Cơ quan, tổ chức ban hành có quyền tự sao y văn bản không?
Một số thắc mắc được đặt ra khi một người đang công tác tại một đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND tỉnh và có nhu cầu sao y một số văn bản mà chính đơn vị của họ ban hành. Vậy thì cơ quan của người này có thẩm quyền tự sao y những văn bản đó hay không? Có thể nói cơ quan, tổ chức ban hành có quyền tự sao y văn bản do đơn vị ban hành hay không? Sao y là gì? Sao y bản chính hay còn gọi là chứng thực bản sao từ bản chính. Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định 23/2015/NĐ-CP thì chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định 23/2015/NĐ-CP căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính. Sao y bản chính khác với chứng thực chữ ký. Bởi nội dung, hình thức của bản sao y được chứng thực là đúng với bản chính. Trong khi đó, chứng thực chữ ký là việc chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực (không chứng thực nội dung, hình thức văn bản). Còn tại khoản 10 Điều 3 Nghị định 30/2020/NĐ-CP định nghĩa “bản sao y” là bản sao đầy đủ, chính xác nội dung của bản gốc hoặc bản chính văn bản, được trình bày theo thể thức và kỹ thuật quy định. Giá trị pháp lý của bản sao Căn cứ tại Điều 27 Nghị định 30/2020/NĐ-CP thì bản sao y, bản sao lục và bản trích sao được thực hiện theo đúng quy định tại Nghị định 30/2020/NĐ-CP có giá trị pháp lý như bản chính. Giấy tờ nào được sao y bản chính? Giấy tờ, văn bản làm cơ sở để chứng thực bản sao từ bản chính gồm: - Bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp. - Bản chính giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sao y bản chính ở đâu? Hiện hành, thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính theo Nghị định 23/2015/NĐ-CP bao gồm: - Phòng Tư pháp: Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận. - Ủy ban nhân dân cấp xã: Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận. Việc chứng thực bản sao từ bản chính không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực. Cơ quan, tổ chức ban hành có được tự ý sao y văn bản hay không? Căn cứ theo Khoản 1 Điều 2 và Khoản 1 Điều 27 Nghị định 30/2020/NĐ-CP về thẩm quyền sao y văn bản và đối tượng áp dụng, cụ thể: - Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức). - Người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định việc sao văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành, văn bản do các cơ quan, tổ chức khác gửi đến và quy định thẩm quyền ký các bản sao văn bản. - Việc sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước. Như vậy, cơ quan, tổ chức ban hành có quyền sao y các văn bản do đơn vị ban hành. Chi tiết việc sao y văn bản được cụ thể tại Mục 3, Chương III và Phần II, Phụ lục 1 của Nghị định 30/2020/NĐ-CP.
Hỡi người dân, hãy đặt mình vào vị trí của cơ quan ban hành
Chặc, mấy bữa nay, báo chí lại tranh cãi cái chuyện “Từ ngày 05/12, sổ đỏ ghi đầy đủ tên thành viên trong gia đình” – rồi người dân phản đối ầm ầm, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường phải lên tiếng giải thích. Người đồng ý ủng hộ hai tay, người thì phản đối kịch liệt và cũng có người phân vân, lưỡng lự không biết ủng hộ hay đồng ý (nhưng thực tế vì nhiều lý do sự thay đổi này không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của họ). Người ủng hộ thì cho rằng việc làm này là tốt, gỡ rối cho những tranh chấp phát sinh trong việc mua bán nhà, đất thuộc sở hữu hộ gia đình khi không được sự đồng ý của các thành viên ngoài chủ hộ mà đối phương không biết và không buộc phải biết về các thành viên này, đây được xem là một trong những rủi ro cho người mua nhà, đất. Còn phía những người phản đối thì lại cho rằng, việc quy định như vậy, gây rắc rối, thêm phức tạp trong thủ tục, ví dụ như cần bán nhà, thì phải kéo hết những người có tên trong hộ gia đình đứng ra ký tên, chấp thuận việc mua bán này. Nhưng cái này mới là suy nghĩ bề nổi, còn mặt trái khi gặp rủi ro như trên đã nói thì nhóm này chưa nghĩ tới. Trong tương lai, sẽ bỏ sổ hộ khẩu và thay vào đó là lưu thông tin hộ gia đình trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, người có quyền truy cập cũng chỉ là cơ quan công quyền, không phải là người dân, do vậy, khó có cơ sở xác định tại hộ gia đình đó, ai là người có quyền sử dụng đất? Dường như chỉ có chủ hộ gia đình được quan tâm nhiều trong các giao dịch dân sự, đặc biệt là giao dịch liên quan đến đất đai, các thành viên còn lại bị lưu mờ quyền