Cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ con, đây là nghĩa cử cao đẹp giúp người được nhận nuôi có được mái ấm và người nhận con nuôi được làm cha mẹ. Tuy nhiên, nếu cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi sẽ chấm dứt? 1. Nuôi con nuôi là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi là việc nhận người khác làm con nuôi và nhận người khác làm cha mẹ nuôi, từ đó xác lập quan hệ cha mẹ và con với nhau. Tuy nhiên, nếu cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi có chấm dứt không? 2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: (Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; - Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; - Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; - Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo quy định trên thì việc cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi chưa đủ căn cứ để làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà cha mẹ nuôi phải bị kết án về tội ngược đãi, hành hạ con nuôi thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi mới chấm dứt. 3. Người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp cha mẹ nuôi bị kết án về tội ngược đãi, hành hạ con nuôi: (Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Cha mẹ nuôi. - Con nuôi đã thành niên. - Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi. - Cơ quan lao động, thương binh và xã hội; - Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi Theo Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010, việc chấm dứt nuôi con nuôi sẽ dẫn đến các hệ quả sau: - Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. - Ngoài ra, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình trước khi được cho làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục. Như vậy, cha mẹ nuôi có hành vi ngược đãi, hành hạ con nuôi thì chưa làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ chấm dứt trong trường hợp cha mẹ nuôi bị kết án về tội ngược đãi, hành hạ con nuôi.
Con nuôi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ con, đây là nghĩa cử cao đẹp giúp người được nhận nuôi có được mái ấm và người nhận con nuôi được làm cha mẹ. Tuy nhiên, nếu con nuôi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi có chấm dứt? 1. Nuôi con nuôi là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi là việc nhận người khác làm con nuôi và nhận người khác làm cha mẹ nuôi, từ đó phát sinh quan hệ cha mẹ và con với nhau. Tuy nhiên, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi có thể sẽ chấm dứt khi con nuôi có hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi không? 2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: (Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; - Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; - Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; - Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo quy định trên thì việc con nuôi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi chưa đủ căn cứ để làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà con nuôi phải bị kết án về tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của cha mẹ nuôi thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi mới chấm dứt. 3. Người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp con nuôi bị kết án về tội xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi: (Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Cha mẹ nuôi. - Con nuôi đã thành niên. - Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi. - Cơ quan lao động, thương binh và xã hội; - Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi Theo Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010, việc chấm dứt nuôi con nuôi sẽ dẫn đến các hệ quả sau: - Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. - Ngoài ra, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình trước khi được cho làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục. Như vậy, con nuôi có hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chưa chấm dứt mà việc nuôi con nuôi sẽ chấm dứt trong trường hợp con nuôi bị kết án về tội xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi.
Con nuôi đã thành niên thì quan hệ với cha mẹ nuôi chấm dứt?
Người thành niên là người đủ 18 tuổi và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, ngoại trừ trường hợp người đó mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự và có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Liệu khi một người đã đủ 18 tuổi thì quan hệ giữa người đó và cha mẹ nuôi sẽ chấm dứt? 1. Nuôi con nuôi là gì? Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi là việc nhận người khác làm con nuôi và nhận người khác làm cha mẹ nuôi, từ đó phát sinh quan hệ cha mẹ và con với nhau. Tuy nhiên, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi có thể sẽ chấm dứt khi con đã thành niên không? 2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi Theo quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; - Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; - Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; - Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Từ quy định trên, có thể thấy khi con nuôi đã thành niên thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt trong trường hợp con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi. Nếu cha mẹ và con không muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi vẫn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. 3. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi Khi con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Khoản 1 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010). Theo đó, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ chấm dứt. Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình trước khi được cho làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục. Như vậy, con nuôi đã thành niên thì quan hệ với cha mẹ nuôi chấm dứt trong trường hợp con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, điều này phải đến từ sự mong muốn chấm dứt quan hệ của cha mẹ nuôi và con nuôi chớ không phải khi con đã thành niên thì quan hệ ấy sẽ chấm dứt. Nếu giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi vẫn được tiếp tục và được pháp luật bảo vệ.
Quyền nuôi con của cha mẹ nuôi sẽ bị chấm dứt khi nào?
