Tổng cục thuế kiến nghị cấm dùng tiền mặt để mua bán vàng
Nhằm tăng cường công tác quản lý, Tổng cục Thuế kiến nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, trình cấp thẩm quyền quy định bắt buộc thanh toán không dùng tiền mặt đối với các giao dịch mua bán vàng. Tổng cục thuế kiến nghị cấm dùng tiền mặt để mua bán vàng Thời gian qua, ngành thuế đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát xuất hoá đơn điện tử trong thực hiện các giao dịch mua, bán vàng, cụ thể như: Rà soát các cơ sở kinh doanh vàng đủ điều kiện để thực hiện áp dụng giải pháp hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền – đây là giải pháp HĐĐT có mã của cơ quan thuế áp dụng riêng cho lĩnh vực bán lẻ trực tiếp đến người tiêu dùng. Khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ thông qua chương trình hoá đơn may mắn của ngành Thuế. Phối hợp với các cơ quan, ban ngành địa phương trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh bán hàng hóa dịch vụ nhưng không xuất hoá đơn điện tử, trong đó có các cơ sở kinh doanh vàng. Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế về việc mua bán hàng hóa phải có hóa đơn, chứng từ hợp pháp, qua đó tạo lập thói quen tiêu dùng văn minh, góp phần bảo vệ quyền lợi cho người mua. Theo đó, sau hơn một năm triển khai trên toàn quốc đã có 53.425 cơ sở kinh doanh áp dụng hoá đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, trong đó có 5.835 cơ sở kinh doanh vàng, bạc đã thực hiện áp dụng và sử dụng trên 1,065 triệu hoá đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Tuy nhiên Tổng cục Thuế cho biết, với lĩnh vực gia công vàng, bạc, một số trường hợp cá nhân mua hàng, dịch vụ không lấy hóa đơn, dẫn đến khó khăn cho cơ quan thuế trong việc kiểm soát giao dịch. Từ đó, Tổng cục Thuế kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo rà soát, xử lý vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh vàng bán hàng không xuất hoá đơn kịp thời cho người mua. Đồng thời, tổ chức giám sát, kiểm tra việc duy trì, chấp hành của các cơ sở kinh doanh vàng đã áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền… Bên cạnh đó, để tiếp tục tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan, ban ngành, địa phương trong công tác quản lý thuế đối với lĩnh vực kinh doanh vàng, ngoài các giải pháp của ngành thuế, Tổng cục Thuế kiến nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, trình cấp thẩm quyền quy định bắt buộc thanh toán không dùng tiền mặt đối với các giao dịch kinh doanh vàng, đồng thời quy định cơ chế kiểm soát các giao dịch này. Trước đó, khi góp ý sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng, NHNN chi nhánh TP.HCM cũng đã đưa ra đề xuất hạn chế việc thanh toán mua bán vàng miếng bằng tiền mặt. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu cương quyết có hóa đơn điện tử trong việc thực hiện các giao dịch mua, bán vàng Trước đó vào ngày 12/4, Văn phòng Chính phủ cho biết vừa ban hành Thông báo 160/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp về các giải pháp quản lý thị trường vàng. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác giám sát, quản lý, điều hành thị trường vàng, nhất là việc cương quyết phải có hóa đơn điện tử trong việc thực hiện các giao dịch mua, bán vàng để nâng cao tính minh bạch, cải thiện hiệu quả giám sát, điều hành, bảo đảm thị trường vàng hoạt động an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch. Xử lý thu hồi ngay giấy phép hoạt động đối với doanh nghiệp không thực hiện nghiêm quy định của pháp luật. Cùng với đó, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đánh giá kỹ tác động, tổng kết đầy đủ việc thực hiện Nghị định 24 để đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp, bảo đảm bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý thị trường vàng, phù hợp với tình hình thực tiễn, diễn biến kinh tế trong nước, khu vực, quốc tế (Nguồn dangcongsan.vn)
Có quy định nào quy định về liên quan đến việc cấm học thêm hay không ạ? Cám ơn mọi người nhiều
Cấm kết hôn trong những trường hợp nào?
Tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã nêu cụ thể về cấm kết hôn trong những trường hợp sau: 1. Kết hôn giả. 2. Tảo hôn. 3. Ép người khác kết hôn, lừa người khác kết hôn. 4. Kết hôn với người khác khi đang có vợ, chồng, hoặc chưa hoàn thành thủ tục ly hôn. 5. Trường hợp kết hôn với người cùng dòng máu về trực hệ, có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời, quan hệ cha, mẹ với con nuôi, quan hệ cha mẹ với con dâu, rể, cha mẹ với con riêng của đối phương. 6. Kết hôn với thỏa thuận của cải. 7. Kết hôn để xâm phạm tình dục, mua bán, bóc lột sức lao động người khác hoặc có hành vi, mục đích trục lợi. Sau khi thỏa các điều kiện trên, bạn có thể đăng ký kết hôn với nửa kia của mình. Lưu ý, nếu kết hôn với người nước ngoài, bạn cũng cần cùng lúc chấp hành điều kiện cho phép kết hôn của quốc gia của nửa kia. Các trường hợp trên không chỉ là cấm kết hôn, chúng còn áp dụng cho trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nếu bị phát hiện, bạn sẽ bị xử lý đúng theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình. Vậy nếu kết hôn sớm thì sẽ có tác hại như thế nào? Kết hôn sớm còn được gọi là tảo hôn. Là trường hợp nam, nữ kết hôn khi chưa đủ tuổi kết hôn hoặc hai bên chưa đủ tuổi kết hôn nhưng kết hôn và chung sống với nhau như vợ chồng. Cụ thể, theo quy định của cả nước, độ tuổi kết hôn là 20 đối với nam và 18 đối với nữ, đây là một trong những trường hợp bị cấm kết hôn tại Việt nam. Hầu hết những trường hợp tảo hôn chỉ xảy ra ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh.Vậy kết hôn sớm có tác hại như thế nào? Đầu tiên là về mặt sức khỏe: Đối với nữ dưới 18 tuổi và nam dưới 20 tuổi thì cơ thể họ vẫn chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ cho việc hôn nhân. Do đó, việc kết hôn sớm sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là của người vợ. Đó là còn chưa kể việc kết hôn sớm thường do thiếu hiểu biết và kiến thức, dễ dẫn tới việc mắc các bệnh liên quan tới đường tình dục. Kết hôn sớm cũng sẽ làm mất đi cơ hội học tập, trải nghiệm và làm việc của cả người vợ lẫn chồng trẻ. Nếu bị tước đi cơ hội học tập thì con người sẽ khó vươn lên trong cuộc sống và sẽ tự bị giới hạn bản thân. Vì thế, nhà nước Việt Nam nghiêm cấm việc kết hôn sớm.
Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta cấm thực hiện những hành vi nào?
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xậy dựng và bảo vệ tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, pháp luật quy định quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Theo quy định tại Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Cấm các hành vi sau đây - Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo. Trong đó, kết hôn giả tạo được hiểu là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân. - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn. Tảo hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi). Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn. Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. - Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Trong đó, chung sống như vợ chồng được hiểu là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ với con; ông, bà với cháu nội, cháu ngoại. Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. Về mặt y học nếu thế hệ cha mẹ càng xa bao nhiêu thì thế hệ con càng tiếp thu các mặt tích cực của cha mẹ bấy nhiêu và ngược lại. Cấm kết hôn trong trường hợp này nhằm duy trì, bảo vệ thuần phong, mỹ tục, đạo đức truyền thống cũng như đảm bảo việc phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, tránh sự suy thoái nòi giống. Luật hôn nhân và gia đình 2014 cấm cả những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, đã từng là cha chồng với con dâu, đã từng là mẹ vợ với con rể, đã từng là cha dượng với con riêng của vợ, đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng. Trên thực tế, giữa những người này không có quan hệ về huyết thống, nhưng trước đây giữa họ đã có mối quan hệ cha, mẹ - con và có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc quy định cấm những người đó kết hôn với nhau nhằm bảo vệ, giữ gìn đạo lý của dân tộc, ổn định mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, phù hợp với đạo đức xã hội và truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. - Yêu sách của cải trong kết hôn. - Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn. Trong đó, cưỡng ép ly hôn được hiểu là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải ly hôn trái với ý muốn của họ. Cản trở ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ. - Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính. Trong đó, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được hiểu là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. - Bạo lực gia đình. Trong đó, bạo lực gia đình được hiểu là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. - Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Thuốc lá điện tử (Vape) có bị cấm không?
