Cập nhật: Quy định mua bán nợ xấu thay đổi từ 1/7
Kể từ ngày 01/7/2024, nhiều quy định mới về mua bán nợ xấu của Thông tư 03/2024/TT-NHNN sẽ có hiệu lực, mang đến những thay đổi quan trọng cho hoạt động này (1) Sửa đổi, bổ sung điều kiện mua nợ xấu của Công ty quản lý tài sản Trước đây, các quy định về điều kiện mua nợ xấu theo giá trị thị trường tại Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 13 Điều 1 Thông tư 14/2015/TT-NHNN bao gồm 03 điều kiện, cụ thể là: - Khoản nợ xấu đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 16 Thông tư 19/2013/TT-NHNN - Được Công ty Quản lý tài sản đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ - Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có khả năng phát mại hoặc khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ Theo đó, Thông tư 03/2024/TT-NHNN đã bổ sung thêm 01 điều kiện các khoản nợ xấu được mua bởi Công ty Quản lý tài sản theo giá trị thị trường được quy định tại Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN đó là: - Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường thì trái phiếu đặc biệt tương ứng với khoản nợ xấu đó còn phải đáp ứng điều kiện chưa đến hạn thanh toán và đang không bị phong tỏa tại NHNN. Việc mở rộng thêm điều kiện khi chuyển các khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu theo giá trị thị trường thì bắt buộc phải đáp ứng được các điều kiện thanh toán làm tăng khả năng thu hồi nợ hơn cho các Công ty Quản lý tài sản khi mua các khoản nợ xấu. (2) Công ty Quản lý tài sản mua nợ xấu thế nào từ 01/7/2024? Bên cạnh việc thay đổi điều kiện các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường, Thông tư 03/2024/TT-NHNN cũng sửa đổi, bổ sung Điều 26 Thông tư 19/2013/TT-NHNN về việc thực hiện mua nợ xấu theo giá trị thị trường của Công ty Quản lý tài sản. Theo đó, căn cứ Phương án mua nợ theo giá trị thị trường đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, năng lực tài chính, hiệu quả kinh tế và điều kiện thị trường, Công ty Quản lý tài sản quyết định và chịu trách nhiệm về việc mua khoản nợ xấu theo giá trị thị trường. Công ty Quản lý tài sản chỉ được mua khoản nợ xấu quy định tại điểm a khoản 7a Điều 3 Thông tư 19/2013/TT-NHNN theo giá trị thị trường sau khi đã thực hiện các công việc sau đây: - Đánh giá khoản nợ xấu đáp ứng các điều kiện được quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN - Xác định giá trị thị trường của khoản nợ xấu, kể cả tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó. Công ty Quản lý tài sản phải định giá hoặc thuê doanh nghiệp thẩm định giá xác định giá trị khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm; - Đánh giá hiệu quả kinh tế, rủi ro và khả năng thu hồi vốn mua khoản nợ xấu; - Phân tích, đánh giá thực trạng và triển vọng khoản nợ xấu, khách hàng vay, bên bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ và các điều kiện thỏa thuận mua nợ với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bán nợ; - Dự kiến các biện pháp khả thi xử lý nợ, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Ngoài ra, khi thực hiện chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường, Công ty Quản lý tài sản thực hiện các công việc quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN, việc thỏa thuận giá mua bán khoản nợ xấu theo giá trị thị trường với tổ chức tín dụng Việt Nam, ký kết hợp đồng mua bán nợ theo giá trị thị trường và thực hiện như sau: - Công ty Quản lý tài sản nhận lại trái phiếu đặc biệt từ tổ chức tín dụng Việt Nam và thực hiện tất toán trái phiếu đặc biệt, số dư nợ gốc của khoản nợ xấu đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán; chuyển trả cho tổ chức tín dụng Việt Nam số tiền thu hồi nợ mà tổ chức tín dụng Việt Nam được hưởng theo quy định, khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay theo giá trị ghi sổ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán đối với trường hợp một phần khoản nợ xấu đã được chuyển thành vốn điều lệ, vốn cổ phần của khách hàng vay (nếu có). Công ty Quản lý tài sản chuyển giao toàn bộ quyền, nghĩa