Trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
“Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp” bao gồm các hoạt động có sự tham gia hoặc được tài trợ bởi đối tác nước ngoài có toàn bộ hoặc một phần nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP và được thực hiện theo hình thức quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. Các cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, mỗi cơ quan có các nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, sau đây là toàn bộ nội dung về trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 1. Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Điều 10 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Chủ trì soạn thảo, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Cho ý kiến về nội dung hợp tác pháp luật và cải cách tư pháp đối với việc ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế (nội dung cho ý kiến theo quy định của Luật Điều ước quốc tế, Luật Thỏa thuận quốc tế), phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án (nội dung cho ý kiến về sự phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP), tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (cho ý kiến về nội dung dự thảo Đề án tổ chức hội nghị, hội thảo). - Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định pháp luật trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 2. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ Điều 12 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật. - Phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này. - Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định tại Điều 9 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế, làm việc tại các thiết chế pháp lý quốc tế thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý. - Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Bộ Công an: - Cho ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước khi ký điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp; đánh giá tác động và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan, tổ chức Việt Nam thực hiện đúng các quy định pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật và tuân thủ pháp luật trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác theo quy định tại Nghị định số 35/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Bộ Ngoại giao: - Cung cấp, chia sẻ thông tin về các đối tác quốc tế hoạt động trong lĩnh vực pháp luật quốc tế trong phạm vi phụ trách. - Tham gia ý kiến đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp về các nội dung: sự phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bộ Quốc phòng: Tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp trong trường hợp hoạt động hợp tác đó liên quan tới lĩnh vực quân sự, quốc phòng hoặc được triển khai thực hiện ở khu vực biên giới, cửa khẩu và các khu vực trọng điểm khác về quốc phòng. 3. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Điều 13 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương, có trách nhiệm: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, báo cáo việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật có liên quan. - Phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Tổng hợp, chia sẻ và khai thác, sử dụng thông tin hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên địa bàn cấp tỉnh. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế thuộc trách nhiệm của địa phương. Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương. Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp sắp có hiệu lực vào 15/05/2024.
Trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
“Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp” bao gồm các hoạt động có sự tham gia hoặc được tài trợ bởi đối tác nước ngoài có toàn bộ hoặc một phần nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP và được thực hiện theo hình thức quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. Các cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, mỗi cơ quan có các nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, sau đây là toàn bộ nội dung về trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 1. Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Điều 10 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Chủ trì soạn thảo, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Cho ý kiến về nội dung hợp tác pháp luật và cải cách tư pháp đối với việc ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế (nội dung cho ý kiến theo quy định của Luật Điều ước quốc tế, Luật Thỏa thuận quốc tế), phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án (nội dung cho ý kiến về sự phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP), tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (cho ý kiến về nội dung dự thảo Đề án tổ chức hội nghị, hội thảo). - Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định pháp luật trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 2. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ Điều 12 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật. - Phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này. - Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định tại Điều 9 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế, làm việc tại các thiết chế pháp lý quốc tế thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý. - Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Bộ Công an: - Cho ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước khi ký điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp; đánh giá tác động và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan, tổ chức Việt Nam thực hiện đúng các quy định pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật và tuân thủ pháp luật trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác theo quy định tại Nghị định số 35/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Bộ Ngoại giao: - Cung cấp, chia sẻ thông tin về các đối tác quốc tế hoạt động trong lĩnh vực pháp luật quốc tế trong phạm vi phụ trách. - Tham gia ý kiến đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp về các nội dung: sự phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bộ Quốc phòng: Tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp trong trường hợp hoạt động hợp tác đó liên quan tới lĩnh vực quân sự, quốc phòng hoặc được triển khai thực hiện ở khu vực biên giới, cửa khẩu và các khu vực trọng điểm khác về quốc phòng. 3. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Điều 13 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương, có trách nhiệm: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, báo cáo việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật có liên quan. - Phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Tổng hợp, chia sẻ và khai thác, sử dụng thông tin hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên địa bàn cấp tỉnh. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế thuộc trách nhiệm của địa phương. Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương. Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp sắp có hiệu lực vào 15/05/2024.
Nguyên tắc, nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp là các hoạt động có sự tham gia hoặc được tài trợ bởi đối tác nước ngoài có toàn bộ hoặc một phần nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp. Và hiện nay quy định về Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp sẽ được thực hiện theo quy định tại Nghị định 26/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ 15/5/2024. Cụ thể: Cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác bao gồm: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội; Kiểm toán nhà nước; Văn phòng Chủ tịch nước; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước ở trung ương). - Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (các tổ chức), các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học - công nghệ (các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học) được thành lập theo quy định pháp luật có liên quan (sau đây gọi chung là các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học). - Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh). - Các đơn vị, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của các chủ thể chủ trì thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế nêu trên. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ theo Điều 3 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì việc hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp cần tuân thủ các nguyên tắc sau: - Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. - Không ký kết, thực hiện các hoạt động hợp tác phương hại đến lợi ích, an ninh quốc gia. - Chủ động lựa chọn và thúc đẩy những nội dung hợp tác mà Việt Nam có nhu cầu, phù hợp với thực tiễn, điều kiện của Việt Nam, chủ trương, định hướng của Đảng về đối ngoại, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quy định pháp luật có liên quan. - Bình đẳng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, thúc đẩy hợp tác với các đối tác có kinh nghiệm hợp tác tốt với Việt Nam, chú trọng tính bền vững của hoạt động hợp tác. - Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, thiết thực và đề cao trách nhiệm trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ theo Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP, hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp bao gồm những nội dung và hình thức sau: - Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp gồm toàn bộ hoặc một phần nội dung sau: + Tăng cường năng lực trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. + Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. + Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp luật. + Cải cách tư pháp. - Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp được thực hiện dưới các hình thức sau: + Ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế. + Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, phi dự án. + Tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế. Ngoài các nội dung và hình thức hợp tác pháp luật và cải cách tư pháp nêu trên thì có thể thực hiện theo quy định pháp luật khác có liên quan.