Thuốc lá điện tử được hiểu là các thiết bị điện tử sử dụng pin để làm nóng dung dịch có chứa nicotine và các chất hóa học khác, đựng trong ống/bình chứa dùng một lần hoặc có thể tái nạp khí cho người sử dụng hít vào. Hiện chưa có quy định nào điều chỉnh cụ thể về thuốc lá điện tử. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 67/2013/NĐ-CP: “Sản phẩm thuốc lá” là sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hay một phần nguyên liệu thuốc lá và được chế biến dưới dạng thuốc điếu, xì gà, thuốc lá sợi dùng để hút tẩu và các dạng sản phẩm khác dùng để hút, nhai, ngửi”. Như vậy, với tính chất có chứa nicotine và cách sử dụng là hít vào, thuốc lá điện tử được xem là một sản phẩm thuốc lá theo quy định của Nghị định 67/2013/NĐ-CP. Sản phẩm thuốc lá điện tử được xem như một sản phẩm thuốc lá, vì vậy việc kinh doanh, mua bán thuốc lá điện tử phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều kiện cấp giấy phép buôn bán sản phẩm thuốc lá điện tử: Theo Khoản 2 Điều 26 Nghị định 67/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 9 Điều 1 Nghị định 106/2017/NĐ-CP và Khoản 7 Điều 3 Nghị định 08/2018/NĐ-CP quy định về các điều kiện cấp giấy phép kinh doanh thuốc sản phẩm thuốc lá gồm: a) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật. b) Địa điểm kinh doanh không vi phạm quy định về địa điểm không được bán thuốc lá theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá 2012. c) Có hệ thống bán buôn sản phẩm thuốc lá trên địa bàn tỉnh nơi thương nhân đặt trụ sở chính (tối thiểu phải từ 02 thương nhân bán lẻ sản phẩm thuốc lá trở lên). d) Có văn bản giới thiệu của Nhà cung cấp sản phẩm thuốc lá hoặc của các thương nhân phân phối sản phẩm thuốc lá ghi rõ địa bàn dự kiến kinh doanh. Điều kiện cấp giấy phép bán lẻ sản phẩm thuốc lá điện tử: Theo Khoản 3 Điều 26 Nghị định 67/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 10 Điều 1 Nghị định 106/2017/NĐ-CP và Khoản 7 Điều 3 Nghị định 08/2018/NĐ-CP quy định các điều kiện cấp giấy phép bán lẻ thuốc sản phẩm thuốc lá gồm: a) Thương nhân được thành lập theo quy định của pháp luật b) Địa điểm kinh doanh không vi phạm quy định về địa điểm không được bán thuốc lá theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012. c) Có văn bản giới thiệu của các thương nhân phân phối hoặc thương nhân bán buôn sản phẩm thuốc lá ghi rõ địa bàn dự kiến kinh doanh. Như vậy, pháp luật Việt Nam không cấm hành vi mua bán thuốc lá điện tử. Tuy nhiên không phải chủ thể nào cũng được phép kinh doanh mua bán thuốc lá, mà chỉ có những chủ thể đáp ứng được những điều kiện của quy định pháp luật mới được phép kinh doanh.
Sau ly hôn có được cấm vợ cũ, chồng cũ gặp con?
Vì sợ con bị ảnh hưởng xấu bởi vợ cũ, chồng cũ hay có khi chỉ đơn giản là vì tâm lý thù ghét mà nhiều người đã cấm cản người kia thăm nom, tiếp xúc với con sau khi ly hôn. Nhẹ thì viện lý do này nọ, nặng thì ngăn trở ra mặt. Liệu rằng hành vi cản trở như thế có được pháp luật cho phép hay không? Ly hôn xong có được cấm cha mẹ gặp con? Minh họa Căn cứ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quyền thăm nom con mà không bị ai ngăn trở. Điều 83 Luật này cũng nêu rõ tại khoản 2 là người giành được quyền nuôi con và gia đình không được ngăn cấm người kia thực hiện việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Theo điểm d khoản 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007, hành vi cản trở cha, mẹ gặp mặt con cũng được xem là hành vi bạo lực gia đình, kể cả trong trường hợp hai bên đã ly dị. Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 300.000 đồng. Như vậy, việc vô cớ cấm vợ, chồng cũ thăm nuôi, chăm sóc con là không được phép. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, vì lợi ích của trẻ, quyền thăm nuôi nằm có thể bị pháp luật hạn chế. Cụ thể, theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, trong trường hợp có chứng cứ xác thực, người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án cấm người kia được gặp con, nếu họ có một trong những hành vi sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý; - Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Về việc thế nào là lối sống đồi trụy, có thể tham khảo từ khoản 4 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP. Lối sống đồi trụy có thể được hiểu là là lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng đến mức tồi tệ về đạo đức, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật này cũng chỉ rõ người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom nếu người kia lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Thời hạn cấm này có thể kéo dài từ 01 đến 05 năm, tùy theo mức độ nghiêm trọng của sự việc.
"Thách cưới" có phải là hành vi vi phạm pháp luật?
“Thách cưới” là một tập tục về hôn nhân còn tồn tại đến tận ngày nay ở nhiều địa phương. Dưới góc độ pháp luật, tục lệ này có bị cấm hay không? Thách cưới có trái pháp luật? - Minh họa Theo từ điển tiếng Việt, “thách cưới” là việc nhà gái ra điều kiện về sính lễ cho nhà trai để gả con gái con gái cho. Thông thường, số sính lễ này sẽ được trao cho nhà gái vào lễ cưới, trước khi rước dâu. Tùy thuộc vào phong tục ở mỗi địa phương mà sính lễ có thể là tiền mặt, kim khí quý (như trang sức bằng vàng, bạc) hoặc đồ vật khác (trầu cau, trâu bò…) với số lượng không giống nhau. Căn cứ theo điểm đ khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc yêu sách của cải trong kết hôn là hành vi bị nghiêm cấm. Theo đó, khoản 2 Điều 3 Luật này định nghĩa, “yêu sách của cải” trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ. Như vậy, hành vi “thách cưới” có vi phạm quy định của pháp luật hay không còn phải căn cứ vào hai điều kiện, đó là: - Yêu cầu về vật chất cao đến mức quá đáng; - Được đưa ra nhằm mục đích gây cản trở việc kết hôn tự nguyện (nếu không đưa đủ thì không được phép cùng về chung sống), dù đây không phải là điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ 2014 nêu rõ, hai người nam, nữ muốn kết hôn chỉ cần đáp ứng bốn điều kiện sau: 1. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; 2. Do hai bên tự nguyện; 3. Không ai bị mất năng lực năng lực hành sự; 4. Không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn. Căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì hành vi yêu sách của cải trong kết hôn có thể bị phạt tiền đến 5.000.000 đồng.
