, cá thể hóa hành vi của từng đối tượng để buộc các đối tượng phải chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Thông thường nhóm đối tượng gây thương tích sẽ cùng chịu trách nhiệm hình sự về tội CYGTT với đồng phạm của mình trực tiếp hoặc tham gia gây thương tích cho người khác. Còn các đối tượng trong nhóm của người hại hoặc trong nhóm của đối tượng gây thương tích nhưng không phải là người giúp sức và trực tiếp hoặc tham gia gây thương tích cho người khác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC. Trường hợp này sẽ xảy ra vấn đề bất hợp lý trong việc phân hóa vai trò giữa các đối tượng CYGTT (khoản 1 Điều 134) với các đối tượng (khoản 2 Điều 318 BLHS). So sánh quy định giữa hai điều luật Điều 134, Điều 318 BLHS thì tội CYGTT nặng hơn tội GRTTCC. Nhưng khi các đối tượng cùng một nhóm tham gia đánh nhau với nhóm khác, đối tượng sử dụng hung khí gây thương tích (khoản 1) lại chịu trách hiệm hình sự nhẹ hơn đối tượng sử dụng hung khí gây rối trật tự (khoản 2). Nếu người bị hại rút đơn thì người phạm tội được đình chỉ điều tra (khoản 1 Điều 134), còn khoản 2 Điều 318 chỉ được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Như vậy, xét về khía cạnh tội phạm học và nguyên tắc có lợi cho người cho phạm tội thì khởi tố tội GRTTCC nhẹ hơn tội CYGTT, nhưng như trên đã phân tích cùng hành vi thì tội GRTTCC lại nặng hơn CYGTT. Thực tiễn còn có nhiều ý kiến trái chiều nhau trong trường hợp người phạm tội CYGTT (khoản 1 Điều 134) khi người bị hại rút đơn được đình chỉ điều tra thì có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC (khoản 2 Điều 318) nữa hay không? Chúng tôi cho rằng: theo nguyên tắc một hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần thì khi các đối tượng thực hiện một chuỗi hành vi phạm tội, đã thu hút các hành vi để xử lý theo tội danh CYGTT (nặng hơn) thì không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC (nhẹ hơn). Trường hợp người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố là tình tiết miễn truy cứu trách nhiệm hình sự (vẫn thuộc trường hợp có tội nhưng pháp luật trao quyền xử lý cho người bị hại, khi họ không yêu cầu khởi tố thì người phạm tội được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự) thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội GRTTCC. c) Nhầm lẫn giữa hành vi can ngăn của người làm chứng với hành vi đồng phạm tham gia đánh nhau Đây là trường hợp căn cứ vào ý thức chủ quan, hành vi khách quan của người liên quan trong vụ án để xác định tư cách tham gia tố tụng. Việc xác định ý thức chủ quan của những người đi cùng trong nhóm đối tượng đánh nhau gây thương tích rất quan trọng đặc biệt là trường hợp khi họ có thực hiện một số hành động chống trả cần thiết để can ngăn các đối tượng đánh nhau. Việc xác định chính xác hành vi nào là can ngăn, là tấn công gây thương tích đòi hỏi KSV phải nghiên cứu hồ sơ chi tiết, tỉ mỉ, hệ thống hóa chứng cứ rõ ràng để tránh bị sai sót trong quá trình giải quyết vụ án. 2.2 Các trường hợp loại trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 136 BLHS): Để các định chính xác người thực hiện hành vi tấn công gây thương tích cho người khác trong trường hợp này có cấu thành tội phạm hay không thì KSV cần chú ý xác định ai là người tấn công trước; mức độ tấn công, hành vi chống trả có tương xứng với hành vi tấn công hay không để từ đó xác định có thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hay không. Để đảm bảo việc phân loại, đánh giá chứng cứ đối với những trường hợp này KSV cần tham gia hỏi, ghi lời khai của đối tượng, người bị hại, người làm chứng ngay từ đầu để nắm bắt chính xác diễn biến hành vi, triệt tiêu các mâu thuẫn một cách kịp thời. Đồng thời phải tiến hành trưng cầu giám định thương tích sớm để xác định hậu quả thương tích có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Cần lưu ý, trường hợp thương tích nặng (từ 31% trở lên) thì dù hành vi thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng