Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp là cơ quan nào?
Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp là cơ quan nào? 03 Nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp? Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp là cơ quan nào? Theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Lâm nghiệp 2017 về trách nhiệm quản lý nhà nước về lâm nghiệp của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp, có trách nhiệm sau đây: (1) Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lâm nghiệp; (2) Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật về lâm nghiệp; (3) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Quy chế quản lý rừng, chế độ quản lý, bảo vệ các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; (4) Trình Thủ tướng Chính phủ thành lập khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia hoặc nằm trên địa bàn nhiều tỉnh; (5) Chỉ đạo thống nhất về chuyên môn, nghiệp vụ của Kiểm lâm; (6) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan quản lý, bảo vệ rừng; bảo vệ hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học trong các loại rừng; (7) Hướng dẫn, kiểm tra việc điều tra rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến rừng và lập hồ sơ quản lý rừng; lập và quản lý cơ sở dữ liệu rừng; (8) Tổ chức phòng cháy và chữa cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; (9) Xây dựng hệ thống rừng giống quốc gia, vườn thực vật quốc gia; (10) Quản lý, tổ chức thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng; (11) Quản lý hoạt động cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, định giá rừng; (12) Quản lý hoạt động chế biến và thương mại lâm sản theo quy định của pháp luật; (13) Tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới về lâm nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong lâm nghiệp; (14) Tổ chức thông tin, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về lâm nghiệp; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lâm nghiệp; (15) Đầu mối hợp tác quốc tế về lâm nghiệp; (16) Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lâm nghiệp theo quy định của pháp luật. 03 Nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp? 03 Nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp được quy định tại Điều 100 Luật Lâm nghiệp 2017, cụ thể như sau: Nguyên tắc 1. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp được tổ chức thống nhất, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Nguyên tắc 2. Cơ quan, quản lý chuyên ngành về lâm nghiệp được tổ chức ở trung ương, cấp tỉnh; nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về lâm nghiệp ở cấp huyện được tổ chức theo quy định của Chính phủ. Nguyên tắc 3. Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, không chồng chéo chức năng quản lý; công khai, minh bạch. 05 Nguyên tắc hoạt động lâm nghiệp? 05 Nguyên tắc hoạt động lâm nghiệp được quy định tại Điều 3 Luật Lâm nghiệp 2017, cụ thể như sau: Nguyên tắc 1. Rừng được quản lý bền vững về diện tích và chất lượng, bảo đảm hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng, giá trị dịch vụ môi trường rừng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nguyên tắc 2. Xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp; bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của chủ rừng, tổ chức, cá nhân hoạt động lâm nghiệp. Nguyên tắc 3. Bảo đảm tổ chức liên kết theo chuỗi từ bảo vệ rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản để nâng cao giá trị rừng. Nguyên tắc 4. Bảo đảm công khai, minh bạch, sự tham gia của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư liên quan trong hoạt động lâm nghiệp. Nguyên tắc 5. Tuân thủ điều ước quốc tế liên quan đến lâm nghiệp mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này hoặc văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam chưa có quy định thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó. Tóm lại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
Xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ?
Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam là gì? Xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ? Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam là gì? Căn cứ tại khoản 1 Điều 25 Nghị định 65/2023/NĐ-CP về Đơn Madrid thì: Đơn Madrid bao gồm Đơn Madrid có nguồn gốc Việt Nam và Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam. Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam được định nghĩa tại khoản 14 Điều 3 Nghị định 65/2023/NĐ-CP là Đơn Madrid yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, có nguồn gốc từ các thành viên khác của Thỏa ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 5, 12, 13 Điều 3 Nghị định 65/2023/NĐ-CP thì: Thỏa ước Madrid là Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891, được sửa đổi năm 1979. Đơn Madrid là đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu nộp theo Thỏa ước Madrid hoặc theo Nghị định thư Madrid. Đơn Madrid có nguồn gốc Việt Nam là Đơn Madrid yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu tại các thành viên khác của Thỏa ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid nộp từ Việt Nam. Xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ? Việc xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ được quy định tại Điều 27 Nghị định 65/2023/NĐ-CP, cụ thể như sau: - Sau khi nhận được thông báo của Văn phòng quốc tế về Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp tiến hành thẩm định nội dung đơn như đối với đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo thể thức quốc gia, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3 và 10 Điều này. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Văn phòng quốc tế ra thông báo, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp kết luận về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu. - Đối với nhãn hiệu đáp ứng các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp thực hiện các thủ tục sau đây: + Trước khi kết thúc thời hạn 12 tháng nêu tại khoản 1 Điều này, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp ra quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam, ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp (Phần Nhãn hiệu đăng ký quốc tế) và gửi cho Văn phòng quốc tế tuyên bố bảo hộ; + Công bố quyết định trên Công báo Sở hữu công nghiệp trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ra quyết định. Lưu ý số 1: Phạm vi (khối lượng) bảo hộ được xác định theo nội dung yêu cầu trong đăng ký quốc tế nhãn hiệu đã được Văn phòng quốc tế ghi nhận và được cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp chấp nhận. Lưu ý số 2: Kể từ ngày đăng ký quốc tế nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam, theo yêu cầu của chủ sở hữu nhãn hiệu, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp cấp giấy xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam với điều kiện người yêu cầu nộp phí, lệ phí theo quy định. Lưu ý số 3: Kể từ ngày Đơn Madrid được Văn phòng quốc tế công bố trên Công báo đến trước ngày ra quyết định chấp nhận bảo hộ, hoặc kết thúc 12 tháng kể từ ngày Văn phòng quốc tế thông báo về đơn có chỉ định Việt Nam, tùy thuộc thời điểm nào sớm hơn, nếu người thứ ba có ý kiến đối với Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam thì ý kiến này được coi là nguồn thông tin tham khảo trong quá trình xử lý đơn. Tóm lại, việc xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ như sau: + Trước khi kết thúc thời hạn 12 tháng nêu tại khoản 1 Điều 27 Nghị định 65/2023/NĐ-CP, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp ra quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam, ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp (Phần Nhãn hiệu đăng ký quốc tế) và gửi cho Văn phòng quốc tế tuyên bố bảo hộ; + Công bố quyết định trên Công báo Sở hữu công nghiệp trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ra quyết định.
