Vì sao Bộ Công an bỏ quy định giám sát CSGT bằng thiết bị ghi âm, ghi hình?
Nhiều trường hợp lợi dụng giám sát để quay phim, ghi hình quá trình làm việc của cán bộ, chiến sĩ cảnh sát giao thông. Sau đó, họ chia sẻ lên mạng xã hội nhằm quấy rối, gây khó khăn cho công tác thi hành pháp luật. Nhiều người lợi dụng việc ghi âm, ghi hình CSGT Trong Thông tư số 46/2024 (có hiệu lực kể từ ngày 15/11/2024) vừa được Bộ Công an ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 67/2019 quy định về thực hiện dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (TTATGT), nội dung mới đáng chú ý là từ ngày 15/11, hình thức giám sát lực lượng chức năng đang thực thi công vụ thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình sẽ được loại bỏ. Hình ảnh CSGT làm nhiệm vụ bị một số cá nhân quay clip để gây khó khăn (ảnh minh họa). Đề cập lý do bỏ quy định hình thức giám sát bằng thiết bị ghi âm, ghi hình, Bộ Công an lý giải, thời gian qua việc giám sát của một bộ phận người dân đối với lực lượng chức năng trực tiếp làm công tác bảo đảm TTATGT tại một số nơi và ở một số thời điểm chưa được khách quan, đúng quy định. Đáng chú ý, nhiều trường hợp lợi dụng quyền giám sát để quay phim, ghi hình, chụp ảnh quá trình làm việc của cán bộ, chiến sĩ cảnh sát giao thông (CSGT). Sau đó, họ chia sẻ lên mạng xã hội nhằm quấy rối, gây khó khăn cho công tác thi hành pháp luật về TTATGT. Sau này, khi những hình ảnh, clip đăng tải được gỡ bỏ khỏi không gian mạng, còn người đăng tải bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, lúc này các hình ảnh đó vẫn còn ảnh hưởng đến quá trình làm nhiệm vụ của lực lượng chức năng. Bên cạnh đó, Thông tư mới không quy định hình thức giám sát của nhân dân thông qua ghi âm, ghi hình phù hợp với quy định của Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân, Bộ luật Dân sự, Luật An toàn thông tin mạng và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Bộ Công an sẽ đưa nội dung quy định Công an các đơn vị, địa phương sẽ bố trí khu vực làm việc, tổ chức ghi âm, ghi hình quá trình làm việc của lực lượng CSGT vào thông tư quy định nghiệp vụ tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính của lực lượng CSGT đường bộ để đảm bảo công khai, minh bạch trong công tác bảo đảm TTATGT. 5 hình thức giám sát CSGT Tại Điều 11 của Thông tư mới ban hành, quy định về hình thức giám sát của người dân trong công tác bảo đảm TTATGT cũng được thay đổi. Cụ thể, theo quy định mới, người dân được giám sát thông qua 5 hình thức sau: Tiếp cận thông tin công khai của lực lượng công an và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua các chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật. Tiếp xúc, giải quyết trực tiếp công việc với cán bộ, chiến sĩ. Kết quả giải quyết các vụ việc, đơn thư, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Quan sát trực tiếp công tác bảo đảm TTATGT. Việc giám sát phải đảm bảo các điều kiện gồm: Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sĩ khi đang thực thi nhiệm vụ; ở ngoài khu vực thực thi công vụ. Trước đây, Thông tư số 32/2023/TT-BCA ngày 1/8/2023 của Bộ Công an quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung và quy trình tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính về giao thông đường bộ của CSGT (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2023) quy định người dân có quyền giám sát CSGT qua 5 hình thức: Một là, thông qua các thông tin công khai của công an nhân dân và phản hồi qua các phương tiện thông tin đại chúng. Hai là, thông qua các chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật. Ba là, thông qua tiếp xúc, giải quyết trực tiếp công việc với cán bộ, chiến sỹ. Bốn là, thông qua kết quả giải quyết các vụ việc, đơn thư, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Năm là, thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc quan sát trực tiếp nhưng phải đảm bảo các điều kiện: Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sỹ khi đang thực thi nhiệm vụ; Ngoài khu vực bảo đảm TTATGT (đối với nơi có triển khai khu vực bảo đảm TTATGT); Tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan. Theo Báo Giao Thông Xem bài viết gốc: https://www.baogiaothong.vn/vi-sao-bo-cong-an-bo-quy-dinh-giam-sat-csgt-bang-thiet-bi-ghi-am-ghi-hinh-19224100908562948.htm
Đề xuất nhà báo ghi âm, ghi hình tại phiên toà công khai phải xin phép 2 lần
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân dự kiến sẽ thay thế Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 nếu được thông qua với nhiều quy định mới, nổi bật là về ghi âm, ghi hình tại phiên tòa. Đề xuất nhà báo ghi âm, ghi hình tại phiên tòa công khai phải xin phép 2 lần Theo Điều 141 Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5), quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp như sau: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên được tham dự phiên tòa xét xử công khai theo quy định của pháp luật. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập đến phiên tòa. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy phiên tòa, phiên họp. - Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khác chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp khi có sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa, phiên họp. - Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ và chủ tọa phiên tòa, phiên họp. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được đưa tin sai sự thật; không đưa tin làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của Tòa án; vi phạm quyền con người của bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án. Theo đó, đây là quy định mới hoàn toàn so với quy định hiện hành. Theo Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5), việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khác chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc khi có sự đồng ý của chủ tọa, và việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ và chủ tọa phiên tòa, phiên họp, tức là phải xin phép 2 lần so với quy định trước đây chỉ cần được sự đồng ý của chủ toạ. Cụ thể: Tại Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Tại khoản 4 Điều 234 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định: Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ. Tại khoản 4 Điều 153 Luật Tố tụng Hành chính 2015 quy định: Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, những người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ. Như vậy, theo quy định hiện hành, nhà báo tham dự để đưa tin về diễn biến phiên tòa sẽ tuân theo sự điều khiển của chủ tọa, không có quy định về giới hạn ghi âm, ghi hình lời nói, hình ảnh của hội đồng xét xử ở các phần của phiên tòa và việc ghi âm, ghi hình của đương sự, người tham gia tố tụng khác chỉ cần sự đồng ý của chủ toạ. Đến quy định tại Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5), nhà báo đưa tin về diễn biến phiên tòa bị giới hạn, chỉ được đưa lời nói, hình ảnh của hội đồng xét xử tại phần khai mạc phiên tòa. Đồng thời, việc ghi âm, ghi hình đương sự, người tham gia tố tụng khác sẽ phải xin lần 1 là từ đương sự, người tham gia tố tụng khác và lần 2 là từ chủ tọa phiên tòa. Xem toàn văn Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/31/du-thao-5-luat-toa-an-nhan-dan.pdf Có được sử dụng điện thoại tại phiên tòa không? Theo Điều 3 Quy chế tổ chức phiên tòa ban hành kèm theo Thông tư 02/2017/TT-TANDTC, quy định về việc sử dụng điện thoại trong nội quy phòng xử án như sau: - Nội quy phòng xử án bao gồm nội quy phiên tòa theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 153 của Luật Tố tụng hành chính và các quy định sau đây: + Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa phải ngồi đúng vị trí trong phòng xử án; + Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký phiên tòa phải mặc trang phục xét xử theo đúng quy định; + Tòa án ghi âm, ghi hình, ghi hình có âm thanh về diễn biến phiên tòa được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong đó: - Khoản 1, khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: + Mọi người vào phòng xử án phải mặc trang phục nghiêm túc, chấp hành việc kiểm tra an ninh và thực hiện đúng hướng dẫn của Thư ký Tòa án. + Mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. - Khoản 6 Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa. - Khoản 6 Điều 153 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được Chủ tọa phiên tòa cho phép; không sử dụng điện thoại di động trong phòng xử án; không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa. Như vậy, đối với phiên tòa dân sự và hành chính, việc sử dụng điện thoại là không được phép. Còn trong phiên tòa hình sự chưa có quy định cụ thể về việc cấm sử dụng điện thoại tại phiên toà, tuy nhiên có quy định mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. Theo đó, nếu hội đồng xét xử có điều hành về việc sử dụng điện thoại hoặc việc sử dụng điện thoại gây ảnh hưởng đến trật tự phiên tòa thì cũng không được phép sử dụng. Xem toàn văn Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/31/du-thao-5-luat-toa-an-nhan-dan.pdf
Tổ chức được phép ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng trong trường hợp nào?