04 yêu cầu trong lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
Các điều kiện để lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tề về pháp luật và cải cách tư pháp hiện nay được quy định thể nào? Không can thiệp vào nội bộ của nhau có phải là nguyên tắc hợp tác quốc tế về pháp luật? 1.Các yêu cầu của đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ Điều 5 Nghị định 26/2024/NĐ-CP quy định lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp như sau: Cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác chủ động lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp đáp ứng các yêu cầu sau: 1. Sự cần thiết, mục đích hợp tác rõ ràng, lựa chọn nội dung hợp tác về những vấn đề cần tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác và các nguyên tắc hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. 2. Đối tác nước ngoài có năng lực, chuyên môn phù hợp về nội dung hợp tác. 3. Kết quả dự kiến của hoạt động hợp tác phù hợp với các nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp và phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức. 4. Phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền đề xuất giải pháp đảm bảo các yêu cầu về an ninh trật tự, đối ngoại trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động hợp tác. Theo đó việc lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp phải đáp ứng 04 các yêu cầu như trên. 2. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ Điều 3 Nghị định 26/2024/NĐ-CP nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp 1. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. 2. Không ký kết, thực hiện các hoạt động hợp tác phương hại đến lợi ích, an ninh quốc gia. 3. Chủ động lựa chọn và thúc đẩy những nội dung hợp tác mà Việt Nam có nhu cầu, phù hợp với thực tiễn, điều kiện của Việt Nam, chủ trương, định hướng của Đảng về đối ngoại, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quy định pháp luật có liên quan. 4. Bình đẳng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, thúc đẩy hợp tác với các đối tác có kinh nghiệm hợp tác tốt với Việt Nam, chú trọng tính bền vững của hoạt động hợp tác. 5. Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, thiết thực và đề cao trách nhiệm trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Theo đó, bình đẳng không can thiệp vào nội bộ của nhau là nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. 3. Chế độ báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ Điều 9 Nghị định 26/2024/NĐ-CP quy định chế độ báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp như sau: - Hằng năm, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan trung ương của tổ chức và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp thuộc phạm vi quản lý của cơ quan, tổ chức mình đến Bộ Tư pháp trước ngày 25 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. - Các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học có trách nhiệm báo cáo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước theo quy định pháp luật có liên quan về tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước ngày 15 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. - Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng hợp, xây dựng báo cáo tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng 01 năm kế tiếp. Theo đó việc báo cáo về tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp được thực hiện theo quy đinh trên.
Quy định chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp.
Ngày 01/03/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 26/2024/NĐ-CP quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Theo đó quy định chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp như sau: Chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp - Cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác có trách nhiệm chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo một trong các hình thức sau đây: + Đăng tải thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên cổng/trang thông tin điện tử (nếu có) của cơ quan, tổ chức mình. + In ấn, phát hành các ấn phẩm về kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Nội dung chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp: + Điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế có nội dung về hợp tác về pháp luật và cải cách tư pháp bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. + Văn kiện chương trình, dự án, phi dự án có nội dung hợp tác về pháp luật và cải cách tư pháp bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài (nếu có). + Nội dung hợp tác về pháp luật và cải cách tư pháp thuộc chương trình, dự án, phi dự án khi kết thúc chương trình, dự án, phi dự án; kết quả hội nghị, hội thảo quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp khi kết thúc hoạt động mà không thuộc chương trình, dự án, phi dự án. - Việc chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp bảo đảm phù hợp với các quy định pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các cam kết tại thỏa thuận quốc tế, văn kiện chương trình, dự án, phi dự án ký kết giữa các cơ quan, tổ chức Việt Nam và các nhà tài trợ, đối tác nước ngoài. - Bộ Tư pháp xây dựng, quản lý và cập nhật thông tin, kết quả hợp tác từ các báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp hằng năm của các cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 9 Nghị định này, thông tin được chia sẻ theo quy định tại khoản 1 Điều này vào cơ sở dữ liệu hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, chia sẻ trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp phù hợp với quy định pháp luật có liên quan. Chế độ báo cáo - Hằng năm, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan trung ương của tổ chức và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp thuộc phạm vi quản lý của cơ quan, tổ chức mình đến Bộ Tư pháp trước ngày 25 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. - Các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học có trách nhiệm báo cáo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước theo quy định pháp luật có liên quan về tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước ngày 15 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. - Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng hợp, xây dựng báo cáo tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng 01 năm kế tiếp. Nghị định 26/2024/NĐ-CP có hiệu lực ngày 15/05/2024.
Khi học luật ở Việt Nam, tôi vẫn được các giáo viên dạy: Ở các nước theo truyền thống common law thì án lệ là một nguồn của pháp luật, còn ở Việt Nam thì chúng ta không công nhận điều này. Khi tôi đi học luật tại một quốc gia common law, tôi có tranh luận vấn đề này với một vị giáo sư người Mỹ: “Tại sao Hoa Kỳ lại coi án lệ là một nguồn của pháp luật?” Ông ấy trả lời: “Thực ra chẳng có văn bản chính thức nào của nước Mỹ coi án lệ là nguồn của pháp luật, từ Hiến pháp cho đến tất cả các luật khác. Nhưng chúng tôi vẫn căn cứ vào án lệ để xét xử là bởi nguyên tắc stare decisis.” Nguyên tắc stare decisis thì dân luật chúng tôi ai cũng hiểu, đó là việc các vụ án giống nhau thì tòa phải phán xét giống nhau. Ví dụ, trong vụ việc trước, tòa án công nhận một hợp đồng viết qua email là có hiệu lực. Nếu sau này gặp một vụ việc khác tương tự như vậy, tòa án buộc phải coi hợp đồng viết qua email là có hiệu lực. Ông giáo sư nói: “Nguyên tắc này rất hiển nhiên”. Nếu hai vụ án giống nhau mà tòa án xét xử khác nhau thì tòa án trở nên tùy tiện, muốn xét xử thế nào cũng được. Hệ quả là, pháp luật trở nên hỗn loạn. Nếu tòa án muốn xét xử vụ việc sau khác đi, tòa sẽ phải làm một trong hai việc: (1) tòa phải chỉ ra và giải thích sự khác biệt căn bản của 2 vụ việc dẫn đến kết quả xét xử khác nhau; hoặc (2) đưa vụ việc lên tòa án cấp trên. Tòa án cấp dưới bị ràng buộc bởi các bản án trước đó của mình và của tòa cấp trên, trong khi tòa cấp trên chỉ bị ràng buộc bởi bản án của chính mình, chứ không bị ràng buộc bởi bản án của tòa cấp dưới. Riêng tòa án tối cao thì không bị ràng buộc. Về Việt Nam làm việc trong lĩnh vực pháp luật, tôi được nghe một vị thẩm phán tâm sự. Trong một vụ án, ông được Chánh án chỉ đạo là phải xét xử cho bên nguyên thắng kiện. Ông đã đồng tình và làm theo. Sau đó ít lâu, ông được phân công xét xử một vụ việc khác có nội dung hoàn toàn tương tự với vụ việc trước, nhưng lần này được Chánh án chỉ đạo là xử cho bên bị thắng kiện. Vị thẩm phán này thấy nếu làm như vậy thì mình là người tiền hậu bất nhất nên đã cáo ốm để khỏi phải nhận vụ việc này. Câu chuyện để lại cho tôi nhiều suy nghĩ, bởi số lượng thẩm phán hành xử một cách có liêm sỉ như vị thẩm phán trên rất ít. Chuyện các thẩm phán “tiền hậu bất nhất” diễn ra khá phổ biến. Trong một cuộc trò chuyện khác, tôi ngồi với một thẩm phán người Pháp, một đất nước theo truyền thống civil law. Tôi hỏi: “Ở Pháp không có nguyên tắc stare decisis cứng nhắc như ở Mỹ, vậy có khi nào thẩm phán xét xử vụ việc sau tương tự nhưng lại phán quyết khác vụ việc trước đó không?” Vị thẩm phán đó trả lời: “Ở Pháp, các vụ án trước đó chia thành 2 loại. Một số bản án được công nhận và tất cả các thẩm phán sau này buộc phải tuân theo. Còn các bản án khác thì không bắt buộc như vậy.” Vị thẩm phán đó nói tiếp: “Nhưng trên thực tế, dù không bắt buộc nhưng việc phán quyết khác đi là vô cùng hiếm. Bởi nếu làm như vậy, vị thẩm phán đó sẽ phải giải trình rất rõ lý do, nếu giải trình không thuyết phục thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ không được tiếp tục làm thẩm phán.” Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp, Luật Tổ chức tòa án 2014 đã khẳng định Việt Nam sẽ đi theo mô hình của Pháp. Tòa án tối cao sẽ lựa chọn một số bản án và biến nó trở thành tiền lệ bắt buộc áp dụng. Nhưng điều tôi lo lắng không phải ở số đó, mà chính là ở số còn lại. Nếu các bản án không được tập hợp và công khai trong một cơ sở dữ liệu chung, nếu thẩm phán không viết rõ lập luận của mình trong bản án, và nếu không có cơ chế chịu trách nhiệm khi thẩm phán “tiền hậu bất nhất” thì những câu chuyện như của vị thẩm phán còn liêm sỉ trên vẫn chỉ là chuyện hiếm gặp. Hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn sẽ hỗn loạn. Tác giả Nguyễn Minh Đức là một luật gia đang làm việc tại Ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại Hà Nội. Ông phụ trách công tác góp ý cho các dự thảo văn bản pháp luật mà các cơ quan soạn thảo tham vấn VCCI.
