Con cháu dại thì hại ông cha là gì? Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi nào?
Con cháu dại thì hại ông cha là gì? Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi nào - đặt trong trường hợp con phát triển bình thường? Con cháu dại thì hại ông cha là gì? Câu tục ngữ "Con cháu dại thì hại ông cha" là sự đúc kết từ tích lũy kinh nghiệm nhất là kinh nghiệm sống về mối quan hệ mật thiết giữa các thế hệ trong gia đình Việt Nam. "Con cháu dại thì hại ông cha" dùng để ám chỉ việc con cháu trong nhà gây ra những lỗi lầm trong cuộc sống dù là vô tình hay cố ý cũng dẫn đến hệ lụy là ảnh hưởng không tốt đến các thành viên trong gia đình, đặc biệt là ông bà, cha mẹ. Từ "hại" ở đây dùng để ám chỉ những thiệt hại về vật chất, danh dự gia đình, tinh thần thậm chí là sức khỏe. "Con cháu dại thì hại ông cha" không chỉ phản ánh một thực tế xã hội mà còn hàm chứa những giá trị đạo đức sâu xa về trách nhiệm, đạo hiếu và sự ảnh hưởng tương hỗ giữa các thành viên trong gia đình. "Con cháu dại thì hại ông cha" còn như một lời nhắc nhở rằng hành vi của con cháu không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn tác động trực tiếp đến danh dự của gia đình, tổ tiên từ đó giúp con cháu nhận ra được vai trò của bản thân trong gia đình mà có thể điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình. Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi nào? Xét dưới góc độ pháp lý, vấn đề bồi thường thiệt hại do con gây ra được quy định tại Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể như sau: Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự. Dẫn chiếu đến Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau: (1) Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. (2) Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. (3) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; Nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Như vậy, cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi con chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, nếu con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Tóm lại, "Con cháu dại thì hại ông cha" có thể được hiểu là những lỗi lầm của con cháu dù là vô ý hay cố ý không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến không chỉ về mặt vật chất mà còn là về danh dự của gia đình, tổ tiên. Do đó, câu nói như một lời nhắc nhở để con con cháu trong gia đình có thể điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình. Đồng thời, trên tinh thần của câu tục ngữ "Con cháu dại thì hại ông cha", xét dưới góc độ pháp lý, đặt trong trường hợp con phát triển bình thường thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi con chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật Dân sự 2015.
Mũi vạy thì lái chịu đòn là gì? Con chưa thành niên gây thiệt hại thì ai có trách nhiệm bồi thường?
Câu tục ngữ "Mũi vạy thì lái chịu đòn" được hiểu như thế nào? Trường hợp con chưa thành niên gây ra thiệt hại thì ai phải có trách nhiệm bồi thường? Mũi vạy thì lái chịu đòn là gì? "Mũi vạy thì lái chịu đòn" là một câu tục ngữ của Việt Nam nhấn mạnh vai trò quan trọng của người đứng đầu trong việc giải quyết khó khăn, đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm cuối cùng. Câu tục ngữ "Mũi vạy thì lái chịu đòn" hiểu theo nghĩa đen thì "mũi vạy" minh họa cho hình ảnh con tàu bị lệch khỏi hướng đi dự định. Còn "lái chịu đòn" nghĩa là người lái tàu phải có trách nhiệm điều khiển bánh lái để đưa con tàu trở lại đúng hướng. Nghĩa bóng của câu tục ngữ "mũi vạy thì lái chịu đòn" thường dùng để nói đến việc bố mẹ phải chịu trách nhiệm về những hành vi sai trái của con cái. Trong gia đình, bố mẹ đóng vai trò như người định hướng để giúp con cái trưởng thành và hoàn thiện bản thân. Khi con mắc lỗi thì bố mẹ phải giáo dục để con sửa sai, rút ra bài học và thậm chí phải chịu trách nhiệm bồi thường khi con gây ra thiệt hại. Hiện hành pháp luật có quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường của bố mẹ trong trường hợp con chưa thành niên gây ra thiệt hại. Con chưa thành niên gây thiệt hại thì ai có trách nhiệm bồi thường? Căn cứ theo khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015, con chưa thành niên là con chưa đủ mười tám tuổi. Căn cứ theo khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015, việc xác định ai chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp con chưa thành niên gây ra thiệt hại còn phụ thuộc vào độ tuổi của con và hoàn cảnh cụ thể của vụ việc, cụ thể như sau: - Trường hợp con chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015. - Trường hợp con từ đủ 15 đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải tự bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Con chưa thành niên có được tự tham gia giao dịch dân sự không? Căn cứ theo khoản 2, 3, 4 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015, việc con chưa thành niên có được tự tham gia giao dịch dân sự hay không còn tùy vào từng độ tuổi của con chưa thành niên và tính chất của giao dịch dân sự, cụ thể như sau: - Trường hợp con chưa đủ 6 tuổi: Giao dịch dân sự của con chưa đủ sáu tuổi sẽ do người đại diện theo pháp luật của con xác lập, thực hiện. - Trường hợp con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi: Con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, ngoại trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. - Trường hợp con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi: Con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, ngoại trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Mức phạt tù áp dụng đối người chưa thành niên phạm tội cao nhất bao nhiêu năm? Căn cứ theo Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: Tù có thời hạn Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định. Như vậy, mức phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn phải dựa vào độ tuổi, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, mức phạt tù cao nhất: + Không quá 18 năm tù nếu phạm vào điều luật có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. + Không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, mức phạt tù cao nhất: + Không quá 12 năm tù nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt chung thân hoặc tử hình. + Không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn. Tóm lại, câu tục ngữ "Mũi vạy thì lái chịu đòn" là một lời nhắc nhở về trách nhiệm của bố mẹ trong việc giáo dục con cái. Khi con cái gây ra thiệt hại thì bố mẹ có thể phải chịu trách nhiệm từ hành vi của con. Do đó, bố mẹ cần yêu thương con đúng cách, có những biện pháp giáo dục phù hợp để con nhận thức được hành vi của mình và có trách nhiệm với những việc mình làm.
Máu chảy ruột mềm có nghĩa là gì? Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái?
Câu thành ngữ "Máu chảy ruột mềm" được hiểu như thế nào? Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì cha mẹ có quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái? Máu chảy ruột mềm có nghĩa là gì? "Máu chảy ruột mềm" là một thành ngữ có ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu thương, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa những các thành viên gia đình. "Máu" và "ruột" là hai bộ phận trong cơ thể con người. Khi "máu chảy", tức là cơ thể đang phải chịu tổn thương, đau đớn thì "ruột" cũng sẽ ảnh hưởng và cảm nhận được sự tổn thương đó. Thành ngữ "Máu chảy ruột mềm" được sử dụng để nói rằng khi một người trong gia đình gặp khó khăn, hoạn nạn thì những người còn lại cũng sẽ cảm nhận như chính bản thân đang trải qua nỗi đau ấy và luôn ở bên cạnh, động viên, an ủi và cùng nhau vượt qua mọi thử thách. Vận dụng câu nói trên vào quy định của pháp luật thì để cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Cụ thể như sau: Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái? Tại Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái như sau: - Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. - Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. - Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. - Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Quyền và nghĩa vụ của con là gì? Tại Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về quyền và nghĩa vụ của con như sau: - Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. - Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. - Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình. "Máu chảy ruột mềm" là câu thành ngữ thể hiện truyền thống quý báu của dân tộc ta, nhờ có tình yêu thương và sự đùm bọc của gia đình, mỗi người sẽ cảm thấy ấm áp, an toàn và có thêm động lực để phấn đấu vươn lên. Theo đó, từ câu thành ngữ trên, ta có thể liên hệ thực tế với quy định của pháp luật rằng để xây dựng một gia đình văn hóa, tiên bộ và hạnh phúc thì mỗi thành viên trong gia đình phải yêu thương và chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau.