Hiện nay, không ít các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều lắp đặt camera cho mục đích an ninh. Tuy nhiên, sẽ ít nhiều ghi hình người dân tại các khu vực công cộng. Mà theo quy định pháp luật thì không được phép ghi hình người khác. Vậy trong trường hợp nào doanh nghiệp được quyền ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng? 1. Cá nhân có quyền gì đối với hình ảnh của mình? Theo khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân của cá nhân, theo đó: Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Do đó, bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền bảo vệ đối với hình ảnh của mình dù là đối với mục đích nào. 2. Tổ chức, doanh nghiệp có được quay ghi âm, ghi hình cá nhân? Căn cứ Điều 18 Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định việc doanh nghiệp được phép lưu trữ dữ liệu cá nhân thu được từ hoạt động ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng trong trường hợp sau: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được ghi âm, ghi hình và xử lý dữ liệu cá nhân thu được từ hoạt động ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng với mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật mà không cần có sự đồng ý của chủ thể. Khi thực hiện việc ghi âm, ghi hình, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo để chủ thể hiểu được mình đang bị ghi âm, ghi hình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 3. Doanh nghiệp được sử dụng hình ảnh của cá nhân ra sao? Căn cứ Điều 17 Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định doanh nghiệp được phép xử lý dữ liệu cá nhân trong trường hợp không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu: - Trong trường hợp khẩn cấp, cần xử lý ngay dữ liệu cá nhân có liên quan để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của chủ thể dữ liệu hoặc người khác. Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân, Bên Xử lý dữ liệu cá nhân, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân, Bên thứ ba có trách nhiệm chứng minh trường hợp này. - Việc công khai dữ liệu cá nhân theo quy định của luật. - Việc xử lý dữ liệu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm; khi có nguy cơ đe dọa an ninh, quốc phòng nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp; phòng, chống bạo loạn, khủng bố, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định của luật. - Để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của chủ thể dữ liệu với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của luật. - Phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước đã được quy định theo luật chuyên ngành. 4. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xử lý dữ liệu cá nhân Theo Điều 39 Nghị định 13/2023/NĐ-CP trách nhiệm của Bên Xử lý dữ liệu cá nhân phải thực hiện như sau: - Chỉ tiếp nhận dữ liệu cá nhân sau khi có hợp đồng hoặc thỏa thuận về xử lý dữ liệu với Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân. - Xử lý dữ liệu cá nhân theo đúng hợp đồng hoặc thỏa thuận ký kết với Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân. - Thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân quy định tại Nghị định này và các văn bản pháp luật khác có liên quan. - Bên Xử lý dữ liệu cá nhân chịu trách nhiệm trước chủ thể dữ liệu về các thiệt hại do quá trình xử lý dữ liệu cá nhân gây ra. - Xóa, trả lại toàn bộ dữ liệu cá nhân cho Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân sau khi kết thúc xử lý dữ liệu. - Phối hợp với Bộ Công an, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bảo vệ dữ liệu cá nhân, cung cấp thông tin phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Như vậy, tổ chức, doanh nghiệp vẫn được quyền ghi âm, ghi hình cá nhân nhưng trong trường hợp với mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật mà không cần có sự đồng ý của chủ thể.
Người dân có được dùng điện thoại ghi âm, ghi hình khi xét xử phiên tòa dân sự?
Phiên tòa là Hình thức hoạt động xét xử của Tòa án. Tùy theo tính chất của thủ tục xét xử mà có phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong quá trình tham dự phiên tòa, các đương sự, người tham gia tố tụng và các cá nhân khác có liên quan cần tuân thủ quy định pháp luật, chấp hành nội quy phiên tòa, trong đó bao gồm hành vi ghi âm, ghi hình tại phiên tòa. Những trường hợp ghi âm, ghi hình trong phiên tòa xét xử Hiện nay căn cứ theo Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 có quy định những trường hợp thực hiện việc ghi âm tại phiên tòa bao gồm: - Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ (khoản 4 Điều 234 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015); - Ngoài việc ghi biên bản phiên tòa, Hội đồng xét xử có thể thực hiện việc ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên tòa (khoản 2 Điều 236 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015); Người dân có được dùng điện thoại di động để ghi âm trong phiên tòa xét xử? Hiện nay không có quy định được phép hoặc không được phép khi ghi âm, ghi hình phiên tòa đối những những đương sự hoặc những đối tượng tham gia phiên tòa khác. Tuy nhiên căn cứ khoản 6 Điều 234 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 có đề cập: - Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa. =>> Theo đó khi tham gia phiên tòa không được phép sử dụng điện thoại di động nên sẽ không được sử dụng điện thoại di động để ghi âm nội dung phiên tòa. Tuy nhiên pháp luật không hạn chế việc sử dụng các công cụ ghi âm, ghi hình khác để ghi âm, ghi hình. Tuy nhiên trường hợp sử dụng công cụ ghi âm, ghi hình khác thì chủ tọa phiên tòa sẽ xem xét có ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa hay không mà cho phép hoặc không cho phép thực hiện. Ngoài ra nếu đã được ghi âm, ghi hình thì cũng phải tuân thủ quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh, nếu gây thiệt hại, ảnh hưởng quyền và lợi ích của những người có liên quan thì cũng phải chịu trách nhiệm tương ứng.