và nghĩa vụ của mình. Để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình có quyền sử dụng đất thì cần phải ghi nhận đầy đủ thông tin của họ trên sổ đỏ. Đó là ý chí của các nhà làm luật, thứ nhất, để phòng ngừa các rủi ro từ tranh chấp đã nêu trên, từ đó, hạn chế án phát sinh từ việc này và đỡ đần công việc cho cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Thứ hai, là để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa chủ hộ và các thành viên khác trong hộ gia đình cùng có quyền sử dụng đất. Tạm dừng câu chuyện sổ đỏ, cách đây vài năm, trước khi Bộ luật dân sự 2015 ra đời, dân mạng cũng tranh luận ầm ầm về cái quyền được chết, người thì bảo không được ban hành là ác với những người đang bệnh nặng, sống dở, chết dở, mong một ngày chết để đỡ đau đớn. Còn người ủng hộ thì cho rằng, cần phải quy định vì nó mang tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Và cuối cùng Bộ luật này thông qua đã không có quy định về quyền được chết. Và còn rất nhiều quy định khác mà người ban hành, cơ quan ban hành đứng tâm điểm ở giữa nhận những búa rìu của dư luận về phản đối, đồng tình. Nhưng dù gì đi nữa, việc ban hành cũng cần dựa trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của người dân, của bên yếu thế trong các quan hệ dân sự. 9 người thì 10 ý, mỗi người đều có quan điểm riêng, suy nghĩ riêng, ngay cả 2 người sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm cũng vậy, và một tập thể nhỏ luôn có nhiều ý kiến, nói chi là cả đất nước cả trăm triệu dân làm sao làm hài lòng được tất cả, chỉ có thể định hướng một nguyên tắc khi ban hành rằng đảm bảo quyền lợi của người dân, của bên yếu thế trong các quan hệ, giao dịch dân sự.
Dân khổ vì sự “tùy tiện” của cơ quan ban hành
Chúng ta thường hay rỉ tai nhau cái câu “Phong ba bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam” ý nói đến sự phong phú, phức tạp của tiếng Việt mình. Thật tự hào bởi tiếng Việt được cho là thứ tiếng khó học nhất trên thế giới vì sự phức tạp và phong phú của nó và đó là tiếng mẹ đẻ của chúng ta. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra khi trong từ điển tiếng Việt phát sinh những từ ngữ gây mâu thuẫn, nhầm lẫn cho người đọc và hiểu nó. Và càng kinh khủng hơn khi cơ quan ban hành quy định pháp luật sử dụng "tùy tiện" những từ ngữ này. Đơn cử như cụm từ “tải trọng” và “trọng tải” – Công an Vinh bị kiện bởi vì sự nhầm lẫn của nhiều người về khái niệm của hai cụm từ này. Tóm tắt sự việc như sau: Tỉnh Nghệ An có quyết định cấm các loại xe có trọng lượng từ 4 tấn trở lên (cả xe và hàng) và ô tô khách từ 16 chỗ trở lên (trừ trừ xe du lịch; xe đưa đón cán bộ công nhân viên; lực lượng vũ trang; xe phục vụ tang lễ, cưới hỏi) hoạt động từ 6h đến 22h hàng ngày trên một số tuyến đường. Biển cấm như hình bên dưới: Sau đó, các nhà chức trách đã thực hiện cắm biển này trên các tuyến đường như quyết định nêu trên và hàng loạt chiếc xe tải bị phạt vì lỗi này. Trong đó, có ông Phan Đình Anh tài xế lái xe tải. Theo biển cấm này thì ông Anh cho rằng, chỉ cấm khi tổng khối lượng xe và hàng vượt quá 4 tấn, trong khi chiếc xe của ông chỉ có khối lượng 3.4 tấn và xe đang trong tình trạng không chở hàng. Do vậy không hề có vi phạm với quy định tại biển cấm, nhưng phía Công an TP. Vinh cho rằng ông Anh đã hiểu sai quy định pháp luật và kiên quyết xử phạt ông. Ông Anh kiên quyết đem sự việc này ra Tòa để khởi kiện. Chiếu theo biển báo giao thông nêu trên, đó là biển báo số 106b theo Quy chuẩn 41:2012/BGTVT ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGTVT có quy định: “Nếu trên biển quy định trọng tải - trọng lượng xe cộng hàng (chữ số tấn ghi bằng màu trắng trên hình vẽ xe) thì chỉ cấm những ôtô có tổng trọng lượng (trọng lượng xe cộng hàng) vượt quá con số đã quy định trên biển phải đặt biển số 106b.” Đọc quy định này, tôi và nhiều người cùng hiểu rằng, chỉ cấm khi tổng trọng lượng của xe và hàng vượt quá mức quy định, nếu tổng trọng lượng chưa tới mức cấm thì được xem là không vi phạm Trong khi quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Nghị định 46 có khi dùng từ “chở hàng vượt quá trọng tải”, lúc thì dùng từ “xếp hàng vượt quá tải trọng”, “xe quá tải trọng” Liệu có sự khác nhau giữa 2 từ “trọng tải” và “tải trọng”? Tôi cũng có thử tìm các thông tin liên quan trên văn bản nhưng không thấy nêu rõ về định nghĩa khi sử dụng 2 cụm từ này hay chỉ là sự “tùy tiện” trong việc sử dụng ngôn ngữ khi ban hành văn bản?
