Điều 664 BLDS 2005 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng như sau: "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình". Quy định về việc vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung là một chế định hợp thực tiễn. Vợ chồng cùng chung sống, cùng tạo lập nên tài sản chung, cùng định đoạt tài sản chung trong các giao dịch dân sự và do vậy, cũng có quyền lập di chúc chung để cùng để lại tài sản của mình cho một ai đó. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi có sự thay đổi của một người mà không có sự đồng ý của người kia thì giải quyết thế nào? Việc lập di chúc để định đoạt tài sản, về mặt bản chất, là khác hoàn toàn so với việc định đoạt tài sản trong các giao dịch dân sự như mua bán, tặng cho…. Nghĩa là họ có quyền tự mình định đoạt phần tài sản của mình bằng hình thức để lại cho người khác thừa kế mà không cần thiết phải có sự đồng ý bằng văn bản của đồng chủ sở hữu khác như trong các giao dịch dân sự thông thường. Do vậy, việc quy định khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc thì phải có sự đồng ý của người kia, là không cần thiết bởi lẽ chỉ cần có sự thay đổi ý kiến của một bên vợ hoặc chồng thì phần định đoạt chung đương nhiên không còn giá trị. Pháp luật không cấm sau khi lập di chúc chung thì vợ hoặc chồng không thể lập di chúc riêng, do đó giả sử có di chúc chung nhưng sau đó lại có di chúc riêng thì vẫn phải công nhận di chúc riêng và trong trường hợp này di chúc chung đương nhiên không còn giá trị cho dù không có sự đồng thuận của vợ chồng. Hiện nay, BLDS 2015 đã bỏ chế định di chúc chung của vợ chồng.
Về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng theo quy định của BLDS 2005
Điều 668 BLDS 2005 quy định: Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết. Điều 668 BLDS chỉ nói đến trường hợp không có sự thay đổi di chúc chung. Tuy nhiên, luật không nói rõ trong trường hợp có một người thay đổi nội dung di chúc thì hiệu lực của di chúc được xác định như thế nào. Hiện tại di chúc chung của vợ chồng không còn được quy định tại BLDS năm 2015 nhưng nếu có vấn đề xảy ra sẽ được xác định như thế nào. Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này: - Quan điểm 1: Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực khi không có ai thay đổi nội dung di chúc. Nếu có một người thay đổi nội dung di chúc thì di chúc chung không còn hiệu lực pháp luật để thi hành và trong trường hợp này di chúc chung sẽ trở thành di chúc riêng của mỗi người. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là không còn cần thiết. - Quan điểm 2: Nếu có một người chết đi thì người còn lại chỉ được thay đổi phần di chúc liên quan đến họ. Phần di chúc của người chết vẫn xem là thuộc nội dung di chúc chung và nó chỉ có hiệu lực pháp luật thì người còn lại chết. Tuy nhiên qua một số vụ việc được giải quyết thì Tòa án xác định người còn sống có quyền thay đổi di chúc chung đối với phần quyền tài sản của họ. Phần di chúc của người đã chết trong di chúc chung chỉ có hiệu lực khi những người lập di chúc chung đều đã chết, kể cả trong trường hợp người còn sống đã thay đổi nội dung liên quan đến phần của họ trong di chúc chung.
Hiệu lực pháp lý di chúc chung của vợ chồng
Trường hợp chồng lập di chúc cho vợ thừa kế toàn bộ tài sản, di chúc được lập 02 lần với nội dụng như nhau, lần thứ nhất vào năm 1991 là di chúc viết tay có cả hai vợ chồng ký tên, lần thứ hai vào năm 2006 là di chúc đánh máy có cả hai vợ chồng ký tên và thêm công chứng xác nhân của UBND xã, thì người chồng chết vào năm 2018, các di chúc trên có giá trị pháp lý không? Cảm ơn mọi người
Trường hợp Di chúc chung của cha mẹ
Năm 2015 cha mẹ vợ tôi có lập di chúc chung cho gia đình tôi ngôi nhà và đất, năm 2017 bà đã qua đời còn lại ông , nay vì hoàn cảnh khó khăn ông không có điều kiện để khám chữa bệnh , tôi muốn bán ngôi nhà mà cha mẹ tôi để lại theo di chúc để có điều kiện lo cho ông vậy tôi phải làm sao để bán một cách hợp pháp
Năm 2009 ông A và B lập di chúc Thừa kế tặng cho nhà và đất cho chị B . Điều kiện khi cả hai đều chết , năm 2015 , B ( chết ) . Nay ông A muốn huỷ di chúc này , làm lại hợp đồng cho tặng chị C ( để chị c có điều kiện bán nhà .... ) Trường hợp này hợp đồng cho tặng có công chứng được ko ?
