MỚI: Chính phủ bỏ đề xuất trích 70% tiền xử phạt vi phạm cho CSGT
Vừa qua, Chính phủ đã bác bỏ đề xuất Cảnh sát giao thông được trích lại tối thiểu 70% khoản tiền xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ sau khi nộp vào ngân sách nhà nước. (1) Bỏ đề xuất trích 70% tiền xử phạt cho cảnh sát giao thông Theo đó, đây là nội dung đáng chú ý trong dự thảo Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ trình hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách sẽ diễn ra từ ngày 26 - 28/3/2024. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 5 của dự thảo luật trình phiên họp thứ 31 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đề xuất như sau: "Lực lượng CSGT được trích không thấp hơn 70% khoản tiền xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ sau khi nộp vào ngân sách nhà nước và không thấp hơn 30% khoản tiền thu được từ đấu giá biển số xe sau khi nộp vào ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật". Số tiền trích này được đề xuất để phục vụ công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị, hiện đại hóa lực lượng cảnh sát giao thông. Xem thêm: Mẫu Báo cáo tài chính mới nhất? Thời hạn nộp Báo cáo tài chính năm 2023 khi nào? Chậm nộp báo cáo tài chính, doanh nghiệp phải chịu mức xử phạt như thế nào? Tuy nhiên, tại dự thảo luật mới nhất trình hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách tới đây, nội dung này đã được bỏ. Theo đó, khoản 1 Điều 5 dự thảo mới nhất chỉ còn quy định: "Huy động, sử dụng các nguồn lực để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị hiện đại, các điều kiện bảo đảm và nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của lực lượng trực tiếp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ". Thẩm tra nội dung này tại phiên họp thứ 31 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước đó, Thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh đề nghị Chính phủ báo cáo làm rõ hơn quy định này để phù hợp với quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước. Chính phủ phải có báo cáo đánh giá tác động, làm rõ tác động đến ngân sách nhà nước thế nào, tính phù hợp với các pháp luật có liên quan thế nào. Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng xử phạt vi phạm hành chính là một nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính đang quy định tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính phải nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước và phải được quản lý, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Vì vậy, ông Tùng cho rằng, đầu tư cho lực lượng cảnh sát giao thông, cho công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ là cần thiết nhưng cần thống nhất với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Mặt khác, chúng ta có rất nhiều lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, vì sao mỗi lĩnh vực này quy định trích % còn các lĩnh vực khác thì không, trong khi cũng có rất nhiều lĩnh vực quan trọng. "Chúng tôi đề nghị nên thiết kế nguyên tắc chung về chính sách như dự thảo luật mà Chính phủ trình tại kỳ họp thứ 6"- ông Tùng đề nghị. (2) Cần làm rõ quy định trích 30% khoản thu từ đấu giá biển số xe Còn về quy định trích 30% khoản tiền thu được từ đấu giá biển số xe sau khi nộp vào ngân sách trung ương, ông Tùng cho rằng, đây là quy định mới so với dự thảo Chính phủ trình tại kỳ họp 6. Đồng thời, mới so với Nghị quyết 73/2022/QH15 của Quốc hội về thí điểm đấu giá biển số xe và cũng không phù hợp với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công... Luật Quản lý, sử dụng tài sản công quy định toàn bộ số tiền xử lý tài sản công (biển số xe là tài sản công- PV) được nộp vào tài khoản tạm giữ tại kho bạc nhà nước; sau khi trừ đi chi phí có liên quan đến xử lý tài sản, phần còn lại phải được nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước. Trong khi đó, tại Điều 37 của dự thảo Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ về đấu giá biển số xe cũng không phù hợp với những quy định khác của dự thảo. Cụ thể, dự thảo quy định số tiền thu được từ đấu giá biển số xe sau khi trừ các khoản chi phí tổ chức đấu giá, chi phí quảng cáo, chi phí quản trị hệ thống đấu giá và chi phí khác được nộp vào ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước… Từ những phân tích đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị Chính phủ giải trình làm rõ thêm theo tinh thần nên giữ như dự thảo đã trình tại kỳ họp 6. Xem thêm: Tổng Cục Thuế hướng dẫn nộp thuế bằng điện thoại thông qua ứng dụng eTax Mobile Điều kiện ủy quyền quyết toán thuế TNCN? Mẫu giấy ủy quyền quyết toán thuế TNCN 2024 Hạn chót nộp hồ sơ quyết toán thuế trực tiếp năm 2024 là khi nào? Nộp hồ sơ tại đâu?