Cha mẹ có bị buộc phải trả nợ thay cho con đã thành niên?
Câu hỏi "Cha mẹ có bị buộc phải trả nợ thay cho con?" luôn thu hút sự quan tâm bởi nó liên quan đến vấn đề đạo đức, trách nhiệm và pháp luật (1) Cha mẹ có bị buộc phải trả nợ thay cho con đã thành niên? Việc cha mẹ hỗ trợ con cái về mặt tài chính là điều dễ hiểu, nhưng liệu họ có bị bắt buộc gánh vác khoản nợ do con gây ra? Theo quy định tại Điều 463 Bộ Luật Dân sự 2015, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa bên cho vay và bên vay, do đó, đây có thể được coi là một giao dịch dân sự. Bên cạnh đó, Điều 20 Bộ Luật Dân sự 2015 cũng quy định, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên và người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Và năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Dựa trên các quy định trên có thể hiểu, con từ đủ 18 tuổi trở lên thì phải tự chịu trách nhiệm hoàn toàn với các hành vi do mình xác lập, có trách nhiệm phải trả nợ khoản vay của mình, cha mẹ không có nghĩa vụ và không bị buộc phải trả nợ thay cho con đã thành niên. Tuy nhiên, tục ngữ có câu “con dại cái mang”, theo quy định tại Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 Theo đó, căn cứ Điều 586 Bộ Luật Dân sự 2015, nghĩa vụ bồi thường được quy định như sau: Đối với người chưa đủ 15 tuổi: - Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. - Nếu cha mẹ không đủ khả năng bồi thường, con có tài sản riêng thì sẽ dùng tài sản riêng để bồi thường phần còn thiếu. Đối với người từ 15 đến dưới 18 tuổi: - Bồi thường bằng tài sản của mình. - Nếu tài sản không đủ để bồi thường, cha mẹ sẽ phải bồi thường phần còn thiếu. Đối với người chưa thành niên, mất năng lực hành vi, nhận thức khó khăn: - Người giám hộ dùng tài sản của người được giám hộ để thực hiện việc bồi thường, nếu không đủ, người giám hộ bồi thường bằng tài sản của mình. - Người giám hộ chứng minh không có lỗi sẽ không phải bồi thường. Như vậy, đúng theo câu tục ngữ “con dại cái mang”, cha mẹ sẽ ít nhiều có trách nhiệm và bị buộc bồi thường nếu như con mình xâm phạm đến tài sản của người khác (vay tiền không trả) khi con chưa đủ tuổi thành niên, hoặc đã đủ tuổi thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, hoặc có khó khăn trong nhận thức. Trường hợp con đã từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì phải tự chịu trách nhiệm với mọi giao dịch dân sự mà bản thân là một chủ thể trong đó, cha mẹ không có trách nhiệm phải trả nợ thay cho con trong trường hợp này. (2) Kết luận Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, cha mẹ không có nghĩa vụ pháp lý phải trả nợ thay cho con đã thành niên. Việc cha mẹ có hỗ trợ con thanh toán khoản nợ hay không phụ thuộc vào thỏa thuận và trách nhiệm tự nguyện của họ. Tuy nhiên, cha mẹ nên cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định trả nợ thay con, bởi điều này có thể ảnh hưởng đến tài chính và cuộc sống của bản thân mình. Hơn nữa, cha mẹ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cái về ý thức sử dụng tiền bạc, trách nhiệm tài chính và hậu quả của việc vay nợ. Qua đó, giúp con hình thành thói quen quản lý tài chính hợp lý, tránh mắc phải những khoản nợ không đáng có trong tương lai. Kết lại, việc cha mẹ có trả nợ thay con hay không là một quyết định phức tạp, cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên nhiều yếu tố. Cha mẹ nên có trách nhiệm giáo dục con cái về tài chính để con có ý thức tự lập và tự chịu trách nhiệm cho những hành vi của mình.
HĐTP-TANDTC hướng dẫn trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Mới đây, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, trong đó có hướng dẫn về các trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên (1) Khi nào thì cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên? Theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Theo đó, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Nếu các hành vi vi phạm của cha, mẹ đối với con chưa thành niên đã chấm dứt, Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này. (2) Ai có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên? Ngoài Tòa án, những người được quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 sau đây có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: - Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: + Người thân thích; + Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; + Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; + Hội liên hiệp phụ nữ. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức trên yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Như vậy, để bảo vệ trẻ em đến mức tối đa, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định ngoài Tòa án thì các cá nhân, tổ chức theo quy định trên mà phát hiện ra cha, mẹ của con chưa thành niên có các hành vi vi phạm theo khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. (3) Hướng dẫn của HĐTP TAND Tối cao về trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối Theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết các trường hợp tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Trường hợp “Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý” Là trường hợp cha, mẹ bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý. Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 đối với con chưa thành niên. Trường hợp “Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” Là trường hợp mà cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con hoặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của con. Ví dụ: Cha, mẹ bỏ mặc con chưa thành niên tự sinh sống, không có điều kiện để tự nuôi mình dẫn đến con có hành vi trộm cắp tài sản. Trường hợp “Phá tán tài sản của con” Là trường hợp mà cha, mẹ mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của con mà không vì lợi ích của con. Trường hợp “Có lối sống đồi trụy” Là trường hợp cha, mẹ lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện hoạt động mại dâm. Trường hợp “Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” Là trường hợp mà cha, mẹ hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Ví dụ: xúi giục, ép buộc dẫn đến con bỏ học, trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bên cạnh hướng dẫn, làm rõ chi tiết các hành vi trong từng trường hợp là gì, Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng hình thức hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra quyết định về việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, cụ thể: - Không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ quản lý tài sản của con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ đại diện theo pháp luật cho con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP Về việc Tòa án quyết định rút ngắn thời hạn hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, Hội đồng thẩm phán hướng dẫn như sau: Trong trường hợp cha, mẹ đã thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án và trong thời hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP thì Tòa án xem xét quyết định rút ngắn thời gian hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Từ 15/5, áp dụng mức sinh hoạt phí mới cho cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan VN ở nước ngoài
Thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được nâng gấp đôi mức phí sinh hoạt khi công tác, con chưa thành niên đi theo cũng được nhận các chế độ hỗ trợ của nhà nước (1) Thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là những ai? Tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 08/2019/NĐ-CP nêu rõ, cơ quan Việt Nam ở nước ngoài bao gồm các cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan khác của Việt Nam ở nước ngoài. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài bao gồm: - Cơ quan đại diện ngoại giao - Cơ quan đại diện lãnh sự - Cơ quan đại diện tại tổ chức quốc tế Các cơ quan này thực hiện chức năng đại diện chính thức của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế tiếp nhận theo quy định tại Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài. Cơ quan khác của Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan không thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước hoặc nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật, do các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương thành lập ở nước ngoài theo quy định của pháp luật. Theo đó, các thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước; sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, viên chức, công nhân viên hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc trong lực lượng vũ trang, được cấp có thẩm quyền cử đi công tác nhiệm kỳ tại cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. (2) Nâng mức sinh hoạt phí cho cán bộ, công, viên chức của cơ quan VN ở nước ngoài Ngày 15/5/2024 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 51/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 08/2019/NĐ-CP quy định một số chế độ đối với thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Theo Nghị định 08/2019/NĐ-CP, mức sinh hoạt phí cơ sở áp dụng chung cho tất cả các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là 650 đô-la Mỹ/người/tháng. Tuy nhiên, theo Nghị định 51/2024/NĐ-CP sửa đổi khoản 1 Điều 5 Nghị định 08/2019/NĐ-CP, mức sinh hoạt phí cơ sở áp dụng chung cho tất cả các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được tăng lên thành 1.350 đô-la Mỹ/người/tháng và sẽ được xem xét điều chỉnh khi chỉ số giá tiêu dùng tại các địa bàn tăng từ 10% trở lên hoặc tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Như vậy, mức hỗ trợ phí sinh hoạt cho thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được tăng lên hơn gấp đôi so với mức phí sinh hoạt được hỗ trợ ở Nghị định 08/2019/NĐ-CP. Việc điều chỉnh này nhằm điều chỉnh mức hỗ trợ cho các cán bộ, công chức, viên chức được cử đi công tác tại cơ quan Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với mức lạm phát trong và ngoài nước, đảm bảo cho các thành viên đủ kinh phí chi trả được các phí sinh hoạt khi làm việc ở nước ngoài. (3) Con chưa thành niên đi theo thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được nhận các chế độ hỗ trợ gì? Nghị định 51/2024/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ hỗ trợ cho con chưa thành niên đi theo thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 51/2019/NĐ-CP sửa đổi khoản 2 Điều 12 Nghị định 08/2019/NĐ-CP quy định như sau: “Con chưa thành niên đi theo thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được hỗ trợ chi phí mua bảo hiểm khám, chữa bệnh ở nước ngoài bằng mức mua bảo hiểm khám, chữa bệnh ở nước ngoài dành cho thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Mức hỗ trợ này sẽ được xem xét điều chỉnh tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.” Ngoài ra, con chưa thành niên đi theo thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài còn được hỗ trợ học phí, cụ thể như sau: - Hỗ trợ học phí cấp theo từng tháng trong năm học, áp dụng đối với các trường hợp thực tế có đóng học phí ở nước sở tại. - Mức hỗ trợ học phí tối đa bằng 50% mức sinh hoạt phí cơ sở. Mức hỗ trợ sẽ được xem xét điều chỉnh phù hợp tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. - Điều kiện được hưởng hỗ trợ học phí là tại những địa bàn mà các trường công lập sở tại không có chính sách miễn học phí cho con thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài hoặc những địa bàn mà con của thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài phải học trường ngoài công lập. Nghị định 51/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày ban hành, tức là ngày 15/5/2024.