vẫn cấu thành tội phạm. Trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 BLHS): Trường hợp này KSV cần chú ý các tài liệu chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội. Có nhiều trường hợp người phạm tội bị tấn công trước, bị dồn nén, áp chế về tinh thần nên đã tấn công lại người bị hại. Khi người phạm tội bị kích động mạnh về tinh thần, gây thương tích cho người khác với hậu quả thương tích dưới 31% thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn với hậu quả thương tích trên 31% thì tương tự như trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc đánh giá thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, sau khi BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể, vẫn đang áp dụng tinh thần hướng dẫn của văn bản cũ.[8] Tùy từng trường hợp, người tiến hành tố tụng sẽ đánh giá trạng thái tinh thần của người phạm tội để xem xét là yếu tố định tội hay là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 3. Những khó khăn, vướng mắc và kiến giải hoàn thiện pháp luật phục vụ cho việc đánh giá chứng cứ, xác định chính xác tội danh đối với nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Quá trình giải quyết các vụ án CYGTT ở địa phương chúng tôi thấy có một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến hoạt động giám định tư pháp, cụ thể: Một là, theo quy định của Luật Giám định tư pháp thì việc giám định thương tích phải có bệnh nhân, không tiến hành giám định trên hồ sơ nên một số trường hợp tiến hành giám định chậm, người bị hại từ chối giám định vì nhiều lý do khác nhau thì không thể xử lý được đối với hành vi gây thương tích cho người khác đặc biệt là những trường hợp gây thương tích nặng. Việc người bị hại từ chối giám định thương tích hoặc vì lý do khách quan mà họ vắng mặt tại địa phương nơi cư trú, chưa thể tiến hành hoạt động giám định thương tích nên không thể xác định hậu quả thương tích của người bị hại đã dẫn đến tình trạng tạm đình chỉ giải quyết tin báo hoặc không thể khởi tố vụ án hình sự trong những trường hợp thương tích nặng. Đối với những trường hợp đã được điều trị tại cơ sở y tế, có hồ sơ bệnh án nhưng người bị hại cố tình vắng mặt, gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý tội phạm thì cần sửa đổi bổ sung Luật giám định tư pháp theo hướng cho phép tiến hành giám định trên hồ sơ bệnh án trong một số trường hợp cần thiết (có thể liệt kê cụ thể từng trường hợp) để tránh việc bỏ lọt tội phạm. Hai là, theo hướng dẫn tại Thông tư 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013 của Bộ Y tế về quy trình giám định tư pháp (Thông tư 47/2013) thì bên cạnh quyết định trưng cầu giám định các cơ quan tố tụng cần phải gửi các tài liệu kèm theo gồm “Bản sao hợp pháp tất cả hồ sơ bệnh án liên quan đến thương tích cần giám định; Các hồ sơ về y tế có liên quan giám định pháp y; Biên bản lời khai của bị hại, nghi can, nhân chứng” và trong trường hợp cần thiết, muốn giám định thương tích cho người bị hại sớm thì cơ quan điều tra phải gửi văn bản yêu cầu đề nghị cơ quan giám định. Hiện tại, bệnh viện và các cơ sở y tế điều trị chuyên khoa chỉ cung cấp hồ sơ bệnh án khi người bệnh đã xuất viện (hồ sơ do phòng hành chính tổng hợp cung cấp). Do đó, để tiến hành giám định được thương tích của người bị hại thì phải đợi họ điều trị khỏi thương tích, xuất viện mới có thể giám định được. Như vậy, một số trường hợp thương tích nặng, phải điều trị lâu dài (không tiên lượng được thời gian xuất viện) hoặc trường hợp thương tích không nặng, nhưng không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (khoản 2, khoản 3) nhưng thời gian điều trị thương tích lâu (quá thời gian giải quyết tin báo tố giác tội phạm, vụ án) thì sẽ dẫn đến tình trạng tồn đọng tin báo; gây khó khăn, cản trở, kéo dài thời gian xử lý đối tượng phạm tội. Đồng thời nếu người bị hại từ chối giám định thương tích sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, việc cung cấp “biên bản ghi lời khai