Sự thay đổi bất ngờ về Di chúc chung của vợ chồng qua các thời kỳ
Ở Việt Nam có câu tục ngữ mà ai cũng biết. Đó là “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Có lẽ vì lý do này mà người dân Việt Nam từ bao đời nay có thói quen là vợ chồng cùng làm di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Các quy định ghi nhận khả năng vợ chồng lập di chúc chung khá ổn định ở Việt Nam. Cụ thể, Thông tư số 81 năm 1981 của Tòa án nhân dân tối cao thừa nhận di chúc chung của vợ chồng theo đó “di chúc do hai vợ chồng cùng làm để định đoạt tài sản chung, nếu một người chết trước, thì chỉ riêng phần di sản của người đó được thi hành theo di chúc. Người còn sống có quyền giữ nguyên, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc đối với phần tài sản của mình. Pháp lệnh thừa kế năm 1990 không chính thức đề cập tới vấn đề di chúc chung của vợ chồng nhưng cũng thừa nhận loại di chúc này tại khoản 1 Điều 23 theo đó “trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước, thì chi phần di chúc có liên quan đến tài sản của người chết trước có hiệu lực”. Ở đây, Pháp lệnh ghi nhận “di chúc do nhiều người lập chung” nên đương nhiên ghi nhận di chúc chung của vợ chồng định đoạt tài sản chung. BLDS 1995 thay thế Pháp lệnh thừa kế năm 1990 có nhiều quy định về di chúc chung của vợ chồng. Cụ thể, theo Điều 666 và Điều 667, “vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung” và “vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung, thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Liên quan đến hiệu lực của di chúc, Điều 671 khẳng định “trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”. BLDS 2005 thay thế BLDS 1995 vẫn có quy định theo hướng ghi nhận di chúc chung của vợ chồng. Đầu tiên là Điều 663 với nội dung “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Kế tiếp là Điều 664 với quy định “Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Cuối cùng là Điều 668 theo đó “di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết”. Bất ngờ, ngày nay trong BLDS 2015 không còn những quy định về di chúc chung đã được ghi nhận trong các văn bản trước đây. Điều đó có nghĩa đã có sự thay đổi bất ngờ trong văn bản: Từ năm 1981 đến BLDS 2005 (4 đời văn bản), chúng ta luôn có quy định ghi nhận khả năng lập di chúc chung của vợ chồng nhưng, trong BLDS 2015, chúng ta không có quy định về di chúc chung của vợ chồng. Với người quan tâm tới pháp luật dân sự, việc bỏ các quy định về di chúc chung của vợ chồng ra khỏi BLDS như trên là quá bất ngờ. Cách thay đổi như vậy là đáng tiếc, vì di chúc chung của vợ chồng là một vấn đề lớn của xã hội Việt Nam, một văn hóa gắn liền với người Việt Nam.