Có nên cho phép người dân dùng vũ khí để tự vệ?
Với quy định của pháp luật Mỹ, người dân được quyền sử dụng vũ khí để tự vệ. Tuy nhiên, quy định này cũng ân chứa nhiều mặt tốt cũng như xấu của nó. Mặt tốt của nó dễ nhận ra thôi, nó giúp người dân nâng cao khả năng tự vệ của mình, tuy nhiên, mặt trái của nó đem lại rất nhiều hậu quả. Nhiều vụ việc thương tâm đẫm máu liên quan đến việc người dân được sử dụng vũ khí quá dễ dàng, các cuộc bạo lực súng đạn xảy ra thường xuyên, khiến nhà chức trách lo lắng và đưa ra các biện pháp, quy định nhằm xiết chặt hơn việc sử dụng vũ khí ở quốc gia này. Điển hình là Tổng thống Obama đã quyết tâm khi ban hành một đạo lực mới để kiểm soát súng đạn. Tuy nhiên, vấn đề được siết chặt ở đây là quyền tự do sử dụng súng đạn của người dân, chứ không phải chỉ ra tất cả các loại vũ khí. Còn với quy định pháp luật của nước ta, thì cấm sử dụng tất cả các loại vũ khí. Tại Điều 4 Nghị định 25/2012/NĐ-CP quy định cấm cấm hành vi sản xuất chế tạo, sử dụng, mang theo người các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ... Bên cạnh đó, theo Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đưa ra các diễn giải khái niệm, liệt kê về vũ khí, công cụ hỗ trợ. Trong đ, tại Điều 3 Pháp lệnh này liệt kê vũ khí bao gồm vũ khí quân sự, súng săn, vũ khí thô sơ..công cụ hỗ trợ bao gồm súng bắn đạt nhựa, cao su, hơi cay, bình xịt hơi cay, hơi ngạt...Do đó, mọi hành vi sử dụng, mang theo vũ khí, công cụ hỗ trợ bên người, dù là bình xịt hơi cay để tự vệ cũng được liệt kê vào hành vi cấm, không được phép. Vậy, pháp luật nước ta có nên điều chỉnh để giúp người dân nâng cao khả năng tự vệ của mình, không phải bằng súng đạn mà cho phép sử dụng, mang theo người các loại công cụ hỗ trợ để phòng thân để người dân có thể bảo vệ mình tốt hơn và an tâm hơn khi ra ngoài?
Sự việc áo ngực xuất xứ từ Trung Quốc có chứa “hóa chất” độc hại đã gây xôn xao dư luận trong thời gian qua. Nhiều câu hỏi được đặt ra ở đây: Một là, trong áo ngực có chứa “hóa chất” độc hại với mục đích gì? Trong khi yêu tố hàng đầu của nhà kinh doanh là lợi nhuận, nhằm làm giảm giá thành sản phẩm đến mức thấp nhất để bán chạy hàng, tuy nhiên trong trường hợp này việc có thêm hóa chất trong áo ngực rõ ràng “tình hình” không còn nằm ở khía cạnh kinh doanh. Hai là, tuy áo ngực có “khuyến mãi” thêm “thuốc” nhưng giá vẫn cứ rẻ. Đây là 1 điều khó hiểu. Ba là, “con đường” nào mà áo ngực “giảm” lại vào Việt Nam? Cơ quan chức năng có lỗi gì trong trường hợp này không? Có thể thấy, ở Việt Nam điều gì quản lý không được thì cấm (ví dụ: đốt pháo, đánh bài...) liệu có khi nào cấm người dân mặc áo ngực hay không? Vấn đề đặt ra thấy hơi “nực cười”, nhưng có còn cách nào khác để bảo vệ người dân lúc này. Bởi tâm lý thích hàng giá rẻ mà quên đi chất lượng, sức khỏe đã ăn sâu vào trong máu của người Việt Nam. Có người sẽ bảo rằng: Cấm nhập hàng Trung Quốc là “OK” thôi, nhưng vấn đề nó không đơn giản như vậy, trong khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Hoặc tăng cường khâu "gác cổng" đối với loại hàng này, nhưng khả năng "gác cổng" của cơ quan chức năng cực kỳ thấp (nào là gà lậu, chân gà lậu...). Nhưng nếu có quy định cấm mặc áo ngực trong tương lai, có lẽ nó sẽ bảo vệ được sức khỏe của người dân; nhưng dường như đó là điều không thể bởi yếu tố “VĂN HÓA VIỆT”. Song khi nào người dân còn dùng áo ngực thì khi đó “thuốc độc” Trung Quốc" sẽ còn kề bên! Bởi vậy, trước hết người dân cần cân nhắc để đưa ra sự lựa chọn đúng đắn nhất!