Khi nào công dân không được chụp ảnh, quay phim
Chụp ảnh, quay phim có lẽ là một trong những thói quen muốn ghi lại khoảnh khắc, kỷ niệm của một người. Thói quen này có thể tốt hoặc cũng có thể để lại nhiều tác hại xấu. Tại một số nơi người dân cần lưu ý sẽ có thông báo cấm chụp ảnh, ghi hình hoặc nó đã trở thành luật bất thành văn mà người dân phải biết. Việc chụp ảnh, ghi hình có thể gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức hay an ninh quốc gia và nhiều hệ lụy khác. Để tránh bị xử phạt, vậy những địa điểm nào và khi nào thì công dân bị không được chụp ảnh, quay phim? 1. Nghiêm cấm chụp ảnh, quay phim ảnh hưởng đến bí mật đời tư Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu sự kiện, hoàn cảnh về đời tư của cá nhân mà người khác không được loan truyền nếu không được người đó đồng ý hoặc pháp luật cho phép. Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Chụp ảnh, quay phim là quyền của cá nhân và được nhà nước khuyến khích quảng bá hình ảnh văn hóa của đất nước tới cộng đồng trong nước cũng như quốc tế. Tuy nhiên, người có hành vi trên cũng cần lưu ý một số quy định tại Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: (1) Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình - Trong trường hợp cá nhân chụp mà có sử dụng hình ảnh của người khác trong dữ liệu hình ảnh, video mà mình ghi được thì phải được người đó đồng ý. - Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. (2) Sử dụng hình ảnh không cần có sự đồng ý - Như đã nói ở trên, nhà nước luôn khuyến khích các cá nhân, tổ chức làm đẹp hình ảnh đất nước và truyền tải thông điệp tốt đẹp đến cộng đồng. Thì hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng không cần phải xin phép. - Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Lưu ý: Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm đến hình ảnh cá nhân thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc chụp hình, quay phim đối với cá nhân mà không cần phải có sự đồng ý đó chính là chụp hình, ghi hình cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Theo khoản 3 Điều 4 Luật Công an nhân dân 2018 quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Công an nhân dân được thực hiện như sau: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc công dân chụp hình, ghi hình cảnh sát cụ thể là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ thì không bị xem là xâm phạm bí mật đời tư mà đang thực hiện quyền giám sát của nhân dân. 2. Nghiêm cấm chụp ảnh, quay phim ảnh hưởng đến bí mật nhà nước Bí mật nhà nước là thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định của Luật này, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Hiện nay, để bảo vệ bí mật nhà nước, an ninh quốc gia nhà nước đã ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 nhằm ngăn chặn việc hình ảnh, tư liệu, thông tin quốc gia bị lộ ra ngoài làm ảnh hưởng đến đất nước. Theo đó, Điều 5 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 quy định các hành vi sau đây sẽ bị nghiêm cấm khi có liên quan đến bí mật nhà nước: Chuyển mục đích sử dụng máy tính, thiết bị khác đã dùng để soạn thảo, lưu giữ, trao đổi bí mật nhà nước khi chưa loại bỏ bí mật nhà nước. Sử dụng thiết bị có tính năng thu, phát tín hiệu, ghi âm, ghi hình trong hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước dưới mọi hình thức khi chưa được người có thẩm quyền cho phép. Đăng tải, phát tán bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, mạng máy tính và mạng viễn thông. Việc cấm chụp hình, ghi hình tại các cuộc họp, lưu lại tư liệu chưa được cơ quan nhà nước cho phép thì xem như vi phạm các quy định về bí mật nhà nước. Ngoài ra, một số địa điểm có đặt biển báo cấm ghi hình, chụp hình tại trụ sở cơ quan, tổ chức thì người dân phải nên tuân theo như cơ quan chính quyền, bảo tàng nghệ thuật, công trình chưa được công bố,... 3. Cấm chụp hình, quay phim tại cảng hàng không Cảng hàng không chắc hẳn trong thời gian qua đã làm chúng ta chú ý với những quyết định xử phạt nặng khi mà người dân đã vi phạm các quy định nghiêm cấm tại sân bay. Cụ thể, đó là chụp hình, ghi hình tại địa điểm sân bay. Căn cứ khoản 9 Điều 32 Thông tư 13/2019/TT-BGTVT (sửa đổi bởi Thông tư 41/2020/TT-BGTVT) về việc ghi âm, ghi hình trong khu vực hạn chế quy định tại khoản 1 Điều 31 Thông tư 13/2019/TT-BGTVT hoặc tại các điểm kiểm tra an ninh hàng không hoặc trong nơi làm việc của cơ quan quản lý Nhà nước tại cảng hàng không phải được đơn vị chủ quản cho phép bằng văn bản, trừ các trường hợp sau đây: Việc ghi âm, ghi hình thông tin, tài liệu thuộc phạm vi bí mật nhà nước thực hiện theo các quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước. - Ghi âm, ghi hình tại phòng chờ lên tàu bay, chờ lấy hành lý mà không phải điểm kiểm tra an ninh hàng không. - Cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng kiểm soát an ninh hàng không ghi âm, ghi hình phục vụ công vụ theo thẩm quyền, trách nhiệm được giao. *Những địa điểm cụ thể bao gồm: - Khu vực cách ly, khu vực từ điểm kiểm tra an ninh đối với nhân viên nội bộ trước khi vào khu vực hạn chế vào bên trong nhà ga. - Khu vực sân bay. - Khu vực phân loại hành lý. - Khu vực dành cho hành khách quá cảnh. - Khu vực phân loại, lưu giữ, chất xếp hàng hóa, bưu gửi. - Nhà khách phục vụ chuyến bay chuyên cơ, chuyến bay ưu tiên. - Khu vực giao nhận hành lý cho hành khách tại nhà ga đến. - Khu vực bảo dưỡng, sửa chữa, lắp đặt tàu bay. - Khu vực sản xuất, chế biến, cung ứng suất ăn. - Khu vực kho nhiên liệu cung cấp cho tàu bay. - Trung tâm khẩn nguy cảng hàng không; Trung tâm khẩn nguy hàng không quốc gia. - Trung tâm kiểm soát đường dài, cơ sở kiểm soát tiếp cận, trung tâm quản lý luồng không lưu; - Đài kiểm soát tại sân bay, trạm ra-đa kiểm soát không lưu, trạm thông tin điều hành bay; - Trạm cấp điện, cấp nước của cảng hàng không, sân bay (nằm ngoài khu vực hạn chế nhà ga, sân bay); - Khu vực từ điểm soi chiếu hành lý ký gửi vào bên trong nhà ga; - Khu vực từ điểm soi chiếu hàng hóa, bưu gửi để vận chuyển bằng tàu bay vào bên trong nhà ga, nhà kho; - Khu vực lắp đặt các thiết bị điều khiển trung tâm của hệ thống kỹ thuật nhà ga, sân bay, kiểm soát cổng cửa ra vào nhà ga, sân bay, quản lý tòa nhà. Trên đây, là tổng hợp một số địa điểm, khu vực và đối tượng mà người dân bị hạn chế hoặc bị cấm hành vi chụp hình, ghi hình tư liệu mà chưa có sự cho phép của cá nhân, tổ chức đó. Ngoài những vấn đề đó ra thì người dân được nhà nước khuyến khích quảng bá hình ảnh đất nước thông qua hình ảnh, tư liệu.
Có được ghi hình khi bị xử phạt hành chính về giao thông?
Xử phạt hành chính về giao thông Đây là câu hỏi được rất nhiều người thắc mắc, tuy nhiên để có thể tìm được câu trả lời thích đáng, cần phải xem xét việc quay phim, chụp ảnh người thi hành công vụ dưới nhiều góc độ. Thứ nhất, về quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư Nhiều quan điểm cho rằng việc ghi âm, ghi hình người khác là xâm phạm đời sống riêng tư, và họ có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (theo Điều 21 Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, bản chất của việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính không phải là việc “xâm phạm quyền riêng tư”, bởi lẽ lúc này họ đang thi hành công vụ. Việc ghi âm, ghi hình là để thực hiện quyền giám sát của công dân đối với hoạt động “giám sát” của Nhân dân theo Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp 2013: “2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.” Theo đó, Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó Khoản 5 Điều 3 Luật công an nhân dân 2018 cũng quy định: “Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân…” Thứ hai, về quyền cung cấp chứng cứ khi khiếu nại, tố cáo, khởi kiện Điều 115 Luật tố tụng hành chính 2015 có quy định: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó…” Hiện nay, pháp luật cho phép người dân được trực tiếp khởi kiện vụ án đối với một quyết định hành chính (tức quyết định xử phạt liên quan đến giao thông mà họ đã bị xử phạt) hoặc hành vi hành chính mà mình không đồng ý. Để có thể khởi kiện một vụ án, một trong những quyền cơ bản mà đương sự (tức người bị xử phạt hành chính) Tại Điều 55 của Luật này có quy định: “Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng, bao gồm: … 5. Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; …” Điều này có nghĩa, khi người dân muốn khởi kiện một vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật cho phép họ có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ. Theo nguyên tắc của Tố tụng, một tài liệu, chứng cứ phải được Tòa án chấp thuận thì mới phát sinh tính pháp lý, và để có được sự chấp thuận đó, việc cung cấp đầy đủ băng ghi âm, ghi hình cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh, làm rõ tính hợp pháp là điều hết sức cần thiết. Thứ ba, ghi âm, ghi hình là thực hiện quyền dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông Tại Điều 11 Thông tư 67/2019/TT-BCA có quy định về Hình thức giám sát của nhân dân trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông như sau: “… 5. Thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc quan sát trực tiếp nhưng phải đảm bảo các điều kiện sau: a) Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sỹ khi đang thực thi nhiệm vụ; b) Ngoài khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (đối với nơi có triển khai khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông); c) Tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan.” Theo những phân tích ở trên, chưa có quy định pháp luật nào cấm việc ghi âm, ghi hình quá trình xử phạt hành chính, vậy người dân chỉ cần giải thích được việc ghi âm, ghi hình của mình không ảnh hưởng đến hoạt động của cán bộ, chiến sĩ và cũng không nằm trong những khu vực không cho phép sử dụng các thiết bị ghi âm, ghi hình thì không có căn cứ để cấm hành vi này. Với những căn cứ nêu trên, theo quan điểm của người viết, việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính là hoàn toàn hợp pháp.