Con chưa thành niên có được đăng ký thường trú khác nơi ở cha mẹ không?
Làm thủ tục đăng ký thường trú là nghĩa vụ của công dân khi chuyển đến sinh sống, làm việc và học tập thường xuyên tại một nơi nào đó thường cùng một gia đình. Vậy đối với trẻ chưa thành niên thì có được đăng ký thường trú tại nơi ở khác cha mẹ không? 1. Nơi cư trú của người chưa thành niên được quy định ra sao? Theo Điều 12 Luật Cư trú 2020 thì nơi cư trú của người chưa thành niên được quy định như sau: - Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ. - Nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. - Trường hợp không xác định được nơi thường xuyên chung sống thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi do cha, mẹ thỏa thuận. - Trường hợp cha, mẹ không thỏa thuận được thì nơi cư trú của người chưa thành niên do Tòa án quyết định. - Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác, với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định. 2. Trẻ chưa thành niên có được đăng ký thường trú tại nơi khác? Căn cứ Điều 10 Luật Cư trú 2020 quy định thành viên hộ gia đình và chủ hộ khi có thành viên thực hiện cư trú có quyền và nghĩa vụ như sau: - Những người cùng ở tại một chỗ ở hợp pháp và có quan hệ gia đình là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột thì có thể đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú theo hộ gia đình. - Người không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Cư trú 2020 nếu có đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại cùng một chỗ ở hợp pháp theo quy định của Luật này thì được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú vào cùng một hộ gia đình. - Nhiều hộ gia đình có thể đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại cùng một chỗ ở hợp pháp. - Chủ hộ là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ do các thành viên hộ gia đình thống nhất đề cử; trường hợp hộ gia đình không có người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì chủ hộ là người được các thành viên hộ gia đình thống nhất đề cử; trường hợp các thành viên hộ gia đình không đề cử được thì chủ hộ là thành viên hộ gia đình do Tòa án quyết định. Trường hợp hộ gia đình chỉ có một người thì người đó là chủ hộ. - Chủ hộ có quyền và nghĩa vụ thực hiện, tạo điều kiện, hướng dẫn thành viên hộ gia đình thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú và những nội dung khác theo quy định của Luật này; thông báo với cơ quan đăng ký cư trú về việc trong hộ gia đình có thành viên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 29 Luật Cư trú 2020. - Thành viên hộ gia đình có quyền và nghĩa vụ thống nhất đề cử chủ hộ; thực hiện đầy đủ quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Do đó, con chưa thành niên thì có thể đăng ký thường trú tại nơi ở của những thành viên khác trong cùng gia đình của mình, trường hợp khác thì phải đáp ứng các quy định về đăng ký thường trú. 3. Đăng ký thường trú cho người chưa thành niên cần chuẩn bị hồ sơ gì? Hồ sơ đăng ký thường trú đối với người chưa thành niên chuyển đến nơi khác sinh sống thì chuẩn bị theo Điều 21 Luật Cư trú 2020 như sau: Trường hợp người đăng ký thường trú là người chưa thành niên thì trong tờ khai thay đổi thông tin cư trú phải ghi rõ ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ, trừ trường hợp đã có ý kiến đồng ý bằng văn bản. - Hồ sơ đăng ký thường trú đối với người có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó, bao gồm: + Tờ khai thay đổi thông tin cư trú; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh việc sở hữu chỗ ở hợp pháp. - Hồ sơ đăng ký thường trú đối với người quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú 2020 công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng ý bao gồm: + Tờ khai thay đổi thông tin cư trú, trong đó ghi rõ ý kiến đồng ý cho đăng ký thường trú của chủ hộ, chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp hoặc người được ủy quyền, trừ trường hợp đã có ý kiến đồng ý bằng văn bản; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh quan hệ nhân thân với chủ hộ, thành viên hộ gia đình, trừ trường hợp đã có thông tin thể hiện quan hệ này trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh các điều kiện khác quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú 2020. Như vậy, con chưa thành niên vẫn được đăng ký thường trú tại nơi ở khác cha mẹ nếu nơi ở đăng ký là thành viên trong một gia đình hoặc sở hữu của cha mẹ. Trường hợp không cùng gia đình thì phải đáp ứng các điều kiện đăng ký thường trú và tờ khai phải ghi rõ ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không?
Cha, mẹ là những người nuôi dưỡng và nhiều trường hợp phải có trách nhiệm đối với những giao dịch do con chưa thành niên xác lập. Nhưng nhận định cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của con chưa thành niên là đúng hay sai? Giám hộ là gì? Theo Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: Giám hộ là người giám hộ (bao gồm: cá nhân, pháp nhân) thực hiện một số hành vi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ trước pháp luật. Người giám hộ có thể được Cơ quan nhà nước cử hoặc chỉ định hoặc đã là người giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật. Chức năng của người giám hộ sẽ thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ là những người như sau: chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi. Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không? Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: – Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. – Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. – Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 . – Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau: – Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). – Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. – Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau: – Người được giám hộ bao gồm: + Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; + Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; + Người mất năng lực hành vi dân sự; + Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. – Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ. Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt? Căn cứ Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau: – Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. – Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự – Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. – Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác. – Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, từ căn cứ trên nếu trường hợp người đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn cần có người giám hộ.
Con chưa thành niên có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ không?
Tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: 1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: a) Người thân thích; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ. 3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Theo Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định người chưa thành niên như sau: 1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Như vậy, theo quy định trên con chưa thành niên không thể tự mình yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ đối với mình. Trường hợp này con chưa thành niên có thể nhờ người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ.