Đề xuất gộp giấy phép lái xe hạng B1 và B2, bỏ hạng A4
Tại kỳ họp 6 Quốc hội khóa XV vừa qua, khi đưa ra hội trường để thảo luận, dự thảo luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ không phân hạng GPLX mà giao cho Chính phủ quy định. Theo đó, Bộ Công an đang lấy ý kiến các cơ quan, hiệp hội về dự thảo báo cáo giải trình một số nội dung mới trong dự thảo luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Đề xuất bỏ GPLX hạng A4, gộp hạng B1 và B2 Tại dự thảo báo cáo đang lấy ý kiến, Bộ Công an đề xuất thay đổi một số hạng giấy phép lái xe (GPLX). Theo quy định đang có hiệu lực tại luật Giao thông đường bộ 2008, giấy phép lái xe bao gồm 13 hạng: A1, A2, A3, A4, B1, B2, C, D, E, FB2, FD, FE, FC. Trong đó, hạng A4 cấp cho người lái máy kéo có trọng tải đến 1.000kg. Hạng B1 cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500kg. Hạng B2 cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500kg. Trong dự thảo báo cáo mới, Bộ Công an đề xuất bỏ hạng A4 và không quy định hạng GPLX cho người điều khiển máy kéo vì căn cứ vào kiểu loại, công dụng của phương tiện, loại phương tiện này sẽ được xếp vào nhóm xe máy chuyên dùng. Đồng thời, Bộ Công an cũng đề xuất đưa hạng B1 và B2 về cùng hạng B do căn cứ để phân hạng GPLX là từ công suất, kiểu loại, động cơ, số chỗ ngồi. Việc cấp GPLX theo hạng mới này, theo Bộ Công an, sẽ được thực hiện đối với người cấp lần đầu và cho những GPLX thuộc các trường hợp cấp đổi, cấp lại. Điều khoản chuyển tiếp sẽ quy định GPLX cấp trước khi luật này có hiệu lực thi hành được tiếp tục sử dụng theo thời hạn và giá trị ghi trên GPLX. Nội luật hóa các quy định về phân hạng GPLX Cũng theo Bộ Công an, việc đưa nội dung phân hạng GPLX vào dự thảo luật nhằm nội luật hóa các quy định về phân hạng GPLX quy định tại Công ước Viên năm 1968, đảm bảo cam kết của Việt Nam khi ký kết, gia nhập công ước. Việc này còn tạo thuận lợi cho người Việt Nam sinh sống, học tập tại các nước là thành viên Công ước Viên năm 1968; không mất chi phí đổi, học để được cấp GPLX, góp phần phát triển kinh tế, du lịch, thương mại, hợp tác quốc tế, đồng thời phát triển đầu tư, sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu phương tiện trong nước và quốc tế do có sự đồng bộ về phân hạng phương tiện và GPLX. Việc chuyển đổi chỉ thực hiện đối với sát hạch, cấp mới và các trường hợp cấp đổi, cấp lại, chuyển đổi thực hiện theo hướng có lợi cho người dân, không gây mất an toàn giao thông. Thông tin này được Bộ Công an đề xuất để thúc đẩy sự đồng bộ hóa về phân hạng phương tiện và GPLX, góp phần vào sự phát triển của ngành đầu tư, sản xuất và giao thông vận tải cả trong và ngoài nước. Xem thêm tại dự thảo luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ Tham khảo: Cách tính thời hạn tước quyền sử dụng GPLX Thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước quyền sử dụng GPLX, chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt được quy định tại khoản 3 Điều 81 Nghị định 100/2019/NĐ-CP như sau: - Trường hợp tại thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà người có thẩm quyền xử phạt đã tạm giữ được giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức vi phạm thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là thời điểm quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành; - Trường hợp tại thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà người có thẩm quyền xử phạt chưa tạm giữ được giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức vi phạm thì người có thẩm quyền xử phạt vẫn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định đối với hành vi vi phạm. Trong nội dung quyết định xử phạt phải ghi rõ thời điểm bắt đầu tính hiệu lực thi hành của hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là kể từ thời điểm mà người vi phạm xuất trình giấy phép, chứng chỉ hành nghề cho người có thẩm quyền xử phạt tạm giữ; - Khi tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tước quyền sử dụng theo quy định tại điểm b khoản này và khi trả giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tước quyền sử dụng theo quy định tại điểm a, điểm b khoản này, người có thẩm quyền xử phạt phải lập biên bản và lưu hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, để không bị nhầm lẫn giữa thời gian đến đóng phạt và thời gian tước quyền sử dụng GPLX khi bị CSGT tước GPLX thì thời gian tước GPLX được tính từ thời điểm tước GPLX đến khi người vi phạm được trả lại giấy phép, thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước GPLX được xác định từ khi thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép tính kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành.