của bị hại, nghi can, nhân chứng” trong một số trường hợp là hợp lý. Cơ quan giám định là cơ quan chuyên môn tiến hành giám định độc lập trên cơ sở chuyên môn y tế mới đảm bảo tính khách quan khi thực hiện nhiệm vụ. Việc tham khảo tài liệu điều tra có các nội dung liên quan đến diễn biến hành vi phạm tội của các đối tượng chỉ trong trường hợp gặp khó khăn khi xác định cơ chế hình thành thương tích. Hiện tại tất cả các quy trình giám định ban hành kèm theo Thông tư 47/2013 đều quy định phải có những tài liệu gửi kèm như trên là bất cập, không cần thiết, làm ảnh hưởng đến bí mật điều tra vụ án - đây là những tài liệu tuyệt mật nếu lỡ bị rò rỉ thông tin sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Do đó, cần phải sửa đổi các quy định này cho phù hợp với thực tiễn. Việc cơ quan giám định yêu cầu cơ quan điều tra phải có Công văn yêu cầu giám định sớm trong một số trường hợp khi bệnh nhân chưa xuất viện là máy móc, đôi khi cản trở hoạt động điều tra. Việc điều trị bệnh nhân phải có bệnh án ghi lại quá trình điều trị hàng ngày, việc bệnh viện quy định chỉ cung cấp hồ sơ bệnh án khi bệnh nhân xuất viện là thủ tục hành chính thông thường nhưng với các cơ quan tố tụng, khi cần các cơ quan chức năng phối hợp cung cấp tài liệu để kịp thời xử lý đối tượng phạm tội mà cơ sở y tế vẫn không cung cấp tài liệu, chờ đến khi bệnh nhân xuất viện thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xử lý hành vi vi phạm pháp luật. Cần xây dựng cơ chế phối hợp để đảm bảo việc cung cấp tài liệu phục vụ hoạt động giám định là nguồn chứng cứ quan trọng để cơ quan điều tra giải quyết vụ án hình sự. Do đó, cần sửa đổi quy định tại Thông tư 47/2013 theo hướng: Hồ sơ giám định gồm... “biên bản ghi lời khai của bị hại, nghi can, nhân chứng khi cần thiết.” Bên cạnh đó, các cơ quan tố tụng cũng cần xây dựng Quy chế phối hợp với Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hải Phòng để tiến hành giám định tư pháp kịp thời đối với những trường hợp cơ quan điều tra trưng cầu giám định để đảm bảo tiến độ điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mà không phải đòi hỏi văn bản yêu cầu giám định sớm. Ba là, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Nghị quyết số 02/2003 hướng dẫn BLHS năm 1999 không còn hiệu lực pháp luật nhưng chưa có văn bản thay thế hướng dẫn cách xác định trường hợp “hậu quả nghiêm trọng” trong tội GRTTCC. BLHS hiện hành không quy định yếu tố gây “hậu quả nghiêm trọng” trong tội GRTTCC nữa mà quy định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu” cho xã hội. Việc xác định thế nào là “ảnh hưởng xấu” tùy thuộc vào người tiến hành tố tụng. Có nhiều quan điểm về việc xác định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu”. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Các quy định của BLHS hiện hành so với các quy định BLHS năm 1999, không chỉnh sửa lớn về cấu thành tội phạm đối với tội danh này, chỉ là sửa về câu từ nên vẫn có thể vận dụng các quy định tại Nghị quyết 02/2003 để xác định hậu quả của vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng: BLHS hiện hành quy định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu” là nhẹ hơn các quy định tại Nghị quyết 02/2003 nên khi xử lý các đối tượng có hành vi gây rối chỉ cần xác định chính quyền địa phương làm rõ hậu quả phi vật chất này, xác định bằng văn bản ghi rõ “gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương” là đủ căn cứ đẻ xác định yếu tố gây “ảnh hưởng xấu”. Liên ngành Trung ương cũng cần sớm có hướng dẫn chính thức về vấn đề này để tạo điều kiện cho các cơ quan tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ. Bốn là, cần có hướng dẫn, giải thích về nguyên tắc đánh giá chứng cứ trong một só trường hợp cụ thể đối với hậu quả chung của vụ án đã được dùng để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh độc lập (vượt quá của đồng phạm) thì có dùng để làm căn cứ để xem xét truy cứu trách nhiệm sự về tội danh khác nữa