Đảng viên có được kết hôn với người nước ngoài?
Các điều kiện về lý lịch, nhân thân của đảng viên được quy định rất chặt chẽ và được quản lý rất nghiêm ngặt. Vậy theo quy định hiện nay đảng viên có được kết hôn với người nước ngoài không? Đảng viên có được kết hôn với người nước ngoài? Hiện nay, tại Điều lệ Đảng 2011 và các văn bản liên quan không có quy định về cấm đảng viên kết hôn với người nước ngoài. Theo đó, đảng viên hoàn toàn có thể được kết hôn với người nước ngoài nếu đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: - Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; - Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; - Không bị mất năng lực hành vi dân sự; - Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đồng thời, theo khoản 9 Điều 18 Hướng dẫn 02-HD/UBKTTW năm 2021 về những điều đảng viên không được làm thì đảng viên không được kết hôn hoặc có con kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không báo cáo trung thực với tổ chức đảng quản lý trực tiếp và chưa được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, đảng viên vẫn có thể được kết hôn với người nước ngoài, tuy nhiên phải đáp ứng đủ các điều kiện kết hôn, không thuộc các trường hợp cấm kết hôn và phải báo cáo với tổ chức đảng quản lý trực tiếp và được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Đảng viên vi phạm gì khi kết hôn với người nước ngoài sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng? Theo khoản 3 Điều 53 Quy định 69-QĐ/TW năm 2022 trường hợp vi phạm Khoản 1, Khoản 2 Điều 53 Quy định 69-QĐ/TW gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ: - Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không đủ điều kiện được kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hoạt động phạm tội nghiêm trọng, có thái độ hoặc hoạt động chống Đảng, Nhà nước. - Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không báo cáo bằng văn bản với chi bộ về lai lịch của người đó hoặc tổ chức đảng có thẩm quyền không đồng ý nhưng vẫn thực hiện. - Che giấu việc con kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Làm hồ sơ để kết hôn với người nước ngoài, làm thủ tục để sinh sống, định cư hoặc nhập quốc tịch ở nước ngoài trái pháp luật. Như vậy, nếu đảng viên có những vi phạm khi kết hôn với người nước ngoài theo quy định trên thì sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng. Bị khai trừ ra khỏi Đảng vì vi phạm khi kết hôn với người nước ngoài có được kết nạp lại không? Theo tiết 3.5.1 Tiểu mục 3.5 Mục 3 Quy định 24-QĐ/TW năm 2021 quy định người được xét kết nạp lại phải có đủ các điều kiện sau: - Có đủ điều kiện và tiêu chuẩn của người vào Đảng theo quy định tại Điều 1 Điều lệ Đảng. - Ít nhất là 36 tháng kể từ khi ra khỏi Đảng (riêng người bị án hình sự về tội ít nghiêm trọng thì phải sau 60 tháng kể từ khi được xoá án tích; đảng viên đã bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình thì thực hiện theo quy định của Ban Bí thư), làm đơn xin kết nạp lại vào Đảng; phải được ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ (hoặc tương đương) đồng ý bằng văn bản, cấp uỷ có thẩm quyền (huyện uỷ và tương đương) xem xét, quyết định. - Thực hiện đúng các thủ tục nêu ở các Khoản 1, 2, 3 Điều 4 Điều lệ Đảng 2011. Như vậy, đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng vì vi phạm khi kết hôn với người nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định trên và không thuộc trường hợp không xem xét kết nạp lại tại tiết 3.5.2 Tiểu mục 3.5 Mục 3 Quy định 24-QĐ/TW năm 2021.
Hướng dẫn xác định phạm vi ba đời để kết hôn
Kết hôn trong phạm vi 03 đời là hành vi bị cấm trong pháp luật hôn nhân gia đình. Vậy việc xác định phạm vi 03 đời như thế nào? Xác định phạm vi 03 đời để kết hôn Tại Khoản 18 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. Cụ thể như sau: - Đời thứ nhất: Cha, mẹ; - Đời thứ hai: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; - Đời thứ ba: Anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì Trong đó, những người có cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó người này sinh ra người kia kế tiếp nhau. Theo quy định nêu trên thì có thể hiểu, đời thứ nhất sinh ra đời thứ hai, đời thứ hai sinh ra đời thứ ba. Đưa ra một ví dụ cụ thể: Bà nội của A và ông ngoại của B là chị em ruột, vậy A và B là đời thứ mấy, có kết hôn với nhau được không? Xét phạm vi 03 đời như sau: - Đời thứ nhất: Ông bà cố của A và B (Bố mẹ của bà nội của A và ông ngoại của B) - Đời thứ hai: Bà nội của A và ông ngoại của B - Đời thứ ba: Bố của A và mẹ của B - Đời thứ tư: A và B Như vậy, A và B không thuộc người có họ trong phạm vi 03 đời và không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn theo điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nên khi đủ điều kiện sau sẽ được kết hôn: - Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; - Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; - Không bị mất năng lực hành vi dân sự; Việc cấm kết hôn trong phạm vi 03 đời bởi đối với trẻ sinh ra có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh cao những trẻ em được sinh ra từ cha mẹ cận huyết thống, có họ trong phạm vi 3 đời dễ có nguy cơ mắc các bệnh di truyền, bệnh tật, suy giảm sức khỏe. Có xử phạt nếu như kết hôn trong phạm vi 03 đời không? Việc kết hôn trong phạm vi 03 đời là hành vi cấm vậy nếu như cố tính vi phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo đó, đối với hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Theo Khoản 9 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 thì mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Như trong trường hợp nêu trên nếu như không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì sẽ bị phạt số tiền là 15.000.000 đồng.