Tổng cục thuế kiến nghị cấm dùng tiền mặt để mua bán vàng
Nhằm tăng cường công tác quản lý, Tổng cục Thuế kiến nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, trình cấp thẩm quyền quy định bắt buộc thanh toán không dùng tiền mặt đối với các giao dịch mua bán vàng. Tổng cục thuế kiến nghị cấm dùng tiền mặt để mua bán vàng Thời gian qua, ngành thuế đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát xuất hoá đơn điện tử trong thực hiện các giao dịch mua, bán vàng, cụ thể như: Rà soát các cơ sở kinh doanh vàng đủ điều kiện để thực hiện áp dụng giải pháp hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền – đây là giải pháp HĐĐT có mã của cơ quan thuế áp dụng riêng cho lĩnh vực bán lẻ trực tiếp đến người tiêu dùng. Khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ thông qua chương trình hoá đơn may mắn của ngành Thuế. Phối hợp với các cơ quan, ban ngành địa phương trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh bán hàng hóa dịch vụ nhưng không xuất hoá đơn điện tử, trong đó có các cơ sở kinh doanh vàng. Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế về việc mua bán hàng hóa phải có hóa đơn, chứng từ hợp pháp, qua đó tạo lập thói quen tiêu dùng văn minh, góp phần bảo vệ quyền lợi cho người mua. Theo đó, sau hơn một năm triển khai trên toàn quốc đã có 53.425 cơ sở kinh doanh áp dụng hoá đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, trong đó có 5.835 cơ sở kinh doanh vàng, bạc đã thực hiện áp dụng và sử dụng trên 1,065 triệu hoá đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Tuy nhiên Tổng cục Thuế cho biết, với lĩnh vực gia công vàng, bạc, một số trường hợp cá nhân mua hàng, dịch vụ không lấy hóa đơn, dẫn đến khó khăn cho cơ quan thuế trong việc kiểm soát giao dịch. Từ đó, Tổng cục Thuế kiến nghị UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo rà soát, xử lý vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh vàng bán hàng không xuất hoá đơn kịp thời cho người mua. Đồng thời, tổ chức giám sát, kiểm tra việc duy trì, chấp hành của các cơ sở kinh doanh vàng đã áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền… Bên cạnh đó, để tiếp tục tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan, ban ngành, địa phương trong công tác quản lý thuế đối với lĩnh vực kinh doanh vàng, ngoài các giải pháp của ngành thuế, Tổng cục Thuế kiến nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, trình cấp thẩm quyền quy định bắt buộc thanh toán không dùng tiền mặt đối với các giao dịch kinh doanh vàng, đồng thời quy định cơ chế kiểm soát các giao dịch này. Trước đó, khi góp ý sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng, NHNN chi nhánh TP.HCM cũng đã đưa ra đề xuất hạn chế việc thanh toán mua bán vàng miếng bằng tiền mặt. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu cương quyết có hóa đơn điện tử trong việc thực hiện các giao dịch mua, bán vàng Trước đó vào ngày 12/4, Văn phòng Chính phủ cho biết vừa ban hành Thông báo 160/TB-VPCP kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp về các giải pháp quản lý thị trường vàng. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác giám sát, quản lý, điều hành thị trường vàng, nhất là việc cương quyết phải có hóa đơn điện tử trong việc thực hiện các giao dịch mua, bán vàng để nâng cao tính minh bạch, cải thiện hiệu quả giám sát, điều hành, bảo đảm thị trường vàng hoạt động an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch. Xử lý thu hồi ngay giấy phép hoạt động đối với doanh nghiệp không thực hiện nghiêm quy định của pháp luật. Cùng với đó, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đánh giá kỹ tác động, tổng kết đầy đủ việc thực hiện Nghị định 24 để đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp, bảo đảm bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý thị trường vàng, phù hợp với tình hình thực tiễn, diễn biến kinh tế trong nước, khu vực, quốc tế (Nguồn dangcongsan.vn)
Có quy định nào quy định về liên quan đến việc cấm học thêm hay không ạ? Cám ơn mọi người nhiều
Cấm kết hôn trong những trường hợp nào?
Tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã nêu cụ thể về cấm kết hôn trong những trường hợp sau: 1. Kết hôn giả. 2. Tảo hôn. 3. Ép người khác kết hôn, lừa người khác kết hôn. 4. Kết hôn với người khác khi đang có vợ, chồng, hoặc chưa hoàn thành thủ tục ly hôn. 5. Trường hợp kết hôn với người cùng dòng máu về trực hệ, có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời, quan hệ cha, mẹ với con nuôi, quan hệ cha mẹ với con dâu, rể, cha mẹ với con riêng của đối phương. 6. Kết hôn với thỏa thuận của cải. 7. Kết hôn để xâm phạm tình dục, mua bán, bóc lột sức lao động người khác hoặc có hành vi, mục đích trục lợi. Sau khi thỏa các điều kiện trên, bạn có thể đăng ký kết hôn với nửa kia của mình. Lưu ý, nếu kết hôn với người nước ngoài, bạn cũng cần cùng lúc chấp hành điều kiện cho phép kết hôn của quốc gia của nửa kia. Các trường hợp trên không chỉ là cấm kết hôn, chúng còn áp dụng cho trường hợp chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nếu bị phát hiện, bạn sẽ bị xử lý đúng theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình. Vậy nếu kết hôn sớm thì sẽ có tác hại như thế nào? Kết hôn sớm còn được gọi là tảo hôn. Là trường hợp nam, nữ kết hôn khi chưa đủ tuổi kết hôn hoặc hai bên chưa đủ tuổi kết hôn nhưng kết hôn và chung sống với nhau như vợ chồng. Cụ thể, theo quy định của cả nước, độ tuổi kết hôn là 20 đối với nam và 18 đối với nữ, đây là một trong những trường hợp bị cấm kết hôn tại Việt nam. Hầu hết những trường hợp tảo hôn chỉ xảy ra ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh.Vậy kết hôn sớm có tác hại như thế nào? Đầu tiên là về mặt sức khỏe: Đối với nữ dưới 18 tuổi và nam dưới 20 tuổi thì cơ thể họ vẫn chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ cho việc hôn nhân. Do đó, việc kết hôn sớm sẽ gây ảnh hưởng tới sức khỏe, đặc biệt là của người vợ. Đó là còn chưa kể việc kết hôn sớm thường do thiếu hiểu biết và kiến thức, dễ dẫn tới việc mắc các bệnh liên quan tới đường tình dục. Kết hôn sớm cũng sẽ làm mất đi cơ hội học tập, trải nghiệm và làm việc của cả người vợ lẫn chồng trẻ. Nếu bị tước đi cơ hội học tập thì con người sẽ khó vươn lên trong cuộc sống và sẽ tự bị giới hạn bản thân. Vì thế, nhà nước Việt Nam nghiêm cấm việc kết hôn sớm.
Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta cấm thực hiện những hành vi nào?
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xậy dựng và bảo vệ tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, pháp luật quy định quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Theo quy định tại Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Cấm các hành vi sau đây - Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo. Trong đó, kết hôn giả tạo được hiểu là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân. - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn. Tảo hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi). Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn. Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. - Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Trong đó, chung sống như vợ chồng được hiểu là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng. - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ với con; ông, bà với cháu nội, cháu ngoại. Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. Về mặt y học nếu thế hệ cha mẹ càng xa bao nhiêu thì thế hệ con càng tiếp thu các mặt tích cực của cha mẹ bấy nhiêu và ngược lại. Cấm kết hôn trong trường hợp này nhằm duy trì, bảo vệ thuần phong, mỹ tục, đạo đức truyền thống cũng như đảm bảo việc phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, tránh sự suy thoái nòi giống. Luật hôn nhân và gia đình 2014 cấm cả những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, đã từng là cha chồng với con dâu, đã từng là mẹ vợ với con rể, đã từng là cha dượng với con riêng của vợ, đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng. Trên thực tế, giữa những người này không có quan hệ về huyết thống, nhưng trước đây giữa họ đã có mối quan hệ cha, mẹ - con và có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc quy định cấm những người đó kết hôn với nhau nhằm bảo vệ, giữ gìn đạo lý của dân tộc, ổn định mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, phù hợp với đạo đức xã hội và truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. - Yêu sách của cải trong kết hôn. - Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn. Trong đó, cưỡng ép ly hôn được hiểu là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải ly hôn trái với ý muốn của họ. Cản trở ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái với ý muốn của họ. - Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính. Trong đó, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được hiểu là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. - Bạo lực gia đình. Trong đó, bạo lực gia đình được hiểu là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. - Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Thuốc lá điện tử (Vape) có bị cấm không?