Sau khi ly hôn thì bên không trực tiếp nuôi con thăm nuôi thế nào?
Ly hôn là kết quả của tình trạng đời sống hôn nhân đi vào bế tắc trong một thời gian dài. Vì một lý do cá nhân nào đó mà cả hai không còn tình cảm hoặc muốn chung sống như vợ, chồng với nhau nữa. Tuy nhiên, hậu quả mà ly hôn dẫn đến không chỉ ảnh hưởng đến vợ chồng mà còn có thể tác động đến con cái của họ. Sau khi ly hôn bên cạnh việc phân chia tài sản còn một vấn đề khác quan trọng không kém đó chính là việc phân định nghĩa vụ chu cấp và quyền thăm con do bên không trực tiếp nuôi con sẽ như thế nào? 1. Bên nào sẽ có quyền nuôi con sau khi ly hôn? Một điều không thể thiếu sau khi ly hôn đó chính là nghĩa vụ và cũng như là quyền nuôi con của các bậc cha mẹ. Đây không những là quyền mà đó được xem như là trách nhiệm giữa các bên, dù là bên nào có quyền nuôi con đi chăng nữa trách nhiệm chăm sóc vẫn là cả hai. Theo đó, tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với con: - Chưa thành niên. - Con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. - Con không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Các trường hợp nêu trên được quy định Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ luật dân sự 2015 và các luật khác có liên quan và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Việc lựa chọn người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con là dựa trên nguyên tắc vợ, chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, lưu ý rằng nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Quyền lợi ở đây có thể dựa trên độ tuổi của trẻ hoặc do tài chính, điều kiện thuận lợi của bên nào có thể nuôi trẻ được tốt hơn. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Như vậy, cả cha và mẹ đều có quyền nuôi con của mình sau khi ly hôn, tuy nhiên trong điều kiện bình thường thì con dưới 36 tháng tuổi phải được giao cho mẹ và con trên 7 tuổi phải xem xét theo nguyện vọng của trẻ. 2. Quyền và nghĩa vụ của bên không trực tiếp nuôi con Sau khi phân định người có quyền trực tiếp nuôi và chăm sóc con thì đối với cha, mẹ không trực tiếp nuôi con thì căn cứ theo Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định Nghĩa vụ, quyền đối với con như sau: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Việc trẻ đã có nhận thức rõ ràng thì trên nguyên tắc phải tôn trọng ý kiến của con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, dù không giành được quyền nuôi con trực tiếp nhưng cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ chu cấp cho con theo thỏa thuận và mức lương tối thiểu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Theo đó, các bên phải tôn trọng nguyên tắc trên sau khi ly hôn và thực hiện nghĩa vụ nuôi con theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Việc các bên không tôn trọng các nguyên tắc như đã quy định thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, các thành viên trong gia đình của hai bên cần tôn trọng quyền nuôi con hoặc không được cản trở người thăm nuôi, chăm sóc, giáo dục con. 3. Trường hợp có thay đổi người trực tiếp nuôi con Trong trường hợp mà các bên không còn đủ điều kiện nuôi con hoặc theo nguyện vọng của con thì có thể thực hiện việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, căn cứ theo Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 bao gồm các trường hợp sau: (1) Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại mục (5), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. (2) Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây: - Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con. - Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. (3) Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. (4) Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự. (5) Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại mục (2 ) thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con: - Người thân thích. - Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình. - Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. - Hội liên hiệp phụ nữ. Việc thăm nuôi con là quyền của bên không trực tiếp nuôi con và họ cũng có nghĩa vụ chu cấp cũng như dạy dỗ con cái sau khi ly hôn. Bên trực tiếp nuôi con cùng với gia đình không được có hành vi ngăn cấm bên thăm nuôi.
Cha mẹ chết, ai là người đại diện của con chưa thành niên?
Đại diện cho con chưa thành niên khi cha mẹ chết Những giao dịch của người chưa thành niên cần có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật và cha mẹ chính là người đại diện đó. Trong trường hợp cha mẹ mất, ai sẽ là người thực hiện vai trò này? Ai đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên? Điều 136 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về người đại diện theo pháp luật của cá nhân: “Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân 1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. …” Theo đó, ngoài cha mẹ, đối tượng kế tiếp có thể trở thành đại diện theo pháp luật của một cá nhân là người giám hộ. Giám hộ của con chưa thành niên là ai? Những đối tượng được giám hộ theo Điều 47 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm: “1. Người được giám hộ bao gồm: a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; …” Theo đó, con cái chưa thành niên mà không còn cha, mẹ thì sẽ là đối tượng đương nhiên có người giám hộ, những người có thể trở thành giám hộ trong trường hợp này theo Điều 52 BLDS 2015 là: (1) Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. (2) Trường hợp anh, chị em ruột không còn hoặc không có thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. (3) Trường hợp không còn ai ở mục (1) và (2) còn sống thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ. Trong trường hợp không còn ai ở 3 trường hợp kể trên, con chưa thành niên sẽ được cử người giám hộ theo quy định tại Điều 54 BLDS như sau: - Trường hợp người chưa thành niên không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 52 thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ. - Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 về người giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ. - Trường hợp cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người này. - Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ, được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ. Như vậy, khi cha mẹ chết, con chưa thành niên sẽ có người giám hộ đương nhiên là 1 trong số các thành viên trong gia đình hoặc họ hàng, nếu không ai trong họ hàng còn sống hoặc tranh chấp nên không chọn ra được người giám hộ đương nhiên thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải cử người giám hộ.
Con chưa thành niên có ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không?
Căn cứ Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015: "Điều 21. Người chưa thành niên ... 4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý." Bên cạnh đó Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: "Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân 1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên." Như vậy, nếu người con 16 tuổi thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, riêng đối với giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải được ba mẹ đồng ý. Theo đó, người con vẫn ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng nhưng kèm theo đó là văn bản thể hiện sự đồng ý của cha, mẹ về việc người con tham gia giao dịch này.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra
* Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Theo đó, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra khi: - Thứ nhất, có quan hệ cha mẹ với người gây thiệt hại: Theo quy định nêu trên, trách nhiệm của cha mẹ chỉ phát sinh đối với thiệt hại do con gây ra. Điều đó có nghĩa là giữa những người gây thiệt hại và người chúng ta muốn quy trách nhiệm phải có quan hệ cha mẹ con. Ở đây, không có sự phân biệt giữa quan hệ cha mẹ đẻ và quan hệ cha mẹ nuôi. Cha mẹ ở đây nên hiểu là cha mẹ có quan hệ gia đình (được pháp luật thừa nhận). - Thứ hai, đáp ứng được điều kiện về tuổi và tình trạng tài sản của người con gây thiệt hại: + Người gây thiệt hại là “người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi”: Trường hợp này cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường vào phần còn thiếu; + Người gây thiệt hại là người “từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi”: Trường hợp này người gây thiệt hại phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu tài sản không đủ để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường tài sản còn thiếu.
Con cháu dại thì hại ông cha là gì? Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi nào?
