Chồng mất tích quay về nhưng vợ đã lấy chồng khác thì ai là chồng hợp pháp?
Pháp luật có cho phép vợ lấy chồng khác khi người chồng đã mất tích không? Nếu như người chồng đã mất tích và sau đó người vợ đi lấy chồng khác, lúc chồng cũ mất tích quay trở về thì ai sẽ là chồng hợp pháp? Pháp luật có cho phép vợ lấy chồng khác khi chồng đã mất tích không? Theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đồng thời, theo Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, nếu người vợ muốn lấy chồng khác thì phải ly hôn với người chồng đã mất tích hoặc được Toà án tuyên bố đã chết. Khi nào một người bị Toà án tuyên bố mất tích? Theo Điều 68 Bộ luật dân sự 2015 về tuyên bố mất tích như sau: - Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó: + Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; + Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. - Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Khi nào một người bị Toà án tuyên bố đã chết? Theo Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 về tuyên bố chết như sau: - Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: + Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; + Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; + Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; + Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật dân sự 2015. - Căn cứ vào các trường hợp quy định, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Như vậy, để kết hôn với người khác khi chồng đã mất tích có 2 cách như sau: - Cách 1: Khi đáp ứng đủ các điều kiện, người vợ yêu cầu Toà án tuyên bố mất tích, sau khi có quyết định của Toà người vợ yêu cầu ly hôn một bên. Sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực thì người vợ được lấy chồng mới. - Cách 2: Khi đáp ứng đủ các điều kiện, người vợ yêu cầu Toà án tuyên bố chết, sau khi quyết định của Toà có hiệu lực thì quan hệ hôn nhân đương nhiên chấm dứt và người vợ được lấy chồng mới. Chồng mất tích quay về nhưng vợ đã lấy chồng khác thì ai là chồng hợp pháp? Khi người chồng bị tuyên bố mất tích Theo Điều 70 Bộ luật dân sự 2015 quy định về huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích như sau: - Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó. - Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Khi người chồng bị tuyên bố chết Theo Điều 73 Bộ luật dân sự 2015 về hủy bỏ quyết định tuyên bố chết như sau: - Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. - Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây: + Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật dân sự 2015 thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật; + Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, trong cả 2 trường hợp, khi đã được ly hôn khi chồng bị tuyên bố mất tích và chấm dứt quan hệ hôn nhân khi chồng bị tuyên bố chết thì việc kết hôn mới đều là hợp pháp và người chồng sau vẫn là chồng hợp pháp.
Pháp luật có cho phép con riêng của vợ lấy con riêng của chồng không?
Có nhiều trường hợp nam, nữ đều có con riêng, sau khi kết hôn con riêng của vợ và con riêng của chồng có tình cảm với nhau thì pháp luật có thừa nhận quan hệ hôn nhân của những người con này không? Thủ tục đăng ký kết hôn trong trường hợp này như thế nào? Pháp luật có cho phép con riêng của vợ lấy con riêng của chồng không? Theo Khoản 5 và Khoản 6 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: - Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. - Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định. Theo Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các trường hợp sau đây sẽ bị cấm kết hôn: - Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; - Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; - Yêu sách của cải trong kết hôn; - Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; - Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; - Bạo lực gia đình; - Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Đồng thời, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các điều kiện kết hôn như sau: - Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; - Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; - Không bị mất năng lực hành vi dân sự; - Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định. Như vậy, pháp luật chỉ cấm việc kết hôn giữa cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng mà không cấm việc kết hôn giữa con riêng của vợ và con riêng của chồng. Theo đó, nếu con riêng của vợ và con riêng của chồng có đủ các điều kiện đăng ký kết hôn như trên thì vẫn có thể thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thủ tục đăng ký kết hôn Vì pháp luật cho phép con riêng của vợ và con riêng của chồng kết hôn với nhau nên thủ tục đăng ký kết hôn sẽ thực hiện theo thủ tục thông thường tại Điều 18 Luật Hộ tịch 2014 như sau: Bước 1: Nộp tờ khai đăng ký kết hôn Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn. (Cơ quan đăng ký hộ tịch theo Khoản 1 Điều 17 Luật Hộ tịch 2014 là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ) Mẫu tờ khai đăng ký kết hôn mới nhất 2024 ban hành kèm theo Thông tư 04/2020/TT-BTP: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/29/to-khai-dang-ky-ket-hon.doc Bước 2: Ký giấy kết hôn Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2014, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc. Quyền và nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng Pháp luật cũng có quy định về quyền và nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng và ngược lại, quyền và nghĩa vụ của con riêng của vợ hoặc chồng với cha dượng và mẹ kế. Cụ thể, Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau: - Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình như sau: + Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. + Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. + Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. + Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; Không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; Không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. + Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. + Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. + Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con. + Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con. + Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được. - Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình như sau: + Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. + Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. + Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. + Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. + Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình. + Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Như vậy, hiện nay pháp luật cho phép con riêng của vợ và con riêng của chồng lấy nhau. Thủ tục đăng ký kết hôn theo thủ tục thông thường. Đồng thời, pháp luật cũng có quy định về quyền, nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng.
Sau ly hôn có được cấm vợ cũ, chồng cũ gặp con?