Cấm kết hôn trong những trường hợp nào?
Tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã nêu cụ thể về cấm kết hôn trong những trường hợp sau: 1. Kết hôn giả. 2. Tảo hôn. 3. Ép người khác kết hôn, lừa người khác kết hôn. 4. Kết hôn với người khác khi đang có vợ, chồng, hoặc chưa hoàn thành thủ tục ly hôn. 5. Trường hợp kết hôn với người cùng dòng máu về trực hệ, có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời, quan hệ cha, mẹ với con nuôi, quan hệ cha mẹ với con dâu, rể, cha mẹ với con riêng của đối phương. 6. Kết hôn với thỏa thuận của cải. 7. Kết hôn để xâm phạm tình dục, mua bán, bóc lột sức lao động người khác hoặc có hành vi, mục đích trục lợi. Sau khi thỏa các điều kiện trên, bạn có thể đăng ký kết hôn với nửa kia của mình. Lưu ý, nếu kết hôn với người nước ngoài, bạn cũng cần cùng lúc chấp hành điều kiện cho phép kết hôn của quốc gia của nửa kia. Các trường hợp trên không chỉ là cấm kết hôn, chúng còn áp dụng cho trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nếu bị phát hiện, bạn sẽ bị xử lý đúng theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình. Vậy nếu kết hôn sớm thì sẽ có tác hại như thế nào? Kết hôn sớm còn được gọi là tảo hôn. Là trường hợp nam, nữ kết hôn khi chưa đủ tuổi kết hôn hoặc hai bên chưa đủ tuổi kết hôn nhưng kết hôn và chung sống với nhau như vợ chồng. Cụ thể, theo quy định của cả nước, độ tuổi kết hôn là 20 đối với nam và 18 đối với nữ, đây là một trong những trường hợp bị cấm kết hôn tại Việt nam. Hầu hết những trường hợp tảo hôn chỉ xảy ra ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh.Vậy kết hôn sớm có tác hại như thế nào? Đầu tiên là về mặt sức khỏe: Đối với nữ dưới 18 tuổi và nam dưới 20 tuổi thì cơ thể họ vẫn chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ cho việc hôn nhân. Do đó, việc kết hôn sớm sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là của người vợ. Đó là còn chưa kể việc kết hôn sớm thường do thiếu hiểu biết và kiến thức, dễ dẫn tới việc mắc các bệnh liên quan tới đường tình dục. Kết hôn sớm cũng sẽ làm mất đi cơ hội học tập, trải nghiệm và làm việc của cả người vợ lẫn chồng trẻ. Nếu bị tước đi cơ hội học tập thì con người sẽ khó vươn lên trong cuộc sống và sẽ tự bị giới hạn bản thân. Vì thế, nhà nước Việt Nam nghiêm cấm việc kết hôn sớm.
Bắt vợ ở vùng cao có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Tục bắt vợ - Ảnh minh họa Do sự đa dạng về vùng miền và dân tộc mỗi một nơi trên đất nước chúng ta đều có những nét văn hóa truyền thống nhuốm màu thời đại. Tuy nhiên, dần theo thời gian chúng dần mai một và trở nên quặn quẹo trong tay người kế thừa. Một trong số đó chính là hủ tục “Bắt vợ”. Sự “biến tướng” của hủ tục bắt vợ “Bắt vợ” là một phong tục lâu đời của đồng bào Dân tộc H’mông. Thật ra, trước khi bắt vợ xảy ra hai bên nam nữ đã có quan hệ yêu đương từ trước đây chỉ là một bước trong phong tục để đưa cô dâu về nhà theo cách mà tổ tiên họ đã truyền từ đời này sang đời khác. Bắt vợ" về bản chất không xấu nhưng khi bị biến tướng sẽ trở nên xấu xa vô cùng vì nó thực chất đã tước đi quyền tự do của một người. Tước đi cả quyền được chọn lựa tương lai của những cô gái vùng dân tộc, vốn còn ngây thơ và chưa hiểu rõ ràng về Luật pháp. Rồi sẽ ra sao nếu những bé gái chỉ mới 14-15 tuổi mà không hề thích người kia mà bị "bắt" về làm vợ thì cuộc sống hôn nhân về sau sẽ khủng khiếp đến mức nào? Khi mang tiếng "đã bị bắt" về làm vợ, thiếu nữ ấy nếu muốn thoát khỏi nhà trai cũng không còn có cơ hội. Vì sự chối từ của chính nhà mẹ ruột, vì những cái đầu mang đậm chất tư tưởng tin vào thánh thần. Tương lai của những bé gái còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ đi về đâu? Những câu hỏi này vẫn chưa có câu trả lời. Những nét đẹp văn hóa giờ đây đã bị biến tướng hoàn toàn so với trước và không còn giữ được vẻ đẹp trong sáng như trước nữa. Tất cả đang giống như một vụ phạm pháp được che đậy bởi những "phong tục" mà không ai có thể chạm tới được. Quy định pháp luật về hủ tục này Theo luật pháp nước ta, ”cướp vợ” là hành vi cưỡng ép kết hôn thuộc các hành vi cấm kết hôn được quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật hôn nhân và gia đình 2014: Cấm các hành vi sau đây: - Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; - Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; - Yêu sách của cải trong kết hôn; - Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; - Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; - Bạo lực gia đình; - Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Việc cưỡng ép kết hôn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự Theo Điều 181, Luật Hình sự 2015 có quy định như sau: "Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm." “Phép vua” liệu có thua “lệ làng” Do hạn chế về nhiều mặt từ kinh tế đến sự phát triển không toàn diện của xã hội mà cư dân miền núi đa phần không có hiểu biết vè pháp luật. Hoặc có hiểu biết nhưng họ có niềm tin vào thần linh nhiều hơn nên từ lâu việc khắc phục những hậu quả xấu do sự biến thể của các tập tục gây nhiều khó khăn cho chính quyền địa phương nói riêng và người thi hành pháp luật nói chung. Khó mà có thể kiểm tra giám sát và xử hết được các tình huống phát sinh khi mà điều kiện để tiếp cận sâu sát với cộng đồng dân tộc miền núi còn chưa được cải thiện. Để hạn chế hệ luỵ từ những biến tướng từ tục bắt vợ để duy trì, bảo vệ nét đẹp văn hoá truyền thống, tục lệ của người H’mông cần thay đổi mạnh mẽ cách tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức, khả năng tiếp cận thông tin pháp luật đầy đủ chính xác. Dựa vào uy tín của già làng, trưởng bản để thông tin đến những người còn lại. Với người dân tộc thiểu số họ thường có niềm tin tuyệt đối vào người lãnh đạo tinh thần này, hoàn toàn tin cậy vào các luật tục của dân tôc họ. Quan trọng là phải chuyển hoá được các quy định pháp luật thành các hương ước, thành các quy ước làng xã, thôn bản trên cơ sở luật tục.Có như vậy thì người dân nơi đây mới có thể dễ dàng áp dụng pháp luật vào cuộc sống.