Ls Ngô Ngọc Trai kiến nghị về cải cách tư pháp
Kính gửi anh chị em dân luật! Khi bào chữa trong các vụ án hình sự tôi thấy một vấn đề vô lý là khi luật sư phát hiện ra được kẻ hở của hồ sơ từ đó có được luận điểm bào chữa bị cáo không phạm tội thì tòa thay vì tuyên bị cáo vô tội lại dựa vào đó để trả hồ điều tra bổ sung củng cố chứng cứ kết tội hoặc tuyên hủy án điều tra lại. Từ vấn đề trên tôi có kiến nghị về cải cách tư pháp theo đó đề xuất sửa luật rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng và đề nghị khai triển rõ nguyên tắc suy đoán vô tội vào luật tố tụng hình sự. Đề nghị anh chị em dân luật cùng bàn thảo rộng rãi từ đó góp phần thúc đẩy đổi mới các hoạt động tư pháp, xây dựng nền tư pháp Việt Nam được trở nên công minh tiến bộ. Ls Ngô Ngọc Trai CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------o0o-------- Nam Định, ngày 8 tháng 7 năm 2013 ĐƠN KIẾN NGHỊ (Về cải cách tư pháp: Sửa đổi luật rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng) Kính gửi: - BAN CHỈ ĐẠO CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRUNG ƯƠNG - BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG - CÁC CƠ QUAN TRUYỀN THÔNG BÁO CHÍ - CÁC LUẬT SƯ VIỆT NAM I/ NGƯỜI KIẾN NGHỊ Tôi là: Ngô Ngọc Trai Trưởng Văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Nam Định II/ CĂN CỨ PHÁP LÝ THỰC HIỆN VIỆC KIẾN NGHỊ Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: Điều 53. Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 93 quy định: Cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật. III/ NỘI DUNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ Điều tra, truy tố và xét xử là các giai đoạn trong tố tụng hình sự được quy định rõ thời hạn để hết thời gian đó thì phải chấm dứt, nhằm mục đích không cho việc xử lý tội phạm biến tướng thành công cụ đàn áp khủng bố tinh thần, xâm phạm quyền lợi nhân dân. Nhưng thực tế lâu nay nhiều vụ án thời gian giải quyết kéo dài gây lãng phí thời gian công sức của nhiều cơ quan tổ chức cá nhân, gây khốn khổ cho bị can bị cáo và làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của việc điều tra xử lý tội phạm. Dưới đây là vài ví dụ: Vụ án Hoa hậu nam Mê kong bị bắt quả tang và khởi tố về hành vi môi giới mại dâm từ tháng 6/2012 nhưng một năm sau đến tháng 6/2013 mới xét xử sơ thẩm, trong khi đó án phạt là 30 tháng tù thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo luật định thời hạn điều tra chỉ 02 tháng. Vụ án Đoàn Văn Vươn khởi tố tháng 1/2012 nhưng tháng 4/2013 mới xét xử sơ thẩm trong khi sự việc xảy ra cơ bản khá rõ ràng. Vụ án kéo dài chẳng đem lại ích lợi gì chỉ khiến người bị giam hãm chịu khổ sở thay vì nhanh chóng được ra ngoài lao động cải tạo. Vụ án Hàn Đức Long bị TAND tỉnh Bắc Giang tuyên tử hình về tội giết người và hiếp dâm trẻ em kéo dài từ năm 2005 đến 2012, hiện bị cáo đang chờ tiêm thuốc độc. Đây là vụ án oan sai đặc biệt nghiêm trọng mà thời gian kéo dài đã đọa đày cuộc sống của rất nhiều gia đình. Trong vụ án này hoạt động điều tra kéo dài nhưng chất lượng điều tra lại thấp, mức độ tin cậy của bằng chứng thu thập thêm có thể nói là con số không. Thương binh Quản Đắc Họp ở Hoài Đức, Hà Nội bị khởi tố từ năm 2003 về hành vi cố ý gây thương tích, chứng cứ kết tội yếu nhưng tòa án không chịu tuyên vô tội nên đến nay hơn 10 năm điều tra truy tố mãi mà vẫn không xét xử, gây khốn khổ cho bị cáo. Có thể dẫn ra rất nhiều vụ án mà thời gian tiến hành tố tụng kéo dài, nguyên nhân có thể do án lớn khó và phức tạp nhưng chủ yếu nhất là do lề thói thiếu chuyên tâm trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng và do quy định không hợp lý của luật. Những hệ quả dẫn đến Nếu coi việc xử lý tội phạm như công việc của bác sỹ chữa lành vết thương cho xã hội thì việc kéo dài thời gian tố tụng sẽ kéo dài nỗi đau cho nạn nhân. Việc xử lý tội phạm mất đi ý nghĩa hàn gắn vết thương, xoa dịu nỗi đau cho xã hội. Nếu coi việc xử lý tội phạm là giữ gìn sự bình yên cho nhân dân thì việc kéo dài nó lại gây hại cho sự bình yên của nhân dân, bởi vì kéo dài thời gian xử lý tội phạm là kéo dài môi trường dung dưỡng cho bạo lực. Khi tội phạm xảy ra, tâm lý của bị hại đòi hỏi sự trừng phạt, tâm lý của công luận đòi hỏi thực thi công lý. Khi thời gian chờ đợi kéo dài, những tiếng kêu gào công lý sẽ biến thành tiếng kêu than trả thù tạo nguy cơ gây bất ổn xã hội. Kéo dài thời gian tố tụng bất luận vì lý do gì đều cho thấy sự yếu kém của cơ quan tiến hành tố tụng và gây ra nhiều tổn hại cho xã hội. Đầu tiên đó là sự lãng phí về thời gian công vụ của chính những cán bộ tư pháp và của những người liên quan. Sau đó là gây mất niềm tin vào sự đứng đắn nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy cần đặt ra vấn đề cần phải rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội Một thực tế lâu nay khi tòa án thụ lý vụ án mà chứng cứ kết tội yếu, thay vì mở phiên tòa để tuyên vô tội, tòa lại trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung củng cố chứng cứ kết tội. Như thế đồng nghĩa với việc mở phiên tòa chỉ là làm nốt phần việc kết tội, diễn biến phiên tòa chỉ còn hình thức vì phán quyết đã được định trước. Điều này đi ngược lại nguyên lý suy diễn vô tội trong xét xử của luật pháp văn minh. Sau một thời gian điều tra, nếu những người có chuyên môn áp dụng mọi biện pháp kỹ thuật mà vẫn không tìm ra được chứng cứ thuyết phục chứng minh một người phạm tội thì rất có thể và cần nhận định là người đó không phạm tội. Khi đó việc điều tra phải chấm dứt khôi phục lại mọi quyền tự do cho người bị bắt. Thật là sai lầm khi cho rằng cần điều tra cho tới khi nào tìm ra được bằng chứng phạm tội thì thôi, như thế là luật pháp coi trọng việc trả thù tội phạm mà không coi trọng bảo vệ các quyền công dân. Việc tòa trả hồ sơ yêu cầu củng cố chứng cứ kết tội cũng không phù hợp với tinh thần xét xử theo tranh tụng, hai bên buộc tội gỡ tội tranh luận với nhau còn tòa án đứng giữa phán quyết. Tranh tụng làm sao được khi chính tòa đã đứng về phía buộc tội giúp họ hoàn thiện làm kín kẽ hồ sơ kết tội? Cho phép tòa trả hồ sơ chính là nguyên nhân kéo dài thời gian giải quyết án và dung dưỡng cho thói cẩu thả thiếu trách nhiệm trong hoạt động điều tra truy tố. Luật sư bào chữa luôn muốn vụ án kết thúc sớm để thân chủ cảm nhận được tính hiệu quả trong hoạt động của luật sư cũng như tránh lãng phí thời gian công sức, và khi luật sư bào chữa chỉ ra rằng hồ sơ không đủ căn cứ để kết tội thì tòa phải tuyên vô tội chứ không thể trả hồ sơ hay hủy án yêu cầu điều tra lại (như thế là kết tội cho bằng được chứ không hề suy đoán vô tội). IV/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1. Đề nghị Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương bổ sung nội dung hoạt động, rà soát các quy định về thời hạn tố tụng và khai triển nguyên tắc suy đoán vô tội vào hoạt động xét xử. Từ đó đề xuất với Quốc hội sửa luật rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng xuống còn một nửa so với hiện nay, bãi bỏ quy định cho phép tòa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung hay hủy án điều tra lại. 2. Được biết thẩm quyền của Ban nội chính trung ương là: Nghiên cứu, đề xuất những quan điểm, định hướng lớn của Đảng về công tác xây dựng pháp luật, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nội chính (được xác định gồm viện kiểm sát, tòa án, tư pháp và các cơ quan có chức năng tư pháp trong công an, quân đội). Do vậy đề nghị Ban nội chính Trung ương quan tâm đến vấn đề thời gian trong hoạt động tố tụng cả hình sự và dân sự, được như thế sẽ tạo chuyển biến lớn cho nền tư pháp nước nhà. 3. Đề nghị các cơ quan báo chí theo dõi phản ánh những vụ án kéo dài, đây là vấn đề tiêu cực cần đấu tranh phản ánh để thúc đẩy các cơ quan tư pháp nâng cao trách nhiệm sửa đổi, góp phần xây dựng nền tư pháp Việt Nam trở lên công minh tiến bộ. 4. Đề nghị các luật sư quan tâm tới chương trình cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước, bàn luận và góp ý trên tinh thần xây dựng đối với các vấn đề luật pháp còn chưa hoàn thiện, góp phần xây dựng nền tư pháp Việt Nam trở lên công minh tiến bộ. Trên đây là mấy nội dung kiến nghị, rất mong được quan tâm. Xin trân trọng cảm ơn! Thông tin xin liên hệ: Văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự, địa chỉ: 106/1 Lương Thế Vinh, phường Trần Đăng Ninh, TP Nam Định. Email: lsngoctrai@gmail.com Website: www.ngongoctrai.com Người kiến nghị Đã ký Luật sư Ngô Ngọc Trai
Re: Luật Sư Ở Mỹ Tha Hồ “Vặn Vẹo” Nhân Chứng?
Cảm ơn Luật sư Thực ra tất cả vấn đề ở đây là vấn đề về cải cách tư pháp. Như TS, Luật sư Phan Trung Hoài có nói trong phiên họp đầu tiên của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2011-2016 có nói là Cần phải "Nâng cao hơn vị thế của luật sư " "Điều mong mỏi của chúng tôi khi bước sang năm 2012 là làm thế nào xây dựng, hình thành được cơ chế và môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển nghề luật sư như một nghề độc lập, tác động tích cực đến sự phát triển của đất nước, thực hiện được chức năng xã hội là góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. " Tại Phiên họp với khá nhiều ý kiến rất hay về cái gọi là "Kỳ Vọng về Cải cách tư pháp" Xin lưu ý: gọi là "Kỳ vọng" - chứ không phải "Hy vọng" : kỳ vọng là hy vọng vào 1 sự kỳ diệu nào đó - mà điều diệu kỳ thì gần như chẳng thể xảy ra..... Mọi người có thể xem cụ thể các ý kiến về kỳ vọng đó trong bài: "Kỳ vọng về Cải cách tư pháp" tại website: http://www.chuyengiaphapluat.com Chúc mọi điều tốt lành!
Trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
“Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp” bao gồm các hoạt động có sự tham gia hoặc được tài trợ bởi đối tác nước ngoài có toàn bộ hoặc một phần nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP và được thực hiện theo hình thức quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. Các cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, mỗi cơ quan có các nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, sau đây là toàn bộ nội dung về trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 1. Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Điều 10 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Chủ trì soạn thảo, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Cho ý kiến về nội dung hợp tác pháp luật và cải cách tư pháp đối với việc ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế (nội dung cho ý kiến theo quy định của Luật Điều ước quốc tế, Luật Thỏa thuận quốc tế), phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án (nội dung cho ý kiến về sự phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP), tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (cho ý kiến về nội dung dự thảo Đề án tổ chức hội nghị, hội thảo). - Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định pháp luật trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 2. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ Điều 12 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật. - Phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này. - Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định tại Điều 9 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế, làm việc tại các thiết chế pháp lý quốc tế thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý. - Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Bộ Công an: - Cho ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước khi ký điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp; đánh giá tác động và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan, tổ chức Việt Nam thực hiện đúng các quy định pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật và tuân thủ pháp luật trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác theo quy định tại Nghị định số 35/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Bộ Ngoại giao: - Cung cấp, chia sẻ thông tin về các đối tác quốc tế hoạt động trong lĩnh vực pháp luật quốc tế trong phạm vi phụ trách. - Tham gia ý kiến đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp về các nội dung: sự phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bộ Quốc phòng: Tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp trong trường hợp hoạt động hợp tác đó liên quan tới lĩnh vực quân sự, quốc phòng hoặc được triển khai thực hiện ở khu vực biên giới, cửa khẩu và các khu vực trọng điểm khác về quốc phòng. 3. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Điều 13 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương, có trách nhiệm: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, báo cáo việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật có liên quan. - Phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Tổng hợp, chia sẻ và khai thác, sử dụng thông tin hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên địa bàn cấp tỉnh. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế thuộc trách nhiệm của địa phương. Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương. Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp sắp có hiệu lực vào 15/05/2024.
Trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
“Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp” bao gồm các hoạt động có sự tham gia hoặc được tài trợ bởi đối tác nước ngoài có toàn bộ hoặc một phần nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP và được thực hiện theo hình thức quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. Các cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, mỗi cơ quan có các nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, sau đây là toàn bộ nội dung về trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 1. Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Điều 10 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Chủ trì soạn thảo, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Cho ý kiến về nội dung hợp tác pháp luật và cải cách tư pháp đối với việc ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế (nội dung cho ý kiến theo quy định của Luật Điều ước quốc tế, Luật Thỏa thuận quốc tế), phê duyệt chương trình, dự án, phi dự án (nội dung cho ý kiến về sự phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 3 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP), tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế (cho ý kiến về nội dung dự thảo Đề án tổ chức hội nghị, hội thảo). - Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định pháp luật trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hằng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị định 26/2024/NĐ-CP. 2. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ Điều 12 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật. - Phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này. - Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định tại Điều 9 của Nghị định 26/2024/NĐ-CP và các quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế, làm việc tại các thiết chế pháp lý quốc tế thuộc phạm vi lĩnh vực quản lý. - Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Bộ Công an: - Cho ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước khi ký điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp; đánh giá tác động và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội đối với hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan, tổ chức Việt Nam thực hiện đúng các quy định pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật và tuân thủ pháp luật trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác theo quy định tại Nghị định số 35/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về biện pháp pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Bộ Ngoại giao: - Cung cấp, chia sẻ thông tin về các đối tác quốc tế hoạt động trong lĩnh vực pháp luật quốc tế trong phạm vi phụ trách. - Tham gia ý kiến đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại, khoản viện trợ không hoàn lại không thuộc ODA, hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp về các nội dung: sự phù hợp với đường lối đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bộ Quốc phòng: Tham gia ý kiến về các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng đối với việc ký kết thỏa thuận quốc tế, phê duyệt các chương trình, dự án, phi dự án, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp trong trường hợp hoạt động hợp tác đó liên quan tới lĩnh vực quân sự, quốc phòng hoặc được triển khai thực hiện ở khu vực biên giới, cửa khẩu và các khu vực trọng điểm khác về quốc phòng. 3. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Điều 13 Nghị định 26/2024/NĐ-CP Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương, có trách nhiệm: - Đảm bảo hiệu quả và tiến độ thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp do mình trực tiếp quản lý và thực hiện. - Quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, báo cáo việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực thuộc theo quy định pháp luật có liên quan. - Phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, kiểm tra, thanh tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp của các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của pháp luật về hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học và quy định pháp luật có liên quan. - Tham gia ý kiến đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo quy định. - Tổng hợp, chia sẻ và khai thác, sử dụng thông tin hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên địa bàn cấp tỉnh. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia pháp luật đủ năng lực để tham gia xử lý các vấn đề pháp lý quốc tế thuộc trách nhiệm của địa phương. Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp tại địa phương. Trên đây là toàn bộ nội dung liên quan đến trách nhiệm trong quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp sắp có hiệu lực vào 15/05/2024.
Nguyên tắc, nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp là các hoạt động có sự tham gia hoặc được tài trợ bởi đối tác nước ngoài có toàn bộ hoặc một phần nội dung về pháp luật và cải cách tư pháp. Và hiện nay quy định về Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp sẽ được thực hiện theo quy định tại Nghị định 26/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ 15/5/2024. Cụ thể: Cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác bao gồm: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội; Kiểm toán nhà nước; Văn phòng Chủ tịch nước; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước ở trung ương). - Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (các tổ chức), các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức khoa học - công nghệ (các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học) được thành lập theo quy định pháp luật có liên quan (sau đây gọi chung là các tổ chức, các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học). - Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh). - Các đơn vị, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của các chủ thể chủ trì thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế nêu trên. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ theo Điều 3 Nghị định 26/2024/NĐ-CP thì việc hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp cần tuân thủ các nguyên tắc sau: - Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. - Không ký kết, thực hiện các hoạt động hợp tác phương hại đến lợi ích, an ninh quốc gia. - Chủ động lựa chọn và thúc đẩy những nội dung hợp tác mà Việt Nam có nhu cầu, phù hợp với thực tiễn, điều kiện của Việt Nam, chủ trương, định hướng của Đảng về đối ngoại, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quy định pháp luật có liên quan. - Bình đẳng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, thúc đẩy hợp tác với các đối tác có kinh nghiệm hợp tác tốt với Việt Nam, chú trọng tính bền vững của hoạt động hợp tác. - Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, thiết thực và đề cao trách nhiệm trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ theo Điều 4 Nghị định 26/2024/NĐ-CP, hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp bao gồm những nội dung và hình thức sau: - Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp gồm toàn bộ hoặc một phần nội dung sau: + Tăng cường năng lực trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. + Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. + Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực pháp luật. + Cải cách tư pháp. - Hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp được thực hiện dưới các hình thức sau: + Ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế. + Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, phi dự án. + Tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế. Ngoài các nội dung và hình thức hợp tác pháp luật và cải cách tư pháp nêu trên thì có thể thực hiện theo quy định pháp luật khác có liên quan.