Đề xuất đổi, cấp lại bằng lái xe theo phân hạng mới, không còn hạng A1?
Ngày 02/6/2023, tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thống nhất đưa dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Luật Đường bộ vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh để Quốc hội khóa XV cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2023). Theo đó, Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ đề xuất đổi, cấp lại giấy phép lái xe theo phân hạng mới. Theo Điều 62 Dự thảo giấy phép lái xe đã được cấp theo Luật Giao thông đường bộ 2008 được tiếp tục sử dụng. Đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 (giấy phép lái xe được cấp lại), 3 (giấy phép lái xe được đổi) Điều 43 của luật này thì được đổi, cấp lại theo phân hạng mới. Trong đó, khoản 2, 3 Điều 43 những trường hợp đổi, cấp lại theo phân hạng mới như sau: - Trường hợp giấy phép lái xe được cấp lại: + Giấy phép lái xe hết thời hạn sử dụng; + Giấy phép lái xe bị mất. - Trường hợp giấy phép lái xe được đổi: + Giấy phép lái xe bị hỏng hoặc sai lệch thông tin ghi trên giấy phép lái xe; + Giấy phép lái xe của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam do cơ quan thẩm quyền của nước ngoài cấp, còn giá trị sử dụng; + Giấy phép lái xe do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cấp mà người được cấp không còn làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Theo đó, giấy phép lái xe hạng A1, A2, A3, B1, B2, C, D, E, FB2, FC, FD, FE được cấp theo Luật Giao thông đường bộ 2008 được đổi, cấp lại như sau: - Giấy phép lái xe hạng A3, C giữ nguyên và đổi, cấp lại cùng hạng; - Giấy phép lái xe hạng A2 đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng A1; - Giấy phép lái xe hạng A đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng A2; - Giấy phép lái xe hạng B đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng B1, B2; - Giấy phép lái xe hạng D2 đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng D; - Giấy phép lái xe hạng D đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng E; - Giấy phép lái xe hạng BE đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng FB2; - Giấy phép lái xe hạng CE đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe FC; - Giấy phép lái xe hạng D2E đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng FD; - Giấy phép lái xe hạng DE đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng FE. Các hạng giấy phép lái xe theo Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ Theo Dự thảo, đề xuất giấy phép lái xe bao gồm các hạng như sau: (1) Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 50cm3 đến 175cm3 hoặc có động cơ có công suất định mức tương đương; (2) Hạng A cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175cm3 trở lên, hoặc động cơ có công suất định mức tương đương và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A2; (3) Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A2; (4) Hạng B cấp cho người lái xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi (kể cả chỗ của người lái xe); xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế không vượt quá 3.500kg; các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng B2; (5) Hạng C1 cấp cho người lái xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 3.500 đến 7.500kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C1 có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B; (6) Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 7.500kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1; (7) Hạng D2 cấp cho người lái xe ô tô chở người (kể cả ô tô buýt) từ 10 đến 30 chỗ; các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1, C; (8) Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người (kể cả ô tô buýt) trên 30 chỗ; xe ô tô chở người giường nằm; các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1, C, D2; (9) Hạng BE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; (10) Hạng C1E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C1 khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; (11) Hạng CE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; xe ô tô đầu kéo kéo sơ mi rơ mooc; (12) Hạng D2E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; (13) Hạng DE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg. Xem chi tiết tại Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ
MỚI: Chính phủ bỏ đề xuất trích 70% tiền xử phạt vi phạm cho CSGT