Phụ huynh có được ghi hình lại buổi họp phụ huynh ở trường không?
Hiện chị gái mình đang là hiệu trưởng trường THCH, trong quá trình trao đổi với các vị phụ huynh của học sinh vi phạm, những vị phụ huynh này liên tục lấy điện thoại ra quay hình và ghi âm chị mình. Vậy trường hợp trên có hướng xử lý vi phạm không ạ?
Từ 1/1/2020: Ghi âm, ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 1172/QĐ-TTg về phê duyệt đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, Điều 183 về hỏi cung bị can quy định: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Điều 442 về lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân quy định: “Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của người đại diện, của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Đề án nêu rõ để tránh tình trạng lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp làm trái luật và tránh trường hợp bức cung, dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp,.. dẫn đến tình trạng thay đổi lời khai hoặc chối tội gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, thực tế quy định này đã được quy định nhưng chưa được luật hóa, mới dừng dừng lại ở việc cũng cố chứng cứ nên quy định nên trên là rất cần thiết Chậm nhất đến ngày 1/1/2020 sẽ thực hiện thống nhất ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc
Quy trình hỏi cung, lấy lời khai có ghi âm, ghi hình kèm âm thanh
Có thể nói bổ sung quy định buộc ghi âm, ghi hình khi hỏi cung bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội là một bước tiến lớn trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vì vậy, để làm rõ vấn đề này, mình muốn chia sẻ các bạn Quy trình hỏi cung, lấy lời khai có ghi âm, ghi hình kèm âm thanh: Bước 1: Đăng ký để được bố trí phòng chuyên dụng Cán bộ hỏi cung hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội (gọi tắt là cán bộ) phải đăng ký với cán bộ chuyên môn tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra Mục đích: - Bố trí phòng chuyên dụng - Hướng dẫn về quy trình, thao tác kỹ thuật thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh. Sau đó, cán bộ làm thủ tục trích xuất đối với bị can bị tạm giam hoặc triệu tập bị can đang tại ngoại (hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội) theo quy định của pháp luật (không được đưa bị can tại ngoại vào hỏi cung ở cơ sở giam giữ, trừ trường hợp đối chất với bị can đang bị tạm giam). Bước 2: Thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh Khi được bố trí phòng làm việc, cán bộ đến phòng làm việc, thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết về việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, việc thông báo phải ghi vào biên bản sau đó tiến hành làm việc Bước 3: Bắt đầu hỏi cung hoặc lấy lời khai Cán bộ nhấn nút bắt đầu và phải đọc thời gian bắt đầu, đồng thời ghi rõ trong biên bản. Trong quá trình hỏi cung hoặc lấy lời khai có thể tạm dừng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh bằng cách nhấn nút tạm dừng. Trước khi tạm dừng cán bộ hỏi cung, lấy lời khai phải đọc rõ thời gian tạm dừng, lý do tạm dừng, khi tiếp tục làm việc cũng phải đọc rõ thời gian tiếp tục, quá trình này được ghi rõ trong biên bản. Bước 4: Kết thúc hỏi cung hoặc lấy lời khai Kết thúc buổi làm việc, cán bộ nhấn nút kết thúc, thời gian kết thúc ghi rõ trong biên bản. Lưu ý: - Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì không được tiến hành hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội. Trường hợp đang hỏi cung hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật thì phải dừng ngay buổi hỏi cung, lấy lời khai. Việc này ghi rõ trong biên bản, có xác nhận của cán bộ chuyên môn. - Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì cán bộ thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết, nếu họ đồng ý thì tiến hành làm việc, trường hợp họ không đồng ý thì không được hỏi cung, lấy lời khai. Trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật thì cán bộ thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết, nếu họ đồng ý tiếp tục làm việc thì vẫn tiến hành hỏi cung, lấy lời khai; nếu họ không đồng ý tiếp tục làm việc thì dừng buổi hỏi cung, lấy lời khai. Việc này phải ghi rõ trong biên bản, có xác nhận của cán bộ chuyên môn. Căn cứ pháp lý: Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP
Hỏi cung bị can phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
Nội dung quan trọng trên được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13 từ ngày 01/01/2018 sẽ chính thức có hiệu lực. Ảnh minh họa- Nguồn Internet Theo đó, việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Trường hợp hỏi cung bị can tại địa điểm khác cũng phải được ghi âm, ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13 còn quy định với nhiều nội dung mới, đáng chú ý như sau: - Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung trước khi hỏi cung bị can. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can. - Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. - Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự - Bị can, bị cáo bao gồm cả pháp nhân. Bị can được quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội. Bị cáo được tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa. Theo mình thì việc hỏi cung bị can được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và khi hỏi cung bị can có cả người bào chữa và cả Kiểm sát viên là rất cần thiết vì nó sẽ giúp giảm bớt tình trạng bức cung, dùng nhục hình, từ đó oan sai trong tố tụng sẽ không còn. Các thành viên DânLuật ý kiến về vấn đề này như thế nào?
Điều kiện kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình, định vị
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 66/2017/NĐ-CP quy định điều kiện kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình, định vị. Đây là Nghị định áp dụng cho các cá nhân, tổ chức Việt Nam và người nước ngoài luên quan đến đầu tư kinh doanh và thành lập, cấp phép, đăng ký, quản lý hoạt động kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình. Điều kiện để kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình cũng chính là các điều kiện về an ninh, trật tự. Theo quy định tại Nghị định 66/2017 thì phải đảm bảo theo các điều kiện tại Điều 7 Nghị định 96/2016/NĐ-CP. Trường hợp riêng biệt thì chỉ có các cơ sở sau đây mới được kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình: + Cơ sở kinh doanh thuộc Bộ Công an được cơ quan có thẩm quyền của Bộ Công an cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. + Cơ sở kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng được cơ quan có thẩm quyền của Bộ Quốc phòng cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. + Cơ sở kinh doanh không thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng được cơ quan có thẩm quyền của Bộ Công an cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. Khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định thì cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. Các trường hợp cấp đổi, cấp lại và thu hồi được quy định cụ thể tại Nghị định. Đặc biệt: chỉ được bán thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình cho đối tượng được pháp luật cho phép sử dụng biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; cơ quan có trách nhiệm thi hành biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật theo điều kiện, thẩm quyền, thủ tục về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Nghị định 66/2017/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 05/7/2017.
Vì sao Bộ Công an bỏ quy định giám sát CSGT bằng thiết bị ghi âm, ghi hình?