Thuốc lá điện tử được hiểu là các thiết bị điện tử sử dụng pin để làm nóng dung dịch có chứa nicotine và các chất hóa học khác, đựng trong ống/bình chứa dùng một lần hoặc có thể tái nạp khí cho người sử dụng hít vào. Hiện chưa có quy định nào điều chỉnh cụ thể về thuốc lá điện tử. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định 67/2013/NĐ-CP: “Sản phẩm thuốc lá” là sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hay một phần nguyên liệu thuốc lá và được chế biến dưới dạng thuốc điếu, xì gà, thuốc lá sợi dùng để hút tẩu và các dạng sản phẩm khác dùng để hút, nhai, ngửi”. Như vậy, với tính chất có chứa nicotine và cách sử dụng là hít vào, thuốc lá điện tử được xem là một sản phẩm thuốc lá theo quy định của Nghị định 67/2013/NĐ-CP. Sản phẩm thuốc lá điện tử được xem như một sản phẩm thuốc lá, vì vậy việc kinh doanh, mua bán thuốc lá điện tử phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều kiện cấp giấy phép buôn bán sản phẩm thuốc lá điện tử: Theo Khoản 2 Điều 26 Nghị định 67/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 9 Điều 1 Nghị định 106/2017/NĐ-CP và Khoản 7 Điều 3 Nghị định 08/2018/NĐ-CP quy định về các điều kiện cấp giấy phép kinh doanh thuốc sản phẩm thuốc lá gồm: a) Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật. b) Địa điểm kinh doanh không vi phạm quy định về địa điểm không được bán thuốc lá theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá 2012. c) Có hệ thống bán buôn sản phẩm thuốc lá trên địa bàn tỉnh nơi thương nhân đặt trụ sở chính (tối thiểu phải từ 02 thương nhân bán lẻ sản phẩm thuốc lá trở lên). d) Có văn bản giới thiệu của Nhà cung cấp sản phẩm thuốc lá hoặc của các thương nhân phân phối sản phẩm thuốc lá ghi rõ địa bàn dự kiến kinh doanh. Điều kiện cấp giấy phép bán lẻ sản phẩm thuốc lá điện tử: Theo Khoản 3 Điều 26 Nghị định 67/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi Khoản 10 Điều 1 Nghị định 106/2017/NĐ-CP và Khoản 7 Điều 3 Nghị định 08/2018/NĐ-CP quy định các điều kiện cấp giấy phép bán lẻ thuốc sản phẩm thuốc lá gồm: a) Thương nhân được thành lập theo quy định của pháp luật b) Địa điểm kinh doanh không vi phạm quy định về địa điểm không được bán thuốc lá theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012. c) Có văn bản giới thiệu của các thương nhân phân phối hoặc thương nhân bán buôn sản phẩm thuốc lá ghi rõ địa bàn dự kiến kinh doanh. Như vậy, pháp luật Việt Nam không cấm hành vi mua bán thuốc lá điện tử. Tuy nhiên không phải chủ thể nào cũng được phép kinh doanh mua bán thuốc lá, mà chỉ có những chủ thể đáp ứng được những điều kiện của quy định pháp luật mới được phép kinh doanh.
Sau ly hôn có được cấm vợ cũ, chồng cũ gặp con?
Vì sợ con bị ảnh hưởng xấu bởi vợ cũ, chồng cũ hay có khi chỉ đơn giản là vì tâm lý thù ghét mà nhiều người đã cấm cản người kia thăm nom, tiếp xúc với con sau khi ly hôn. Nhẹ thì viện lý do này nọ, nặng thì ngăn trở ra mặt. Liệu rằng hành vi cản trở như thế có được pháp luật cho phép hay không? Ly hôn xong có được cấm cha mẹ gặp con? Minh họa Căn cứ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quyền thăm nom con mà không bị ai ngăn trở. Điều 83 Luật này cũng nêu rõ tại khoản 2 là người giành được quyền nuôi con và gia đình không được ngăn cấm người kia thực hiện việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Theo điểm d khoản 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007, hành vi cản trở cha, mẹ gặp mặt con cũng được xem là hành vi bạo lực gia đình, kể cả trong trường hợp hai bên đã ly dị. Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 300.000 đồng. Như vậy, việc vô cớ cấm vợ, chồng cũ thăm nuôi, chăm sóc con là không được phép. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, vì lợi ích của trẻ, quyền thăm nuôi nằm có thể bị pháp luật hạn chế. Cụ thể, theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, trong trường hợp có chứng cứ xác thực, người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án cấm người kia được gặp con, nếu họ có một trong những hành vi sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý; - Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Về việc thế nào là lối sống đồi trụy, có thể tham khảo từ khoản 4 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP. Lối sống đồi trụy có thể được hiểu là là lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng đến mức tồi tệ về đạo đức, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật này cũng chỉ rõ người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom nếu người kia lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Thời hạn cấm này có thể kéo dài từ 01 đến 05 năm, tùy theo mức độ nghiêm trọng của sự việc.
"Thách cưới" có phải là hành vi vi phạm pháp luật?
“Thách cưới” là một tập tục về hôn nhân còn tồn tại đến tận ngày nay ở nhiều địa phương. Dưới góc độ pháp luật, tục lệ này có bị cấm hay không? Thách cưới có trái pháp luật? - Minh họa Theo từ điển tiếng Việt, “thách cưới” là việc nhà gái ra điều kiện về sính lễ cho nhà trai để gả con gái con gái cho. Thông thường, số sính lễ này sẽ được trao cho nhà gái vào lễ cưới, trước khi rước dâu. Tùy thuộc vào phong tục ở mỗi địa phương mà sính lễ có thể là tiền mặt, kim khí quý (như trang sức bằng vàng, bạc) hoặc đồ vật khác (trầu cau, trâu bò…) với số lượng không giống nhau. Căn cứ theo điểm đ khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc yêu sách của cải trong kết hôn là hành vi bị nghiêm cấm. Theo đó, khoản 2 Điều 3 Luật này định nghĩa, “yêu sách của cải” trong kết hôn là việc đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng và coi đó là điều kiện để kết hôn nhằm cản trở việc kết hôn tự nguyện của nam, nữ. Như vậy, hành vi “thách cưới” có vi phạm quy định của pháp luật hay không còn phải căn cứ vào hai điều kiện, đó là: - Yêu cầu về vật chất cao đến mức quá đáng; - Được đưa ra nhằm mục đích gây cản trở việc kết hôn tự nguyện (nếu không đưa đủ thì không được phép cùng về chung sống), dù đây không phải là điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ 2014 nêu rõ, hai người nam, nữ muốn kết hôn chỉ cần đáp ứng bốn điều kiện sau: 1. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; 2. Do hai bên tự nguyện; 3. Không ai bị mất năng lực năng lực hành sự; 4. Không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn. Căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì hành vi yêu sách của cải trong kết hôn có thể bị phạt tiền đến 5.000.000 đồng.