Con cháu dại thì hại ông cha là gì? Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi nào - đặt trong trường hợp con phát triển bình thường? Con cháu dại thì hại ông cha là gì? Câu tục ngữ "Con cháu dại thì hại ông cha" là sự đúc kết từ tích lũy kinh nghiệm nhất là kinh nghiệm sống về mối quan hệ mật thiết giữa các thế hệ trong gia đình Việt Nam. "Con cháu dại thì hại ông cha" dùng để ám chỉ việc con cháu trong nhà gây ra những lỗi lầm trong cuộc sống dù là vô tình hay cố ý cũng dẫn đến hệ lụy là ảnh hưởng không tốt đến các thành viên trong gia đình, đặc biệt là ông bà, cha mẹ. Từ "hại" ở đây dùng để ám chỉ những thiệt hại về vật chất, danh dự gia đình, tinh thần thậm chí là sức khỏe. "Con cháu dại thì hại ông cha" không chỉ phản ánh một thực tế xã hội mà còn hàm chứa những giá trị đạo đức sâu xa về trách nhiệm, đạo hiếu và sự ảnh hưởng tương hỗ giữa các thành viên trong gia đình. "Con cháu dại thì hại ông cha" còn như một lời nhắc nhở rằng hành vi của con cháu không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn tác động trực tiếp đến danh dự của gia đình, tổ tiên từ đó giúp con cháu nhận ra được vai trò của bản thân trong gia đình mà có thể điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình. Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi nào? Xét dưới góc độ pháp lý, vấn đề bồi thường thiệt hại do con gây ra được quy định tại Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể như sau: Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự. Dẫn chiếu đến Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau: (1) Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. (2) Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. (3) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; Nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Như vậy, cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi con chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, nếu con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Tóm lại, "Con cháu dại thì hại ông cha" có thể được hiểu là những lỗi lầm của con cháu dù là vô ý hay cố ý không chỉ ảnh hưởng đến bản thân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến không chỉ về mặt vật chất mà còn là về danh dự của gia đình, tổ tiên. Do đó, câu nói như một lời nhắc nhở để con con cháu trong gia đình có thể điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với truyền thống tốt đẹp của gia đình. Đồng thời, trên tinh thần của câu tục ngữ "Con cháu dại thì hại ông cha", xét dưới góc độ pháp lý, đặt trong trường hợp con phát triển bình thường thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do con gây ra khi con chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật Dân sự 2015.
Mũi vạy thì lái chịu đòn là gì? Con chưa thành niên gây thiệt hại thì ai có trách nhiệm bồi thường?
Câu tục ngữ "Mũi vạy thì lái chịu đòn" được hiểu như thế nào? Trường hợp con chưa thành niên gây ra thiệt hại thì ai phải có trách nhiệm bồi thường? Mũi vạy thì lái chịu đòn là gì? "Mũi vạy thì lái chịu đòn" là một câu tục ngữ của Việt Nam nhấn mạnh vai trò quan trọng của người đứng đầu trong việc giải quyết khó khăn, đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm cuối cùng. Câu tục ngữ "Mũi vạy thì lái chịu đòn" hiểu theo nghĩa đen thì "mũi vạy" minh họa cho hình ảnh con tàu bị lệch khỏi hướng đi dự định. Còn "lái chịu đòn" nghĩa là người lái tàu phải có trách nhiệm điều khiển bánh lái để đưa con tàu trở lại đúng hướng. Nghĩa bóng của câu tục ngữ "mũi vạy thì lái chịu đòn" thường dùng để nói đến việc bố mẹ phải chịu trách nhiệm về những hành vi sai trái của con cái. Trong gia đình, bố mẹ đóng vai trò như người định hướng để giúp con cái trưởng thành và hoàn thiện bản thân. Khi con mắc lỗi thì bố mẹ phải giáo dục để con sửa sai, rút ra bài học và thậm chí phải chịu trách nhiệm bồi thường khi con gây ra thiệt hại. Hiện hành pháp luật có quy định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường của bố mẹ trong trường hợp con chưa thành niên gây ra thiệt hại. Con chưa thành niên gây thiệt hại thì ai có trách nhiệm bồi thường? Căn cứ theo khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015, con chưa thành niên là con chưa đủ mười tám tuổi. Căn cứ theo khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự 2015, việc xác định ai chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp con chưa thành niên gây ra thiệt hại còn phụ thuộc vào độ tuổi của con và hoàn cảnh cụ thể của vụ việc, cụ thể như sau: - Trường hợp con chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 Bộ luật Dân sự 2015. - Trường hợp con từ đủ 15 đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải tự bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Con chưa thành niên có được tự tham gia giao dịch dân sự không? Căn cứ theo khoản 2, 3, 4 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015, việc con chưa thành niên có được tự tham gia giao dịch dân sự hay không còn tùy vào từng độ tuổi của con chưa thành niên và tính chất của giao dịch dân sự, cụ thể như sau: - Trường hợp con chưa đủ 6 tuổi: Giao dịch dân sự của con chưa đủ sáu tuổi sẽ do người đại diện theo pháp luật của con xác lập, thực hiện. - Trường hợp con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi: Con từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, ngoại trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. - Trường hợp con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi: Con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, ngoại trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Mức phạt tù áp dụng đối người chưa thành niên phạm tội cao nhất bao nhiêu năm? Căn cứ theo Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau: Tù có thời hạn Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định. Như vậy, mức phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn phải dựa vào độ tuổi, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, mức phạt tù cao nhất: + Không quá 18 năm tù nếu phạm vào điều luật có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. + Không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, mức phạt tù cao nhất: + Không quá 12 năm tù nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt chung thân hoặc tử hình. + Không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn. Tóm lại, câu tục ngữ "Mũi vạy thì lái chịu đòn" là một lời nhắc nhở về trách nhiệm của bố mẹ trong việc giáo dục con cái. Khi con cái gây ra thiệt hại thì bố mẹ có thể phải chịu trách nhiệm từ hành vi của con. Do đó, bố mẹ cần yêu thương con đúng cách, có những biện pháp giáo dục phù hợp để con nhận thức được hành vi của mình và có trách nhiệm với những việc mình làm.
Máu chảy ruột mềm có nghĩa là gì? Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái?
Câu thành ngữ "Máu chảy ruột mềm" được hiểu như thế nào? Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì cha mẹ có quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái? Máu chảy ruột mềm có nghĩa là gì? "Máu chảy ruột mềm" là một thành ngữ có ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu thương, mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa những các thành viên gia đình. "Máu" và "ruột" là hai bộ phận trong cơ thể con người. Khi "máu chảy", tức là cơ thể đang phải chịu tổn thương, đau đớn thì "ruột" cũng sẽ ảnh hưởng và cảm nhận được sự tổn thương đó. Thành ngữ "Máu chảy ruột mềm" được sử dụng để nói rằng khi một người trong gia đình gặp khó khăn, hoạn nạn thì những người còn lại cũng sẽ cảm nhận như chính bản thân đang trải qua nỗi đau ấy và luôn ở bên cạnh, động viên, an ủi và cùng nhau vượt qua mọi thử thách. Vận dụng câu nói trên vào quy định của pháp luật thì để cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Cụ thể như sau: Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái? Tại Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái như sau: - Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. - Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. - Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. - Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Quyền và nghĩa vụ của con là gì? Tại Điều 70 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về quyền và nghĩa vụ của con như sau: - Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. - Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. - Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. - Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. - Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình. "Máu chảy ruột mềm" là câu thành ngữ thể hiện truyền thống quý báu của dân tộc ta, nhờ có tình yêu thương và sự đùm bọc của gia đình, mỗi người sẽ cảm thấy ấm áp, an toàn và có thêm động lực để phấn đấu vươn lên. Theo đó, từ câu thành ngữ trên, ta có thể liên hệ thực tế với quy định của pháp luật rằng để xây dựng một gia đình văn hóa, tiên bộ và hạnh phúc thì mỗi thành viên trong gia đình phải yêu thương và chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau.
Cha mẹ có bị buộc phải trả nợ thay cho con đã thành niên?