Vì sợ con bị ảnh hưởng xấu bởi vợ cũ, chồng cũ hay có khi chỉ đơn giản là vì tâm lý thù ghét mà nhiều người đã cấm cản người kia thăm nom, tiếp xúc với con sau khi ly hôn. Nhẹ thì viện lý do này nọ, nặng thì ngăn trở ra mặt. Liệu rằng hành vi cản trở như thế có được pháp luật cho phép hay không? Ly hôn xong có được cấm cha mẹ gặp con? Minh họa Căn cứ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quyền thăm nom con mà không bị ai ngăn trở. Điều 83 Luật này cũng nêu rõ tại khoản 2 là người giành được quyền nuôi con và gia đình không được ngăn cấm người kia thực hiện việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Theo điểm d khoản 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007, hành vi cản trở cha, mẹ gặp mặt con cũng được xem là hành vi bạo lực gia đình, kể cả trong trường hợp hai bên đã ly dị. Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 300.000 đồng. Như vậy, việc vô cớ cấm vợ, chồng cũ thăm nuôi, chăm sóc con là không được phép. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, vì lợi ích của trẻ, quyền thăm nuôi nằm có thể bị pháp luật hạn chế. Cụ thể, theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, trong trường hợp có chứng cứ xác thực, người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án cấm người kia được gặp con, nếu họ có một trong những hành vi sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý; - Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Về việc thế nào là lối sống đồi trụy, có thể tham khảo từ khoản 4 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP. Lối sống đồi trụy có thể được hiểu là là lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng đến mức tồi tệ về đạo đức, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật này cũng chỉ rõ người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom nếu người kia lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Thời hạn cấm này có thể kéo dài từ 01 đến 05 năm, tùy theo mức độ nghiêm trọng của sự việc.
03 trường hợp luật xác định là “Người đang có vợ hoặc có chồng”
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Việc xác định mối quan hệ vợ, chồng có ý nghĩa quan trọng để xác định quyền và nghĩa vụ trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp phải đăng ký kết hôn thì mới được công nhận là vợ, chồng. Tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP xác định người đang có vợ hoặc có chồng là: - Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; - Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; - Người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003). Vì vậy khi xác định mối quan hệ vợ, chồng thì ngoài những quyền mà các bên được hưởng thì nghĩa vụ phải thực hiện để đảm bảo mục đích hôn nhân đạt được và hậu quả pháp lý khi vi phạm mà các bên cần biết: XEM TẠI ĐÂY
03 trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định chế độ sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng, theo đó, tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng thì vợ chồng có chung quyền sở hữu còn đối với tài sản riêng của vợ, chồng thì do vợ, chồng làm chủ sở hữu và định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng đã có quy định nhằm hạn chế quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng với mục đích bảo vệ quyền lợi cho một bên vợ, chồng còn lại và đảm bảo lợi ích chung của gia đình. TH1: Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy địn tại khoản 2 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.” Cuộc sống gia đình không tránh khỏi những lúc gặp khó khăn về kinh tế, vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung của vợ, chồng không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì để đảm bảo lợi ích chung của cả gia đình, vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp phần tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mình để bảo đảm cuộc sống chung của gia đình. Trong đó, nhu cầu thiết yếu được hiểu là “nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình” (khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). TH2: Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.” Về nguyên tắc, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình. Mặt khác, họ cũng có thể thỏa thuận về việc sử dụng tài sản riêng của mỗi bên sao cho có thể khai thác tốt nhất giá trị sử dụng của tài sản. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống chung của gia đình, giữ gìn truyền thóng yêu thương, chăm sóc giữa các thành viên gia đình thì quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng có thể bị hạn chế. Theo đó, tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự đồng ý, thỏa thuận của vợ chồng. TH3: Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. “Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.” Nhà ở là tài sản riêng của một bên vợ, chồng thì sau khi ly hôn tài sản đó vẫn thuộc sở hữu riêng và chủ sở hữu là người có toàn quyền định đoạt, chiếm hữu. Xong, để tạo điều kiện về nơi ở cho bên vợ, chồng không có chỗ ở có thể tìm được chỗ ở trong thời gian nhất định, pháp luật quy định sau khi ly hôn nếu ngôi nhà là tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà sau khi ly hôn mà bên chồng hoặc vợ (không phải chủ sở hữu của ngôi nhà đó) gặp khó khăn về chỗ ở thì có qyền được lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấm dứt hôn nhân.
Vợ hay chồng là người phải nộp án phí khi ly hôn?