Đề nghị thành lập cơ quan giám sát các luật được ban hành bởi Quốc hội. Đề nghị ban hành quy chuẩn, chế tài xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức thuộc Chính phủ bản hành văn bản qppl trái với luật của Quốc hội. Đề nghị ban hành quy chuẩn, chế tài xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức thuộc Bộ bản hành văn bản qppl trái với Nghị định Chính phủ. Đề nghị ban hành quy chuẩn, chế tài xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức thuộc HĐND, UBND các cấp bản hành văn bản qppl trái với Nghị định Chính phủ. (Ví dụ: Nghị định 71 về xe "chính chủ mới đây, gây nên dư luận rất xấu; Nghị định về mũ bảo hiểm buộc người tiêu dùng phải nhận biết được mũ thật mũ giả v.v... rất rất nhiều các dẫn chứng cho thấy một loại vbqppl ban hành đều vấp phải dư luận hoặc là không khả thi, đành phải tạm hoãn, đình chỉ. Một số vbqppl ban ra còn không thống nhất với vbqppl trên của nó.) Đề nghị hãy xử lý những văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật. Quy trách nhiệm cho người đứng đầu chịu trách nhiệm đối với văn bản do cơ quan mình ban hành! Có như thế thì mới thực sự là thượng tôn pháp luật, văn minh dân chủ, công bằng và tiến lên được.
Cơ quan, tổ chức ban hành có quyền tự sao y văn bản không?
Một số thắc mắc được đặt ra khi một người đang công tác tại một đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND tỉnh và có nhu cầu sao y một số văn bản mà chính đơn vị của họ ban hành. Vậy thì cơ quan của người này có thẩm quyền tự sao y những văn bản đó hay không? Có thể nói cơ quan, tổ chức ban hành có quyền tự sao y văn bản do đơn vị ban hành hay không? Sao y là gì? Sao y bản chính hay còn gọi là chứng thực bản sao từ bản chính. Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định 23/2015/NĐ-CP thì chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại Nghị định 23/2015/NĐ-CP căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính. Sao y bản chính khác với chứng thực chữ ký. Bởi nội dung, hình thức của bản sao y được chứng thực là đúng với bản chính. Trong khi đó, chứng thực chữ ký là việc chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người yêu cầu chứng thực (không chứng thực nội dung, hình thức văn bản). Còn tại khoản 10 Điều 3 Nghị định 30/2020/NĐ-CP định nghĩa “bản sao y” là bản sao đầy đủ, chính xác nội dung của bản gốc hoặc bản chính văn bản, được trình bày theo thể thức và kỹ thuật quy định. Giá trị pháp lý của bản sao Căn cứ tại Điều 27 Nghị định 30/2020/NĐ-CP thì bản sao y, bản sao lục và bản trích sao được thực hiện theo đúng quy định tại Nghị định 30/2020/NĐ-CP có giá trị pháp lý như bản chính. Giấy tờ nào được sao y bản chính? Giấy tờ, văn bản làm cơ sở để chứng thực bản sao từ bản chính gồm: - Bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp. - Bản chính giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sao y bản chính ở đâu? Hiện hành, thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính theo Nghị định 23/2015/NĐ-CP bao gồm: - Phòng Tư pháp: Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận. - Ủy ban nhân dân cấp xã: Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận. Việc chứng thực bản sao từ bản chính không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng thực. Cơ quan, tổ chức ban hành có được tự ý sao y văn bản hay không? Căn cứ theo Khoản 1 Điều 2 và Khoản 1 Điều 27 Nghị định 30/2020/NĐ-CP về thẩm quyền sao y văn bản và đối tượng áp dụng, cụ thể: - Nghị định này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức). - Người đứng đầu cơ quan, tổ chức quyết định việc sao văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành, văn bản do các cơ quan, tổ chức khác gửi đến và quy định thẩm quyền ký các bản sao văn bản. - Việc sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước. Như vậy, cơ quan, tổ chức ban hành có quyền sao y các văn bản do đơn vị ban hành. Chi tiết việc sao y văn bản được cụ thể tại Mục 3, Chương III và Phần II, Phụ lục 1 của Nghị định 30/2020/NĐ-CP.