Thực trạng vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM cũng chính là hoạt động bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ chân chính, góp phần bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội. Do vậy, công tác bảo vệ lợi ích NTD không chỉ là trách nhiệm của các thương nhân mà còn là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Trong thời gian qua, vấn đề xâm phạm lợi ích NTD đang trở nên đáng báo động, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội đã ngày càng quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ lợi ích NTD. Mạng lưới tổ chức Hội bảo vệ quyền lợi NTD đã được phát triển rộng đến cấp huyện, giúp đưa các tổ chức này đến gần với NTD ở các cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hỗ trợ NTD. Hơn nữa, giữa các cơ quan quản lý nhà nước như: Cục quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh, Bộ Công thương…đã có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác bảo vệ lợi ích NTD. Mới đây, Cục quản lý cạnh tranh cũng đã đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ, tư vấn và tiếp nhận khiếu nại từ NTD, với mong muốn giúp NTD có thể thực hiện được các quyền lợi của mình. Theo đó, NTD có thể gọi điện đến tổng đài hỗ trợ, tư vấn; có thể gửi những thắc mắc, khiếu nại đến trang web bảo vệ quyền lợi NTD hay địa chỉ email của Cục quản lý cạnh tranh; hoặc cũng có thể gửi khiếu nại qua đường bưu điện, hay đến nộp trực tiếp tại địa chỉ của Cục quản lý cạnh tranh. Với nhiều phương thức khác nhau, công tác bảo vệ quyền lợi NTD đã bước đầu đạt được một số thành tựu. Trong quý một năm 2015, Tổng đài tư vấn đã ghi nhận có 4383 cuộc gọi đến, trong đó các chuyên viên của Cục đã tiếp nhận và trả lời 1796 cuộc gọi, chiếm 40,98%. Ngoài ra, Cục quản lý cạnh tranh cũng đã nhận được 30 đơn khiếu nại của NTD trong khoảng thời gian này và nhiều đơn khiếu nại trong số đó đã được giải quyết, đòi lại lợi ích hợp pháp cho NTD Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng trên, hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM vẫn còn khá nhiều hạn chế. Thực tế hiện nay, hầu như những vụ việc vi phạm quyền lợi NTD chỉ được các cơ quan chức năng vào cuộc sau khi vụ việc bị báo chí phanh phui và NTD đã bị thiệt hại. Điều này phần nào thể hiện sự thờ ơ, tắc trách trong việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Hay đáng buồn hơn nữa, các cơ quan nhà nước lại thông đồng với các thương nhân để che giấu, lấp liếm đi các vụ việc mới bị phát hiện. Điển hình như vụ án “bánh mì bẩn” của cửa hàng Minh Tuyến (Phú Khương, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre). Tổng số trường hợp ngộ độc do ăn bánh mì của cơ sở này được ghi nhận thời điểm đó lên tới hơn 160 người. Vụ việc được phát hiện vào năm 2013,thế nhưng mãi đến đầu tháng 3 năm 2015, Tòa án Nhân dân thành phố Bến Tre mới đưa vụ việc ra xét xử. Kết quả bà Thuyên – NTD bị ngộ độc do sử dụng sản phẩm của cửa hàng này đã bị thua kiện bởi bà không cung cấp được chứng từ hóa đơn và khi cấp cứu đã không lưu mẫu bệnh phẩm. Sau đó, vụ án này đã “chìm vào im lặng”. Tương tự, những vụ án gần đây như: vụ chai nước C2 có chứa 6 con ruồi hay vụ chai nước có chứa dị vật, cặn bẩn của Tân Hiệp Phát cũng chỉ được cơ quan chức năng điều tra sau khi vụ việc bị báo chí phanh phui. Tuy thế, điều đáng nói hơn là cơ quan nhà nước dường như... bất lực, không đòi lại được quyền lợi cho NTD. Vì vậy, nhiều NTD đã phải nhờ cậy đến Hội Bảo vệ NTD, thế nhưng sự tham gia của Hội Bảo vệ NTD chỉ mang tính hình thức. Vậy vai trò của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ lợi ích NTD nằm ở đâu khi mà NTD dù đã lên tiếng thì vẫn không được bảo vệ? Thêm vào đó, mặc dù Hội bảo vệ NTD được thành lập với mục đích trở thành đại diện cho NTD, thay mặt NTD đứng lên đòi lại quyền lợi; thế nhưng trên thực tế, vai trò của Hội trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD hiện nay khá mờ nhạt. Phần lớn các hội thiếu sự chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Từ vụ việc các chai nước của Công ty Tân Hiệp Phát chứa dị vật, cho tới các vụ việc NTD mua phải hàng giả, bị lừa đảo khi mua hàng hóa qua trang web thương mại điện tử, hoặc bị tính sai cước điện thoại...thì dường như không thấy bóng dáng của các Hội bảo vệ NTD. Điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân: nguồn nhân lực, kinh phí hoạt động của các tổ chức bảo vệ NTD hiện nay còn nhiều hạn chế, đa phần từ sự đóng góp của các hội viên; ngoài ra, các thành viên trong những tổ chức này lại thường không nắm vững các quy định pháp luật nên nhiều trường hợp việc hòa giải, tư vấn pháp luật cho NTD chưa chính xác, chưa phù hợp với các quy định pháp luật. Chính những nguyên nhân này khiến cho hoạt động của các tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ lợi ích NTD còn mang tình hình thức. Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh, báo Nhân dân
Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp là cơ quan nào?
Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp là cơ quan nào? 03 Nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp? Cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp là cơ quan nào? Theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Lâm nghiệp 2017 về trách nhiệm quản lý nhà nước về lâm nghiệp của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp, có trách nhiệm sau đây: (1) Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về lâm nghiệp; (2) Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật về lâm nghiệp; (3) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Quy chế quản lý rừng, chế độ quản lý, bảo vệ các loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; (4) Trình Thủ tướng Chính phủ thành lập khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia hoặc nằm trên địa bàn nhiều tỉnh; (5) Chỉ đạo thống nhất về chuyên môn, nghiệp vụ của Kiểm lâm; (6) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan quản lý, bảo vệ rừng; bảo vệ hệ sinh thái rừng, đa dạng sinh học trong các loại rừng; (7) Hướng dẫn, kiểm tra việc điều tra rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến rừng và lập hồ sơ quản lý rừng; lập và quản lý cơ sở dữ liệu rừng; (8) Tổ chức phòng cháy và chữa cháy rừng; phòng, trừ sinh vật gây hại rừng; (9) Xây dựng hệ thống rừng giống quốc gia, vườn thực vật quốc gia; (10) Quản lý, tổ chức thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng; (11) Quản lý hoạt động cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, định giá rừng; (12) Quản lý hoạt động chế biến và thương mại lâm sản theo quy định của pháp luật; (13) Tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới về lâm nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong lâm nghiệp; (14) Tổ chức thông tin, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về lâm nghiệp; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lâm nghiệp; (15) Đầu mối hợp tác quốc tế về lâm nghiệp; (16) Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lâm nghiệp theo quy định của pháp luật. 03 Nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp? 03 Nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp được quy định tại Điều 100 Luật Lâm nghiệp 2017, cụ thể như sau: Nguyên tắc 1. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp được tổ chức thống nhất, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Nguyên tắc 2. Cơ quan, quản lý chuyên ngành về lâm nghiệp được tổ chức ở trung ương, cấp tỉnh; nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về lâm nghiệp ở cấp huyện được tổ chức theo quy định của Chính phủ. Nguyên tắc 3. Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, không chồng chéo chức năng quản lý; công khai, minh bạch. 05 Nguyên tắc hoạt động lâm nghiệp? 05 Nguyên tắc hoạt động lâm nghiệp được quy định tại Điều 3 Luật Lâm nghiệp 2017, cụ thể như sau: Nguyên tắc 1. Rừng được quản lý bền vững về diện tích và chất lượng, bảo đảm hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng, giá trị dịch vụ môi trường rừng và ứng phó với biến đổi khí hậu. Nguyên tắc 2. Xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp; bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của chủ rừng, tổ chức, cá nhân hoạt động lâm nghiệp. Nguyên tắc 3. Bảo đảm tổ chức liên kết theo chuỗi từ bảo vệ rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng đến chế biến và thương mại lâm sản để nâng cao giá trị rừng. Nguyên tắc 4. Bảo đảm công khai, minh bạch, sự tham gia của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư liên quan trong hoạt động lâm nghiệp. Nguyên tắc 5. Tuân thủ điều ước quốc tế liên quan đến lâm nghiệp mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này hoặc văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam chưa có quy định thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó. Tóm lại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
Xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ?
Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam là gì? Xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ? Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam là gì? Căn cứ tại khoản 1 Điều 25 Nghị định 65/2023/NĐ-CP về Đơn Madrid thì: Đơn Madrid bao gồm Đơn Madrid có nguồn gốc Việt Nam và Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam. Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam được định nghĩa tại khoản 14 Điều 3 Nghị định 65/2023/NĐ-CP là Đơn Madrid yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, có nguồn gốc từ các thành viên khác của Thỏa ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 5, 12, 13 Điều 3 Nghị định 65/2023/NĐ-CP thì: Thỏa ước Madrid là Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891, được sửa đổi năm 1979. Đơn Madrid là đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu nộp theo Thỏa ước Madrid hoặc theo Nghị định thư Madrid. Đơn Madrid có nguồn gốc Việt Nam là Đơn Madrid yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu tại các thành viên khác của Thỏa ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid nộp từ Việt Nam. Xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ? Việc xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ được quy định tại Điều 27 Nghị định 65/2023/NĐ-CP, cụ thể như sau: - Sau khi nhận được thông báo của Văn phòng quốc tế về Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp tiến hành thẩm định nội dung đơn như đối với đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo thể thức quốc gia, trừ trường hợp quy định tại các khoản 3 và 10 Điều này. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Văn phòng quốc tế ra thông báo, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp kết luận về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu. - Đối với nhãn hiệu đáp ứng các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp thực hiện các thủ tục sau đây: + Trước khi kết thúc thời hạn 12 tháng nêu tại khoản 1 Điều này, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp ra quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam, ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp (Phần Nhãn hiệu đăng ký quốc tế) và gửi cho Văn phòng quốc tế tuyên bố bảo hộ; + Công bố quyết định trên Công báo Sở hữu công nghiệp trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ra quyết định. Lưu ý số 1: Phạm vi (khối lượng) bảo hộ được xác định theo nội dung yêu cầu trong đăng ký quốc tế nhãn hiệu đã được Văn phòng quốc tế ghi nhận và được cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp chấp nhận. Lưu ý số 2: Kể từ ngày đăng ký quốc tế nhãn hiệu được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam, theo yêu cầu của chủ sở hữu nhãn hiệu, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp cấp giấy xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam với điều kiện người yêu cầu nộp phí, lệ phí theo quy định. Lưu ý số 3: Kể từ ngày Đơn Madrid được Văn phòng quốc tế công bố trên Công báo đến trước ngày ra quyết định chấp nhận bảo hộ, hoặc kết thúc 12 tháng kể từ ngày Văn phòng quốc tế thông báo về đơn có chỉ định Việt Nam, tùy thuộc thời điểm nào sớm hơn, nếu người thứ ba có ý kiến đối với Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam thì ý kiến này được coi là nguồn thông tin tham khảo trong quá trình xử lý đơn. Tóm lại, việc xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam đối với nhãn hiệu đáp ứng điều kiện bảo hộ như sau: + Trước khi kết thúc thời hạn 12 tháng nêu tại khoản 1 Điều 27 Nghị định 65/2023/NĐ-CP, cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp ra quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế tại Việt Nam, ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp (Phần Nhãn hiệu đăng ký quốc tế) và gửi cho Văn phòng quốc tế tuyên bố bảo hộ; + Công bố quyết định trên Công báo Sở hữu công nghiệp trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ra quyết định.