Nhiều trường hợp lợi dụng giám sát để quay phim, ghi hình quá trình làm việc của cán bộ, chiến sĩ cảnh sát giao thông. Sau đó, họ chia sẻ lên mạng xã hội nhằm quấy rối, gây khó khăn cho công tác thi hành pháp luật. Nhiều người lợi dụng việc ghi âm, ghi hình CSGT Trong Thông tư số 46/2024 (có hiệu lực kể từ ngày 15/11/2024) vừa được Bộ Công an ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 67/2019 quy định về thực hiện dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (TTATGT), nội dung mới đáng chú ý là từ ngày 15/11, hình thức giám sát lực lượng chức năng đang thực thi công vụ thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình sẽ được loại bỏ. Hình ảnh CSGT làm nhiệm vụ bị một số cá nhân quay clip để gây khó khăn (ảnh minh họa). Đề cập lý do bỏ quy định hình thức giám sát bằng thiết bị ghi âm, ghi hình, Bộ Công an lý giải, thời gian qua việc giám sát của một bộ phận người dân đối với lực lượng chức năng trực tiếp làm công tác bảo đảm TTATGT tại một số nơi và ở một số thời điểm chưa được khách quan, đúng quy định. Đáng chú ý, nhiều trường hợp lợi dụng quyền giám sát để quay phim, ghi hình, chụp ảnh quá trình làm việc của cán bộ, chiến sĩ cảnh sát giao thông (CSGT). Sau đó, họ chia sẻ lên mạng xã hội nhằm quấy rối, gây khó khăn cho công tác thi hành pháp luật về TTATGT. Sau này, khi những hình ảnh, clip đăng tải được gỡ bỏ khỏi không gian mạng, còn người đăng tải bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, lúc này các hình ảnh đó vẫn còn ảnh hưởng đến quá trình làm nhiệm vụ của lực lượng chức năng. Bên cạnh đó, Thông tư mới không quy định hình thức giám sát của nhân dân thông qua ghi âm, ghi hình phù hợp với quy định của Nghị định số 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân, Bộ luật Dân sự, Luật An toàn thông tin mạng và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Bộ Công an sẽ đưa nội dung quy định Công an các đơn vị, địa phương sẽ bố trí khu vực làm việc, tổ chức ghi âm, ghi hình quá trình làm việc của lực lượng CSGT vào thông tư quy định nghiệp vụ tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính của lực lượng CSGT đường bộ để đảm bảo công khai, minh bạch trong công tác bảo đảm TTATGT. 5 hình thức giám sát CSGT Tại Điều 11 của Thông tư mới ban hành, quy định về hình thức giám sát của người dân trong công tác bảo đảm TTATGT cũng được thay đổi. Cụ thể, theo quy định mới, người dân được giám sát thông qua 5 hình thức sau: Tiếp cận thông tin công khai của lực lượng công an và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Qua các chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật. Tiếp xúc, giải quyết trực tiếp công việc với cán bộ, chiến sĩ. Kết quả giải quyết các vụ việc, đơn thư, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; Quan sát trực tiếp công tác bảo đảm TTATGT. Việc giám sát phải đảm bảo các điều kiện gồm: Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sĩ khi đang thực thi nhiệm vụ; ở ngoài khu vực thực thi công vụ. Trước đây, Thông tư số 32/2023/TT-BCA ngày 1/8/2023 của Bộ Công an quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung và quy trình tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính về giao thông đường bộ của CSGT (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/9/2023) quy định người dân có quyền giám sát CSGT qua 5 hình thức: Một là, thông qua các thông tin công khai của công an nhân dân và phản hồi qua các phương tiện thông tin đại chúng. Hai là, thông qua các chủ thể giám sát theo quy định của pháp luật. Ba là, thông qua tiếp xúc, giải quyết trực tiếp công việc với cán bộ, chiến sỹ. Bốn là, thông qua kết quả giải quyết các vụ việc, đơn thư, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Năm là, thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc quan sát trực tiếp nhưng phải đảm bảo các điều kiện: Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sỹ khi đang thực thi nhiệm vụ; Ngoài khu vực bảo đảm TTATGT (đối với nơi có triển khai khu vực bảo đảm TTATGT); Tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan. Theo Báo Giao Thông Xem bài viết gốc: https://www.baogiaothong.vn/vi-sao-bo-cong-an-bo-quy-dinh-giam-sat-csgt-bang-thiet-bi-ghi-am-ghi-hinh-19224100908562948.htm
Đề xuất nhà báo ghi âm, ghi hình tại phiên toà công khai phải xin phép 2 lần
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân dự kiến sẽ thay thế Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 nếu được thông qua với nhiều quy định mới, nổi bật là về ghi âm, ghi hình tại phiên tòa. Đề xuất nhà báo ghi âm, ghi hình tại phiên tòa công khai phải xin phép 2 lần Theo Điều 141 Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5), quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp như sau: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên được tham dự phiên tòa xét xử công khai theo quy định của pháp luật. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập đến phiên tòa. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy phiên tòa, phiên họp. - Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khác chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp khi có sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa, phiên họp. - Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ và chủ tọa phiên tòa, phiên họp. - Người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được đưa tin sai sự thật; không đưa tin làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của Tòa án; vi phạm quyền con người của bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án. Theo đó, đây là quy định mới hoàn toàn so với quy định hiện hành. Theo Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5), việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khác chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc khi có sự đồng ý của chủ tọa, và việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ và chủ tọa phiên tòa, phiên họp, tức là phải xin phép 2 lần so với quy định trước đây chỉ cần được sự đồng ý của chủ toạ. Cụ thể: Tại Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Tại khoản 4 Điều 234 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định: Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ. Tại khoản 4 Điều 153 Luật Tố tụng Hành chính 2015 quy định: Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, những người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ. Như vậy, theo quy định hiện hành, nhà báo tham dự để đưa tin về diễn biến phiên tòa sẽ tuân theo sự điều khiển của chủ tọa, không có quy định về giới hạn ghi âm, ghi hình lời nói, hình ảnh của hội đồng xét xử ở các phần của phiên tòa và việc ghi âm, ghi hình của đương sự, người tham gia tố tụng khác chỉ cần sự đồng ý của chủ toạ. Đến quy định tại Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5), nhà báo đưa tin về diễn biến phiên tòa bị giới hạn, chỉ được đưa lời nói, hình ảnh của hội đồng xét xử tại phần khai mạc phiên tòa. Đồng thời, việc ghi âm, ghi hình đương sự, người tham gia tố tụng khác sẽ phải xin lần 1 là từ đương sự, người tham gia tố tụng khác và lần 2 là từ chủ tọa phiên tòa. Xem toàn văn Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/31/du-thao-5-luat-toa-an-nhan-dan.pdf Có được sử dụng điện thoại tại phiên tòa không? Theo Điều 3 Quy chế tổ chức phiên tòa ban hành kèm theo Thông tư 02/2017/TT-TANDTC, quy định về việc sử dụng điện thoại trong nội quy phòng xử án như sau: - Nội quy phòng xử án bao gồm nội quy phiên tòa theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 153 của Luật Tố tụng hành chính và các quy định sau đây: + Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa phải ngồi đúng vị trí trong phòng xử án; + Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký phiên tòa phải mặc trang phục xét xử theo đúng quy định; + Tòa án ghi âm, ghi hình, ghi hình có âm thanh về diễn biến phiên tòa được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong đó: - Khoản 1, khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: + Mọi người vào phòng xử án phải mặc trang phục nghiêm túc, chấp hành việc kiểm tra an ninh và thực hiện đúng hướng dẫn của Thư ký Tòa án. + Mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. - Khoản 6 Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa. - Khoản 6 Điều 153 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được Chủ tọa phiên tòa cho phép; không sử dụng điện thoại di động trong phòng xử án; không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa. Như vậy, đối với phiên tòa dân sự và hành chính, việc sử dụng điện thoại là không được phép. Còn trong phiên tòa hình sự chưa có quy định cụ thể về việc cấm sử dụng điện thoại tại phiên toà, tuy nhiên có quy định mọi người trong phòng xử án phải tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa. Theo đó, nếu hội đồng xét xử có điều hành về việc sử dụng điện thoại hoặc việc sử dụng điện thoại gây ảnh hưởng đến trật tự phiên tòa thì cũng không được phép sử dụng. Xem toàn văn Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Dự thảo 5): https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/31/du-thao-5-luat-toa-an-nhan-dan.pdf
Tổ chức được phép ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng trong trường hợp nào?