Hỡi người dân, hãy đặt mình vào vị trí của cơ quan ban hành
Chặc, mấy bữa nay, báo chí lại tranh cãi cái chuyện “Từ ngày 05/12, sổ đỏ ghi đầy đủ tên thành viên trong gia đình” – rồi người dân phản đối ầm ầm, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường phải lên tiếng giải thích. Người đồng ý ủng hộ hai tay, người thì phản đối kịch liệt và cũng có người phân vân, lưỡng lự không biết ủng hộ hay đồng ý (nhưng thực tế vì nhiều lý do sự thay đổi này không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của họ). Người ủng hộ thì cho rằng việc làm này là tốt, gỡ rối cho những tranh chấp phát sinh trong việc mua bán nhà, đất thuộc sở hữu hộ gia đình khi không được sự đồng ý của các thành viên ngoài chủ hộ mà đối phương không biết và không buộc phải biết về các thành viên này, đây được xem là một trong những rủi ro cho người mua nhà, đất. Còn phía những người phản đối thì lại cho rằng, việc quy định như vậy, gây rắc rối, thêm phức tạp trong thủ tục, ví dụ như cần bán nhà, thì phải kéo hết những người có tên trong hộ gia đình đứng ra ký tên, chấp thuận việc mua bán này. Nhưng cái này mới là suy nghĩ bề nổi, còn mặt trái khi gặp rủi ro như trên đã nói thì nhóm này chưa nghĩ tới. Trong tương lai, sẽ bỏ sổ hộ khẩu và thay vào đó là lưu thông tin hộ gia đình trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, người có quyền truy cập cũng chỉ là cơ quan công quyền, không phải là người dân, do vậy, khó có cơ sở xác định tại hộ gia đình đó, ai là người có quyền sử dụng đất? Dường như chỉ có chủ hộ gia đình được quan tâm nhiều trong các giao dịch dân sự, đặc biệt là giao dịch liên quan đến đất đai, các thành viên còn lại bị lưu mờ quyền và nghĩa vụ của mình. Để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình có quyền sử dụng đất thì cần phải ghi nhận đầy đủ thông tin của họ trên sổ đỏ. Đó là ý chí của các nhà làm luật, thứ nhất, để phòng ngừa các rủi ro từ tranh chấp đã nêu trên, từ đó, hạn chế án phát sinh từ việc này và đỡ đần công việc cho cơ quan tư pháp là Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Thứ hai, là để đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các thành viên trong hộ gia đình và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa chủ hộ và các thành viên khác trong hộ gia đình cùng có quyền sử dụng đất. Tạm dừng câu chuyện sổ đỏ, cách đây vài năm, trước khi Bộ luật dân sự 2015 ra đời, dân mạng cũng tranh luận ầm ầm về cái quyền được chết, người thì bảo không được ban hành là ác với những người đang bệnh nặng, sống dở, chết dở, mong một ngày chết để đỡ đau đớn. Còn người ủng hộ thì cho rằng, cần phải quy định vì nó mang tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Và cuối cùng Bộ luật này thông qua đã không có quy định về quyền được chết. Và còn rất nhiều quy định khác mà người ban hành, cơ quan ban hành đứng tâm điểm ở giữa nhận những búa rìu của dư luận về phản đối, đồng tình. Nhưng dù gì đi nữa, việc ban hành cũng cần dựa trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của người dân, của bên yếu thế trong các quan hệ dân sự. 9 người thì 10 ý, mỗi người đều có quan điểm riêng, suy nghĩ riêng, ngay cả 2 người sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm cũng vậy, và một tập thể nhỏ luôn có nhiều ý kiến, nói chi là cả đất nước cả trăm triệu dân làm sao làm hài lòng được tất cả, chỉ có thể định hướng một nguyên tắc khi ban hành rằng đảm bảo quyền lợi của người dân, của bên yếu thế trong các quan hệ, giao dịch dân sự.