Thực trạng vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM cũng chính là hoạt động bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ chân chính, góp phần bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội. Do vậy, công tác bảo vệ lợi ích NTD không chỉ là trách nhiệm của các thương nhân mà còn là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Trong thời gian qua, vấn đề xâm phạm lợi ích NTD đang trở nên đáng báo động, cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội đã ngày càng quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ lợi ích NTD. Mạng lưới tổ chức Hội bảo vệ quyền lợi NTD đã được phát triển rộng đến cấp huyện, giúp đưa các tổ chức này đến gần với NTD ở các cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hỗ trợ NTD. Hơn nữa, giữa các cơ quan quản lý nhà nước như: Cục quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh, Bộ Công thương…đã có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác bảo vệ lợi ích NTD. Mới đây, Cục quản lý cạnh tranh cũng đã đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ, tư vấn và tiếp nhận khiếu nại từ NTD, với mong muốn giúp NTD có thể thực hiện được các quyền lợi của mình. Theo đó, NTD có thể gọi điện đến tổng đài hỗ trợ, tư vấn; có thể gửi những thắc mắc, khiếu nại đến trang web bảo vệ quyền lợi NTD hay địa chỉ email của Cục quản lý cạnh tranh; hoặc cũng có thể gửi khiếu nại qua đường bưu điện, hay đến nộp trực tiếp tại địa chỉ của Cục quản lý cạnh tranh. Với nhiều phương thức khác nhau, công tác bảo vệ quyền lợi NTD đã bước đầu đạt được một số thành tựu. Trong quý một năm 2015, Tổng đài tư vấn đã ghi nhận có 4383 cuộc gọi đến, trong đó các chuyên viên của Cục đã tiếp nhận và trả lời 1796 cuộc gọi, chiếm 40,98%. Ngoài ra, Cục quản lý cạnh tranh cũng đã nhận được 30 đơn khiếu nại của NTD trong khoảng thời gian này và nhiều đơn khiếu nại trong số đó đã được giải quyết, đòi lại lợi ích hợp pháp cho NTD Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng trên, hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ lợi ích chính đáng của NTD trong HĐTM vẫn còn khá nhiều hạn chế. Thực tế hiện nay, hầu như những vụ việc vi phạm quyền lợi NTD chỉ được các cơ quan chức năng vào cuộc sau khi vụ việc bị báo chí phanh phui và NTD đã bị thiệt hại. Điều này phần nào thể hiện sự thờ ơ, tắc trách trong việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Hay đáng buồn hơn nữa, các cơ quan nhà nước lại thông đồng với các thương nhân để che giấu, lấp liếm đi các vụ việc mới bị phát hiện. Điển hình như vụ án “bánh mì bẩn” của cửa hàng Minh Tuyến (Phú Khương, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre). Tổng số trường hợp ngộ độc do ăn bánh mì của cơ sở này được ghi nhận thời điểm đó lên tới hơn 160 người. Vụ việc được phát hiện vào năm 2013,thế nhưng mãi đến đầu tháng 3 năm 2015, Tòa án Nhân dân thành phố Bến Tre mới đưa vụ việc ra xét xử. Kết quả bà Thuyên – NTD bị ngộ độc do sử dụng sản phẩm của cửa hàng này đã bị thua kiện bởi bà không cung cấp được chứng từ hóa đơn và khi cấp cứu đã không lưu mẫu bệnh phẩm. Sau đó, vụ án này đã “chìm vào im lặng”. Tương tự, những vụ án gần đây như: vụ chai nước C2 có chứa 6 con ruồi hay vụ chai nước có chứa dị vật, cặn bẩn của Tân Hiệp Phát cũng chỉ được cơ quan chức năng điều tra sau khi vụ việc bị báo chí phanh phui. Tuy thế, điều đáng nói hơn là cơ quan nhà nước dường như... bất lực, không đòi lại được quyền lợi cho NTD. Vì vậy, nhiều NTD đã phải nhờ cậy đến Hội Bảo vệ NTD, thế nhưng sự tham gia của Hội Bảo vệ NTD chỉ mang tính hình thức. Vậy vai trò của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ lợi ích NTD nằm ở đâu khi mà NTD dù đã lên tiếng thì vẫn không được bảo vệ? Thêm vào đó, mặc dù Hội bảo vệ NTD được thành lập với mục đích trở thành đại diện cho NTD, thay mặt NTD đứng lên đòi lại quyền lợi; thế nhưng trên thực tế, vai trò của Hội trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD hiện nay khá mờ nhạt. Phần lớn các hội thiếu sự chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi NTD. Từ vụ việc các chai nước của Công ty Tân Hiệp Phát chứa dị vật, cho tới các vụ việc NTD mua phải hàng giả, bị lừa đảo khi mua hàng hóa qua trang web thương mại điện tử, hoặc bị tính sai cước điện thoại...thì dường như không thấy bóng dáng của các Hội bảo vệ NTD. Điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân: nguồn nhân lực, kinh phí hoạt động của các tổ chức bảo vệ NTD hiện nay còn nhiều hạn chế, đa phần từ sự đóng góp của các hội viên; ngoài ra, các thành viên trong những tổ chức này lại thường không nắm vững các quy định pháp luật nên nhiều trường hợp việc hòa giải, tư vấn pháp luật cho NTD chưa chính xác, chưa phù hợp với các quy định pháp luật. Chính những nguyên nhân này khiến cho hoạt động của các tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ lợi ích NTD còn mang tình hình thức. Nguồn: Cục Quản lý cạnh tranh, báo Nhân dân