Theo quy định tại Bộ Luật Dân Sự 2005, vợ chồng có quyền cùng nhau lập di chúc định đoạt khối tài sản chung. Nhưng Bộ Luật Dân Sự 2015, quy định này không cánh mà bay. Vợ chồng cùng nhau lập di chúc trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, có sự thống nhất của hai vợ chồng nhằm định đoạt đối với khối tài sản chung của họ. Theo Điều 663 Bộ Luật Dân Sự 2005 quy định: "Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung". Như vậy, di chúc của vợ chồng chỉ có thể định đoạt những tài sản chung giữa hai vợ chồng. Những người không phải vợ chồng sẽ không có quyền được lập di chúc chung. Hình thức của di chúc chung của vợ chồng có giống với di chúc của cá nhân? Hai vợ chồng không thể lập di chúc miệng theo Điều 651. Vì muốn lập di chúc chung của vợ, chồng phải có sự bàn bạc, thống nhất ý chí chung trước khi tạo lập di chúc. Trước tình trạng cái chết đe dọa, việc họ có thể bàn bạc với nhau rất là hy hữu. Thêm vào đó, nếu sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng, nếu một người chết còn một người vẫn sống thì hiệu lực của di chúc được xác định như thế nào? Bởi vậy, cá nhân tôi cho rằng di chúc chung của vợ chồng không thể bằng di chúc miệng. Vấn đề sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng được quy định tại Điều 664 như sau: "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình." Vấn đề sửa đổi, bổ sung di chúc trên thực tế còn khá nhiều vướng mắc. Một vụ việc trên thực tế như sau: A và B là vợ chồng hợp pháp. Năm 2009, A và B lập di chúc chung để lại căn nhà cho con gái C. Năm 2012, A chết. 2013, B lâm bệnh nên vay mượn,chạy chữa khắp nơi. B muốn bán nhà lấy tiền để trả nợ nhưng không được. Bởi nếu B muốn sửa đổi di chúc thì chỉ được sửa liên quan đến phần tài sản của mình. B cũng không thể hủy bỏ di chúc. Do vậy, nhà thì có mà tiền thì không. Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực khi người hai vợ chồng chết vào cùng một thời điểm hoặc người sau cùng chết. Chế định di chúc chung của vợ chồng là một chế định hay nhưng còn nhiều vướng mắc. Những tưởng Bộ Luật Dân Sự năm 2015 sẽ có những quy định khắc phục những điểm còn vướng mắc. Không ngờ, di chúc chung của vợ chồng lại không cánh mà bay. Bộ luật không có quy định nào nhắc tới việc vợ chồng lập di chúc chung. Có phải do nhiều vướng mắc chưa biết xử lý như thế nào nên chế định này đã bị bỏ đi? Minh Trang
Điều 664 BLDS 2005 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng như sau: "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình". Quy định về việc vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung là một chế định hợp thực tiễn. Vợ chồng cùng chung sống, cùng tạo lập nên tài sản chung, cùng định đoạt tài sản chung trong các giao dịch dân sự và do vậy, cũng có quyền lập di chúc chung để cùng để lại tài sản của mình cho một ai đó. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi có sự thay đổi của một người mà không có sự đồng ý của người kia thì giải quyết thế nào? Việc lập di chúc để định đoạt tài sản, về mặt bản chất, là khác hoàn toàn so với việc định đoạt tài sản trong các giao dịch dân sự như mua bán, tặng cho…. Nghĩa là họ có quyền tự mình định đoạt phần tài sản của mình bằng hình thức để lại cho người khác thừa kế mà không cần thiết phải có sự đồng ý bằng văn bản của đồng chủ sở hữu khác như trong các giao dịch dân sự thông thường. Do vậy, việc quy định khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc thì phải có sự đồng ý của người kia, là không cần thiết bởi lẽ chỉ cần có sự thay đổi ý kiến của một bên vợ hoặc chồng thì phần định đoạt chung đương nhiên không còn giá trị. Pháp luật không cấm sau khi lập di chúc chung thì vợ hoặc chồng không thể lập di chúc riêng, do đó giả sử có di chúc chung nhưng sau đó lại có di chúc riêng thì vẫn phải công nhận di chúc riêng và trong trường hợp này di chúc chung đương nhiên không còn giá trị cho dù không có sự đồng thuận của vợ chồng. Hiện nay, BLDS 2015 đã bỏ chế định di chúc chung của vợ chồng.
