Các trường hợp giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật dân sự hiện hành?
Theo quy định pháp luật thì giám hộ được hiểu như thế nào? Các trường hợp giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự được quy định ra sao? Chế định giám hộ theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành? Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật Dân sự 2015 (gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (gọi chung là người được giám hộ). Đối với trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 thì người được giám hộ bao gồm: - Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; - Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; - Người mất năng lực hành vi dân sự; - Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Về nguyên tắc, một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Các trường hợp giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật dân sự hiện hành? Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên (gồm người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; và người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ) được xác định theo thứ tự sau đây: - Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 53 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, trừ trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đã lựa chọn người giám hộ cho mình theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật dân sư 2015, thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau: - Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. - Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ. - Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không?
Cha, mẹ là những người nuôi dưỡng và nhiều trường hợp phải có trách nhiệm đối với những giao dịch do con chưa thành niên xác lập. Nhưng nhận định cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của con chưa thành niên là đúng hay sai? Giám hộ là gì? Theo Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: Giám hộ là người giám hộ (bao gồm: cá nhân, pháp nhân) thực hiện một số hành vi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ trước pháp luật. Người giám hộ có thể được Cơ quan nhà nước cử hoặc chỉ định hoặc đã là người giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật. Chức năng của người giám hộ sẽ thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ là những người như sau: chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi. Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không? Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: – Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. – Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. – Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 . – Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau: – Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). – Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. – Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau: – Người được giám hộ bao gồm: + Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; + Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; + Người mất năng lực hành vi dân sự; + Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. – Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ. Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt? Căn cứ Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau: – Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. – Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự – Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. – Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác. – Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, từ căn cứ trên nếu trường hợp người đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn cần có người giám hộ.
Được quyền từ chối làm giám hộ đương nhiên không?
cho em hỏi có quyền từ chối làm giám hộ đương nhiên không?
"Giám hộ đương nhiên" theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 thì: Giám hộ được hiểu là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). - Để trở thành người giám hộ thì cá nhân phải thỏa mãn các điều kiện sau: 1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. 3. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác. 4. Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì có 02 trường hợp giám hộ đương nhiên, đó là: - Giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên - Giám hộ đương nhiên đối với người mất năng lực hành vi dân sự 1. Giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên: Người chưa thành niên theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật dân sự 2015 sẽ phải có người giám hộ đương nhiên. Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo thứ tự quy định tại Điều 52 BLDS 2015: - Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ 2. Giám hộ đương nhiên đối với người mất năng lực hành vi dân sự Theo quy định tại Điểm c Điều 47 BLDS 2015 thì người bị mất năng lực hành vi dân sự cần phải có người giám hộ. Trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ theo quy định tại Điều 48 BLDS 2015 thì người giám hộ đương nhiên của người đó được xác định như sau: - Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. - Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ. - Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ. Như vậy, theo các quy định ở trên có thể thấy người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên hay người bị mất năng lực hành vi dân sự là người thân thích đối với họ để có thể đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người được giám hộ.
Các trường hợp giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật dân sự hiện hành?
Theo quy định pháp luật thì giám hộ được hiểu như thế nào? Các trường hợp giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự được quy định ra sao? Chế định giám hộ theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành? Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định rằng: Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật Dân sự 2015 (gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (gọi chung là người được giám hộ). Đối với trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 thì người được giám hộ bao gồm: - Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; - Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; - Người mất năng lực hành vi dân sự; - Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Về nguyên tắc, một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Các trường hợp giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật dân sự hiện hành? Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên (gồm người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; và người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ) được xác định theo thứ tự sau đây: - Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định trên thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 53 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, trừ trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đã lựa chọn người giám hộ cho mình theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật dân sư 2015, thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau: - Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. - Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ. - Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không?
Cha, mẹ là những người nuôi dưỡng và nhiều trường hợp phải có trách nhiệm đối với những giao dịch do con chưa thành niên xác lập. Nhưng nhận định cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của con chưa thành niên là đúng hay sai? Giám hộ là gì? Theo Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: Giám hộ là người giám hộ (bao gồm: cá nhân, pháp nhân) thực hiện một số hành vi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ trước pháp luật. Người giám hộ có thể được Cơ quan nhà nước cử hoặc chỉ định hoặc đã là người giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật. Chức năng của người giám hộ sẽ thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ là những người như sau: chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi. Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không? Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: – Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. – Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. – Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 . – Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau: – Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). – Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. – Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau: – Người được giám hộ bao gồm: + Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; + Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; + Người mất năng lực hành vi dân sự; + Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. – Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ. Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt? Căn cứ Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau: – Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. – Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự – Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. – Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác. – Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, từ căn cứ trên nếu trường hợp người đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn cần có người giám hộ.
Được quyền từ chối làm giám hộ đương nhiên không?
cho em hỏi có quyền từ chối làm giám hộ đương nhiên không?
"Giám hộ đương nhiên" theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 thì: Giám hộ được hiểu là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). - Để trở thành người giám hộ thì cá nhân phải thỏa mãn các điều kiện sau: 1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. 2. Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. 3. Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác. 4. Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì có 02 trường hợp giám hộ đương nhiên, đó là: - Giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên - Giám hộ đương nhiên đối với người mất năng lực hành vi dân sự 1. Giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên: Người chưa thành niên theo quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật dân sự 2015 sẽ phải có người giám hộ đương nhiên. Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo thứ tự quy định tại Điều 52 BLDS 2015: - Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. - Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ 2. Giám hộ đương nhiên đối với người mất năng lực hành vi dân sự Theo quy định tại Điểm c Điều 47 BLDS 2015 thì người bị mất năng lực hành vi dân sự cần phải có người giám hộ. Trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ theo quy định tại Điều 48 BLDS 2015 thì người giám hộ đương nhiên của người đó được xác định như sau: - Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. - Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ. - Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ. Như vậy, theo các quy định ở trên có thể thấy người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên hay người bị mất năng lực hành vi dân sự là người thân thích đối với họ để có thể đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người được giám hộ.