vụ của khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay cho tổ chức tín dụng Việt Nam; - Công ty Quản lý tài sản thanh toán cho tổ chức tín dụng Việt Nam giá mua bán khoản nợ theo thỏa thuận tại hợp đồng mua bán nợ theo giá trị thị trường; - Tổ chức tín dụng Việt Nam chuyển trả trái phiếu đặc biệt cho Công ty Quản lý tài sản và nhận thanh toán giá mua bán khoản nợ theo giá trị thị trường, khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay, số tiền thu hồi nợ và xử lý như sau: + Trường hợp giá mua bán khoản nợ, số tiền thu hồi nợ và giá trị của khoản vốn góp, vốn cổ phần nhận được từ Công ty Quản lý tài sản cao hơn mệnh giá trái phiếu đặc biệt, tổ chức tín dụng Việt Nam hạch toán phần chênh lệch vào thu nhập trong năm tài chính; + Trường hợp giá mua bán khoản nợ, số tiền thu hồi nợ và giá trị của khoản vốn góp, vốn cổ phần nhận được từ Công ty Quản lý tài sản thấp hơn mệnh giá trái phiếu đặc biệt, tổ chức tín dụng Việt Nam sử dụng dự phòng rủi ro đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt để bù đắp phần chênh lệch. Trường hợp vẫn còn thiếu, tổ chức tín dụng Việt Nam hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng Việt Nam hoàn nhập số tiền dự phòng đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt còn lại sau khi thực hiện theo quy định của hai trường hợp trên. Việc mua bán khoản nợ xấu theo giá trị thị trường phải được lập thành hợp đồng bằng văn bản phù hợp với quy định tại Thông tư 19/2013/TT-NHNN, các quy định khác có liên quan. Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường quy định tại khoản 3 Điều 26 Thông tư 19/2013/TT-NHNN, hợp đồng mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt chấm dứt kể từ thời điểm hợp đồng mua bán nợ theo giá trị thị trường có hiệu lực. Công ty Quản lý tài sản được thỏa thuận với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu sau khi trừ giá mua và chi phí xử lý. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu gốc liên quan đến khoản nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản. Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường quy định tại khoản 3 Điều 26 Thông tư 19/2013/TT-NHNN, Công ty Quản lý tài sản thực hiện chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu gốc liên quan đến số tiền thu hồi nợ, khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay cho tổ chức tín dụng Việt Nam. Thông tư 03/2024/TT-NHNN có hiệu lực từ 01/7/2024.
Giá trị thị trường và giá trị lý thuyết trong chứng khoán.
Cặp giá trị này thường dùng để chỉ giá trị của chứng khoán, tức là giá trị của các loại tài sản tài chính. Giá trị thị trường (market value) của một chứng khoán tức là giá trị của chứng khoán đó khi nó được giao dịch mua bán trên thị trường. Giá trị lý thuyết (intrinsic value) của một chứng khoán là giá trị mà chứng khoán đó nên có dựa trên những yếu tố có liên quan khi định giá chứng khoán đó. Nói khác đi, giá trị lý thuyết của một chứng khoán tức là giá trị kinh tế của nó và trong điều kiện thị trường hiệu quả thì giá cả thị trường của chứng khoán sẽ phản ánh gần đúng giá trị lý thuyết của nó. Tuy nhiên lại có giả thuyết thị trường hiệu quả là không chính xác. Lý thuyết này được đề cập lần đầu từ những năm 1900 bởi nhà toán học người Pháp và đặc biệt trở nên nổi bật vào thập niên 60 sau khi nhà kinh tế học nổi tiếng Paul Samuelson hoàn thiện cơ sở lý luận về nó. Lý thuyết cho rằng giá cả thị trường của cổ phiếu luôn phản ánh đầy đủ những lợi ích hiện tại và tương lai mà những người nắm giữ cổ phiếu sẽ nhận được. Những người phản đối lý thuyết này cho rằng, nếu giá cả thực sự phản ánh đúng giá trị nội tại, thì tại sao lại xuất hiện những phiên giá sụt giảm mạnh, thậm chí cả thị trường mất tới hơn 20% giá trị vốn hóa (như đã từng xảy ra trong năm 1987). Liệu giá trị nội tại của doanh nghiệp có thể thay đổi nhanh chóng trong một thời gian ngắn như vậy hay không? Gần đây, việc thị trường chứng khoán thế giới cũng như Việt Nam diễn ra những biến động mạnh trong phiên cũng là những minh chứng cụ thể chống lại lý thuyết thị trường hiệu quả.