>>> Toàn bộ thủ tục thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn >>> Mẫu đơn thuận tình và đơn phương ly hôn mới nhất Hiện nay, ly hôn diễn ra ngày càng phổ biến. Cá nhân có nhu cầu có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn. Một trong những vấn đề phát sinh từ việc ly hôn là vợ hay chồng khi ly hôn thì ai sẽ là người phải nộp án phí khi ly hôn? Án phí gồm án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm. Trong vụ án ly hôn, người phải nộp án phí là: * Án phí sơ thẩm - Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH thì: + Vụ án ly hôn: nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, nếu vợ hoặc chồng, người nào nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn được tòa án thụ lý thì sẽ phải chịu án phí. +Thuận tình ly hôn: mỗi bên vợ, chồng phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. * Đối với vụ án ly hôn có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng: thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm quy định trên thì còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia; + Trường hợp đương sự tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định trước khi Tòa án tiến hành hòa giải thì đương sự không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với việc phân chia tài sản chung; + Trường hợp Tòa án đã tiến hành hòa giải, tại phiên hòa giải đương sự không thỏa thuận việc phân chia tài sản chung của vợ chồng nhưng đến trước khi mở phiên tòa các bên đương sự tự thỏa thuận được và yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định thì phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia; Lưu ý: Đối với vụ án ly hôn được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì mức án phí bằng 50% mức án phí theo quy định. (Khoản 2 Điều 6 Nghị định 326/2016/UBTVQH) * Án phí phúc thẩm: - Căn cứ Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì: + Đương sự kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm: nếu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm. + Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm: Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa, hủy bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo; Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm theo quy định. Như vậy, số tiền án phí phải nộp nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào việc thuận tình ly hôn hay khởi kiện ly hôn, vụ án ly hôn có yêu cầu phân chia tài sản hay không?… Do đó để đảm bảo quyền lợi của mình, cũng như tránh việc tốn kém một khoản tiền lớn vào án phí khi ly hôn thì các bên cần có sự cân nhắc, lựa chọn phương pháp tối ưu để án phí phải đóng là nhỏ nhất có thể khi quyết định ly hôn như: lựa chọn hình thức ly hôn hoặc sự thỏa thuận tốt về việc phân chia tài sản…
Giao dịch tài sản chung không cần sự đồng ý của vợ hoặc chồng
>>> Các giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của vợ và chồng >>> 02 trường hợp vợ/chồng được tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung Tài sản chung của vợ chồng thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của hai bên. Về nguyên tắc thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung cần có sự thỏa thuận của vợ chồng. Tuy nhiên để đáp ứng như cầu cuộc sống, trong một số trường hợp pháp luật cũng cho phép một bên vợ, chồng thực hiện giao dịch bằng tài sản chung của vợ chồng mà không cần có sự đồng ý của bên còn lại. 1. Giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình Căn cứ vào Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ, chồng được dùng tài sản chung thực hiện giao dịch đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong đó, nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình. Ví dụ như: dùng tài sản chung đi chợ mua đồ ăn, mua các dụng cụ làm bếp cần thiết, trả tiền thuê nhà hàng tháng, mua thuốc khi bị bệnh… 2. Giao dịch liên quan tài sản chung mà một bên đã đưa vào kinh doanh Căn cứ vào Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.” Như vậy, một bên có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản mà mình đã đưa vào kinh doanh, mà không cần sự đồng ý của bên còn lại. Trong đó, điều kiện để đưa tài sản chung của vợ chồng vào kinh doanh là: + Có thỏa thuận bằng văn bản của vợ và chồng về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh. 3. Giao dịch liên quan tài sản chung mà theo thỏa thuận của vợ chồng không cần sự đồng ý của bên còn lại Căn cứ Khoản 3 Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015: “3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” Do đó, nếu trong thỏa thuận của vợ chồng có nội dung về những giao dịch nào, với tài sản nào không cần sự đồng ý của bên còn lại thì một bên có thể tự mình quyết định việc thực hiện giao dịch với tài sản chung đó khi muốn. 4. Giao dịch thực hiện với tư cách đại diện: Căn cứ vào Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ, chồng có thể đại diện cho nhau dưới hai hình thức: - Đại diện theo ủy quyền: Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng - Đại diện theo pháp luật: khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan. Người được ủy quyền chỉ được thực hiện những giao dịch trong phạm vi được ủy quyền và trong thời hạn ủy quyền. *** GIỚI HẠN CỦA CÁC GIAO DỊCH TRÊN: Các giao dịch trên sẽ phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng, khi liên quan đến việc định đoạt các tài sản chung sau: a) Bất động sản; b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là việc cơ quan có thẩm quyền tổ chức, đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi chính đáng của người được thi hành án. Do vậy, thi hành án dân sự được xem là khâu cuối cùng, đánh dấu kết thúc một vụ việc dân sự đã trải qua quá trình tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý đến khi đưa vụ án ra giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành án. Khi đến giai đoạn thi hành án, tưởng như quyền lợi của người được thi hành án sẽ được đảm bảo bằng việc cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) tổ chức thi hành án là đã xong. >>> Thế nhưng, ở giai đoạn này người được thi hành án lại gặp tiếp rắc rối đó là người phải thi hành án có phát sinh tranh chấp trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng nên việc thi hành án phải bị tạm hoãn để chờ thực hiện thêm một công đoạn nữa là thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng làm cho việc thi hành án bị kéo dài, quyền lợi của người được thi hành án chưa được đáp ứng. Căn cứ pháp lý được áp dụng để thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự được quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự (THADS) năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS gọi tắt là (Nghị định số 62). Theo quy định tại Điều 74 Luật THADS thì điều luật chỉ quy định chung chung về việc phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác chứ không có quy định rõ ràng về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Để cụ thể hóa quy định này được áp dụng dễ dàng hơn thì tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62 đã hướng dẫn rõ hơn về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là: “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”. >>> Như vậy, theo hướng dẫn của Nghị định số 62 thì người có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng là Chấp hành viên và Tòa án nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về Chấp hành viên thực hiện. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên và có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, còn nếu vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên nhưng không có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì không làm phát sinh thủ tục giải quyết tại Tòa án cho nên cuối cùng cũng do Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Về căn cứ pháp lý quy định Chấp hành viên và Tòa án có quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự như đã nêu trên là vậy nhưng trong thực tiễn việc vận dụng quy định này có vướng mắc như sau: Thứ nhất, đối với Chấp hành viên, trong thực tế khi có phát sinh việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng thì hầu hết các vụ việc Chấp hành viên không tự mình thực hiện việc xác định, phân chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mà Chấp hành viên hướng dẫn vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án để giải quyết, nếu không có ai khởi kiện thì lúc này Chấp hành viên đứng đơn kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ, chồng. >>> Sở dĩ có sự bất cập này: là do đội ngũ Chấp hành viên hiện nay còn thiếu nhiều so với lượng công việc phát sinh. Mặt khác, một số Chấp hành viên có trình độ chuyên môn còn hạn chế. Trong khi việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng đòi hỏi phải tuân thủ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật có liên quan. Mà nhất là các quy định về chế độ tài sản chung, riêng của vợ, chồng đối với tài sản là bất động sản rất phức tạp, còn nhiều chồng chéo cho nên Chấp hành viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Vì vậy, việc phân chia tài sản bằng một phán quyết của Tòa án sẽ đảm bảo được tính chính xác và khách quan hơn nên Chấp hành viên chọn cách khởi kiện ra Tòa án là giải pháp hữu hiệu. Thứ hai, đối với quy định trường hợp vợ hoặc chồng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo hợp lệ nhưng đa phần đương sự không thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Bởi vì, tâm lý của họ là sợ tài sản của mình bị giảm xuống nên dây dưa, kéo dài thời gian, không muốn thi hành án. Tuy nhiên, do Luật quy định đương sự có quyền này nên Chấp hành viên cũng phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và chờ đến khi hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên mới thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Từ đó, đã làm cho vụ việc thi hành án lại kéo dài thêm. Thứ ba, Tòa án chỉ thực hiện quyền phân chia tài sản khi có vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án. Vậy khi có một bên vợ hoặc chồng khởi kiện thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ tranh chấp chia tài sản chung của vợ, chồng theo trình tự tố tụng dân sự và lúc này Tòa án xác định CQTHADS sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để trình bày những vấn đề có liên quan trong vụ kiện. Thế nhưng, do nhận thực về pháp luật của Tòa án và CQTHADS còn có quan điểm khác nhau nên việc Tòa án tuyên bản án chưa đảm bảo tính triệt để khi chia tài sản chung của vợ, chồng dẫn đến hiệu quả của bản án không cao. Đó là, CQTHADS ít khi tham gia phiên tòa mà thường xin vắng mặt, vì quan niệm rằng việc xét xử là do Tòa án thực hiện. Tòa án thì quan niệm rằng việc xét xử sẽ tuân theo trình tự tố tụng dân sự nên tôn trọng tuyệt đối quyền tự định đoạt, thỏa thuận của đương sự dẫn đến Tòa án phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Điều này, vô tình làm cho một bên vợ hoặc chồng là người phải thi hành án được chia tài sản ít hơn nghĩa vụ phải thi hành án hoặc thỏa thuận không chia một tài sản nào đó để có cơ hội tẩu tán tài sản. >>> Kết quả là bản án chia tài sản chưa triệt để, dẫn đến tài sản không đủ để đảm bảo thi hành án nên lại phải thực hiện tiếp việc khởi kiện để chia tiếp phần tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận không chia làm cho vụ việc kéo dài và rơi vào vòng luẩn quẩn. Để không xảy ra thực trạng nêu trên, theo tôi cần phải có nhận thức pháp luật một cách thấu đáo, đó là, CQTHADS phải tham gia tố tụng để trình bày tất cả những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ thi hành án của đương sự và các tài sản có liên quan. Đồng thời, yêu cầu Tòa án chia tài sản của vợ, chồng một cách triệt để nhằm đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án trước đó. Đối với Tòa án thì cũng cần phân chia tài sản chung của vợ, chồng một cách dứt điểm chứ không căn cứ vào sự tự thỏa thuận của đương sự. Vì bản chất sự việc trong vụ kiện này là chia tài sản chung để đảm bảo thi hành án nó hoàn toàn khác với một vụ kiện mới phát sinh thông thường. Từ bất cập, hạn chế như đã phân tích nêu trên, để giúp cho các cơ quan tư pháp địa phương có sự vận dụng pháp luật trong thực tiễn được thuận lợi, tôi có đề xuất cơ quan có thẩm quyền Trung ương hướng dẫn kịp thời như sau: 1. Cần xác định Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự. 2. Cơ quan thi hành án dân sự cần phải tham gia phiên tòa để trình bày ý kiến về nghĩa vụ thi hành án và cung cấp thông tin về tài sản của đương sự để Tòa án có thêm chứng cứ nhằm tuyên một bản án chính xác, có hiệu quả. Nguồn: Kiểm sát online
Chồng mất tích quay về nhưng vợ đã lấy chồng khác thì ai là chồng hợp pháp?