Câu hỏi "Cha mẹ có bị buộc phải trả nợ thay cho con?" luôn thu hút sự quan tâm bởi nó liên quan đến vấn đề đạo đức, trách nhiệm và pháp luật (1) Cha mẹ có bị buộc phải trả nợ thay cho con đã thành niên? Việc cha mẹ hỗ trợ con cái về mặt tài chính là điều dễ hiểu, nhưng liệu họ có bị bắt buộc gánh vác khoản nợ do con gây ra? Theo quy định tại Điều 463 Bộ Luật Dân sự 2015, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa bên cho vay và bên vay, do đó, đây có thể được coi là một giao dịch dân sự. Bên cạnh đó, Điều 20 Bộ Luật Dân sự 2015 cũng quy định, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên và người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Và năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Dựa trên các quy định trên có thể hiểu, con từ đủ 18 tuổi trở lên thì phải tự chịu trách nhiệm hoàn toàn với các hành vi do mình xác lập, có trách nhiệm phải trả nợ khoản vay của mình, cha mẹ không có nghĩa vụ và không bị buộc phải trả nợ thay cho con đã thành niên. Tuy nhiên, tục ngữ có câu “con dại cái mang”, theo quy định tại Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 Theo đó, căn cứ Điều 586 Bộ Luật Dân sự 2015, nghĩa vụ bồi thường được quy định như sau: Đối với người chưa đủ 15 tuổi: - Cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. - Nếu cha mẹ không đủ khả năng bồi thường, con có tài sản riêng thì sẽ dùng tài sản riêng để bồi thường phần còn thiếu. Đối với người từ 15 đến dưới 18 tuổi: - Bồi thường bằng tài sản của mình. - Nếu tài sản không đủ để bồi thường, cha mẹ sẽ phải bồi thường phần còn thiếu. Đối với người chưa thành niên, mất năng lực hành vi, nhận thức khó khăn: - Người giám hộ dùng tài sản của người được giám hộ để thực hiện việc bồi thường, nếu không đủ, người giám hộ bồi thường bằng tài sản của mình. - Người giám hộ chứng minh không có lỗi sẽ không phải bồi thường. Như vậy, đúng theo câu tục ngữ “con dại cái mang”, cha mẹ sẽ ít nhiều có trách nhiệm và bị buộc bồi thường nếu như con mình xâm phạm đến tài sản của người khác (vay tiền không trả) khi con chưa đủ tuổi thành niên, hoặc đã đủ tuổi thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, hoặc có khó khăn trong nhận thức. Trường hợp con đã từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì phải tự chịu trách nhiệm với mọi giao dịch dân sự mà bản thân là một chủ thể trong đó, cha mẹ không có trách nhiệm phải trả nợ thay cho con trong trường hợp này. (2) Kết luận Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, cha mẹ không có nghĩa vụ pháp lý phải trả nợ thay cho con đã thành niên. Việc cha mẹ có hỗ trợ con thanh toán khoản nợ hay không phụ thuộc vào thỏa thuận và trách nhiệm tự nguyện của họ. Tuy nhiên, cha mẹ nên cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định trả nợ thay con, bởi điều này có thể ảnh hưởng đến tài chính và cuộc sống của bản thân mình. Hơn nữa, cha mẹ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục con cái về ý thức sử dụng tiền bạc, trách nhiệm tài chính và hậu quả của việc vay nợ. Qua đó, giúp con hình thành thói quen quản lý tài chính hợp lý, tránh mắc phải những khoản nợ không đáng có trong tương lai. Kết lại, việc cha mẹ có trả nợ thay con hay không là một quyết định phức tạp, cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên nhiều yếu tố. Cha mẹ nên có trách nhiệm giáo dục con cái về tài chính để con có ý thức tự lập và tự chịu trách nhiệm cho những hành vi của mình.
HĐTP-TANDTC hướng dẫn trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Mới đây, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, trong đó có hướng dẫn về các trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên (1) Khi nào thì cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên? Theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Theo đó, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án sẽ ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Nếu các hành vi vi phạm của cha, mẹ đối với con chưa thành niên đã chấm dứt, Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này. (2) Ai có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên? Ngoài Tòa án, những người được quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 sau đây có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: - Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: + Người thân thích; + Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; + Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; + Hội liên hiệp phụ nữ. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức trên yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Như vậy, để bảo vệ trẻ em đến mức tối đa, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định ngoài Tòa án thì các cá nhân, tổ chức theo quy định trên mà phát hiện ra cha, mẹ của con chưa thành niên có các hành vi vi phạm theo khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. (3) Hướng dẫn của HĐTP TAND Tối cao về trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối Theo quy định tại Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn chi tiết các trường hợp tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau: Trường hợp “Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý” Là trường hợp cha, mẹ bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý. Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 đối với con chưa thành niên. Trường hợp “Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” Là trường hợp mà cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con hoặc làm tổn hại đến sự phát triển toàn diện của con. Ví dụ: Cha, mẹ bỏ mặc con chưa thành niên tự sinh sống, không có điều kiện để tự nuôi mình dẫn đến con có hành vi trộm cắp tài sản. Trường hợp “Phá tán tài sản của con” Là trường hợp mà cha, mẹ mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của con mà không vì lợi ích của con. Trường hợp “Có lối sống đồi trụy” Là trường hợp cha, mẹ lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện hoạt động mại dâm. Trường hợp “Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” Là trường hợp mà cha, mẹ hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Ví dụ: xúi giục, ép buộc dẫn đến con bỏ học, trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bên cạnh hướng dẫn, làm rõ chi tiết các hành vi trong từng trường hợp là gì, Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng hình thức hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra quyết định về việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, cụ thể: - Không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ quản lý tài sản của con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP - Không cho cha, mẹ đại diện theo pháp luật cho con khi cha, mẹ có hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP Về việc Tòa án quyết định rút ngắn thời hạn hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, Hội đồng thẩm phán hướng dẫn như sau: Trong trường hợp cha, mẹ đã thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án và trong thời hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP thì Tòa án xem xét quyết định rút ngắn thời gian hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Từ 15/5, áp dụng mức sinh hoạt phí mới cho cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan VN ở nước ngoài
Thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được nâng gấp đôi mức phí sinh hoạt khi công tác, con chưa thành niên đi theo cũng được nhận các chế độ hỗ trợ của nhà nước (1) Thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là những ai? Tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 08/2019/NĐ-CP nêu rõ, cơ quan Việt Nam ở nước ngoài bao gồm các cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan khác của Việt Nam ở nước ngoài. Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài bao gồm: - Cơ quan đại diện ngoại giao - Cơ quan đại diện lãnh sự - Cơ quan đại diện tại tổ chức quốc tế Các cơ quan này thực hiện chức năng đại diện chính thức của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế tiếp nhận theo quy định tại Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài. Cơ quan khác của Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan không thuộc cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước hoặc nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật, do các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương thành lập ở nước ngoài theo quy định của pháp luật. Theo đó, các thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hưởng lương từ ngân sách nhà nước; sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, viên chức, công nhân viên hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc trong lực lượng vũ trang, được cấp có thẩm quyền cử đi công tác nhiệm kỳ tại cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. (2) Nâng mức sinh hoạt phí cho cán bộ, công, viên chức của cơ quan VN ở nước ngoài Ngày 15/5/2024 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 51/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 08/2019/NĐ-CP quy định một số chế độ đối với thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Theo Nghị định 08/2019/NĐ-CP, mức sinh hoạt phí cơ sở áp dụng chung cho tất cả các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài là 650 đô-la Mỹ/người/tháng. Tuy nhiên, theo Nghị định 51/2024/NĐ-CP sửa đổi khoản 1 Điều 5 Nghị định 08/2019/NĐ-CP, mức sinh hoạt phí cơ sở áp dụng chung cho tất cả các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được tăng lên thành 1.350 đô-la Mỹ/người/tháng và sẽ được xem xét điều chỉnh khi chỉ số giá tiêu dùng tại các địa bàn tăng từ 10% trở lên hoặc tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Như vậy, mức hỗ trợ phí sinh hoạt cho thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được tăng lên hơn gấp đôi so với mức phí sinh hoạt được hỗ trợ ở Nghị định 08/2019/NĐ-CP. Việc điều chỉnh này nhằm điều chỉnh mức hỗ trợ cho các cán bộ, công chức, viên chức được cử đi công tác tại cơ quan Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với mức lạm phát trong và ngoài nước, đảm bảo cho các thành viên đủ kinh phí chi trả được các phí sinh hoạt khi làm việc ở nước ngoài. (3) Con chưa thành niên đi theo thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được nhận các chế độ hỗ trợ gì? Nghị định 51/2024/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ hỗ trợ cho con chưa thành niên đi theo thành viên của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 51/2019/NĐ-CP sửa đổi khoản 2 Điều 12 Nghị định 08/2019/NĐ-CP quy định như sau: “Con chưa thành niên đi theo thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài được hỗ trợ chi phí mua bảo hiểm khám, chữa bệnh ở nước ngoài bằng mức mua bảo hiểm khám, chữa bệnh ở nước ngoài dành cho thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài. Mức hỗ trợ này sẽ được xem xét điều chỉnh tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.” Ngoài ra, con chưa thành niên đi theo thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài còn được hỗ trợ học phí, cụ thể như sau: - Hỗ trợ học phí cấp theo từng tháng trong năm học, áp dụng đối với các trường hợp thực tế có đóng học phí ở nước sở tại. - Mức hỗ trợ học phí tối đa bằng 50% mức sinh hoạt phí cơ sở. Mức hỗ trợ sẽ được xem xét điều chỉnh phù hợp tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. - Điều kiện được hưởng hỗ trợ học phí là tại những địa bàn mà các trường công lập sở tại không có chính sách miễn học phí cho con thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài hoặc những địa bàn mà con của thành viên cơ quan Việt Nam ở nước ngoài phải học trường ngoài công lập. Nghị định 51/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày ban hành, tức là ngày 15/5/2024.