Phân biệt ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật
Nhiều người vẫn hay nhầm lẫn giữa việc ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Dưới góc độ của pháp luật có thể phân biệt “ly hôn” và “kết hôn trái pháp luật” như sau: Phân biệt ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật - Ảnh minh họa Tiêu chí Ly hôn Huỷ kết hôn trái pháp luật Khái niệm Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Khoản 14 Điều 3) Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (Khoản 6 Điều 3) Người có quyền yêu cầu - Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. - Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. 3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. (Điều 51) - Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này: + Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; + Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; + Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; + Hội liên hiệp phụ nữ. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. (Điều 10) Hậu quả pháp lý - Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. -Tòa án đã giải quyết ly hôn phải gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên ly hôn; cá nhân, cơ quan, tổ chức khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có liên quan. (Điều 57) - Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. - Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn. - Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật này. (Điều 12) Căn cứ pháp lý Luật hôn nhân và gia đình 2014
Cha mẹ có quyền cấm con cái kết hôn hay không?
Hôn nhân hợp pháp là hôn nhân được Nhà nước công nhận theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: "1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự; d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này. 2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính." Theo đó, các cuộc hôn nhân đáp ứng đủ điều kiện này được gọi là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Nhưng song song đó, vẫn còn nhiều vấn đề trong cuộc sống khiến cho nhiều cuộc hôn nhân bị ngắn cấm bởi chính cha mẹ trong gia đình. Gây ra mất hòa khí, ảnh hưởng tâm lý và phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Vậy hành động này của các bậc cha mẹ có đúng với pháp luật không? Theo Điều 55 Nghị định 167/2013/NĐ-CP đã có quy định cụ thể trường hợp này như sau: "Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: 1. Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác. 2. Cản trở người khác kết hôn, ly hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác." Ngoài ra, tại điều 181 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 còn quy định xử phạt hình sự đối với vi phạm này: "Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm." Như vậy, dù có là cha mẹ hay ai đi chăng nữa thì việc cấm đoán người khác tự nguyện kết hôn là việc làm vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định.
Chặng đường tìm kiếm công lý của hôn nhân đồng tính
Pháp luật Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi và nâng cao giá trị sống của mỗi người công dân trên đất nước này. Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua, vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng giới đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực của giới truyền thông, cũng như đã có không ít những cuộc họp Quốc hội đã diễn ra để bàn vấn đề này nằm trong khuôn khổ sửa đổi Luật Hôn nhân Gia đình 2000 nhưng bản thân những nhà làm luật cũng như tiếng nói của người dân trong cả nước vẫn chưa thể đưa ra đáp số cuối cùng cho bài toán nan giải này: “ Liệu có nên hay không việc thừa nhận hôn nhân đồng giới?”. Vì thế, tôi viết bài này như một cách góp lên chút ít ý kiến nhỏ nhoi của mình đối với vấn đề mang tính thời sự này cũng như nhằm hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam 09/11/2013. Hôn nhân nói nôm na theo văn chương là sự kết đôi giữa hai con người yêu nhau và muốn chung sống cùng nhau để tạo dựng một gia đình tốt hơn cho xã hội, còn nói theo Luật hôn nhân gia đình thì đó chính là sự thừa nhận của xã hội, của pháp luật về việc chung sống của hai công dân theo những điều kiện mà pháp luật đưa ra. Vậy, xét cho đến cùng việc thừa nhận hôn nhân đồng giới liệu có gì là sai trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội, với truyền thống của dân tộc và hơn hết là có hay không sự vi phạm đến pháp luật nước nhà? Chắc hẳn trong tim mỗi người Việt chúng ta không ai không biết đến câu nói mở đầu cho Bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta vào mùa thu năm 1945 lịch sử đã từng viết: “Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Đúng vậy, ngay từ những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền pháp chế xã hội chủ nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác nhận lấy quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân làm gốc để giúp nước nhà phát triển và vững mạnh. Do vậy, hà cớ gì từ hàng chục năm nay, hôn nhân tự nguyện giữa những con người đồng giới không được thừa nhận khi mà bản thân họ sinh ra cũng là một con người, một công dân trên đất nước này và họ cũng tha thiết quyền được xã hội thừa nhận, quyền được tôn trọng và quyền được hạnh phúc như biết bao công dân khác. Hơn nữa, theo Điều 50,52 của Hiến pháp 1992 đã quy định về quyền con người sẽ luôn được tôn trọng về mọi phương diện từ chính trị, dân sự, kinh tế đến văn hóa, xã hội và song song đó, Hiến pháp đã thừa nhận pháp luật Việt Nam sẽ luôn bảo hộ tính mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của mỗi công dân. Văn bản pháp luật có giá trị tối cao đã thừa nhận quyền con người cũng như bảo hộ công dân Việt Nam thì không lý do gì không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Bởi một điều đơn giản rằng khi thừa nhận hôn nhân đồng giới là pháp luật thừa nhận vị trí bình đẳng của người đồng giới trong xã hội cũng như cơ quan nhà nước có thể quản lý, bảo hộ và nắm rõ tình trạng của mỗi người dân nơi địa phương sinh sống. Chính vì trong suốt thời gian qua, xã hội cũng như pháp luật đã kì thị người đồng giới khiến họ gần như sống lầm lũi nơi những góc tối của đời sống thường ngày và phải chăng chúng ta đã quá bất công với người thuộc thế giới thứ ba khi suốt một thời gian dài chúng ta để cuộc sống của họ gần như đứng bên ngoài vòng quản lý của pháp trị. Tuy nhiên, trong khoảng vài năm trở lại đây, tiếng nói của giới truyền thông cũng như sự vùng lên đầy văn minh của những người đồng giới với mong muốn và khát khao được xã hội thừa nhận đã phần nào xóa bỏ những kì thị mà suốt bao năm qua họ phải đeo mang. Thêm vào đó là vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng tính được đặt ra đã tạo nên một làn sóng tranh luận không hề nhỏ trong xã hội. Kết quả là nghị định 87/2001/NĐ-CP đã quy định mức phạt từ 100 000đ- 500 000đ đối với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới đồng thời buộc chấm dứt hôn nhân trái pháp luật đã được xóa bỏ vào ngày 11/11/2013 theo Điều 48 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP trước sự vui mừng của cộng đồng mạng cũng như những người quan tâm.Nhưng riêng theo cá nhân tôi, việc có xử phạt hành chính hay không đối với hôn nhân đồng giới chưa phải là một chiến thắng thật sự trên con đường đi tìm công lý của giới thứ ba bởi tính pháp lý của Luật luôn mang giá trị hành pháp cao hơn vì thế khi Nghị định 110/2013/NĐ-CP ban hành đã đặt ra câu hỏi : “ Phải chăng một lần nữa những nhà làm luật đang đẩy người đồng tính ra khỏi sự bảo vệ của pháp luật? Khi mà văn bản pháp luật cố tính làm ngơ việc có sửa đổi hay không điều khoản cấm hôn nhân đồng tính theo khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình. Vì vậy, chắc hẳn thế giới thứ ba còn cần phải cố gắng hơn nữa với hi vọng và đợi chờ trên suốt quãng đường dài phía trước với mong muốn Luật hôn nhân gia đình thừa nhận kết hôn đồng giới. Xét ở khía cạnh dư luận, có rất nhiều luồng ý kiến cho rằng: “ Thừa nhận hôn nhân đồng giới là trái với nguyên tắc tôn trọng đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc theo Điều 8- Bộ luật dân sự 2005”. Nhưng theo tôi, tại Điều 5 – Bộ luật dân sự đã thừa nhận quyền bình đẳng như sau: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.” Dựa trên căn cứ đó, tôi thiết nghĩ rằng quan hệ hôn nhân cũng là một quan hệ dân sự vậy thì quyền bình đẳng giới tính của giới thứ ba cũng cần được thừa nhận rõ ràng và cụ thể trong Luật hôn nhân gia đình. Thêm vào đó, tôi xin được trích một trong những căn cứ để ban hành Luật hôn nhân gia đình 2000 như sau: “Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam” Điều đó có nghĩa là những suy nghĩ định kiến về vấn đề hôn nhân đồng tính cần được xóa bỏ và pháp chế hôn nhân mới cần được sửa đổi để phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của xã hội, của công dân. Để từ đó, mỗi người dân đều xây dựng nên những giá trị gia đình thật sự hạnh phúc, ấm no như câu “an cư lạc nghiệp”. Có như vậy, đất nước ta mới ngày càng phồn thịnh hơn và tiến xa hơn nữa trên bước đường hội nhập thế giới. Thay cho lời kết, tôi chỉ muốn nói rằng pháp luật được xây dựng dựa trên cuộc sống của người dân và bảo vệ cho phía yếu thế. Do vậy, người đồng giới đã phải chịu nhiều những bất công vô tình của pháp luật trong suốt thời gian qua nên chúng ta chẳng có lý do gì để từ chối mong muốn được hưởng hạnh phúc chính đáng của họ trên đất nước này thông qua hình thức thừa nhân hôn nhân đồng tính.
Đảng viên có được kết hôn với người nước ngoài?