Vừa qua, Chính phủ đã bác bỏ đề xuất Cảnh sát giao thông được trích lại tối thiểu 70% khoản tiền xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ sau khi nộp vào ngân sách nhà nước. (1) Bỏ đề xuất trích 70% tiền xử phạt cho cảnh sát giao thông Theo đó, đây là nội dung đáng chú ý trong dự thảo Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ trình hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách sẽ diễn ra từ ngày 26 - 28/3/2024. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 5 của dự thảo luật trình phiên họp thứ 31 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đề xuất như sau: "Lực lượng CSGT được trích không thấp hơn 70% khoản tiền xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ sau khi nộp vào ngân sách nhà nước và không thấp hơn 30% khoản tiền thu được từ đấu giá biển số xe sau khi nộp vào ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật". Số tiền trích này được đề xuất để phục vụ công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị, hiện đại hóa lực lượng cảnh sát giao thông. Xem thêm: Mẫu Báo cáo tài chính mới nhất? Thời hạn nộp Báo cáo tài chính năm 2023 khi nào? Chậm nộp báo cáo tài chính, doanh nghiệp phải chịu mức xử phạt như thế nào? Tuy nhiên, tại dự thảo luật mới nhất trình hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách tới đây, nội dung này đã được bỏ. Theo đó, khoản 1 Điều 5 dự thảo mới nhất chỉ còn quy định: "Huy động, sử dụng các nguồn lực để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị hiện đại, các điều kiện bảo đảm và nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của lực lượng trực tiếp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ". Thẩm tra nội dung này tại phiên họp thứ 31 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước đó, Thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh đề nghị Chính phủ báo cáo làm rõ hơn quy định này để phù hợp với quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước. Chính phủ phải có báo cáo đánh giá tác động, làm rõ tác động đến ngân sách nhà nước thế nào, tính phù hợp với các pháp luật có liên quan thế nào. Bên cạnh đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng xử phạt vi phạm hành chính là một nội dung của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính đang quy định tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính phải nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước và phải được quản lý, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Vì vậy, ông Tùng cho rằng, đầu tư cho lực lượng cảnh sát giao thông, cho công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ là cần thiết nhưng cần thống nhất với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Mặt khác, chúng ta có rất nhiều lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, vì sao mỗi lĩnh vực này quy định trích % còn các lĩnh vực khác thì không, trong khi cũng có rất nhiều lĩnh vực quan trọng. "Chúng tôi đề nghị nên thiết kế nguyên tắc chung về chính sách như dự thảo luật mà Chính phủ trình tại kỳ họp thứ 6"- ông Tùng đề nghị. (2) Cần làm rõ quy định trích 30% khoản thu từ đấu giá biển số xe Còn về quy định trích 30% khoản tiền thu được từ đấu giá biển số xe sau khi nộp vào ngân sách trung ương, ông Tùng cho rằng, đây là quy định mới so với dự thảo Chính phủ trình tại kỳ họp 6. Đồng thời, mới so với Nghị quyết 73/2022/QH15 của Quốc hội về thí điểm đấu giá biển số xe và cũng không phù hợp với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công... Luật Quản lý, sử dụng tài sản công quy định toàn bộ số tiền xử lý tài sản công (biển số xe là tài sản công- PV) được nộp vào tài khoản tạm giữ tại kho bạc nhà nước; sau khi trừ đi chi phí có liên quan đến xử lý tài sản, phần còn lại phải được nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước. Trong khi đó, tại Điều 37 của dự thảo Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ về đấu giá biển số xe cũng không phù hợp với những quy định khác của dự thảo. Cụ thể, dự thảo quy định số tiền thu được từ đấu giá biển số xe sau khi trừ các khoản chi phí tổ chức đấu giá, chi phí quảng cáo, chi phí quản trị hệ thống đấu giá và chi phí khác được nộp vào ngân sách trung ương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước… Từ những phân tích đó, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật đề nghị Chính phủ giải trình làm rõ thêm theo tinh thần nên giữ như dự thảo đã trình tại kỳ họp 6. Xem thêm: Tổng Cục Thuế hướng dẫn nộp thuế bằng điện thoại thông qua ứng dụng eTax Mobile Điều kiện ủy quyền quyết toán thuế TNCN? Mẫu giấy ủy quyền quyết toán thuế TNCN 2024 Hạn chót nộp hồ sơ quyết toán thuế trực tiếp năm 2024 là khi nào? Nộp hồ sơ tại đâu?