Giá trị sổ sách và giá trị thị trường trong định giá trái phiếu doanh nghiệp
Khi nói giá trị sổ sách (book value), người ta có thể đề cập đến giá trị sổ sách của một tài sản hoặc giá trị sổ sách của một doanh nghiệp. Giá trị sổ sách của tài sản tức là giá trị kế toán của tài sản đó, nó bằng chi phí mua sắm tài sản trừ đi phần khấu hao tích lũy của tài sản đó. Giá trị sổ sách của doanh nghiệp hay công ty tức là giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trừ đi giá trị các khoản nợ phải trả và giá trị cổ phiếu ưu đãi được liệt kê trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Giá trị thị trường (market value) là giá của tài sản hoặc doanh nghiệp được giao dịch trên thị trường. Nhìn chung, giá trị thị trường của doanh nghiệp thường cao hơn giá trị thanh lý và giá trị hoạt động của nó. Cụ thể: Giá trị sổ sách tương đương với giá trị ròng của một người: tổng tài sản - tổng nợ = giá trị sổ sách. Trên bảng cân đối tài sản của công ty, con số này cũng được ghi nhận là vốn chủ sở hữu. Đối với các nhà đầu tư cơ bản và giá trị, giá trị sổ sách rất quan trọng vì một công ty có giá trị sổ sách cao hơn giá trị thị trường cho thấy cơ hội mua. Một cổ phiếu hiện đang bị đánh giá thấp bởi thị trường có thể thấy sự thay đổi những tâm lý thị trường khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn giá trị sổ sách. Giá trị thị trường được tính bằng cách nhân số cổ phiếu đang lưu hành với giá cổ phiếu hiện tại. Đây cũng được gọi là vốn hóa thị trường. Nó cho thấy giá trị các nhà đầu tư thấy trong công ty, đôi khi nhiều hơn giá trị sổ sách. Trong trường hợp đó, thị trường tin rằng công ty có lợi nhuận thu được lớn hơn giá trị sổ sách ghi nhận. Các công ty như những người có trong Chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJIA) thường có giá trị thị trường cao hơn giá trị sổ sách.
Cập nhật: Quy định mua bán nợ xấu thay đổi từ 1/7
Kể từ ngày 01/7/2024, nhiều quy định mới về mua bán nợ xấu của Thông tư 03/2024/TT-NHNN sẽ có hiệu lực, mang đến những thay đổi quan trọng cho hoạt động này (1) Sửa đổi, bổ sung điều kiện mua nợ xấu của Công ty quản lý tài sản Trước đây, các quy định về điều kiện mua nợ xấu theo giá trị thị trường tại Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 13 Điều 1 Thông tư 14/2015/TT-NHNN bao gồm 03 điều kiện, cụ thể là: - Khoản nợ xấu đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 16 Thông tư 19/2013/TT-NHNN - Được Công ty Quản lý tài sản đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ - Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có khả năng phát mại hoặc khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ Theo đó, Thông tư 03/2024/TT-NHNN đã bổ sung thêm 01 điều kiện các khoản nợ xấu được mua bởi Công ty Quản lý tài sản theo giá trị thị trường được quy định tại Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN đó là: - Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường thì trái phiếu đặc biệt tương ứng với khoản nợ xấu đó còn phải đáp ứng điều kiện chưa đến hạn thanh toán và đang không bị phong tỏa tại NHNN. Việc mở rộng thêm điều kiện khi chuyển các khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu theo giá trị thị trường thì bắt buộc phải đáp ứng được các điều kiện thanh toán làm tăng khả năng thu hồi nợ hơn cho các Công ty Quản lý tài sản khi mua các khoản nợ xấu. (2) Công ty Quản lý tài sản mua nợ xấu thế nào từ 01/7/2024? Bên cạnh việc thay đổi điều kiện các khoản nợ xấu được Công ty Quản lý tài sản mua theo giá trị thị trường, Thông tư 03/2024/TT-NHNN cũng sửa đổi, bổ sung Điều 26 Thông tư 19/2013/TT-NHNN về việc thực hiện mua nợ xấu theo giá trị thị trường của Công ty Quản lý tài sản. Theo đó, căn cứ Phương án mua nợ theo giá trị thị trường đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, năng lực tài chính, hiệu quả kinh tế và điều kiện thị trường, Công ty Quản lý tài sản quyết định và chịu trách nhiệm về việc mua khoản nợ xấu theo giá trị thị trường. Công ty Quản lý tài sản chỉ được mua khoản nợ xấu quy định tại điểm a khoản 7a Điều 3 Thông tư 19/2013/TT-NHNN theo giá trị thị trường sau khi đã thực hiện các công việc sau đây: - Đánh giá khoản nợ xấu đáp ứng các điều kiện được quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN - Xác định giá trị thị trường của khoản nợ xấu, kể cả tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó. Công ty Quản lý tài sản phải định giá hoặc thuê doanh nghiệp thẩm định giá xác định giá trị khoản nợ xấu và tài sản bảo đảm; - Đánh giá hiệu quả kinh tế, rủi ro và khả năng thu hồi vốn mua khoản nợ xấu; - Phân tích, đánh giá thực trạng và triển vọng khoản nợ xấu, khách hàng vay, bên bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ và các điều kiện thỏa thuận mua nợ với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bán nợ; - Dự kiến các biện pháp khả thi xử lý nợ, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Ngoài ra, khi thực hiện chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường, Công ty Quản lý tài sản thực hiện các công việc quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 Thông tư 19/2013/TT-NHNN, việc thỏa thuận giá mua bán khoản nợ xấu theo giá trị thị trường với tổ chức tín dụng Việt Nam, ký kết hợp đồng mua bán nợ theo giá trị thị trường và thực hiện như sau: - Công ty Quản lý tài sản nhận lại trái phiếu đặc biệt từ tổ chức tín dụng Việt Nam và thực hiện tất toán trái phiếu đặc biệt, số dư nợ gốc của khoản nợ xấu đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán; chuyển trả cho tổ chức tín dụng Việt Nam số tiền thu hồi nợ mà tổ chức tín dụng Việt Nam được hưởng theo quy định, khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay theo giá trị ghi sổ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán đối với trường hợp một phần khoản nợ xấu đã được chuyển thành vốn điều lệ, vốn cổ phần của khách hàng vay (nếu có). Công ty Quản lý tài sản chuyển giao toàn bộ quyền, nghĩa vụ của khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay cho tổ chức tín dụng Việt Nam; - Công ty Quản lý tài sản thanh toán cho tổ chức tín dụng Việt Nam giá mua bán khoản nợ theo thỏa thuận tại hợp đồng mua bán nợ theo giá trị thị trường; - Tổ chức tín dụng Việt Nam chuyển trả trái phiếu đặc biệt cho Công ty Quản lý tài sản và nhận thanh toán giá mua bán khoản nợ theo giá trị thị trường, khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay, số tiền thu hồi nợ và xử lý như sau: + Trường hợp giá mua bán khoản nợ, số tiền thu hồi nợ và giá trị của khoản vốn góp, vốn cổ phần nhận được từ Công ty Quản lý tài sản cao hơn mệnh giá trái phiếu đặc biệt, tổ chức tín dụng Việt Nam hạch toán phần chênh lệch vào thu nhập trong năm tài chính; + Trường hợp giá mua bán khoản nợ, số tiền thu hồi nợ và giá trị của khoản vốn góp, vốn cổ phần nhận được từ Công ty Quản lý tài sản thấp hơn mệnh giá trái phiếu đặc biệt, tổ chức tín dụng Việt Nam sử dụng dự phòng rủi ro đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt để bù đắp phần chênh lệch. Trường hợp vẫn còn thiếu, tổ chức tín dụng Việt Nam hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng Việt Nam hoàn nhập số tiền dự phòng đã trích lập cho trái phiếu đặc biệt còn lại sau khi thực hiện theo quy định của hai trường hợp trên. Việc mua bán khoản nợ xấu theo giá trị thị trường phải được lập thành hợp đồng bằng văn bản phù hợp với quy định tại Thông tư 19/2013/TT-NHNN, các quy định khác có liên quan. Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường quy định tại khoản 3 Điều 26 Thông tư 19/2013/TT-NHNN, hợp đồng mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt chấm dứt kể từ thời điểm hợp đồng mua bán nợ theo giá trị thị trường có hiệu lực. Công ty Quản lý tài sản được thỏa thuận với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân chia phần giá trị còn lại của số tiền thu hồi được từ khoản nợ xấu sau khi trừ giá mua và chi phí xử lý. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu gốc liên quan đến khoản nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản. Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường quy định tại khoản 3 Điều 26 Thông tư 19/2013/TT-NHNN, Công ty Quản lý tài sản thực hiện chuyển toàn bộ hồ sơ, tài liệu gốc liên quan đến số tiền thu hồi nợ, khoản vốn góp, vốn cổ phần tại khách hàng vay cho tổ chức tín dụng Việt Nam. Thông tư 03/2024/TT-NHNN có hiệu lực từ 01/7/2024.