Dân khổ vì sự “tùy tiện” của cơ quan ban hành
Chúng ta thường hay rỉ tai nhau cái câu “Phong ba bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam” ý nói đến sự phong phú, phức tạp của tiếng Việt mình. Thật tự hào bởi tiếng Việt được cho là thứ tiếng khó học nhất trên thế giới vì sự phức tạp và phong phú của nó và đó là tiếng mẹ đẻ của chúng ta. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra khi trong từ điển tiếng Việt phát sinh những từ ngữ gây mâu thuẫn, nhầm lẫn cho người đọc và hiểu nó. Và càng kinh khủng hơn khi cơ quan ban hành quy định pháp luật sử dụng "tùy tiện" những từ ngữ này. Đơn cử như cụm từ “tải trọng” và “trọng tải” – Công an Vinh bị kiện bởi vì sự nhầm lẫn của nhiều người về khái niệm của hai cụm từ này. Tóm tắt sự việc như sau: Tỉnh Nghệ An có quyết định cấm các loại xe có trọng lượng từ 4 tấn trở lên (cả xe và hàng) và ô tô khách từ 16 chỗ trở lên (trừ trừ xe du lịch; xe đưa đón cán bộ công nhân viên; lực lượng vũ trang; xe phục vụ tang lễ, cưới hỏi) hoạt động từ 6h đến 22h hàng ngày trên một số tuyến đường. Biển cấm như hình bên dưới: Sau đó, các nhà chức trách đã thực hiện cắm biển này trên các tuyến đường như quyết định nêu trên và hàng loạt chiếc xe tải bị phạt vì lỗi này. Trong đó, có ông Phan Đình Anh tài xế lái xe tải. Theo biển cấm này thì ông Anh cho rằng, chỉ cấm khi tổng khối lượng xe và hàng vượt quá 4 tấn, trong khi chiếc xe của ông chỉ có khối lượng 3.4 tấn và xe đang trong tình trạng không chở hàng. Do vậy không hề có vi phạm với quy định tại biển cấm, nhưng phía Công an TP. Vinh cho rằng ông Anh đã hiểu sai quy định pháp luật và kiên quyết xử phạt ông. Ông Anh kiên quyết đem sự việc này ra Tòa để khởi kiện. Chiếu theo biển báo giao thông nêu trên, đó là biển báo số 106b theo Quy chuẩn 41:2012/BGTVT ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGTVT có quy định: “Nếu trên biển quy định trọng tải - trọng lượng xe cộng hàng (chữ số tấn ghi bằng màu trắng trên hình vẽ xe) thì chỉ cấm những ôtô có tổng trọng lượng (trọng lượng xe cộng hàng) vượt quá con số đã quy định trên biển phải đặt biển số 106b.” Đọc quy định này, tôi và nhiều người cùng hiểu rằng, chỉ cấm khi tổng trọng lượng của xe và hàng vượt quá mức quy định, nếu tổng trọng lượng chưa tới mức cấm thì được xem là không vi phạm Trong khi quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Nghị định 46 có khi dùng từ “chở hàng vượt quá trọng tải”, lúc thì dùng từ “xếp hàng vượt quá tải trọng”, “xe quá tải trọng” Liệu có sự khác nhau giữa 2 từ “trọng tải” và “tải trọng”? Tôi cũng có thử tìm các thông tin liên quan trên văn bản nhưng không thấy nêu rõ về định nghĩa khi sử dụng 2 cụm từ này hay chỉ là sự “tùy tiện” trong việc sử dụng ngôn ngữ khi ban hành văn bản?
Đề nghị thành lập cơ quan giám sát các luật được ban hành bởi Quốc hội. Đề nghị ban hành quy chuẩn, chế tài xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức thuộc Chính phủ bản hành văn bản qppl trái với luật của Quốc hội. Đề nghị ban hành quy chuẩn, chế tài xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức thuộc Bộ bản hành văn bản qppl trái với Nghị định Chính phủ. Đề nghị ban hành quy chuẩn, chế tài xử lý cá nhân, cơ quan, tổ chức thuộc HĐND, UBND các cấp bản hành văn bản qppl trái với Nghị định Chính phủ. (Ví dụ: Nghị định 71 về xe "chính chủ mới đây, gây nên dư luận rất xấu; Nghị định về mũ bảo hiểm buộc người tiêu dùng phải nhận biết được mũ thật mũ giả v.v... rất rất nhiều các dẫn chứng cho thấy một loại vbqppl ban hành đều vấp phải dư luận hoặc là không khả thi, đành phải tạm hoãn, đình chỉ. Một số vbqppl ban ra còn không thống nhất với vbqppl trên của nó.) Đề nghị hãy xử lý những văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật. Quy trách nhiệm cho người đứng đầu chịu trách nhiệm đối với văn bản do cơ quan mình ban hành! Có như thế thì mới thực sự là thượng tôn pháp luật, văn minh dân chủ, công bằng và tiến lên được.