Về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng theo quy định của BLDS 2005
Điều 668 BLDS 2005 quy định: Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết. Điều 668 BLDS chỉ nói đến trường hợp không có sự thay đổi di chúc chung. Tuy nhiên, luật không nói rõ trong trường hợp có một người thay đổi nội dung di chúc thì hiệu lực của di chúc được xác định như thế nào. Hiện tại di chúc chung của vợ chồng không còn được quy định tại BLDS năm 2015 nhưng nếu có vấn đề xảy ra sẽ được xác định như thế nào. Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này: - Quan điểm 1: Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực khi không có ai thay đổi nội dung di chúc. Nếu có một người thay đổi nội dung di chúc thì di chúc chung không còn hiệu lực pháp luật để thi hành và trong trường hợp này di chúc chung sẽ trở thành di chúc riêng của mỗi người. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là không còn cần thiết. - Quan điểm 2: Nếu có một người chết đi thì người còn lại chỉ được thay đổi phần di chúc liên quan đến họ. Phần di chúc của người chết vẫn xem là thuộc nội dung di chúc chung và nó chỉ có hiệu lực pháp luật thì người còn lại chết. Tuy nhiên qua một số vụ việc được giải quyết thì Tòa án xác định người còn sống có quyền thay đổi di chúc chung đối với phần quyền tài sản của họ. Phần di chúc của người đã chết trong di chúc chung chỉ có hiệu lực khi những người lập di chúc chung đều đã chết, kể cả trong trường hợp người còn sống đã thay đổi nội dung liên quan đến phần của họ trong di chúc chung.
Hiệu lực pháp lý di chúc chung của vợ chồng
Trường hợp chồng lập di chúc cho vợ thừa kế toàn bộ tài sản, di chúc được lập 02 lần với nội dụng như nhau, lần thứ nhất vào năm 1991 là di chúc viết tay có cả hai vợ chồng ký tên, lần thứ hai vào năm 2006 là di chúc đánh máy có cả hai vợ chồng ký tên và thêm công chứng xác nhân của UBND xã, thì người chồng chết vào năm 2018, các di chúc trên có giá trị pháp lý không? Cảm ơn mọi người
Trường hợp Di chúc chung của cha mẹ
Năm 2015 cha mẹ vợ tôi có lập di chúc chung cho gia đình tôi ngôi nhà và đất, năm 2017 bà đã qua đời còn lại ông , nay vì hoàn cảnh khó khăn ông không có điều kiện để khám chữa bệnh , tôi muốn bán ngôi nhà mà cha mẹ tôi để lại theo di chúc để có điều kiện lo cho ông vậy tôi phải làm sao để bán một cách hợp pháp
Năm 2009 ông A và B lập di chúc Thừa kế tặng cho nhà và đất cho chị B . Điều kiện khi cả hai đều chết , năm 2015 , B ( chết ) . Nay ông A muốn huỷ di chúc này , làm lại hợp đồng cho tặng chị C ( để chị c có điều kiện bán nhà .... ) Trường hợp này hợp đồng cho tặng có công chứng được ko ?
Sự thay đổi bất ngờ về Di chúc chung của vợ chồng qua các thời kỳ
Ở Việt Nam có câu tục ngữ mà ai cũng biết. Đó là “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Có lẽ vì lý do này mà người dân Việt Nam từ bao đời nay có thói quen là vợ chồng cùng làm di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Các quy định ghi nhận khả năng vợ chồng lập di chúc chung khá ổn định ở Việt Nam. Cụ thể, Thông tư số 81 năm 1981 của Tòa án nhân dân tối cao thừa nhận di chúc chung của vợ chồng theo đó “di chúc do hai vợ chồng cùng làm để định đoạt tài sản chung, nếu một người chết trước, thì chỉ riêng phần di sản của người đó được thi hành theo di chúc. Người còn sống có quyền giữ nguyên, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc đối với phần tài sản của mình. Pháp lệnh thừa kế năm 1990 không chính thức đề cập tới vấn đề di chúc chung của vợ chồng nhưng cũng thừa nhận loại di chúc này tại khoản 1 Điều 23 theo đó “trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước, thì chi phần di chúc có liên quan đến tài sản của người chết trước có hiệu lực”. Ở đây, Pháp lệnh ghi nhận “di chúc do nhiều người lập chung” nên đương nhiên ghi nhận di chúc chung của vợ chồng định đoạt