Các điều kiện về lý lịch, nhân thân của đảng viên được quy định rất chặt chẽ và được quản lý rất nghiêm ngặt. Vậy theo quy định hiện nay đảng viên có được kết hôn với người nước ngoài không? Đảng viên có được kết hôn với người nước ngoài? Hiện nay, tại Điều lệ Đảng 2011 và các văn bản liên quan không có quy định về cấm đảng viên kết hôn với người nước ngoài. Theo đó, đảng viên hoàn toàn có thể được kết hôn với người nước ngoài nếu đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: - Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; - Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; - Không bị mất năng lực hành vi dân sự; - Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đồng thời, theo khoản 9 Điều 18 Hướng dẫn 02-HD/UBKTTW năm 2021 về những điều đảng viên không được làm thì đảng viên không được kết hôn hoặc có con kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không báo cáo trung thực với tổ chức đảng quản lý trực tiếp và chưa được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, đảng viên vẫn có thể được kết hôn với người nước ngoài, tuy nhiên phải đáp ứng đủ các điều kiện kết hôn, không thuộc các trường hợp cấm kết hôn và phải báo cáo với tổ chức đảng quản lý trực tiếp và được cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Đảng viên vi phạm gì khi kết hôn với người nước ngoài sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng? Theo khoản 3 Điều 53 Quy định 69-QĐ/TW năm 2022 trường hợp vi phạm Khoản 1, Khoản 2 Điều 53 Quy định 69-QĐ/TW gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ: - Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không đủ điều kiện được kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hoạt động phạm tội nghiêm trọng, có thái độ hoặc hoạt động chống Đảng, Nhà nước. - Kết hôn với người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không báo cáo bằng văn bản với chi bộ về lai lịch của người đó hoặc tổ chức đảng có thẩm quyền không đồng ý nhưng vẫn thực hiện. - Che giấu việc con kết hôn với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Làm hồ sơ để kết hôn với người nước ngoài, làm thủ tục để sinh sống, định cư hoặc nhập quốc tịch ở nước ngoài trái pháp luật. Như vậy, nếu đảng viên có những vi phạm khi kết hôn với người nước ngoài theo quy định trên thì sẽ bị khai trừ ra khỏi Đảng. Bị khai trừ ra khỏi Đảng vì vi phạm khi kết hôn với người nước ngoài có được kết nạp lại không? Theo tiết 3.5.1 Tiểu mục 3.5 Mục 3 Quy định 24-QĐ/TW năm 2021 quy định người được xét kết nạp lại phải có đủ các điều kiện sau: - Có đủ điều kiện và tiêu chuẩn của người vào Đảng theo quy định tại Điều 1 Điều lệ Đảng. - Ít nhất là 36 tháng kể từ khi ra khỏi Đảng (riêng người bị án hình sự về tội ít nghiêm trọng thì phải sau 60 tháng kể từ khi được xoá án tích; đảng viên đã bị đưa ra khỏi Đảng do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình thì thực hiện theo quy định của Ban Bí thư), làm đơn xin kết nạp lại vào Đảng; phải được ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ (hoặc tương đương) đồng ý bằng văn bản, cấp uỷ có thẩm quyền (huyện uỷ và tương đương) xem xét, quyết định. - Thực hiện đúng các thủ tục nêu ở các Khoản 1, 2, 3 Điều 4 Điều lệ Đảng 2011. Như vậy, đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng vì vi phạm khi kết hôn với người nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định trên và không thuộc trường hợp không xem xét kết nạp lại tại tiết 3.5.2 Tiểu mục 3.5 Mục 3 Quy định 24-QĐ/TW năm 2021.
Hướng dẫn xác định phạm vi ba đời để kết hôn
Kết hôn trong phạm vi 03 đời là hành vi bị cấm trong pháp luật hôn nhân gia đình. Vậy việc xác định phạm vi 03 đời như thế nào? Xác định phạm vi 03 đời để kết hôn Tại Khoản 18 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. Cụ thể như sau: - Đời thứ nhất: Cha, mẹ; - Đời thứ hai: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; - Đời thứ ba: Anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì Trong đó, những người có cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó người này sinh ra người kia kế tiếp nhau. Theo quy định nêu trên thì có thể hiểu, đời thứ nhất sinh ra đời thứ hai, đời thứ hai sinh ra đời thứ ba. Đưa ra một ví dụ cụ thể: Bà nội của A và ông ngoại của B là chị em ruột, vậy A và B là đời thứ mấy, có kết hôn với nhau được không? Xét phạm vi 03 đời như sau: - Đời thứ nhất: Ông bà cố của A và B (Bố mẹ của bà nội của A và ông ngoại của B) - Đời thứ hai: Bà nội của A và ông ngoại của B - Đời thứ ba: Bố của A và mẹ của B - Đời thứ tư: A và B Như vậy, A và B không thuộc người có họ trong phạm vi 03 đời và không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn theo điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nên khi đủ điều kiện sau sẽ được kết hôn: - Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; - Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; - Không bị mất năng lực hành vi dân sự; Việc cấm kết hôn trong phạm vi 03 đời bởi đối với trẻ sinh ra có nguy cơ bị dị tật bẩm sinh cao những trẻ em được sinh ra từ cha mẹ cận huyết thống, có họ trong phạm vi 3 đời dễ có nguy cơ mắc các bệnh di truyền, bệnh tật, suy giảm sức khỏe. Có xử phạt nếu như kết hôn trong phạm vi 03 đời không? Việc kết hôn trong phạm vi 03 đời là hành vi cấm vậy nếu như cố tính vi phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Theo đó, đối với hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Theo Khoản 9 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 thì mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt. Như trong trường hợp nêu trên nếu như không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì sẽ bị phạt số tiền là 15.000.000 đồng.