Hiện nay, không ít các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều lắp đặt camera cho mục đích an ninh. Tuy nhiên, sẽ ít nhiều ghi hình người dân tại các khu vực công cộng. Mà theo quy định pháp luật thì không được phép ghi hình người khác. Vậy trong trường hợp nào doanh nghiệp được quyền ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng? 1. Cá nhân có quyền gì đối với hình ảnh của mình? Theo khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân của cá nhân, theo đó: Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Do đó, bất kỳ cá nhân nào cũng có quyền bảo vệ đối với hình ảnh của mình dù là đối với mục đích nào. 2. Tổ chức, doanh nghiệp có được quay ghi âm, ghi hình cá nhân? Căn cứ Điều 18 Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định việc doanh nghiệp được phép lưu trữ dữ liệu cá nhân thu được từ hoạt động ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng trong trường hợp sau: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được ghi âm, ghi hình và xử lý dữ liệu cá nhân thu được từ hoạt động ghi âm, ghi hình tại nơi công cộng với mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật mà không cần có sự đồng ý của chủ thể. Khi thực hiện việc ghi âm, ghi hình, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo để chủ thể hiểu được mình đang bị ghi âm, ghi hình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 3. Doanh nghiệp được sử dụng hình ảnh của cá nhân ra sao? Căn cứ Điều 17 Nghị định 13/2023/NĐ-CP quy định doanh nghiệp được phép xử lý dữ liệu cá nhân trong trường hợp không cần sự đồng ý của chủ thể dữ liệu: - Trong trường hợp khẩn cấp, cần xử lý ngay dữ liệu cá nhân có liên quan để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của chủ thể dữ liệu hoặc người khác. Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân, Bên Xử lý dữ liệu cá nhân, Bên Kiểm soát và xử lý dữ liệu cá nhân, Bên thứ ba có trách nhiệm chứng minh trường hợp này. - Việc công khai dữ liệu cá nhân theo quy định của luật. - Việc xử lý dữ liệu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm; khi có nguy cơ đe dọa an ninh, quốc phòng nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp; phòng, chống bạo loạn, khủng bố, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo quy định của luật. - Để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của chủ thể dữ liệu với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của luật. - Phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước đã được quy định theo luật chuyên ngành. 4. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xử lý dữ liệu cá nhân Theo Điều 39 Nghị định 13/2023/NĐ-CP trách nhiệm của Bên Xử lý dữ liệu cá nhân phải thực hiện như sau: - Chỉ tiếp nhận dữ liệu cá nhân sau khi có hợp đồng hoặc thỏa thuận về xử lý dữ liệu với Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân. - Xử lý dữ liệu cá nhân theo đúng hợp đồng hoặc thỏa thuận ký kết với Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân. - Thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân quy định tại Nghị định này và các văn bản pháp luật khác có liên quan. - Bên Xử lý dữ liệu cá nhân chịu trách nhiệm trước chủ thể dữ liệu về các thiệt hại do quá trình xử lý dữ liệu cá nhân gây ra. - Xóa, trả lại toàn bộ dữ liệu cá nhân cho Bên Kiểm soát dữ liệu cá nhân sau khi kết thúc xử lý dữ liệu. - Phối hợp với Bộ Công an, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bảo vệ dữ liệu cá nhân, cung cấp thông tin phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Như vậy, tổ chức, doanh nghiệp vẫn được quyền ghi âm, ghi hình cá nhân nhưng trong trường hợp với mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật mà không cần có sự đồng ý của chủ thể.
Người dân có được dùng điện thoại ghi âm, ghi hình khi xét xử phiên tòa dân sự?
Phiên tòa là Hình thức hoạt động xét xử của Tòa án. Tùy theo tính chất của thủ tục xét xử mà có phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong quá trình tham dự phiên tòa, các đương sự, người tham gia tố tụng và các cá nhân khác có liên quan cần tuân thủ quy định pháp luật, chấp hành nội quy phiên tòa, trong đó bao gồm hành vi ghi âm, ghi hình tại phiên tòa. Những trường hợp ghi âm, ghi hình trong phiên tòa xét xử Hiện nay căn cứ theo Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 có quy định những trường hợp thực hiện việc ghi âm tại phiên tòa bao gồm: - Nhà báo tham dự phiên tòa để đưa tin về diễn biến phiên tòa phải chấp hành sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa về khu vực tác nghiệp. Nhà báo ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử phải được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của đương sự, người tham gia tố tụng khác phải được sự đồng ý của họ (khoản 4 Điều 234 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015); - Ngoài việc ghi biên bản phiên tòa, Hội đồng xét xử có thể thực hiện việc ghi âm, ghi hình về diễn biến phiên tòa (khoản 2 Điều 236 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015); Người dân có được dùng điện thoại di động để ghi âm trong phiên tòa xét xử? Hiện nay không có quy định được phép hoặc không được phép khi ghi âm, ghi hình phiên tòa đối những những đương sự hoặc những đối tượng tham gia phiên tòa khác. Tuy nhiên căn cứ khoản 6 Điều 234 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 có đề cập: - Không đội mũ, nón, đeo kính màu trong phòng xử án, trừ trường hợp có lý do chính đáng và được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; không sử dụng điện thoại di động, không hút thuốc, không ăn uống trong phòng xử án hoặc có hành vi khác ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa. =>> Theo đó khi tham gia phiên tòa không được phép sử dụng điện thoại di động nên sẽ không được sử dụng điện thoại di động để ghi âm nội dung phiên tòa. Tuy nhiên pháp luật không hạn chế việc sử dụng các công cụ ghi âm, ghi hình khác để ghi âm, ghi hình. Tuy nhiên trường hợp sử dụng công cụ ghi âm, ghi hình khác thì chủ tọa phiên tòa sẽ xem xét có ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của phiên tòa hay không mà cho phép hoặc không cho phép thực hiện. Ngoài ra nếu đã được ghi âm, ghi hình thì cũng phải tuân thủ quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh, nếu gây thiệt hại, ảnh hưởng quyền và lợi ích của những người có liên quan thì cũng phải chịu trách nhiệm tương ứng.