Có nên cho phép người dân dùng vũ khí để tự vệ?
Với quy định của pháp luật Mỹ, người dân được quyền sử dụng vũ khí để tự vệ. Tuy nhiên, quy định này cũng ân chứa nhiều mặt tốt cũng như xấu của nó. Mặt tốt của nó dễ nhận ra thôi, nó giúp người dân nâng cao khả năng tự vệ của mình, tuy nhiên, mặt trái của nó đem lại rất nhiều hậu quả. Nhiều vụ việc thương tâm đẫm máu liên quan đến việc người dân được sử dụng vũ khí quá dễ dàng, các cuộc bạo lực súng đạn xảy ra thường xuyên, khiến nhà chức trách lo lắng và đưa ra các biện pháp, quy định nhằm xiết chặt hơn việc sử dụng vũ khí ở quốc gia này. Điển hình là Tổng thống Obama đã quyết tâm khi ban hành một đạo lực mới để kiểm soát súng đạn. Tuy nhiên, vấn đề được siết chặt ở đây là quyền tự do sử dụng súng đạn của người dân, chứ không phải chỉ ra tất cả các loại vũ khí. Còn với quy định pháp luật của nước ta, thì cấm sử dụng tất cả các loại vũ khí. Tại Điều 4 Nghị định 25/2012/NĐ-CP quy định cấm cấm hành vi sản xuất chế tạo, sử dụng, mang theo người các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ... Bên cạnh đó, theo Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đưa ra các diễn giải khái niệm, liệt kê về vũ khí, công cụ hỗ trợ. Trong đ, tại Điều 3 Pháp lệnh này liệt kê vũ khí bao gồm vũ khí quân sự, súng săn, vũ khí thô sơ..công cụ hỗ trợ bao gồm súng bắn đạt nhựa, cao su, hơi cay, bình xịt hơi cay, hơi ngạt...Do đó, mọi hành vi sử dụng, mang theo vũ khí, công cụ hỗ trợ bên người, dù là bình xịt hơi cay để tự vệ cũng được liệt kê vào hành vi cấm, không được phép. Vậy, pháp luật nước ta có nên điều chỉnh để giúp người dân nâng cao khả năng tự vệ của mình, không phải bằng súng đạn mà cho phép sử dụng, mang theo người các loại công cụ hỗ trợ để phòng thân để người dân có thể bảo vệ mình tốt hơn và an tâm hơn khi ra ngoài?
Sự việc áo ngực xuất xứ từ Trung Quốc có chứa “hóa chất” độc hại đã gây xôn xao dư luận trong thời gian qua. Nhiều câu hỏi được đặt ra ở đây: Một là, trong áo ngực có chứa “hóa chất” độc hại với mục đích gì? Trong khi yêu tố hàng đầu của nhà kinh doanh là lợi nhuận, nhằm làm giảm giá thành sản phẩm đến mức thấp nhất để bán chạy hàng, tuy nhiên trong trường hợp này việc có thêm hóa chất trong áo ngực rõ ràng “tình hình” không còn nằm ở khía cạnh kinh doanh. Hai là, tuy áo ngực có “khuyến mãi” thêm “thuốc” nhưng giá vẫn cứ rẻ. Đây là 1 điều khó hiểu. Ba là, “con đường” nào mà áo ngực “giảm” lại vào Việt Nam? Cơ quan chức năng có lỗi gì trong trường hợp này không? Có thể thấy, ở Việt Nam điều gì quản lý không được thì cấm (ví dụ: đốt pháo, đánh bài...) liệu có khi nào cấm người dân mặc áo ngực hay không? Vấn đề đặt ra thấy hơi “nực cười”, nhưng có còn cách nào khác để bảo vệ người dân lúc này. Bởi tâm lý thích hàng giá rẻ mà quên đi chất lượng, sức khỏe đã ăn sâu vào trong máu của người Việt Nam. Có người sẽ bảo rằng: Cấm nhập hàng Trung Quốc là “OK” thôi, nhưng vấn đề nó không đơn giản như vậy, trong khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Hoặc tăng cường khâu "gác cổng" đối với loại hàng này, nhưng khả năng "gác cổng" của cơ quan chức năng cực kỳ thấp (nào là gà lậu, chân gà lậu...). Nhưng nếu có quy định cấm mặc áo ngực trong tương lai, có lẽ nó sẽ bảo vệ được sức khỏe của người dân; nhưng dường như đó là điều không thể bởi yếu tố “VĂN HÓA VIỆT”. Song khi nào người dân còn dùng áo ngực thì khi đó “thuốc độc” Trung Quốc" sẽ còn kề bên! Bởi vậy, trước hết người dân cần cân nhắc để đưa ra sự lựa chọn đúng đắn nhất!