Đề xuất gộp giấy phép lái xe hạng B1 và B2, bỏ hạng A4
Tại kỳ họp 6 Quốc hội khóa XV vừa qua, khi đưa ra hội trường để thảo luận, dự thảo luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ không phân hạng GPLX mà giao cho Chính phủ quy định. Theo đó, Bộ Công an đang lấy ý kiến các cơ quan, hiệp hội về dự thảo báo cáo giải trình một số nội dung mới trong dự thảo luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Đề xuất bỏ GPLX hạng A4, gộp hạng B1 và B2 Tại dự thảo báo cáo đang lấy ý kiến, Bộ Công an đề xuất thay đổi một số hạng giấy phép lái xe (GPLX). Theo quy định đang có hiệu lực tại luật Giao thông đường bộ 2008, giấy phép lái xe bao gồm 13 hạng: A1, A2, A3, A4, B1, B2, C, D, E, FB2, FD, FE, FC. Trong đó, hạng A4 cấp cho người lái máy kéo có trọng tải đến 1.000kg. Hạng B1 cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500kg. Hạng B2 cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500kg. Trong dự thảo báo cáo mới, Bộ Công an đề xuất bỏ hạng A4 và không quy định hạng GPLX cho người điều khiển máy kéo vì căn cứ vào kiểu loại, công dụng của phương tiện, loại phương tiện này sẽ được xếp vào nhóm xe máy chuyên dùng. Đồng thời, Bộ Công an cũng đề xuất đưa hạng B1 và B2 về cùng hạng B do căn cứ để phân hạng GPLX là từ công suất, kiểu loại, động cơ, số chỗ ngồi. Việc cấp GPLX theo hạng mới này, theo Bộ Công an, sẽ được thực hiện đối với người cấp lần đầu và cho những GPLX thuộc các trường hợp cấp đổi, cấp lại. Điều khoản chuyển tiếp sẽ quy định GPLX cấp trước khi luật này có hiệu lực thi hành được tiếp tục sử dụng theo thời hạn và giá trị ghi trên GPLX. Nội luật hóa các quy định về phân hạng GPLX Cũng theo Bộ Công an, việc đưa nội dung phân hạng GPLX vào dự thảo luật nhằm nội luật hóa các quy định về phân hạng GPLX quy định tại Công ước Viên năm 1968, đảm bảo cam kết của Việt Nam khi ký kết, gia nhập công ước. Việc này còn tạo thuận lợi cho người Việt Nam sinh sống, học tập tại các nước là thành viên Công ước Viên năm 1968; không mất chi phí đổi, học để được cấp GPLX, góp phần phát triển kinh tế, du lịch, thương mại, hợp tác quốc tế, đồng thời phát triển đầu tư, sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu phương tiện trong nước và quốc tế do có sự đồng bộ về phân hạng phương tiện và GPLX. Việc chuyển đổi chỉ thực hiện đối với sát hạch, cấp mới và các trường hợp cấp đổi, cấp lại, chuyển đổi thực hiện theo hướng có lợi cho người dân, không gây mất an toàn giao thông. Thông tin này được Bộ Công an đề xuất để thúc đẩy sự đồng bộ hóa về phân hạng phương tiện và GPLX, góp phần vào sự phát triển của ngành đầu tư, sản xuất và giao thông vận tải cả trong và ngoài nước. Xem thêm tại dự thảo luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ Tham khảo: Cách tính thời hạn tước quyền sử dụng GPLX Thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước quyền sử dụng GPLX, chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt được quy định tại khoản 3 Điều 81 Nghị định 100/2019/NĐ-CP như sau: - Trường hợp tại thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà người có thẩm quyền xử phạt đã tạm giữ được giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức vi phạm thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là thời điểm quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành; - Trường hợp tại thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà người có thẩm quyền xử phạt chưa tạm giữ được giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức vi phạm thì người có thẩm quyền xử phạt vẫn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định đối với hành vi vi phạm. Trong nội dung quyết định xử phạt phải ghi rõ thời điểm bắt đầu tính hiệu lực thi hành của hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là kể từ thời điểm mà người vi phạm xuất trình giấy phép, chứng chỉ hành nghề cho người có thẩm quyền xử phạt tạm giữ; - Khi tạm giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tước quyền sử dụng theo quy định tại điểm b khoản này và khi trả giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tước quyền sử dụng theo quy định tại điểm a, điểm b khoản này, người có thẩm quyền xử phạt phải lập biên bản và lưu hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, để không bị nhầm lẫn giữa thời gian đến đóng phạt và thời gian tước quyền sử dụng GPLX khi bị CSGT tước GPLX thì thời gian tước GPLX được tính từ thời điểm tước GPLX đến khi người vi phạm được trả lại giấy phép, thời điểm bắt đầu tính thời hạn tước GPLX được xác định từ khi thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép tính kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành.