Khi nào công dân không được chụp ảnh, quay phim
Chụp ảnh, quay phim có lẽ là một trong những thói quen muốn ghi lại khoảnh khắc, kỷ niệm của một người. Thói quen này có thể tốt hoặc cũng có thể để lại nhiều tác hại xấu. Tại một số nơi người dân cần lưu ý sẽ có thông báo cấm chụp ảnh, ghi hình hoặc nó đã trở thành luật bất thành văn mà người dân phải biết. Việc chụp ảnh, ghi hình có thể gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức hay an ninh quốc gia và nhiều hệ lụy khác. Để tránh bị xử phạt, vậy những địa điểm nào và khi nào thì công dân bị không được chụp ảnh, quay phim? 1. Nghiêm cấm chụp ảnh, quay phim ảnh hưởng đến bí mật đời tư Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu sự kiện, hoàn cảnh về đời tư của cá nhân mà người khác không được loan truyền nếu không được người đó đồng ý hoặc pháp luật cho phép. Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Chụp ảnh, quay phim là quyền của cá nhân và được nhà nước khuyến khích quảng bá hình ảnh văn hóa của đất nước tới cộng đồng trong nước cũng như quốc tế. Tuy nhiên, người có hành vi trên cũng cần lưu ý một số quy định tại Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 như sau: (1) Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình - Trong trường hợp cá nhân chụp mà có sử dụng hình ảnh của người khác trong dữ liệu hình ảnh, video mà mình ghi được thì phải được người đó đồng ý. - Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. (2) Sử dụng hình ảnh không cần có sự đồng ý - Như đã nói ở trên, nhà nước luôn khuyến khích các cá nhân, tổ chức làm đẹp hình ảnh đất nước và truyền tải thông điệp tốt đẹp đến cộng đồng. Thì hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng không cần phải xin phép. - Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Lưu ý: Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm đến hình ảnh cá nhân thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc chụp hình, quay phim đối với cá nhân mà không cần phải có sự đồng ý đó chính là chụp hình, ghi hình cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Theo khoản 3 Điều 4 Luật Công an nhân dân 2018 quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Công an nhân dân được thực hiện như sau: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc công dân chụp hình, ghi hình cảnh sát cụ thể là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ thì không bị xem là xâm phạm bí mật đời tư mà đang thực hiện quyền giám sát của nhân dân. 2. Nghiêm cấm chụp ảnh, quay phim ảnh hưởng đến bí mật nhà nước Bí mật nhà nước là thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định của Luật này, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Hiện nay, để bảo vệ bí mật nhà nước, an ninh quốc gia nhà nước đã ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 nhằm ngăn chặn việc hình ảnh, tư liệu, thông tin quốc gia bị lộ ra ngoài làm ảnh hưởng đến đất nước. Theo đó, Điều 5 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 quy định các hành vi sau đây sẽ bị nghiêm cấm khi có liên quan đến bí mật nhà nước: Chuyển mục đích sử dụng máy tính, thiết bị khác đã dùng để soạn thảo, lưu giữ, trao đổi bí mật nhà nước khi chưa loại bỏ bí mật nhà nước. Sử dụng thiết bị có tính năng thu, phát tín hiệu, ghi âm, ghi hình trong hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước dưới mọi hình thức khi chưa được người có thẩm quyền cho phép. Đăng tải, phát tán bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, mạng máy tính và mạng viễn thông. Việc cấm chụp hình, ghi hình tại các cuộc họp, lưu lại tư liệu chưa được cơ quan nhà nước cho phép thì xem như vi phạm các quy định về bí mật nhà nước. Ngoài ra, một số địa điểm có đặt biển báo cấm ghi hình, chụp hình tại trụ sở cơ quan, tổ chức thì người dân phải nên tuân theo như cơ quan chính quyền, bảo tàng nghệ thuật, công trình chưa được công bố,... 3. Cấm chụp hình, quay phim tại cảng hàng không Cảng hàng không chắc hẳn trong thời gian qua đã làm chúng ta chú ý với những quyết định xử phạt nặng khi mà người dân đã vi phạm các quy định nghiêm cấm tại sân bay. Cụ thể, đó là chụp hình, ghi hình tại địa điểm sân bay. Căn cứ khoản 9 Điều 32 Thông tư 13/2019/TT-BGTVT (sửa đổi bởi Thông tư 41/2020/TT-BGTVT) về việc ghi âm, ghi hình trong khu vực hạn chế quy định tại khoản 1 Điều 31 Thông tư 13/2019/TT-BGTVT hoặc tại các điểm kiểm tra an ninh hàng không hoặc trong nơi làm việc của cơ quan quản lý Nhà nước tại cảng hàng không phải được đơn vị chủ quản cho phép bằng văn bản, trừ các trường hợp sau đây: Việc ghi âm, ghi hình thông tin, tài liệu thuộc phạm vi bí mật nhà nước thực hiện theo các quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước. - Ghi âm, ghi hình tại phòng chờ lên tàu bay, chờ lấy hành lý mà không phải điểm kiểm tra an ninh hàng không. - Cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng kiểm soát an ninh hàng không ghi âm, ghi hình phục vụ công vụ theo thẩm quyền, trách nhiệm được giao. *Những địa điểm cụ thể bao gồm: - Khu vực cách ly, khu vực từ điểm kiểm tra an ninh đối với nhân viên nội bộ trước khi vào khu vực hạn chế vào bên trong nhà ga. - Khu vực sân bay. - Khu vực phân loại hành lý. - Khu vực dành cho hành khách quá cảnh. - Khu vực phân loại, lưu giữ, chất xếp hàng hóa, bưu gửi. - Nhà khách phục vụ chuyến bay chuyên cơ, chuyến bay ưu tiên. - Khu vực giao nhận hành lý cho hành khách tại nhà ga đến. - Khu vực bảo dưỡng, sửa chữa, lắp đặt tàu bay. - Khu vực sản xuất, chế biến, cung ứng suất ăn. - Khu vực kho nhiên liệu cung cấp cho tàu bay. - Trung tâm khẩn nguy cảng hàng không; Trung tâm khẩn nguy hàng không quốc gia. - Trung tâm kiểm soát đường dài, cơ sở kiểm soát tiếp cận, trung tâm quản lý luồng không lưu; - Đài kiểm soát tại sân bay, trạm ra-đa kiểm soát không lưu, trạm thông tin điều hành bay; - Trạm cấp điện, cấp nước của cảng hàng không, sân bay (nằm ngoài khu vực hạn chế nhà ga, sân bay); - Khu vực từ điểm soi chiếu hành lý ký gửi vào bên trong nhà ga; - Khu vực từ điểm soi chiếu hàng hóa, bưu gửi để vận chuyển bằng tàu bay vào bên trong nhà ga, nhà kho; - Khu vực lắp đặt các thiết bị điều khiển trung tâm của hệ thống kỹ thuật nhà ga, sân bay, kiểm soát cổng cửa ra vào nhà ga, sân bay, quản lý tòa nhà. Trên đây, là tổng hợp một số địa điểm, khu vực và đối tượng mà người dân bị hạn chế hoặc bị cấm hành vi chụp hình, ghi hình tư liệu mà chưa có sự cho phép của cá nhân, tổ chức đó. Ngoài những vấn đề đó ra thì người dân được nhà nước khuyến khích quảng bá hình ảnh đất nước thông qua hình ảnh, tư liệu.
Có được ghi hình khi bị xử phạt hành chính về giao thông?
Xử phạt hành chính về giao thông Đây là câu hỏi được rất nhiều người thắc mắc, tuy nhiên để có thể tìm được câu trả lời thích đáng, cần phải xem xét việc quay phim, chụp ảnh người thi hành công vụ dưới nhiều góc độ. Thứ nhất, về quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư Nhiều quan điểm cho rằng việc ghi âm, ghi hình người khác là xâm phạm đời sống riêng tư, và họ có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (theo Điều 21 Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, bản chất của việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính không phải là việc “xâm phạm quyền riêng tư”, bởi lẽ lúc này họ đang thi hành công vụ. Việc ghi âm, ghi hình là để thực hiện quyền giám sát của công dân đối với hoạt động “giám sát” của Nhân dân theo Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp 2013: “2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.” Theo đó, Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó Khoản 5 Điều 3 Luật công an nhân dân 2018 cũng quy định: “Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân…” Thứ hai, về quyền cung cấp chứng cứ khi khiếu nại, tố cáo, khởi kiện Điều 115 Luật tố tụng hành chính 2015 có quy định: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó…” Hiện nay, pháp luật cho phép người dân được trực tiếp khởi kiện vụ án đối với một quyết định hành chính (tức quyết định xử phạt liên quan đến giao thông mà họ đã bị xử phạt) hoặc hành vi hành chính mà mình không đồng ý. Để có thể khởi kiện một vụ án, một trong những quyền cơ bản mà đương sự (tức người bị xử phạt hành chính) Tại Điều 55 của Luật này có quy định: “Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng, bao gồm: … 5. Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; …” Điều này có nghĩa, khi người dân muốn khởi kiện một vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật cho phép họ có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ. Theo nguyên tắc của Tố tụng, một tài liệu, chứng cứ phải được Tòa án chấp thuận thì mới phát sinh tính pháp lý, và để có được sự chấp thuận đó, việc cung cấp đầy đủ băng ghi âm, ghi hình cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh, làm rõ tính hợp pháp là điều hết sức cần thiết. Thứ ba, ghi âm, ghi hình là thực hiện quyền dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông Tại Điều 11 Thông tư 67/2019/TT-BCA có quy định về Hình thức giám sát của nhân dân trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông như sau: “… 5. Thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc quan sát trực tiếp nhưng phải đảm bảo các điều kiện sau: a) Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sỹ khi đang thực thi nhiệm vụ; b) Ngoài khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (đối với nơi có triển khai khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông); c) Tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan.” Theo những phân tích ở trên, chưa có quy định pháp luật nào cấm việc ghi âm, ghi hình quá trình xử phạt hành chính, vậy người dân chỉ cần giải thích được việc ghi âm, ghi hình của mình không ảnh hưởng đến hoạt động của cán bộ, chiến sĩ và cũng không nằm trong những khu vực không cho phép sử dụng các thiết bị ghi âm, ghi hình thì không có căn cứ để cấm hành vi này. Với những căn cứ nêu trên, theo quan điểm của người viết, việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính là hoàn toàn hợp pháp.