Pháp luật có cho phép vợ lấy chồng khác khi người chồng đã mất tích không? Nếu như người chồng đã mất tích và sau đó người vợ đi lấy chồng khác, lúc chồng cũ mất tích quay trở về thì ai sẽ là chồng hợp pháp? Pháp luật có cho phép vợ lấy chồng khác khi chồng đã mất tích không? Theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đồng thời, theo Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, nếu người vợ muốn lấy chồng khác thì phải ly hôn với người chồng đã mất tích hoặc được Toà án tuyên bố đã chết. Khi nào một người bị Toà án tuyên bố mất tích? Theo Điều 68 Bộ luật dân sự 2015 về tuyên bố mất tích như sau: - Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó: + Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; + Nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. - Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Khi nào một người bị Toà án tuyên bố đã chết? Theo Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 về tuyên bố chết như sau: - Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: + Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; + Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; + Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; + Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật dân sự 2015. - Căn cứ vào các trường hợp quy định, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Như vậy, để kết hôn với người khác khi chồng đã mất tích có 2 cách như sau: - Cách 1: Khi đáp ứng đủ các điều kiện, người vợ yêu cầu Toà án tuyên bố mất tích, sau khi có quyết định của Toà người vợ yêu cầu ly hôn một bên. Sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực thì người vợ được lấy chồng mới. - Cách 2: Khi đáp ứng đủ các điều kiện, người vợ yêu cầu Toà án tuyên bố chết, sau khi quyết định của Toà có hiệu lực thì quan hệ hôn nhân đương nhiên chấm dứt và người vợ được lấy chồng mới. Chồng mất tích quay về nhưng vợ đã lấy chồng khác thì ai là chồng hợp pháp? Khi người chồng bị tuyên bố mất tích Theo Điều 70 Bộ luật dân sự 2015 quy định về huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất tích như sau: - Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó. - Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Khi người chồng bị tuyên bố chết Theo Điều 73 Bộ luật dân sự 2015 về hủy bỏ quyết định tuyên bố chết như sau: - Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. - Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây: + Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật dân sự 2015 thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật; + Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, trong cả 2 trường hợp, khi đã được ly hôn khi chồng bị tuyên bố mất tích và chấm dứt quan hệ hôn nhân khi chồng bị tuyên bố chết thì việc kết hôn mới đều là hợp pháp và người chồng sau vẫn là chồng hợp pháp.
Pháp luật có cho phép con riêng của vợ lấy con riêng của chồng không?
Có nhiều trường hợp nam, nữ đều có con riêng, sau khi kết hôn con riêng của vợ và con riêng của chồng có tình cảm với nhau thì pháp luật có thừa nhận quan hệ hôn nhân của những người con này không? Thủ tục đăng ký kết hôn trong trường hợp này như thế nào? Pháp luật có cho phép con riêng của vợ lấy con riêng của chồng không? Theo Khoản 5 và Khoản 6 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: - Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. - Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định. Theo Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các trường hợp sau đây sẽ bị cấm kết hôn: - Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; - Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; - Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; - Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; - Yêu sách của cải trong kết hôn; - Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; - Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; - Bạo lực gia đình; - Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi. Đồng thời, Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định các điều kiện kết hôn như sau: - Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; - Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; - Không bị mất năng lực hành vi dân sự; - Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định. Như vậy, pháp luật chỉ cấm việc kết hôn giữa cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng mà không cấm việc kết hôn giữa con riêng của vợ và con riêng của chồng. Theo đó, nếu con riêng của vợ và con riêng của chồng có đủ các điều kiện đăng ký kết hôn như trên thì vẫn có thể thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thủ tục đăng ký kết hôn Vì pháp luật cho phép con riêng của vợ và con riêng của chồng kết hôn với nhau nên thủ tục đăng ký kết hôn sẽ thực hiện theo thủ tục thông thường tại Điều 18 Luật Hộ tịch 2014 như sau: Bước 1: Nộp tờ khai đăng ký kết hôn Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn. (Cơ quan đăng ký hộ tịch theo Khoản 1 Điều 17 Luật Hộ tịch 2014 là Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ) Mẫu tờ khai đăng ký kết hôn mới nhất 2024 ban hành kèm theo Thông tư 04/2020/TT-BTP: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/03/29/to-khai-dang-ky-ket-hon.doc Bước 2: Ký giấy kết hôn Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định, nếu thấy đủ điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2014, công chức tư pháp - hộ tịch ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai bên nam, nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn; công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trường hợp cần xác minh điều kiện kết hôn của hai bên nam, nữ thì thời hạn giải quyết không quá 05 ngày làm việc. Quyền và nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng Pháp luật cũng có quy định về quyền và nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng và ngược lại, quyền và nghĩa vụ của con riêng của vợ hoặc chồng với cha dượng và mẹ kế. Cụ thể, Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau: - Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình như sau: + Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. + Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. + Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. + Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; Không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; Không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. + Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. + Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. + Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con. + Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con. + Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được. - Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình như sau: + Được cha mẹ thương yêu, tôn trọng, thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. + Có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. + Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền sống chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. + Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. + Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình. + Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Như vậy, hiện nay pháp luật cho phép con riêng của vợ và con riêng của chồng lấy nhau. Thủ tục đăng ký kết hôn theo thủ tục thông thường. Đồng thời, pháp luật cũng có quy định về quyền, nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của chồng.
Sau ly hôn có được cấm vợ cũ, chồng cũ gặp con?