04 yêu cầu trong lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp
Các điều kiện để lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tề về pháp luật và cải cách tư pháp hiện nay được quy định thể nào? Không can thiệp vào nội bộ của nhau có phải là nguyên tắc hợp tác quốc tế về pháp luật? 1.Các yêu cầu của đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ Điều 5 Nghị định 26/2024/NĐ-CP quy định lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp như sau: Cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác chủ động lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp đáp ứng các yêu cầu sau: 1. Sự cần thiết, mục đích hợp tác rõ ràng, lựa chọn nội dung hợp tác về những vấn đề cần tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác và các nguyên tắc hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. 2. Đối tác nước ngoài có năng lực, chuyên môn phù hợp về nội dung hợp tác. 3. Kết quả dự kiến của hoạt động hợp tác phù hợp với các nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp và phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức. 4. Phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền đề xuất giải pháp đảm bảo các yêu cầu về an ninh trật tự, đối ngoại trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động hợp tác. Theo đó việc lựa chọn đề xuất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp phải đáp ứng 04 các yêu cầu như trên. 2. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ Điều 3 Nghị định 26/2024/NĐ-CP nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp 1. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. 2. Không ký kết, thực hiện các hoạt động hợp tác phương hại đến lợi ích, an ninh quốc gia. 3. Chủ động lựa chọn và thúc đẩy những nội dung hợp tác mà Việt Nam có nhu cầu, phù hợp với thực tiễn, điều kiện của Việt Nam, chủ trương, định hướng của Đảng về đối ngoại, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quy định pháp luật có liên quan. 4. Bình đẳng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, thúc đẩy hợp tác với các đối tác có kinh nghiệm hợp tác tốt với Việt Nam, chú trọng tính bền vững của hoạt động hợp tác. 5. Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, thiết thực và đề cao trách nhiệm trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Theo đó, bình đẳng không can thiệp vào nội bộ của nhau là nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. 3. Chế độ báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp Căn cứ Điều 9 Nghị định 26/2024/NĐ-CP quy định chế độ báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp như sau: - Hằng năm, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan trung ương của tổ chức và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp thuộc phạm vi quản lý của cơ quan, tổ chức mình đến Bộ Tư pháp trước ngày 25 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. - Các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học có trách nhiệm báo cáo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước theo quy định pháp luật có liên quan về tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước ngày 15 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định 26/2024/NĐ-CP. - Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng hợp, xây dựng báo cáo tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng 01 năm kế tiếp. Theo đó việc báo cáo về tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp được thực hiện theo quy đinh trên.
Quy định chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp.
Ngày 01/03/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 26/2024/NĐ-CP quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. Theo đó quy định chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp như sau: Chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp - Cơ quan, tổ chức thực hiện hợp tác có trách nhiệm chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp theo một trong các hình thức sau đây: + Đăng tải thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trên cổng/trang thông tin điện tử (nếu có) của cơ quan, tổ chức mình. + In ấn, phát hành các ấn phẩm về kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp. - Nội dung chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp: + Điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế có nội dung về hợp tác về pháp luật và cải cách tư pháp bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. + Văn kiện chương trình, dự án, phi dự án có nội dung hợp tác về pháp luật và cải cách tư pháp bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài (nếu có). + Nội dung hợp tác về pháp luật và cải cách tư pháp thuộc chương trình, dự án, phi dự án khi kết thúc chương trình, dự án, phi dự án; kết quả hội nghị, hội thảo quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp khi kết thúc hoạt động mà không thuộc chương trình, dự án, phi dự án. - Việc chia sẻ thông tin, kết quả hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp bảo đảm phù hợp với các quy định pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các cam kết tại thỏa thuận quốc tế, văn kiện chương trình, dự án, phi dự án ký kết giữa các cơ quan, tổ chức Việt Nam và các nhà tài trợ, đối tác nước ngoài. - Bộ Tư pháp xây dựng, quản lý và cập nhật thông tin, kết quả hợp tác từ các báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp hằng năm của các cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 9 Nghị định này, thông tin được chia sẻ theo quy định tại khoản 1 Điều này vào cơ sở dữ liệu hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp, chia sẻ trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp phù hợp với quy định pháp luật có liên quan. Chế độ báo cáo - Hằng năm, cơ quan nhà nước ở trung ương, cơ quan trung ương của tổ chức và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi báo cáo tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp thuộc phạm vi quản lý của cơ quan, tổ chức mình đến Bộ Tư pháp trước ngày 25 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. - Các hội, quỹ xã hội, tổ chức khoa học có trách nhiệm báo cáo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý nhà nước theo quy định pháp luật có liên quan về tình hình thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trước ngày 15 tháng 12 của năm báo cáo. Nội dung báo cáo theo mẫu tại Phụ lục kèm theo Nghị định này. - Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng hợp, xây dựng báo cáo tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật và cải cách tư pháp trong phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng 01 năm kế tiếp. Nghị định 26/2024/NĐ-CP có hiệu lực ngày 15/05/2024.