Phụ huynh có được ghi hình lại buổi họp phụ huynh ở trường không?
Hiện chị gái mình đang là hiệu trưởng trường THCH, trong quá trình trao đổi với các vị phụ huynh của học sinh vi phạm, những vị phụ huynh này liên tục lấy điện thoại ra quay hình và ghi âm chị mình. Vậy trường hợp trên có hướng xử lý vi phạm không ạ?
Từ 1/1/2020: Ghi âm, ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 1172/QĐ-TTg về phê duyệt đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, Điều 183 về hỏi cung bị can quy định: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Điều 442 về lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân quy định: “Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của người đại diện, của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Đề án nêu rõ để tránh tình trạng lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp làm trái luật và tránh trường hợp bức cung, dùng nhục hình trong hoạt động tư pháp,.. dẫn đến tình trạng thay đổi lời khai hoặc chối tội gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng, thực tế quy định này đã được quy định nhưng chưa được luật hóa, mới dừng dừng lại ở việc cũng cố chứng cứ nên quy định nên trên là rất cần thiết Chậm nhất đến ngày 1/1/2020 sẽ thực hiện thống nhất ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc
Quy trình hỏi cung, lấy lời khai có ghi âm, ghi hình kèm âm thanh
Có thể nói bổ sung quy định buộc ghi âm, ghi hình khi hỏi cung bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội là một bước tiến lớn trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vì vậy, để làm rõ vấn đề này, mình muốn chia sẻ các bạn Quy trình hỏi cung, lấy lời khai có ghi âm, ghi hình kèm âm thanh: Bước 1: Đăng ký để được bố trí phòng chuyên dụng Cán bộ hỏi cung hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội (gọi tắt là cán bộ) phải đăng ký với cán bộ chuyên môn tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra Mục đích: - Bố trí phòng chuyên dụng - Hướng dẫn về quy trình, thao tác kỹ thuật thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh. Sau đó, cán bộ làm thủ tục trích xuất đối với bị can bị tạm giam hoặc triệu tập bị can đang tại ngoại (hoặc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội) theo quy định của pháp luật (không được đưa bị can tại ngoại vào hỏi cung ở cơ sở giam giữ, trừ trường hợp đối chất với bị can đang bị tạm giam). Bước 2: Thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh Khi được bố trí phòng làm việc, cán bộ đến phòng làm việc, thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết về việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, việc thông báo phải ghi vào biên bản sau đó tiến hành làm việc Bước 3: Bắt đầu hỏi cung hoặc lấy lời khai Cán bộ nhấn nút bắt đầu và phải đọc thời gian bắt đầu, đồng thời ghi rõ trong biên bản. Trong quá trình hỏi cung hoặc lấy lời khai có thể tạm dừng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh bằng cách nhấn nút tạm dừng. Trước khi tạm dừng cán bộ hỏi cung, lấy lời khai phải đọc rõ thời gian tạm dừng, lý do tạm dừng, khi tiếp tục làm việc cũng phải đọc rõ thời gian tiếp tục, quá trình này được ghi rõ trong biên bản. Bước 4: Kết thúc hỏi cung hoặc lấy lời khai Kết thúc buổi làm việc, cán bộ nhấn nút kết thúc, thời gian kết thúc ghi rõ trong biên bản. Lưu ý: - Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì không được tiến hành hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội. Trường hợp đang hỏi cung hoặc lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật thì phải dừng ngay buổi hỏi cung, lấy lời khai. Việc này ghi rõ trong biên bản, có xác nhận của cán bộ chuyên môn. - Trường hợp không bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì cán bộ thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết, nếu họ đồng ý thì tiến hành làm việc, trường hợp họ không đồng ý thì không được hỏi cung, lấy lời khai. Trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật thì cán bộ thông báo cho bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội biết, nếu họ đồng ý tiếp tục làm việc thì vẫn tiến hành hỏi cung, lấy lời khai; nếu họ không đồng ý tiếp tục làm việc thì dừng buổi hỏi cung, lấy lời khai. Việc này phải ghi rõ trong biên bản, có xác nhận của cán bộ chuyên môn. Căn cứ pháp lý: Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP
Hỏi cung bị can phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
Nội dung quan trọng trên được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13 từ ngày 01/01/2018 sẽ chính thức có hiệu lực. Ảnh minh họa- Nguồn Internet Theo đó, việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Trường hợp hỏi cung bị can tại địa điểm khác cũng phải được ghi âm, ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ngoài ra Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13 còn quy định với nhiều nội dung mới, đáng chú ý như sau: - Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung trước khi hỏi cung bị can. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can. - Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. - Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự - Bị can, bị cáo bao gồm cả pháp nhân. Bị can được quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội. Bị cáo được tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa. Theo mình thì việc hỏi cung bị can được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và khi hỏi cung bị can có cả người bào chữa và cả Kiểm sát viên là rất cần thiết vì nó sẽ giúp giảm bớt tình trạng bức cung, dùng nhục hình, từ đó oan sai trong tố tụng sẽ không còn. Các thành viên DânLuật ý kiến về vấn đề này như thế nào?
Điều kiện kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình, định vị
Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 66/2017/NĐ-CP quy định điều kiện kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình, định vị. Đây là Nghị định áp dụng cho các cá nhân, tổ chức Việt Nam và người nước ngoài luên quan đến đầu tư kinh doanh và thành lập, cấp phép, đăng ký, quản lý hoạt động kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình. Điều kiện để kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình cũng chính là các điều kiện về an ninh, trật tự. Theo quy định tại Nghị định 66/2017 thì phải đảm bảo theo các điều kiện tại Điều 7 Nghị định 96/2016/NĐ-CP. Trường hợp riêng biệt thì chỉ có các cơ sở sau đây mới được kinh doanh thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình: + Cơ sở kinh doanh thuộc Bộ Công an được cơ quan có thẩm quyền của Bộ Công an cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. + Cơ sở kinh doanh thuộc Bộ Quốc phòng được cơ quan có thẩm quyền của Bộ Quốc phòng cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. + Cơ sở kinh doanh không thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng được cơ quan có thẩm quyền của Bộ Công an cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. Khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định thì cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự. Các trường hợp cấp đổi, cấp lại và thu hồi được quy định cụ thể tại Nghị định. Đặc biệt: chỉ được bán thiết bị, phần mềm ngụy trang dùng để ghi âm, ghi hình cho đối tượng được pháp luật cho phép sử dụng biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật là cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; cơ quan có trách nhiệm thi hành biện pháp ghi âm, ghi hình bí mật theo điều kiện, thẩm quyền, thủ tục về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Nghị định 66/2017/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 05/7/2017.