Con chưa thành niên có được đăng ký thường trú khác nơi ở cha mẹ không?
Làm thủ tục đăng ký thường trú là nghĩa vụ của công dân khi chuyển đến sinh sống, làm việc và học tập thường xuyên tại một nơi nào đó thường cùng một gia đình. Vậy đối với trẻ chưa thành niên thì có được đăng ký thường trú tại nơi ở khác cha mẹ không? 1. Nơi cư trú của người chưa thành niên được quy định ra sao? Theo Điều 12 Luật Cư trú 2020 thì nơi cư trú của người chưa thành niên được quy định như sau: - Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ. - Nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. - Trường hợp không xác định được nơi thường xuyên chung sống thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi do cha, mẹ thỏa thuận. - Trường hợp cha, mẹ không thỏa thuận được thì nơi cư trú của người chưa thành niên do Tòa án quyết định. - Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác, với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định. 2. Trẻ chưa thành niên có được đăng ký thường trú tại nơi khác? Căn cứ Điều 10 Luật Cư trú 2020 quy định thành viên hộ gia đình và chủ hộ khi có thành viên thực hiện cư trú có quyền và nghĩa vụ như sau: - Những người cùng ở tại một chỗ ở hợp pháp và có quan hệ gia đình là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột thì có thể đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú theo hộ gia đình. - Người không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Cư trú 2020 nếu có đủ điều kiện đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại cùng một chỗ ở hợp pháp theo quy định của Luật này thì được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú vào cùng một hộ gia đình. - Nhiều hộ gia đình có thể đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại cùng một chỗ ở hợp pháp. - Chủ hộ là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ do các thành viên hộ gia đình thống nhất đề cử; trường hợp hộ gia đình không có người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì chủ hộ là người được các thành viên hộ gia đình thống nhất đề cử; trường hợp các thành viên hộ gia đình không đề cử được thì chủ hộ là thành viên hộ gia đình do Tòa án quyết định. Trường hợp hộ gia đình chỉ có một người thì người đó là chủ hộ. - Chủ hộ có quyền và nghĩa vụ thực hiện, tạo điều kiện, hướng dẫn thành viên hộ gia đình thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú và những nội dung khác theo quy định của Luật này; thông báo với cơ quan đăng ký cư trú về việc trong hộ gia đình có thành viên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 24, khoản 1 Điều 29 Luật Cư trú 2020. - Thành viên hộ gia đình có quyền và nghĩa vụ thống nhất đề cử chủ hộ; thực hiện đầy đủ quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Do đó, con chưa thành niên thì có thể đăng ký thường trú tại nơi ở của những thành viên khác trong cùng gia đình của mình, trường hợp khác thì phải đáp ứng các quy định về đăng ký thường trú. 3. Đăng ký thường trú cho người chưa thành niên cần chuẩn bị hồ sơ gì? Hồ sơ đăng ký thường trú đối với người chưa thành niên chuyển đến nơi khác sinh sống thì chuẩn bị theo Điều 21 Luật Cư trú 2020 như sau: Trường hợp người đăng ký thường trú là người chưa thành niên thì trong tờ khai thay đổi thông tin cư trú phải ghi rõ ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ, trừ trường hợp đã có ý kiến đồng ý bằng văn bản. - Hồ sơ đăng ký thường trú đối với người có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó, bao gồm: + Tờ khai thay đổi thông tin cư trú; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh việc sở hữu chỗ ở hợp pháp. - Hồ sơ đăng ký thường trú đối với người quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú 2020 công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng ý bao gồm: + Tờ khai thay đổi thông tin cư trú, trong đó ghi rõ ý kiến đồng ý cho đăng ký thường trú của chủ hộ, chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp hoặc người được ủy quyền, trừ trường hợp đã có ý kiến đồng ý bằng văn bản; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh quan hệ nhân thân với chủ hộ, thành viên hộ gia đình, trừ trường hợp đã có thông tin thể hiện quan hệ này trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú; + Giấy tờ, tài liệu chứng minh các điều kiện khác quy định tại điểm b, điểm c khoản 2 Điều 20 Luật Cư trú 2020. Như vậy, con chưa thành niên vẫn được đăng ký thường trú tại nơi ở khác cha mẹ nếu nơi ở đăng ký là thành viên trong một gia đình hoặc sở hữu của cha mẹ. Trường hợp không cùng gia đình thì phải đáp ứng các điều kiện đăng ký thường trú và tờ khai phải ghi rõ ý kiến đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không?
Cha, mẹ là những người nuôi dưỡng và nhiều trường hợp phải có trách nhiệm đối với những giao dịch do con chưa thành niên xác lập. Nhưng nhận định cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của con chưa thành niên là đúng hay sai? Giám hộ là gì? Theo Điều 46 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: Giám hộ là người giám hộ (bao gồm: cá nhân, pháp nhân) thực hiện một số hành vi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ trước pháp luật. Người giám hộ có thể được Cơ quan nhà nước cử hoặc chỉ định hoặc đã là người giám hộ đương nhiên theo quy định pháp luật. Chức năng của người giám hộ sẽ thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ là những người như sau: chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi. Con chưa thành niên thì đương nhiên người giám hộ là cha mẹ phải không? Căn cứ Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: – Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. – Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. – Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 . – Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Căn cứ Điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giám hộ như sau: – Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ). – Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu. – Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người được giám hộ như sau: – Người được giám hộ bao gồm: + Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; + Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; + Người mất năng lực hành vi dân sự; + Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. – Một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Như vậy, trường hợp cha mẹ còn sống sẽ là người đại diện của con chưa thành niên chứ không phải người giám hộ. Chỉ khi người chưa thành niên không còn cha mẹ; cha và mẹ mất năng lực hành vi dân sự; cha và mẹ có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con; hoặc không xác định được cha mẹ mới đặt ra vấn đề người giám hộ. Khi người được giám hộ đủ 18 tuổi thì việc giám hộ có chấm dứt? Căn cứ Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau: – Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. – Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Căn cứ Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự – Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện. – Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác. – Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, từ căn cứ trên nếu trường hợp người đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì vẫn cần có người giám hộ.