Cấm kết hôn trong những trường hợp nào?
Tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã nêu cụ thể về cấm kết hôn trong những trường hợp sau: 1. Kết hôn giả. 2. Tảo hôn. 3. Ép người khác kết hôn, lừa người khác kết hôn. 4. Kết hôn với người khác khi đang có vợ, chồng, hoặc chưa hoàn thành thủ tục ly hôn. 5. Trường hợp kết hôn với người cùng dòng máu về trực hệ, có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời, quan hệ cha, mẹ với con nuôi, quan hệ cha mẹ với con dâu, rể, cha mẹ với con riêng của đối phương. 6. Kết hôn với thỏa thuận của cải. 7. Kết hôn để xâm phạm tình dục, mua bán, bóc lột sức lao động người khác hoặc có hành vi, mục đích trục lợi. Sau khi thỏa các điều kiện trên, bạn có thể đăng ký kết hôn với nửa kia của mình. Lưu ý, nếu kết hôn với người nước ngoài, bạn cũng cần cùng lúc chấp hành điều kiện cho phép kết hôn của quốc gia của nửa kia. Các trường hợp trên không chỉ là cấm kết hôn, chúng còn áp dụng cho trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nếu bị phát hiện, bạn sẽ bị xử lý đúng theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình. Vậy nếu kết hôn sớm thì sẽ có tác hại như thế nào? Kết hôn sớm còn được gọi là tảo hôn. Là trường hợp nam, nữ kết hôn khi chưa đủ tuổi kết hôn hoặc hai bên chưa đủ tuổi kết hôn nhưng kết hôn và chung sống với nhau như vợ chồng. Cụ thể, theo quy định của cả nước, độ tuổi kết hôn là 20 đối với nam và 18 đối với nữ, đây là một trong những trường hợp bị cấm kết hôn tại Việt nam. Hầu hết những trường hợp tảo hôn chỉ xảy ra ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh.Vậy kết hôn sớm có tác hại như thế nào? Đầu tiên là về mặt sức khỏe: Đối với nữ dưới 18 tuổi và nam dưới 20 tuổi thì cơ thể họ vẫn chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ cho việc hôn nhân. Do đó, việc kết hôn sớm sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là của người vợ. Đó là còn chưa kể việc kết hôn sớm thường do thiếu hiểu biết và kiến thức, dễ dẫn tới việc mắc các bệnh liên quan tới đường tình dục. Kết hôn sớm cũng sẽ làm mất đi cơ hội học tập, trải nghiệm và làm việc của cả người vợ lẫn chồng trẻ. Nếu bị tước đi cơ hội học tập thì con người sẽ khó vươn lên trong cuộc sống và sẽ tự bị giới hạn bản thân. Vì thế, nhà nước Việt Nam nghiêm cấm việc kết hôn sớm.
Bắt vợ ở vùng cao có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Tục bắt vợ - Ảnh minh họa Do sự đa dạng về vùng miền và dân tộc mỗi một nơi trên đất nước chúng ta đều có những nét văn hóa truyền thống nhuốm màu thời đại. Tuy nhiên, dần theo thời gian chúng dần mai một và trở nên quặn quẹo trong tay người kế thừa. Một trong số đó chính là hủ tục “Bắt vợ”. Sự “biến tướng” của hủ tục bắt vợ “Bắt vợ” là một phong tục lâu đời của đồng bào Dân tộc H’mông. Thật ra, trước khi bắt vợ xảy ra hai bên nam nữ đã có quan hệ yêu đương từ trước đây chỉ là một bước trong phong tục để đưa cô dâu về nhà theo cách mà tổ tiên họ đã truyền từ đời này sang đời khác. Bắt vợ" về bản chất không xấu nhưng khi bị biến tướng sẽ trở nên xấu xa vô cùng vì nó thực chất đã tước đi quyền tự do của một người. Tước đi cả quyền được chọn lựa tương lai của những cô gái vùng dân tộc, vốn còn ngây thơ và chưa hiểu rõ ràng về Luật pháp. Rồi sẽ ra sao nếu những bé gái chỉ mới 14-15 tuổi mà không hề thích người kia mà bị "bắt" về làm vợ thì cuộc sống hôn nhân về sau sẽ khủng khiếp đến mức nào? Khi mang tiếng "đã bị bắt" về làm vợ, thiếu nữ ấy nếu muốn thoát khỏi nhà trai cũng không còn có cơ hội. Vì sự chối từ của chính nhà mẹ ruột, vì những cái đầu mang đậm chất tư tưởng tin vào thánh thần. Tương lai của những bé gái còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ đi về đâu? Những câu hỏi này vẫn chưa có câu trả lời. Những nét đẹp văn hóa giờ đây đã bị biến tướng hoàn toàn so với trước và không còn giữ được vẻ đẹp trong sáng như trước nữa. Tất cả đang giống như một vụ phạm pháp được che đậy bởi những "phong tục" mà không ai có thể chạm tới được. Quy định pháp luật về hủ tục này Theo luật pháp nước ta, ”cướp vợ” là hành vi cưỡng ép kết hôn thuộc các hành vi cấm kết hôn được quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật hôn nhân và gia đình 2014: Cấm các hành vi sau đây: - Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; - Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; - Yêu sách của cải trong kết hôn; - Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; - Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; - Bạo lực gia đình; - Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Việc cưỡng ép kết hôn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự Theo Điều 181, Luật Hình sự 2015 có quy định như sau: "Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm." “Phép vua” liệu có thua “lệ làng” Do hạn chế về nhiều mặt từ kinh tế đến sự phát triển không toàn diện của xã hội mà cư dân miền núi đa phần không có hiểu biết vè pháp luật. Hoặc có hiểu biết nhưng họ có niềm tin vào thần linh nhiều hơn nên từ lâu việc khắc phục những hậu quả xấu do sự biến thể của các tập tục gây nhiều khó khăn cho chính quyền địa phương nói riêng và người thi hành pháp luật nói chung. Khó mà có thể kiểm tra giám sát và xử hết được các tình huống phát sinh khi mà điều kiện để tiếp cận sâu sát với cộng đồng dân tộc miền núi còn chưa được cải thiện. Để hạn chế hệ luỵ từ những biến tướng từ tục bắt vợ để duy trì, bảo vệ nét đẹp văn hoá truyền thống, tục lệ của người H’mông cần thay đổi mạnh mẽ cách tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức, khả năng tiếp cận thông tin pháp luật đầy đủ chính xác. Dựa vào uy tín của già làng, trưởng bản để thông tin đến những người còn lại. Với người dân tộc thiểu số họ thường có niềm tin tuyệt đối vào người lãnh đạo tinh thần này, hoàn toàn tin cậy vào các luật tục của dân tôc họ. Quan trọng là phải chuyển hoá được các quy định pháp luật thành các hương ước, thành các quy ước làng xã, thôn bản trên cơ sở luật tục.Có như vậy thì người dân nơi đây mới có thể dễ dàng áp dụng pháp luật vào cuộc sống.