Giá trị thị trường và giá trị lý thuyết trong chứng khoán.
Cặp giá trị này thường dùng để chỉ giá trị của chứng khoán, tức là giá trị của các loại tài sản tài chính. Giá trị thị trường (market value) của một chứng khoán tức là giá trị của chứng khoán đó khi nó được giao dịch mua bán trên thị trường. Giá trị lý thuyết (intrinsic value) của một chứng khoán là giá trị mà chứng khoán đó nên có dựa trên những yếu tố có liên quan khi định giá chứng khoán đó. Nói khác đi, giá trị lý thuyết của một chứng khoán tức là giá trị kinh tế của nó và trong điều kiện thị trường hiệu quả thì giá cả thị trường của chứng khoán sẽ phản ánh gần đúng giá trị lý thuyết của nó. Tuy nhiên lại có giả thuyết thị trường hiệu quả là không chính xác. Lý thuyết này được đề cập lần đầu từ những năm 1900 bởi nhà toán học người Pháp và đặc biệt trở nên nổi bật vào thập niên 60 sau khi nhà kinh tế học nổi tiếng Paul Samuelson hoàn thiện cơ sở lý luận về nó. Lý thuyết cho rằng giá cả thị trường của cổ phiếu luôn phản ánh đầy đủ những lợi ích hiện tại và tương lai mà những người nắm giữ cổ phiếu sẽ nhận được. Những người phản đối lý thuyết này cho rằng, nếu giá cả thực sự phản ánh đúng giá trị nội tại, thì tại sao lại xuất hiện những phiên giá sụt giảm mạnh, thậm chí cả thị trường mất tới hơn 20% giá trị vốn hóa (như đã từng xảy ra trong năm 1987). Liệu giá trị nội tại của doanh nghiệp có thể thay đổi nhanh chóng trong một thời gian ngắn như vậy hay không? Gần đây, việc thị trường chứng khoán thế giới cũng như Việt Nam diễn ra những biến động mạnh trong phiên cũng là những minh chứng cụ thể chống lại lý thuyết thị trường hiệu quả.
Giá trị sổ sách và giá trị thị trường trong định giá trái phiếu doanh nghiệp
Khi nói giá trị sổ sách (book value), người ta có thể đề cập đến giá trị sổ sách của một tài sản hoặc giá trị sổ sách của một doanh nghiệp. Giá trị sổ sách của tài sản tức là giá trị kế toán của tài sản đó, nó bằng chi phí mua sắm tài sản trừ đi phần khấu hao tích lũy của tài sản đó. Giá trị sổ sách của doanh nghiệp hay công ty tức là giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trừ đi giá trị các khoản nợ phải trả và giá trị cổ phiếu ưu đãi được liệt kê trên bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Giá trị thị trường (market value) là giá của tài sản hoặc doanh nghiệp được giao dịch trên thị trường. Nhìn chung, giá trị thị trường của doanh nghiệp thường cao hơn giá trị thanh lý và giá trị hoạt động của nó. Cụ thể: Giá trị sổ sách tương đương với giá trị ròng của một người: tổng tài sản - tổng nợ = giá trị sổ sách. Trên bảng cân đối tài sản của công ty, con số này cũng được ghi nhận là vốn chủ sở hữu. Đối với các nhà đầu tư cơ bản và giá trị, giá trị sổ sách rất quan trọng vì một công ty có giá trị sổ sách cao hơn giá trị thị trường cho thấy cơ hội mua. Một cổ phiếu hiện đang bị đánh giá thấp bởi thị trường có thể thấy sự thay đổi những tâm lý thị trường khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn giá trị sổ sách. Giá trị thị trường được tính bằng cách nhân số cổ phiếu đang lưu hành với giá cổ phiếu hiện tại. Đây cũng được gọi là vốn hóa thị trường. Nó cho thấy giá trị các nhà đầu tư thấy trong công ty, đôi khi nhiều hơn giá trị sổ sách. Trong trường hợp đó, thị trường tin rằng công ty có lợi nhuận thu được lớn hơn giá trị sổ sách ghi nhận. Các công ty như những người có trong Chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJIA) thường có giá trị thị trường cao hơn giá trị sổ sách.