Vì sợ con bị ảnh hưởng xấu bởi vợ cũ, chồng cũ hay có khi chỉ đơn giản là vì tâm lý thù ghét mà nhiều người đã cấm cản người kia thăm nom, tiếp xúc với con sau khi ly hôn. Nhẹ thì viện lý do này nọ, nặng thì ngăn trở ra mặt. Liệu rằng hành vi cản trở như thế có được pháp luật cho phép hay không? Ly hôn xong có được cấm cha mẹ gặp con? Minh họa Căn cứ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quyền thăm nom con mà không bị ai ngăn trở. Điều 83 Luật này cũng nêu rõ tại khoản 2 là người giành được quyền nuôi con và gia đình không được ngăn cấm người kia thực hiện việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Theo điểm d khoản 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007, hành vi cản trở cha, mẹ gặp mặt con cũng được xem là hành vi bạo lực gia đình, kể cả trong trường hợp hai bên đã ly dị. Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 300.000 đồng. Như vậy, việc vô cớ cấm vợ, chồng cũ thăm nuôi, chăm sóc con là không được phép. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, vì lợi ích của trẻ, quyền thăm nuôi nằm có thể bị pháp luật hạn chế. Cụ thể, theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, trong trường hợp có chứng cứ xác thực, người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án cấm người kia được gặp con, nếu họ có một trong những hành vi sau đây: - Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý; - Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; - Phá tán tài sản của con; - Có lối sống đồi trụy; - Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Về việc thế nào là lối sống đồi trụy, có thể tham khảo từ khoản 4 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP. Lối sống đồi trụy có thể được hiểu là là lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng đến mức tồi tệ về đạo đức, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật này cũng chỉ rõ người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom nếu người kia lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Thời hạn cấm này có thể kéo dài từ 01 đến 05 năm, tùy theo mức độ nghiêm trọng của sự việc.
03 trường hợp luật xác định là “Người đang có vợ hoặc có chồng”
Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Việc xác định mối quan hệ vợ, chồng có ý nghĩa quan trọng để xác định quyền và nghĩa vụ trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp phải đăng ký kết hôn thì mới được công nhận là vợ, chồng. Tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP xác định người đang có vợ hoặc có chồng là: - Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn; - Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; - Người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003). Vì vậy khi xác định mối quan hệ vợ, chồng thì ngoài những quyền mà các bên được hưởng thì nghĩa vụ phải thực hiện để đảm bảo mục đích hôn nhân đạt được và hậu quả pháp lý khi vi phạm mà các bên cần biết: XEM TẠI ĐÂY
03 trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định chế độ sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng, theo đó, tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng thì vợ chồng có chung quyền sở hữu còn đối với tài sản riêng của vợ, chồng thì do vợ, chồng làm chủ sở hữu và định đoạt tài sản đó. Tuy nhiên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng đã có quy định nhằm hạn chế quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng với mục đích bảo vệ quyền lợi cho một bên vợ, chồng còn lại và đảm bảo lợi ích chung của gia đình. TH1: Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy địn tại khoản 2 Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.” Cuộc sống gia đình không tránh khỏi những lúc gặp khó khăn về kinh tế, vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung của vợ, chồng không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì để đảm bảo lợi ích chung của cả gia đình, vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp phần tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mình để bảo đảm cuộc sống chung của gia đình. Trong đó, nhu cầu thiết yếu được hiểu là “nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình” (khoản 20 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). TH2: Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.” Về nguyên tắc, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình. Mặt khác, họ cũng có thể thỏa thuận về việc sử dụng tài sản riêng của mỗi bên sao cho có thể khai thác tốt nhất giá trị sử dụng của tài sản. Tuy nhiên, để đảm bảo cuộc sống chung của gia đình, giữ gìn truyền thóng yêu thương, chăm sóc giữa các thành viên gia đình thì quyền tự định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng có thể bị hạn chế. Theo đó, tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự đồng ý, thỏa thuận của vợ chồng. TH3: Trường hợp hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. “Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.” Nhà ở là tài sản riêng của một bên vợ, chồng thì sau khi ly hôn tài sản đó vẫn thuộc sở hữu riêng và chủ sở hữu là người có toàn quyền định đoạt, chiếm hữu. Xong, để tạo điều kiện về nơi ở cho bên vợ, chồng không có chỗ ở có thể tìm được chỗ ở trong thời gian nhất định, pháp luật quy định sau khi ly hôn nếu ngôi nhà là tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà sau khi ly hôn mà bên chồng hoặc vợ (không phải chủ sở hữu của ngôi nhà đó) gặp khó khăn về chỗ ở thì có qyền được lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấm dứt hôn nhân.
Vợ hay chồng là người phải nộp án phí khi ly hôn?