Phân biệt ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật
Nhiều người vẫn hay nhầm lẫn giữa việc ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Dưới góc độ của pháp luật có thể phân biệt “ly hôn” và “kết hôn trái pháp luật” như sau: Phân biệt ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật - Ảnh minh họa Tiêu chí Ly hôn Huỷ kết hôn trái pháp luật Khái niệm Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (Khoản 14 Điều 3) Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (Khoản 6 Điều 3) Người có quyền yêu cầu - Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. - Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. 3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. (Điều 51) - Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này: + Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; + Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; + Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; + Hội liên hiệp phụ nữ. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. (Điều 10) Hậu quả pháp lý - Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. -Tòa án đã giải quyết ly hôn phải gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên ly hôn; cá nhân, cơ quan, tổ chức khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có liên quan. (Điều 57) - Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. - Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn. - Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật này. (Điều 12) Căn cứ pháp lý Luật hôn nhân và gia đình 2014
Cha mẹ có quyền cấm con cái kết hôn hay không?
Hôn nhân hợp pháp là hôn nhân được Nhà nước công nhận theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: "1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự; d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này. 2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính." Theo đó, các cuộc hôn nhân đáp ứng đủ điều kiện này được gọi là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Nhưng song song đó, vẫn còn nhiều vấn đề trong cuộc sống khiến cho nhiều cuộc hôn nhân bị ngắn cấm bởi chính cha mẹ trong gia đình. Gây ra mất hòa khí, ảnh hưởng tâm lý và phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Vậy hành động này của các bậc cha mẹ có đúng với pháp luật không? Theo Điều 55 Nghị định 167/2013/NĐ-CP đã có quy định cụ thể trường hợp này như sau: "Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: 1. Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác. 2. Cản trở người khác kết hôn, ly hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác." Ngoài ra, tại điều 181 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 còn quy định xử phạt hình sự đối với vi phạm này: "Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm." Như vậy, dù có là cha mẹ hay ai đi chăng nữa thì việc cấm đoán người khác tự nguyện kết hôn là việc làm vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định.
Chặng đường tìm kiếm công lý của hôn nhân đồng tính
Pháp luật Việt Nam đang ngày càng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi và nâng cao giá trị sống của mỗi người công dân trên đất nước này. Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua, vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng giới đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực của giới truyền thông, cũng như đã có không ít những cuộc họp Quốc hội đã diễn ra để bàn vấn đề này nằm trong khuôn khổ sửa đổi Luật Hôn nhân Gia đình 2000 nhưng bản thân những nhà làm luật cũng như tiếng nói của người dân trong cả nước vẫn chưa thể đưa ra đáp số cuối cùng cho bài toán nan giải này: “ Liệu có nên hay không việc thừa nhận hôn nhân đồng giới?”. Vì thế, tôi viết bài này như một cách góp lên chút ít ý kiến nhỏ nhoi của mình đối với vấn đề mang tính thời sự này cũng như nhằm hưởng ứng Ngày pháp luật Việt Nam 09/11/2013. Hôn nhân nói nôm na theo văn chương là sự kết đôi giữa hai con người yêu nhau và muốn chung sống cùng nhau để tạo dựng một gia đình tốt hơn cho xã hội, còn nói theo Luật hôn nhân gia đình thì đó chính là sự thừa nhận của xã hội, của pháp luật về việc chung sống của hai công dân theo những điều kiện mà pháp luật đưa ra. Vậy, xét cho đến cùng việc thừa nhận hôn nhân đồng giới liệu có gì là sai trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội, với truyền thống của dân tộc và hơn hết là có hay không sự vi phạm đến pháp luật nước nhà? Chắc hẳn trong tim mỗi người Việt chúng ta không ai không biết đến câu nói mở đầu cho Bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta vào mùa thu năm 1945 lịch sử đã từng viết: “Hỡi đồng bào cả nước! Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” . Đúng vậy, ngay từ những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền pháp chế xã hội chủ nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác nhận lấy quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân làm gốc để giúp nước nhà phát triển và vững mạnh. Do vậy, hà cớ gì từ hàng chục năm nay, hôn nhân tự nguyện giữa những con người đồng giới không được thừa nhận khi mà bản thân họ sinh ra cũng là một con người, một công dân trên đất nước này và họ cũng tha thiết quyền được xã hội thừa nhận, quyền được tôn trọng và quyền được hạnh phúc như biết bao công dân khác. Hơn nữa, theo Điều 50,52 của Hiến pháp 1992 đã quy định về quyền con người sẽ luôn được tôn trọng về mọi phương diện từ chính trị, dân sự, kinh tế đến văn hóa, xã hội và song song đó, Hiến pháp đã thừa nhận pháp luật Việt Nam sẽ luôn bảo hộ tính mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của mỗi công dân. Văn bản pháp luật có giá trị tối cao đã thừa nhận quyền con người cũng như bảo hộ công dân Việt Nam thì không lý do gì không thừa nhận hôn nhân đồng giới. Bởi một điều đơn giản rằng khi thừa nhận hôn nhân đồng giới là pháp luật thừa nhận vị trí bình đẳng của người đồng giới trong xã hội cũng như cơ quan nhà nước có thể quản lý, bảo hộ và nắm rõ tình trạng của mỗi người dân nơi địa phương sinh sống. Chính vì trong suốt thời gian qua, xã hội cũng như pháp luật đã kì thị người đồng giới khiến họ gần như sống lầm lũi nơi những góc tối của đời sống thường ngày và phải chăng chúng ta đã quá bất công với người thuộc thế giới thứ ba khi suốt một thời gian dài chúng ta để cuộc sống của họ gần như đứng bên ngoài vòng quản lý của pháp trị. Tuy nhiên, trong khoảng vài năm trở lại đây, tiếng nói của giới truyền thông cũng như sự vùng lên đầy văn minh của những người đồng giới với mong muốn và khát khao được xã hội thừa nhận đã phần nào xóa bỏ những kì thị mà suốt bao năm qua họ phải đeo mang. Thêm vào đó là vấn đề thừa nhận hôn nhân đồng tính được đặt ra đã tạo nên một làn sóng tranh luận không hề nhỏ trong xã hội. Kết quả là nghị định 87/2001/NĐ-CP đã quy định mức phạt từ 100 000đ- 500 000đ đối với hành vi kết hôn giữa những người cùng giới đồng thời buộc chấm dứt hôn nhân trái pháp luật đã được xóa bỏ vào ngày 11/11/2013 theo Điều 48 của Nghị định 110/2013/NĐ-CP trước sự vui mừng của cộng đồng mạng cũng như những người quan tâm.Nhưng riêng theo cá nhân tôi, việc có xử phạt hành chính hay không đối với hôn nhân đồng giới chưa phải là một chiến thắng thật sự trên con đường đi tìm công lý của giới thứ ba bởi tính pháp lý của Luật luôn mang giá trị hành pháp cao hơn vì thế khi Nghị định 110/2013/NĐ-CP ban hành đã đặt ra câu hỏi : “ Phải chăng một lần nữa những nhà làm luật đang đẩy người đồng tính ra khỏi sự bảo vệ của pháp luật? Khi mà văn bản pháp luật cố tính làm ngơ việc có sửa đổi hay không điều khoản cấm hôn nhân đồng tính theo khoản 5 Điều 10 Luật hôn nhân gia đình. Vì vậy, chắc hẳn thế giới thứ ba còn cần phải cố gắng hơn nữa với hi vọng và đợi chờ trên suốt quãng đường dài phía trước với mong muốn Luật hôn nhân gia đình thừa nhận kết hôn đồng giới. Xét ở khía cạnh dư luận, có rất nhiều luồng ý kiến cho rằng: “ Thừa nhận hôn nhân đồng giới là trái với nguyên tắc tôn trọng đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc theo Điều 8- Bộ luật dân sự 2005”. Nhưng theo tôi, tại Điều 5 – Bộ luật dân sự đã thừa nhận quyền bình đẳng như sau: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.” Dựa trên căn cứ đó, tôi thiết nghĩ rằng quan hệ hôn nhân cũng là một quan hệ dân sự vậy thì quyền bình đẳng giới tính của giới thứ ba cũng cần được thừa nhận rõ ràng và cụ thể trong Luật hôn nhân gia đình. Thêm vào đó, tôi xin được trích một trong những căn cứ để ban hành Luật hôn nhân gia đình 2000 như sau: “Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam” Điều đó có nghĩa là những suy nghĩ định kiến về vấn đề hôn nhân đồng tính cần được xóa bỏ và pháp chế hôn nhân mới cần được sửa đổi để phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của xã hội, của công dân. Để từ đó, mỗi người dân đều xây dựng nên những giá trị gia đình thật sự hạnh phúc, ấm no như câu “an cư lạc nghiệp”. Có như vậy, đất nước ta mới ngày càng phồn thịnh hơn và tiến xa hơn nữa trên bước đường hội nhập thế giới. Thay cho lời kết, tôi chỉ muốn nói rằng pháp luật được xây dựng dựa trên cuộc sống của người dân và bảo vệ cho phía yếu thế. Do vậy, người đồng giới đã phải chịu nhiều những bất công vô tình của pháp luật trong suốt thời gian qua nên chúng ta chẳng có lý do gì để từ chối mong muốn được hưởng hạnh phúc chính đáng của họ trên đất nước này thông qua hình thức thừa nhân hôn nhân đồng tính.