Khi học luật ở Việt Nam, tôi vẫn được các giáo viên dạy: Ở các nước theo truyền thống common law thì án lệ là một nguồn của pháp luật, còn ở Việt Nam thì chúng ta không công nhận điều này. Khi tôi đi học luật tại một quốc gia common law, tôi có tranh luận vấn đề này với một vị giáo sư người Mỹ: “Tại sao Hoa Kỳ lại coi án lệ là một nguồn của pháp luật?” Ông ấy trả lời: “Thực ra chẳng có văn bản chính thức nào của nước Mỹ coi án lệ là nguồn của pháp luật, từ Hiến pháp cho đến tất cả các luật khác. Nhưng chúng tôi vẫn căn cứ vào án lệ để xét xử là bởi nguyên tắc stare decisis.” Nguyên tắc stare decisis thì dân luật chúng tôi ai cũng hiểu, đó là việc các vụ án giống nhau thì tòa phải phán xét giống nhau. Ví dụ, trong vụ việc trước, tòa án công nhận một hợp đồng viết qua email là có hiệu lực. Nếu sau này gặp một vụ việc khác tương tự như vậy, tòa án buộc phải coi hợp đồng viết qua email là có hiệu lực. Ông giáo sư nói: “Nguyên tắc này rất hiển nhiên”. Nếu hai vụ án giống nhau mà tòa án xét xử khác nhau thì tòa án trở nên tùy tiện, muốn xét xử thế nào cũng được. Hệ quả là, pháp luật trở nên hỗn loạn. Nếu tòa án muốn xét xử vụ việc sau khác đi, tòa sẽ phải làm một trong hai việc: (1) tòa phải chỉ ra và giải thích sự khác biệt căn bản của 2 vụ việc dẫn đến kết quả xét xử khác nhau; hoặc (2) đưa vụ việc lên tòa án cấp trên. Tòa án cấp dưới bị ràng buộc bởi các bản án trước đó của mình và của tòa cấp trên, trong khi tòa cấp trên chỉ bị ràng buộc bởi bản án của chính mình, chứ không bị ràng buộc bởi bản án của tòa cấp dưới. Riêng tòa án tối cao thì không bị ràng buộc. Về Việt Nam làm việc trong lĩnh vực pháp luật, tôi được nghe một vị thẩm phán tâm sự. Trong một vụ án, ông được Chánh án chỉ đạo là phải xét xử cho bên nguyên thắng kiện. Ông đã đồng tình và làm theo. Sau đó ít lâu, ông được phân công xét xử một vụ việc khác có nội dung hoàn toàn tương tự với vụ việc trước, nhưng lần này được Chánh án chỉ đạo là xử cho bên bị thắng kiện. Vị thẩm phán này thấy nếu làm như vậy thì mình là người tiền hậu bất nhất nên đã cáo ốm để khỏi phải nhận vụ việc này. Câu chuyện để lại cho tôi nhiều suy nghĩ, bởi số lượng thẩm phán hành xử một cách có liêm sỉ như vị thẩm phán trên rất ít. Chuyện các thẩm phán “tiền hậu bất nhất” diễn ra khá phổ biến. Trong một cuộc trò chuyện khác, tôi ngồi với một thẩm phán người Pháp, một đất nước theo truyền thống civil law. Tôi hỏi: “Ở Pháp không có nguyên tắc stare decisis cứng nhắc như ở Mỹ, vậy có khi nào thẩm phán xét xử vụ việc sau tương tự nhưng lại phán quyết khác vụ việc trước đó không?” Vị thẩm phán đó trả lời: “Ở Pháp, các vụ án trước đó chia thành 2 loại. Một số bản án được công nhận và tất cả các thẩm phán sau này buộc phải tuân theo. Còn các bản án khác thì không bắt buộc như vậy.” Vị thẩm phán đó nói tiếp: “Nhưng trên thực tế, dù không bắt buộc nhưng việc phán quyết khác đi là vô cùng hiếm. Bởi nếu làm như vậy, vị thẩm phán đó sẽ phải giải trình rất rõ lý do, nếu giải trình không thuyết phục thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ không được tiếp tục làm thẩm phán.” Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp, Luật Tổ chức tòa án 2014 đã khẳng định Việt Nam sẽ đi theo mô hình của Pháp. Tòa án tối cao sẽ lựa chọn một số bản án và biến nó trở thành tiền lệ bắt buộc áp dụng. Nhưng điều tôi lo lắng không phải ở số đó, mà chính là ở số còn lại. Nếu các bản án không được tập hợp và công khai trong một cơ sở dữ liệu chung, nếu thẩm phán không viết rõ lập luận của mình trong bản án, và nếu không có cơ chế chịu trách nhiệm khi thẩm phán “tiền hậu bất nhất” thì những câu chuyện như của vị thẩm phán còn liêm sỉ trên vẫn chỉ là chuyện hiếm gặp. Hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn sẽ hỗn loạn. Tác giả Nguyễn Minh Đức là một luật gia đang làm việc tại Ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại Hà Nội. Ông phụ trách công tác góp ý cho các dự thảo văn bản pháp luật mà các cơ quan soạn thảo tham vấn VCCI.
Ls Ngô Ngọc Trai kiến nghị về cải cách tư pháp
Kính gửi anh chị em dân luật! Khi bào chữa trong các vụ án hình sự tôi thấy một vấn đề vô lý là khi luật sư phát hiện ra được kẻ hở của hồ sơ từ đó có được luận điểm bào chữa bị cáo không phạm tội thì tòa thay vì tuyên bị cáo vô tội lại dựa vào đó để trả hồ điều tra bổ sung củng cố chứng cứ kết tội hoặc tuyên hủy án điều tra lại. Từ vấn đề trên tôi có kiến nghị về cải cách tư pháp theo đó đề xuất sửa luật rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng và đề nghị khai triển rõ nguyên tắc suy đoán vô tội vào luật tố tụng hình sự. Đề nghị anh chị em dân luật cùng bàn thảo rộng rãi từ đó góp phần thúc đẩy đổi mới các hoạt động tư pháp, xây dựng nền tư pháp Việt Nam được trở nên công minh tiến bộ. Ls Ngô Ngọc Trai CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------o0o-------- Nam Định, ngày 8 tháng 7 năm 2013 ĐƠN KIẾN NGHỊ (Về cải cách tư pháp: Sửa đổi luật rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng) Kính gửi: - BAN CHỈ ĐẠO CẢI CÁCH TƯ PHÁP TRUNG ƯƠNG - BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG - CÁC CƠ QUAN TRUYỀN THÔNG BÁO CHÍ - CÁC LUẬT SƯ VIỆT NAM I/ NGƯỜI KIẾN NGHỊ Tôi là: Ngô Ngọc Trai Trưởng Văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Nam Định II/ CĂN CỨ PHÁP LÝ THỰC HIỆN VIỆC KIẾN NGHỊ Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: Điều 53. Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 93 quy định: Cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật. III/ NỘI DUNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ Điều tra, truy tố và xét xử là các giai đoạn trong tố tụng hình sự được quy định rõ thời hạn để hết thời gian đó thì phải chấm dứt, nhằm mục đích không cho việc xử lý tội phạm biến tướng thành công cụ đàn áp khủng bố tinh thần, xâm phạm quyền lợi nhân dân. Nhưng thực tế lâu nay nhiều vụ án thời gian giải quyết kéo dài gây lãng phí thời gian công sức của nhiều cơ quan tổ chức cá nhân, gây khốn khổ cho bị can bị cáo và làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của việc điều tra xử lý tội phạm. Dưới đây là vài ví dụ: Vụ án Hoa hậu nam Mê kong bị bắt quả tang và khởi tố về hành vi môi giới mại dâm từ tháng 6/2012 nhưng một năm sau đến tháng 6/2013 mới xét xử sơ thẩm, trong khi đó án phạt là 30 tháng tù thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo luật định thời hạn điều tra chỉ 02 tháng. Vụ án Đoàn Văn Vươn khởi tố tháng 1/2012 nhưng tháng 4/2013 mới xét xử sơ thẩm trong khi sự việc xảy ra cơ bản khá rõ ràng. Vụ án kéo dài chẳng đem lại ích lợi gì chỉ khiến người bị giam hãm chịu khổ sở thay vì nhanh chóng được ra ngoài lao động cải tạo. Vụ án Hàn Đức Long bị TAND tỉnh Bắc Giang tuyên tử hình