Con chưa thành niên có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ không?
Tại Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên như sau: 1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên: a) Người thân thích; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ. 3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Theo Khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định người chưa thành niên như sau: 1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Như vậy, theo quy định trên con chưa thành niên không thể tự mình yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ đối với mình. Trường hợp này con chưa thành niên có thể nhờ người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc hội liên hiệp phụ nữ yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ.
Sau khi ly hôn thì bên không trực tiếp nuôi con thăm nuôi thế nào?
Ly hôn là kết quả của tình trạng đời sống hôn nhân đi vào bế tắc trong một thời gian dài. Vì một lý do cá nhân nào đó mà cả hai không còn tình cảm hoặc muốn chung sống như vợ, chồng với nhau nữa. Tuy nhiên, hậu quả mà ly hôn dẫn đến không chỉ ảnh hưởng đến vợ chồng mà còn có thể tác động đến con cái của họ. Sau khi ly hôn bên cạnh việc phân chia tài sản còn một vấn đề khác quan trọng không kém đó chính là việc phân định nghĩa vụ chu cấp và quyền thăm con do bên không trực tiếp nuôi con sẽ như thế nào? 1. Bên nào sẽ có quyền nuôi con sau khi ly hôn? Một điều không thể thiếu sau khi ly hôn đó chính là nghĩa vụ và cũng như là quyền nuôi con của các bậc cha mẹ. Đây không những là quyền mà đó được xem như là trách nhiệm giữa các bên, dù là bên nào có quyền nuôi con đi chăng nữa trách nhiệm chăm sóc vẫn là cả hai. Theo đó, tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với con: - Chưa thành niên. - Con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. - Con không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Các trường hợp nêu trên được quy định Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ luật dân sự 2015 và các luật khác có liên quan và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Việc lựa chọn người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con là dựa trên nguyên tắc vợ, chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, lưu ý rằng nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Quyền lợi ở đây có thể dựa trên độ tuổi của trẻ hoặc do tài chính, điều kiện thuận lợi của bên nào có thể nuôi trẻ được tốt hơn. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Như vậy, cả cha và mẹ đều có quyền nuôi con của mình sau khi ly hôn, tuy nhiên trong điều kiện bình thường thì con dưới 36 tháng tuổi phải được giao cho mẹ và con trên 7 tuổi phải xem xét theo nguyện vọng của trẻ. 2. Quyền và nghĩa vụ của bên không trực tiếp nuôi con Sau khi phân định người có quyền trực tiếp nuôi và chăm sóc con thì đối với cha, mẹ không trực tiếp nuôi con thì căn cứ theo Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định Nghĩa vụ, quyền đối với con như sau: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Việc trẻ đã có nhận thức rõ ràng thì trên nguyên tắc phải tôn trọng ý kiến của con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, dù không giành được quyền nuôi con trực tiếp nhưng cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ chu cấp cho con theo thỏa thuận và mức lương tối thiểu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Theo đó, các bên phải tôn trọng nguyên tắc trên sau khi ly hôn và thực hiện nghĩa vụ nuôi con theo Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Việc các bên không tôn trọng các nguyên tắc như đã quy định thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, các thành viên trong gia đình của hai bên cần tôn trọng quyền nuôi con hoặc không được cản trở người thăm nuôi, chăm sóc, giáo dục con. 3. Trường hợp có thay đổi người trực tiếp nuôi con Trong trường hợp mà các bên không còn đủ điều kiện nuôi con hoặc theo nguyện vọng của con thì có thể thực hiện việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, căn cứ theo Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 bao gồm các trường hợp sau: (1) Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại mục (5), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. (2) Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây: - Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con. - Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. (3) Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. (4) Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự. (5) Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại mục (2 ) thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con: - Người thân thích. - Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình. - Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. - Hội liên hiệp phụ nữ. Việc thăm nuôi con là quyền của bên không trực tiếp nuôi con và họ cũng có nghĩa vụ chu cấp cũng như dạy dỗ con cái sau khi ly hôn. Bên trực tiếp nuôi con cùng với gia đình không được có hành vi ngăn cấm bên thăm nuôi.
Cha mẹ chết, ai là người đại diện của con chưa thành niên?
Đại diện cho con chưa thành niên khi cha mẹ chết Những giao dịch của người chưa thành niên cần có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật và cha mẹ chính là người đại diện đó. Trong trường hợp cha mẹ mất, ai sẽ là người thực hiện vai trò này? Ai đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên? Điều 136 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về người đại diện theo pháp luật của cá nhân: “Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân 1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. 2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. …” Theo đó, ngoài cha mẹ, đối tượng kế tiếp có thể trở thành đại diện theo pháp luật của một cá nhân là người giám hộ. Giám hộ của con chưa thành niên là ai? Những đối tượng được giám hộ theo Điều 47 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm: “1. Người được giám hộ bao gồm: a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; …” Theo đó, con cái chưa thành niên mà không còn cha, mẹ thì sẽ là đối tượng đương nhiên có người giám hộ, những người có thể trở thành giám hộ trong trường hợp này theo Điều 52 BLDS 2015 là: (1) Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ. (2) Trường hợp anh, chị em ruột không còn hoặc không có thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ. (3) Trường hợp không còn ai ở mục (1) và (2) còn sống thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ. Trong trường hợp không còn ai ở 3 trường hợp kể trên, con chưa thành niên sẽ được cử người giám hộ theo quy định tại Điều 54 BLDS như sau: - Trường hợp người chưa thành niên không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 52 thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ. - Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 về người giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ. - Trường hợp cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người này. - Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ, được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ. Như vậy, khi cha mẹ chết, con chưa thành niên sẽ có người giám hộ đương nhiên là 1 trong số các thành viên trong gia đình hoặc họ hàng, nếu không ai trong họ hàng còn sống hoặc tranh chấp nên không chọn ra được người giám hộ đương nhiên thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải cử người giám hộ.
Con chưa thành niên có ký tên trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không?
Căn cứ Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015: "Điều 21. Người chưa thành niên ... 4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý." Bên cạnh đó Điều 136 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân như sau: "Điều 136. Đại diện theo pháp luật của cá nhân 1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên." Như vậy, nếu người con 16 tuổi thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, riêng đối với giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải được ba mẹ đồng ý. Theo đó, người con vẫn ký tên trên hợp đồng chuyển nhượng nhưng kèm theo đó là văn bản thể hiện sự đồng ý của cha, mẹ về việc người con tham gia giao dịch này.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra
* Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Theo đó, cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra khi: - Thứ nhất, có quan hệ cha mẹ với người gây thiệt hại: Theo quy định nêu trên, trách nhiệm của cha mẹ chỉ phát sinh đối với thiệt hại do con gây ra. Điều đó có nghĩa là giữa những người gây thiệt hại và người chúng ta muốn quy trách nhiệm phải có quan hệ cha mẹ con. Ở đây, không có sự phân biệt giữa quan hệ cha mẹ đẻ và quan hệ cha mẹ nuôi. Cha mẹ ở đây nên hiểu là cha mẹ có quan hệ gia đình (được pháp luật thừa nhận). - Thứ hai, đáp ứng được điều kiện về tuổi và tình trạng tài sản của người con gây thiệt hại: + Người gây thiệt hại là “người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi”: Trường hợp này cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường vào phần còn thiếu; + Người gây thiệt hại là người “từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi”: Trường hợp này người gây thiệt hại phải bồi thường bằng tài sản của mình, nếu tài sản không đủ để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường tài sản còn thiếu.