hay không hoặc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự của đồng phạm khác hay không? Ví dụ: Hậu quả thương tích đã được dùng để xử lý hành vi CYGTT thì có được dùng hậu quả này để xác định làm hậu quả chung khi xử lý hành vi GRTTCC đối với chính người bị hại có hành vi gây rối không? Hoặc tương tự trong những trường hợp đối tượng đồng phạm trong cùng nhóm bị can có dấu hiệu vượt quá. Việc phân loại, phân hóa vai trò đồng phạm trong vụ án GYGTT, GN, GRTTCC là rất khó. Tùy từng vụ án mà người tiến hành tố tụng đánh giá chứng cứ, xác định ý thức chủ quan của người phạm tội, để đánh giá sự vượt quá của đồng phạm. Đòi hỏi những người tiến hành tố tụng đặc biệt là những ĐTV, KSV cần phải có kỹ năng nghiệp vụ tốt, có trình độ chuyên môn tương đối đồng đều để xác định chính xác tội danh, phân hóa chính xác vai trò của các đồng phạm trong vụ án là cơ sở để đảm bảo tính đúng đắn của vụ án, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Tài liệu tham khảo 1. Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người” có đồng phạm có nêu: trường hợp thương tích bị tổn thương ở vùng đầu, cổ, ngực... được xác định là vùng trọng yếu của cơ thể 2. Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; 3. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; 4. Nghị quyết số 04/HĐTP/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn BLHS năm 1985 5. Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS 6. Thông tư 47/2013/TT-BYT ngày 31/12/2013 của Bộ Y tế hướng dẫn về quy trình giám định tư pháp 7. Thông báo rút kinh nghiệm số 05/TB-VC1-HS ngày 13/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 8. Thông báo rút kinh nghiệm số 06/TB-VC1-HS ngày 25/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao Ts. Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Phó Viện trưởng VKSND huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng https://vksndtc.gov.vn/
Bài tập hình sự về xác định mục đích và động cơ khi giết người?
B là sinh viên giỏi, tương lai tươi sáng khi có thể nhận học bổng du học. Nhưng mẹ của b bị liệt nửa người khiến b bỏ nỡ việc học và học bổng. Nghĩ do mẹ ảnh hưởng tương lai b đã sát hại mẹ mình. Động cơ và mục đích của b là gì ạ?
Công an sử dụng súng sai mục đích bị xử lý như thế nào?
Vừa qua đã có sự việc một cán bộ công an chĩa súng vào nhân viên y tế khi bị yêu cầu đảm bảo nguyên tắc phòng ngừa dịch bệnh. Trên nguyên tắc, công an được sử dụng súng nhưng chỉ trong những trường hợp cần thiết khi đang thi hành công vụ để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội chứ không để đe dọa người khác. Việc công an sử dụng súng sai mục đích sẽ bị xử lý như thế nào trong quy định của pháp luật? Công an dùng súng sai mục đích thì bị xử lý như thế nào - Minh họa Để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội thì công an nhân dân là đối tượng được phép sử dụng súng theo quy định tại điểm d Điều 18, Luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ năm 2017. Tuy nhiên, pháp luật quy định nghiêm ngặt về nguyên tắc chỉ sử dụng vũ khí trong trường hợp cần thiết. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 23 Luật này,công an chỉ được dùng súng trong 06 trường hợp sau: 1. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó; 2. Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật; 3. Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác; 5. Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ; 6. Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác. Việc sử dụng vũ khí quân dụng sẽ tuân theo nguyên tắc tại điều 22 của luật này, cụ thể như sau: - Phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng; - Chỉ dùng súng khi đang thi hành công vụ nhằm đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội - Chỉ nổ súng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. - Không sử dụng vũ khí quân dụng khi biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; Hậu quả của việc nổ súng gây ra thiệt hại sẽ được chia ra thành hai trường hợp sau: 1. Nếu cán bộ công an sử dụng súng trong khi đang thi đang thi hành công vụ Cán bộ, công an đảm bảo các nguyên tắc sử dụng súng theo đúng các nguyên tắc tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 luật này như đã nêu trên, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc sử dụng súng gây ra. (Căn cứ theo khoản 4, điều 23 luật này) Trường hợp gây thiệt hại rõ ràng quá yêu cầu tình thế cấp thiết, thì cán bộ, công an có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm chết người trong khi thi hành công vụ căn cứ theo Điều 127 Bộ luật hình sự 2015. Mức phạt có thể lên đến 15 năm tù đồng thời có có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm Trường hợp cán bộ, công an trong lúc đang thi hành công vụ mà do lợi dụng, lạm dụng vũ khí để xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác mà không nhằm mục đích thi hành công vụ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người với tình tiết tăng nặng là lợi dụng nghề nghiệp theo điểm k điều 123 Bộ luật hình sự, tùy vào mức độ mà mức phạt có thể từ 12 năm tù đến chung thân, tử hình. 2. Nếu cán bộ công an sử dụng súng khi không đang thi hành công vụ: Người không đang thi hành công vụ mà sử dụng súng sai mục đích thì tùy vào mức độ vi phạm mà sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự: Về trách nhiệm hành chính:Căn cứ Khoản 3 Khoản 3 điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: Công an có thể bị phạt tiền từ mức từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng vũ khí phép nếu việc sử dụng súng chưa gây ra hậu quả. Về trách nhiệm hình sự: Người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều Điều 306 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ. - Nếu họ có hành vi sử dụng súng, lời nói đe dọa giết người và làm cho người bị đe dọa tin rằng mình có thể bị giết thì sẽ là dấu hiệu cấu thành tội “ Đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự” có thể bị phạt tù lên đến 07 năm. - Nếu công an dùng súng làm chết người trong trường hợp này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, mức phạt tù từ 12 năm đến chung thân, tử hình. Tóm lại, việc công an sử dụng súng mà gây ra hậu quả thì phải xem xét đến nhiều yếu tố để kết luận họ sẽ bị xử lý như thế nào. Một trong những yếu tố quan trọng là họ có đang trong thời gian thi hành công vụ hay không, mục đích của việc sử dụng súng có nhằm đảm bảo việc thi hành công vụ, có đáp ứng các nguyên tắc của pháp luật khi sử dụng vũ khí quân dụng hay không. Nếu cán bộ, công an sử dụng sai mục đích thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên.
Dọa ma làm người khác tử vong phải chịu trách nhiệm gì?
“Sợ ma” không phải là một biểu hiện hiếm gặp, tuy nhiên riêng đối với những người có vấn đề liên quan đến thần kinh, tim mạch thì việc hoảng sợ khi bị dọa ma còn có thể gây ra những hậu quả khôn lường như choáng váng, ngất xỉu, thậm chí là tử vong. Giả sử hành vi dọa ma làm người khác tử vong, lúc này người dọa ma có bị xử lý hình sự hay không? Dọa mà làm người khác tử vong - Minh họa Trước hết, về mặt dân sự, Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Trong đó, Điều 590 Bộ luật này cũng quy định việc bồi thường do xâm phạm tính mạng người khác bao gồm các khoản như Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, thiệt hại khác nếu có. Ngoài những khoản tiền trên, để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đã chết phải gánh chịu, mức bồi thường này tối đa bằng 50 lần mức lương cơ sở. Đây là nghĩ vụ bồi thường thiệt hại, tuy nhiên về mặt hình sự thì khả năng cao người này sẽ bị truy cứu một tội quy định tại Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015, đó là tội Vô ý làm chết người. Tội này được quy định như sau: “Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Lỗi “vô ý” ở đây bao gồm 2 trường hợp: + Làm chết người do vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (khoản 