>>> Toàn bộ thủ tục thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn >>> Mẫu đơn thuận tình và đơn phương ly hôn mới nhất Hiện nay, ly hôn diễn ra ngày càng phổ biến. Cá nhân có nhu cầu có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn. Một trong những vấn đề phát sinh từ việc ly hôn là vợ hay chồng khi ly hôn thì ai sẽ là người phải nộp án phí khi ly hôn? Án phí gồm án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm. Trong vụ án ly hôn, người phải nộp án phí là: * Án phí sơ thẩm - Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH thì: + Vụ án ly hôn: nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, nếu vợ hoặc chồng, người nào nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn được tòa án thụ lý thì sẽ phải chịu án phí. +Thuận tình ly hôn: mỗi bên vợ, chồng phải chịu một nửa án phí sơ thẩm. * Đối với vụ án ly hôn có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng: thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm quy định trên thì còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia; + Trường hợp đương sự tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định trước khi Tòa án tiến hành hòa giải thì đương sự không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với việc phân chia tài sản chung; + Trường hợp Tòa án đã tiến hành hòa giải, tại phiên hòa giải đương sự không thỏa thuận việc phân chia tài sản chung của vợ chồng nhưng đến trước khi mở phiên tòa các bên đương sự tự thỏa thuận được và yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định thì phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia; Lưu ý: Đối với vụ án ly hôn được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì mức án phí bằng 50% mức án phí theo quy định. (Khoản 2 Điều 6 Nghị định 326/2016/UBTVQH) * Án phí phúc thẩm: - Căn cứ Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì: + Đương sự kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm: nếu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm. + Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm: Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa, hủy bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo; Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm theo quy định. Như vậy, số tiền án phí phải nộp nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào việc thuận tình ly hôn hay khởi kiện ly hôn, vụ án ly hôn có yêu cầu phân chia tài sản hay không?… Do đó để đảm bảo quyền lợi của mình, cũng như tránh việc tốn kém một khoản tiền lớn vào án phí khi ly hôn thì các bên cần có sự cân nhắc, lựa chọn phương pháp tối ưu để án phí phải đóng là nhỏ nhất có thể khi quyết định ly hôn như: lựa chọn hình thức ly hôn hoặc sự thỏa thuận tốt về việc phân chia tài sản…
Giao dịch tài sản chung không cần sự đồng ý của vợ hoặc chồng
>>> Các giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của vợ và chồng >>> 02 trường hợp vợ/chồng được tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung Tài sản chung của vợ chồng thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của hai bên. Về nguyên tắc thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung cần có sự thỏa thuận của vợ chồng. Tuy nhiên để đáp ứng như cầu cuộc sống, trong một số trường hợp pháp luật cũng cho phép một bên vợ, chồng thực hiện giao dịch bằng tài sản chung của vợ chồng mà không cần có sự đồng ý của bên còn lại. 1. Giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình Căn cứ vào Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ, chồng được dùng tài sản chung thực hiện giao dịch đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong đó, nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình. Ví dụ như: dùng tài sản chung đi chợ mua đồ ăn, mua các dụng cụ làm bếp cần thiết, trả tiền thuê nhà hàng tháng, mua thuốc khi bị bệnh… 2. Giao dịch liên quan tài sản chung mà một bên đã đưa vào kinh doanh Căn cứ vào Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.” Như vậy, một bên có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản mà mình đã đưa vào kinh doanh, mà không cần sự đồng ý của bên còn lại. Trong đó, điều kiện để đưa tài sản chung của vợ chồng vào kinh doanh là: + Có thỏa thuận bằng văn bản của vợ và chồng về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh. 3. Giao dịch liên quan tài sản chung mà theo thỏa thuận của vợ chồng không cần sự đồng ý của bên còn lại Căn cứ Khoản 3 Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015: “3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” Do đó, nếu trong thỏa thuận của vợ chồng có nội dung về những giao dịch nào, với tài sản nào không cần sự đồng ý của bên còn lại thì một bên có thể tự mình quyết định việc thực hiện giao dịch với tài sản chung đó khi muốn. 4. Giao dịch thực hiện với tư cách đại diện: Căn cứ vào Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ, chồng có thể đại diện cho nhau dưới hai hình thức: - Đại diện theo ủy quyền: Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng - Đại diện theo pháp luật: khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan. Người được ủy quyền chỉ được thực hiện những giao dịch trong phạm vi được ủy quyền và trong thời hạn ủy quyền. *** GIỚI HẠN CỦA CÁC GIAO DỊCH TRÊN: Các giao dịch trên sẽ phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng, khi liên quan đến việc định đoạt các tài sản chung sau: a) Bất động sản; b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là việc cơ quan có thẩm quyền tổ chức, đưa ra thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi chính đáng của người được thi hành án. Do vậy, thi hành án dân sự được xem là khâu cuối cùng, đánh dấu kết thúc một vụ việc dân sự đã trải qua quá trình tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý đến khi đưa vụ án ra giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành án. Khi đến giai đoạn thi hành án, tưởng như quyền lợi của người được thi hành án sẽ được đảm bảo bằng việc cơ quan thi hành án dân sự (CQTHADS) tổ chức thi hành án là đã xong. >>> Thế nhưng, ở giai đoạn này người được thi hành án lại gặp tiếp rắc rối đó là người phải thi hành án có phát sinh tranh chấp trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng nên việc thi hành án phải bị tạm hoãn để chờ thực hiện thêm một công đoạn nữa là thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng làm cho việc thi