về tội giết người và hiếp dâm trẻ em kéo dài từ năm 2005 đến 2012, hiện bị cáo đang chờ tiêm thuốc độc. Đây là vụ án oan sai đặc biệt nghiêm trọng mà thời gian kéo dài đã đọa đày cuộc sống của rất nhiều gia đình. Trong vụ án này hoạt động điều tra kéo dài nhưng chất lượng điều tra lại thấp, mức độ tin cậy của bằng chứng thu thập thêm có thể nói là con số không. Thương binh Quản Đắc Họp ở Hoài Đức, Hà Nội bị khởi tố từ năm 2003 về hành vi cố ý gây thương tích, chứng cứ kết tội yếu nhưng tòa án không chịu tuyên vô tội nên đến nay hơn 10 năm điều tra truy tố mãi mà vẫn không xét xử, gây khốn khổ cho bị cáo. Có thể dẫn ra rất nhiều vụ án mà thời gian tiến hành tố tụng kéo dài, nguyên nhân có thể do án lớn khó và phức tạp nhưng chủ yếu nhất là do lề thói thiếu chuyên tâm trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng và do quy định không hợp lý của luật. Những hệ quả dẫn đến Nếu coi việc xử lý tội phạm như công việc của bác sỹ chữa lành vết thương cho xã hội thì việc kéo dài thời gian tố tụng sẽ kéo dài nỗi đau cho nạn nhân. Việc xử lý tội phạm mất đi ý nghĩa hàn gắn vết thương, xoa dịu nỗi đau cho xã hội. Nếu coi việc xử lý tội phạm là giữ gìn sự bình yên cho nhân dân thì việc kéo dài nó lại gây hại cho sự bình yên của nhân dân, bởi vì kéo dài thời gian xử lý tội phạm là kéo dài môi trường dung dưỡng cho bạo lực. Khi tội phạm xảy ra, tâm lý của bị hại đòi hỏi sự trừng phạt, tâm lý của công luận đòi hỏi thực thi công lý. Khi thời gian chờ đợi kéo dài, những tiếng kêu gào công lý sẽ biến thành tiếng kêu than trả thù tạo nguy cơ gây bất ổn xã hội. Kéo dài thời gian tố tụng bất luận vì lý do gì đều cho thấy sự yếu kém của cơ quan tiến hành tố tụng và gây ra nhiều tổn hại cho xã hội. Đầu tiên đó là sự lãng phí về thời gian công vụ của chính những cán bộ tư pháp và của những người liên quan. Sau đó là gây mất niềm tin vào sự đứng đắn nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy cần đặt ra vấn đề cần phải rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội Một thực tế lâu nay khi tòa án thụ lý vụ án mà chứng cứ kết tội yếu, thay vì mở phiên tòa để tuyên vô tội, tòa lại trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung củng cố chứng cứ kết tội. Như thế đồng nghĩa với việc mở phiên tòa chỉ là làm nốt phần việc kết tội, diễn biến phiên tòa chỉ còn hình thức vì phán quyết đã được định trước. Điều này đi ngược lại nguyên lý suy diễn vô tội trong xét xử của luật pháp văn minh. Sau một thời gian điều tra, nếu những người có chuyên môn áp dụng mọi biện pháp kỹ thuật mà vẫn không tìm ra được chứng cứ thuyết phục chứng minh một người phạm tội thì rất có thể và cần nhận định là người đó không phạm tội. Khi đó việc điều tra phải chấm dứt khôi phục lại mọi quyền tự do cho người bị bắt. Thật là sai lầm khi cho rằng cần điều tra cho tới khi nào tìm ra được bằng chứng phạm tội thì thôi, như thế là luật pháp coi trọng việc trả thù tội phạm mà không coi trọng bảo vệ các quyền công dân. Việc tòa trả hồ sơ yêu cầu củng cố chứng cứ kết tội cũng không phù hợp với tinh thần xét xử theo tranh tụng, hai bên buộc tội gỡ tội tranh luận với nhau còn tòa án đứng giữa phán quyết. Tranh tụng làm sao được khi chính tòa đã đứng về phía buộc tội giúp họ hoàn thiện làm kín kẽ hồ sơ kết tội? Cho phép tòa trả hồ sơ chính là nguyên nhân kéo dài thời gian giải quyết án và dung dưỡng cho thói cẩu thả thiếu trách nhiệm trong hoạt động điều tra truy tố. Luật sư bào chữa luôn muốn vụ án kết thúc sớm để thân chủ cảm nhận được tính hiệu quả trong hoạt động của luật sư cũng như tránh lãng phí thời gian công sức, và khi luật sư bào chữa chỉ ra rằng hồ sơ không đủ căn cứ để kết tội thì tòa phải tuyên vô tội chứ không thể trả hồ sơ hay hủy án yêu cầu điều tra lại (như thế là kết tội cho bằng được chứ không hề suy đoán vô tội). IV/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1. Đề nghị Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương bổ sung nội dung hoạt động, rà soát các quy định về thời hạn tố tụng và khai triển nguyên tắc suy đoán vô tội vào hoạt động xét xử. Từ đó đề xuất với Quốc hội sửa luật rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng xuống còn một nửa so với hiện nay, bãi bỏ quy định cho phép tòa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung hay hủy án điều tra lại. 2. Được biết thẩm quyền của Ban nội chính trung ương là: Nghiên cứu, đề xuất những quan điểm, định hướng lớn của Đảng về công tác xây dựng pháp luật, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nội chính (được xác định gồm viện kiểm sát, tòa án, tư pháp và các cơ quan có chức năng tư pháp trong công an, quân đội). Do vậy đề nghị Ban nội chính Trung ương quan tâm đến vấn đề thời gian trong hoạt động tố tụng cả hình sự và dân sự, được như thế sẽ tạo chuyển biến lớn cho nền tư pháp nước nhà. 3. Đề nghị các cơ quan báo chí theo dõi phản ánh những vụ án kéo dài, đây là vấn đề tiêu cực cần đấu tranh phản ánh để thúc đẩy các cơ quan tư pháp nâng cao trách nhiệm sửa đổi, góp phần xây dựng nền tư pháp Việt Nam trở lên công minh tiến bộ. 4. Đề nghị các luật sư quan tâm tới chương trình cải cách tư pháp của Đảng và nhà nước, bàn luận và góp ý trên tinh thần xây dựng đối với các vấn đề luật pháp còn chưa hoàn thiện, góp phần xây dựng nền tư pháp Việt Nam trở lên công minh tiến bộ. Trên đây là mấy nội dung kiến nghị, rất mong được quan tâm. Xin trân trọng cảm ơn! Thông tin xin liên hệ: Văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự, địa chỉ: 106/1 Lương Thế Vinh, phường Trần Đăng Ninh, TP Nam Định. Email: lsngoctrai@gmail.com Website: www.ngongoctrai.com Người kiến nghị Đã ký Luật sư Ngô Ngọc Trai
Re: Luật Sư Ở Mỹ Tha Hồ “Vặn Vẹo” Nhân Chứng?
Cảm ơn Luật sư Thực ra tất cả vấn đề ở đây là vấn đề về cải cách tư pháp. Như TS, Luật sư Phan Trung Hoài có nói trong phiên họp đầu tiên của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2011-2016 có nói là Cần phải "Nâng cao hơn vị thế của luật sư " "Điều mong mỏi của chúng tôi khi bước sang năm 2012 là làm thế nào xây dựng, hình thành được cơ chế và môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển nghề luật sư như một nghề độc lập, tác động tích cực đến sự phát triển của đất nước, thực hiện được chức năng xã hội là góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. " Tại Phiên họp với khá nhiều ý kiến rất hay về cái gọi là "Kỳ Vọng về Cải cách tư pháp" Xin lưu ý: gọi là "Kỳ vọng" - chứ không phải "Hy vọng" : kỳ vọng là hy vọng vào 1 sự kỳ diệu nào đó - mà điều diệu kỳ thì gần như chẳng thể xảy ra..... Mọi người có thể xem cụ thể các ý kiến về kỳ vọng đó trong bài: "Kỳ vọng về Cải cách tư pháp" tại website: http://www.chuyengiaphapluat.com Chúc mọi điều tốt lành!