1 Điều 11 BLHS) => Tức là bạn biết rõ dọa ma có thể làm người khác giật mình và ảnh hưởng đến sức khỏe, nhưng tin rằng sự ảnh hưởng tiêu cực đó sẽ không xảy ra hoặc nếu xả ra thì bạn có thể ngăn chặn được bằng cách sơ cứu, gọi cấp cứu,... + Làm chết người do lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. (khoản 2 Điều 11 BLHS) => Tức là bạn không biết rằng việc dọa ma này có thể gây ra nguy hiểm đến tính mạng, mặc dù bạn phải thấy trước, hoặc có thể thấy trước hậu quả đó. Cần phải hiểu là việc dọa ma dù ít hay nhiều cũng sẽ gây giật mình, mà việc giật mình này ảnh hưởng đến thần kinh, tim mạch. Đây là chuyện mà pháp luật buộc bạn phải biết! Dù bạn mắc lỗi vô ý nào trong hai trường hợp ở trên thì khi hậu quả “làm chết người” xảy ra (đây là hậu quả bắt buộc nếu mới , pháp luật quy định trách nhiệm hình sự mà bạn phải đối mặt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Nếu người nào đó biết chắc chắn người khác có vấn đề về sức khỏe, dễ gặp tai nạn nếu bị dọa ma mà vẫn cố tình thực hiện thì thậm chí còn có thể bị truy cứu về tội Giết người, với hình phạt ít nhất 7 năm tù. Hành vi dọa ma có thể chỉ là vui đùa, không nhằm múc đích xấu, tuy nhiên chúng ta phải hiểu rõ tình hình sức khỏe của đối phương, bởi lẽ pháp luật bảo vệ quyền quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, hành vi xâm phạm sức khỏe mà gây thiệt hại đến tính mạng chắc chắn phải bị xử lý!
Từ vụ giết người tại Quận 7: Thế nào là Giết người có tính chất “Man rợ”?
Vụ giết người tại Quận 7 TP. HCM xảy ra hôm 26/9 làm nhiều người không khỏi bàng hoàng. Sau khi hung thủ ra tay, phần đầu của nạn nhân rời hoàn toàn khỏi thân. Trong quy định của Bộ luật Hình sự có nhắc đến khái niệm “tính chất man rợ” đối với hành vi giết người, vậy có thể áp dụng tình tiết đó vào vụ án này hay không? Như thế nào là giết người man rợ - Minh họa Theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 thì hành vì giết người “man rợ” là một trong những tình tiết tăng nặng, khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. “Giết người” là hành vi tước đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật, khi thực hiện hành vi này, có rất nhiều phương thức để thực hiện tội phạm, tùy vào tính chất, mức độ mà hình phạt nhẹ nhất theo quy định tại Điều 123 BLHS là 7 năm tù trở lên, nặng nhất có thể là tù chung thân. Hiện nay, văn bản được tham khảo để giải thích tính “man rợ” của hành vi giết người là Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ năm 1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong đó: “1) Tội giết người (Điều 101) a) Một số tình tiết thể hiện tính nguy hiểm cao của tội phạm (ở khoản 1)” + Thực hiện tội giết người một cách man rợ (điểm b) như kẻ phạm tội không còn tính người, dùng những thủ đoạn gây đau đớn cao độ, gây khiếp sợ đối với nạn nhân hoặc gây khủng khiếp, rùng rợn trong xã hội (như: móc mắt, xẻo thịt, moi gan, chặt người ra từng khúc…).” Theo đó, thẩm phán sẽ căn cứ vào mức độ tàn bạo, sự mất nhân tính của hành vi giết người để xem xét tính “man rợ”. Theo tâm lý của người bình thường thì những hành động như trên không hề dễ dàng để thực hiện mà chỉ có thể xuất hiện trên phim kinh dị, phim tội phạm,… những hành vi này không những trái với đạo đức, vi phạm pháp luật mà còn gây ảnh hưởng tới dư luận xã hội cũng như an ninh trật tự, gây ra sự sợ hãi trong cộng đồng. Thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính chất man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp “thực hiện tội phạm một cách man rợ”. Ví dụ: sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” thì nên quy định trường hợp phạm tội này là “phạm tội một cách man rợ”, vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người. Như vậy, kể cả trường hợp nạn nhân trong vụ án ở quận 7 bị chặt đầu khi còn sống hay sau khi giết người hung thủ mới ra tay với thi thể thì đều có thể được coi là hành vi giết người man rợ và nằm ở khung tăng nặng của tội Giết người.