hành án bị kéo dài, quyền lợi của người được thi hành án chưa được đáp ứng. Căn cứ pháp lý được áp dụng để thực hiện phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự được quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự (THADS) năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS gọi tắt là (Nghị định số 62). Theo quy định tại Điều 74 Luật THADS thì điều luật chỉ quy định chung chung về việc phân chia tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung với người khác chứ không có quy định rõ ràng về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Để cụ thể hóa quy định này được áp dụng dễ dàng hơn thì tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62 đã hướng dẫn rõ hơn về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng, đó là: “Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết; Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ”. >>> Như vậy, theo hướng dẫn của Nghị định số 62 thì người có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng là Chấp hành viên và Tòa án nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về Chấp hành viên thực hiện. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên và có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, còn nếu vợ hoặc chồng không đồng ý với việc phân chia tài sản của Chấp hành viên nhưng không có khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết thì không làm phát sinh thủ tục giải quyết tại Tòa án cho nên cuối cùng cũng do Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định. Về căn cứ pháp lý quy định Chấp hành viên và Tòa án có quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự như đã nêu trên là vậy nhưng trong thực tiễn việc vận dụng quy định này có vướng mắc như sau: Thứ nhất, đối với Chấp hành viên, trong thực tế khi có phát sinh việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng thì hầu hết các vụ việc Chấp hành viên không tự mình thực hiện việc xác định, phân chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mà Chấp hành viên hướng dẫn vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án để giải quyết, nếu không có ai khởi kiện thì lúc này Chấp hành viên đứng đơn kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ, chồng. >>> Sở dĩ có sự bất cập này: là do đội ngũ Chấp hành viên hiện nay còn thiếu nhiều so với lượng công việc phát sinh. Mặt khác, một số Chấp hành viên có trình độ chuyên môn còn hạn chế. Trong khi việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng đòi hỏi phải tuân thủ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật có liên quan. Mà nhất là các quy định về chế độ tài sản chung, riêng của vợ, chồng đối với tài sản là bất động sản rất phức tạp, còn nhiều chồng chéo cho nên Chấp hành viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Vì vậy, việc phân chia tài sản bằng một phán quyết của Tòa án sẽ đảm bảo được tính chính xác và khách quan hơn nên Chấp hành viên chọn cách khởi kiện ra Tòa án là giải pháp hữu hiệu. Thứ hai, đối với quy định trường hợp vợ hoặc chồng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo hợp lệ nhưng đa phần đương sự không thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Bởi vì, tâm lý của họ là sợ tài sản của mình bị giảm xuống nên dây dưa, kéo dài thời gian, không muốn thi hành án. Tuy nhiên, do Luật quy định đương sự có quyền này nên Chấp hành viên cũng phải thực hiện đầy đủ các thủ tục và chờ đến khi hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì Chấp hành viên mới thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án. Từ đó, đã làm cho vụ việc thi hành án lại kéo dài thêm. Thứ ba, Tòa án chỉ thực hiện quyền phân chia tài sản khi có vợ hoặc chồng khởi kiện ra Tòa án. Vậy khi có một bên vợ hoặc chồng khởi kiện thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ tranh chấp chia tài sản chung của vợ, chồng theo trình tự tố tụng dân sự và lúc này Tòa án xác định CQTHADS sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để trình bày những vấn đề có liên quan trong vụ kiện. Thế nhưng, do nhận thực về pháp luật của Tòa án và CQTHADS còn có quan điểm khác nhau nên việc Tòa án tuyên bản án chưa đảm bảo tính triệt để khi chia tài sản chung của vợ, chồng dẫn đến hiệu quả của bản án không cao. Đó là, CQTHADS ít khi tham gia phiên tòa mà thường xin vắng mặt, vì quan niệm rằng việc xét xử là do Tòa án thực hiện. Tòa án thì quan niệm rằng việc xét xử sẽ tuân theo trình tự tố tụng dân sự nên tôn trọng tuyệt đối quyền tự định đoạt, thỏa thuận của đương sự dẫn đến Tòa án phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng. Điều này, vô tình làm cho một bên vợ hoặc chồng là người phải thi hành án được chia tài sản ít hơn nghĩa vụ phải thi hành án hoặc thỏa thuận không chia một tài sản nào đó để có cơ hội tẩu tán tài sản. >>> Kết quả là bản án chia tài sản chưa triệt để, dẫn đến tài sản không đủ để đảm bảo thi hành án nên lại phải thực hiện tiếp việc khởi kiện để chia tiếp phần tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận không chia làm cho vụ việc kéo dài và rơi vào vòng luẩn quẩn. Để không xảy ra thực trạng nêu trên, theo tôi cần phải có nhận thức pháp luật một cách thấu đáo, đó là, CQTHADS phải tham gia tố tụng để trình bày tất cả những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ thi hành án của đương sự và các tài sản có liên quan. Đồng thời, yêu cầu Tòa án chia tài sản của vợ, chồng một cách triệt để nhằm đảm bảo nghĩa vụ thi hành bản án trước đó. Đối với Tòa án thì cũng cần phân chia tài sản chung của vợ, chồng một cách dứt điểm chứ không căn cứ vào sự tự thỏa thuận của đương sự. Vì bản chất sự việc trong vụ kiện này là chia tài sản chung để đảm bảo thi hành án nó hoàn toàn khác với một vụ kiện mới phát sinh thông thường. Từ bất cập, hạn chế như đã phân tích nêu trên, để giúp cho các cơ quan tư pháp địa phương có sự vận dụng pháp luật trong thực tiễn được thuận lợi, tôi có đề xuất cơ quan có thẩm quyền Trung ương hướng dẫn kịp thời như sau: 1. Cần xác định Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm quyền phân chia tài sản chung của vợ, chồng ở giai đoạn thi hành án dân sự. 2. Cơ quan thi hành án dân sự cần phải tham gia phiên tòa để trình bày ý kiến về nghĩa vụ thi hành án và cung cấp thông tin về tài sản của đương sự để Tòa án có thêm chứng cứ nhằm tuyên một bản án chính xác, có hiệu quả. Nguồn: Kiểm sát online