Đề xuất đổi, cấp lại bằng lái xe theo phân hạng mới, không còn hạng A1?
Ngày 02/6/2023, tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thống nhất đưa dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Luật Đường bộ vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh để Quốc hội khóa XV cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2023). Theo đó, Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ đề xuất đổi, cấp lại giấy phép lái xe theo phân hạng mới. Theo Điều 62 Dự thảo giấy phép lái xe đã được cấp theo Luật Giao thông đường bộ 2008 được tiếp tục sử dụng. Đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 (giấy phép lái xe được cấp lại), 3 (giấy phép lái xe được đổi) Điều 43 của luật này thì được đổi, cấp lại theo phân hạng mới. Trong đó, khoản 2, 3 Điều 43 những trường hợp đổi, cấp lại theo phân hạng mới như sau: - Trường hợp giấy phép lái xe được cấp lại: + Giấy phép lái xe hết thời hạn sử dụng; + Giấy phép lái xe bị mất. - Trường hợp giấy phép lái xe được đổi: + Giấy phép lái xe bị hỏng hoặc sai lệch thông tin ghi trên giấy phép lái xe; + Giấy phép lái xe của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam do cơ quan thẩm quyền của nước ngoài cấp, còn giá trị sử dụng; + Giấy phép lái xe do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cấp mà người được cấp không còn làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Theo đó, giấy phép lái xe hạng A1, A2, A3, B1, B2, C, D, E, FB2, FC, FD, FE được cấp theo Luật Giao thông đường bộ 2008 được đổi, cấp lại như sau: - Giấy phép lái xe hạng A3, C giữ nguyên và đổi, cấp lại cùng hạng; - Giấy phép lái xe hạng A2 đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng A1; - Giấy phép lái xe hạng A đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng A2; - Giấy phép lái xe hạng B đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng B1, B2; - Giấy phép lái xe hạng D2 đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng D; - Giấy phép lái xe hạng D đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng E; - Giấy phép lái xe hạng BE đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng FB2; - Giấy phép lái xe hạng CE đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe FC; - Giấy phép lái xe hạng D2E đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng FD; - Giấy phép lái xe hạng DE đổi, cấp lại cho những người có giấy phép lái xe hạng FE. Các hạng giấy phép lái xe theo Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ Theo Dự thảo, đề xuất giấy phép lái xe bao gồm các hạng như sau: (1) Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 50cm3 đến 175cm3 hoặc có động cơ có công suất định mức tương đương; (2) Hạng A cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175cm3 trở lên, hoặc động cơ có công suất định mức tương đương và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A2; (3) Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A2; (4) Hạng B cấp cho người lái xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi (kể cả chỗ của người lái xe); xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế không vượt quá 3.500kg; các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng B2; (5) Hạng C1 cấp cho người lái xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 3.500 đến 7.500kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C1 có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B; (6) Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải (kể cả ô tô tải chuyên dùng, ô tô chuyên dùng), máy kéo có khối lượng hàng chuyên chở theo thiết kế trên 7.500kg; các loại xe ô tô tải quy định cho giấy phép lái xe hạng C có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1; (7) Hạng D2 cấp cho người lái xe ô tô chở người (kể cả ô tô buýt) từ 10 đến 30 chỗ; các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1, C; (8) Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người (kể cả ô tô buýt) trên 30 chỗ; xe ô tô chở người giường nằm; các loại xe ô tô chở người quy định cho giấy phép lái xe hạng D có gắn kèm rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc không vượt quá 750kg; các loại xe quy định cho giấy phép lái xe các hạng B, C1, C, D2; (9) Hạng BE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng B khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; (10) Hạng C1E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C1 khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; (11) Hạng CE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng C khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; xe ô tô đầu kéo kéo sơ mi rơ mooc; (12) Hạng D2E cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D2 khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg; (13) Hạng DE cấp cho người lái xe để lái các loại xe ô tô quy định cho giấy phép lái xe hạng D khi kéo rơ mooc với khối lượng toàn bộ thiết kế của rơ mooc trên 750kg. Xem chi tiết tại Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