tài sản chung. BLDS 1995 thay thế Pháp lệnh thừa kế năm 1990 có nhiều quy định về di chúc chung của vợ chồng. Cụ thể, theo Điều 666 và Điều 667, “vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung” và “vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung, thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Liên quan đến hiệu lực của di chúc, Điều 671 khẳng định “trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”. BLDS 2005 thay thế BLDS 1995 vẫn có quy định theo hướng ghi nhận di chúc chung của vợ chồng. Đầu tiên là Điều 663 với nội dung “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Kế tiếp là Điều 664 với quy định “Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Cuối cùng là Điều 668 theo đó “di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết”. Bất ngờ, ngày nay trong BLDS 2015 không còn những quy định về di chúc chung đã được ghi nhận trong các văn bản trước đây. Điều đó có nghĩa đã có sự thay đổi bất ngờ trong văn bản: Từ năm 1981 đến BLDS 2005 (4 đời văn bản), chúng ta luôn có quy định ghi nhận khả năng lập di chúc chung của vợ chồng nhưng, trong BLDS 2015, chúng ta không có quy định về di chúc chung của vợ chồng. Với người quan tâm tới pháp luật dân sự, việc bỏ các quy định về di chúc chung của vợ chồng ra khỏi BLDS như trên là quá bất ngờ. Cách thay đổi như vậy là đáng tiếc, vì di chúc chung của vợ chồng là một vấn đề lớn của xã hội Việt Nam, một văn hóa gắn liền với người Việt Nam.
Theo quy định tại Bộ Luật Dân Sự 2005, vợ chồng có quyền cùng nhau lập di chúc định đoạt khối tài sản chung. Nhưng Bộ Luật Dân Sự 2015, quy định này không cánh mà bay. Vợ chồng cùng nhau lập di chúc trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, có sự thống nhất của hai vợ chồng nhằm định đoạt đối với khối tài sản chung của họ. Theo Điều 663 Bộ Luật Dân Sự 2005 quy định: "Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung". Như vậy, di chúc của vợ chồng chỉ có thể định đoạt những tài sản chung giữa hai vợ chồng. Những người không phải vợ chồng sẽ không có quyền được lập di chúc chung. Hình thức của di chúc chung của vợ chồng có giống với di chúc của cá nhân? Hai vợ chồng không thể lập di chúc miệng theo Điều 651. Vì muốn lập di chúc chung của vợ, chồng phải có sự bàn bạc, thống nhất ý chí chung trước khi tạo lập di chúc. Trước tình trạng cái chết đe dọa, việc họ có thể bàn bạc với nhau rất là hy hữu. Thêm vào đó, nếu sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng, nếu một người chết còn một người vẫn sống thì hiệu lực của di chúc được xác định như thế nào? Bởi vậy, cá nhân tôi cho rằng di chúc chung của vợ chồng không thể bằng di chúc miệng. Vấn đề sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng được quy định tại Điều 664 như sau: "1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình." Vấn đề sửa đổi, bổ sung di chúc trên thực tế còn khá nhiều vướng mắc. Một vụ việc trên thực tế như sau: A và B là vợ chồng hợp pháp. Năm 2009, A và B lập di chúc chung để lại căn nhà cho con gái C. Năm 2012, A chết. 2013, B lâm bệnh nên vay mượn,chạy chữa khắp nơi. B muốn bán nhà lấy tiền để trả nợ nhưng không được. Bởi nếu B muốn sửa đổi di chúc thì chỉ được sửa liên quan đến phần tài sản của mình. B cũng không thể hủy bỏ di chúc. Do vậy, nhà thì có mà tiền thì không. Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực khi người hai vợ chồng chết vào cùng một thời điểm hoặc người sau cùng chết. Chế định di chúc chung của vợ chồng là một chế định hay nhưng còn nhiều vướng mắc. Những tưởng Bộ Luật Dân Sự năm 2015 sẽ có những quy định khắc phục những điểm còn vướng mắc. Không ngờ, di chúc chung của vợ chồng lại không cánh mà bay. Bộ luật không có quy định nào nhắc tới việc vợ chồng lập di chúc chung. Có phải do nhiều vướng mắc chưa biết xử lý như thế nào nên chế định này đã bị bỏ đi? Minh Trang