Nhận nuôi con nuôi là một nghĩa cử cao đẹp và là truyền thống tương thân, tương ái của người Việt Nam đối với những trẻ không được may mắn hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn mà không thể tiếp tục nuôi con. Tuy nhiên, việc nhận con nuôi cũng là một thủ tục quan trọng chứ không chỉ thể hiện qua lời nói. Nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ, thì gia đình nhận nuôi phải đảm bảo cuộc sống của trẻ được học tập, vui chơi như sự phát triển như bình thường. Trường hợp, có dấu hiệu ảnh hưởng đến trẻ có thể bị chấm dứt quyền nuôi con nuôi. 1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi Người nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo đó, người này phải có: - Năng lực hành vi dân sự đầy đủ. - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. - Có tư cách đạo đức tốt. Theo quy định trên, thì người muốn nhận nuôi con phải lớn hơn con mình nhận nuôi 20 tuổi và là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Không thuộc một trong các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đáp ứng được điều kiện vật chất để có thể nuôi con. Ngoài ra, những người sau đây không được nhận con nuôi: (1) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. (2) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh. (3) Đang chấp hành hình phạt tù. (4) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Lưu ý: Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng các quy định trên. 2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi Tương tự như các mối quan hệ nhân thân đối với trẻ em có gia đình trong điều kiện bình thường. Người nhận nuôi con nuôi sẽ có một số quyền tương tự như cha mẹ ruột. Theo đó, hệ quả của việc nuôi con nuôi sẽ được quy định tại Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 như sau: Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình phải bình đẳng và tôn trọng nhau. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. Đặc biệt, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi. 3. Các hành vi nghiêm cấm đối với con nuôi Luật này cũng nghiêm cấm cha mẹ nuôi có một số hành vi chuộc lợi và đối xử phân biệt đối với con nhận nuôi. Qua đó, nhằm bảo vệ trẻ không bị thiệt thòi Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010 có một số quy định cấm như sau: - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em. - Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi. - Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. - Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số. - Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước. - Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Trường hợp mà các cá nhân có hành vi và sử dụng con nuôi vào mục đích bất chính được quy định như trên sẽ bị nghiêm cấm và được yêu cầu chấm quan hệ cũng như quyền lợi và nghĩa vụ với nhau. 4. 04 trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi Tùy vào từng trường hợp có thể phát sinh do cha mẹ nuôi, do con nuôi hoặc yếu tố thứ ba tác động thì để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ. Cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định chấm dứt nghĩa vụ nuôi con nuôi trong các trường hợp sau đây: (1) Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi. (2) Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi. (3) Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi. (4) Vi phạm quy định nghiêm cấm đối với con nuôi theo Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010. Như vậy, nếu người nào là cha mẹ nuôi mà rơi vào 04 trường hợp bị yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi hoặc đương nhiên bị chấm dứt tư cách là cha mẹ nuôi theo quy định như trên.
Cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ con, đây là nghĩa cử cao đẹp giúp người được nhận nuôi có được mái ấm và người nhận con nuôi được làm cha mẹ. Tuy nhiên, nếu cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi sẽ chấm dứt? 1. Nuôi con nuôi là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi là việc nhận người khác làm con nuôi và nhận người khác làm cha mẹ nuôi, từ đó xác lập quan hệ cha mẹ và con với nhau. Tuy nhiên, nếu cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi có chấm dứt không? 2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: (Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; - Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; - Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; - Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo quy định trên thì việc cha mẹ nuôi hành hạ, ngược đãi con nuôi chưa đủ căn cứ để làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà cha mẹ nuôi phải bị kết án về tội ngược đãi, hành hạ con nuôi thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi mới chấm dứt. 3. Người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp cha mẹ nuôi bị kết án về tội ngược đãi, hành hạ con nuôi: (Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Cha mẹ nuôi. - Con nuôi đã thành niên. - Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi. - Cơ quan lao động, thương binh và xã hội; - Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi Theo Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010, việc chấm dứt nuôi con nuôi sẽ dẫn đến các hệ quả sau: - Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. - Ngoài ra, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình trước khi được cho làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục. Như vậy, cha mẹ nuôi có hành vi ngược đãi, hành hạ con nuôi thì chưa làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ chấm dứt trong trường hợp cha mẹ nuôi bị kết án về tội ngược đãi, hành hạ con nuôi.
Con nuôi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt?
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ con, đây là nghĩa cử cao đẹp giúp người được nhận nuôi có được mái ấm và người nhận con nuôi được làm cha mẹ. Tuy nhiên, nếu con nuôi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi có chấm dứt? 1. Nuôi con nuôi là gì? Theo khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi là việc nhận người khác làm con nuôi và nhận người khác làm cha mẹ nuôi, từ đó phát sinh quan hệ cha mẹ và con với nhau. Tuy nhiên, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi có thể sẽ chấm dứt khi con nuôi có hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi không? 2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây: (Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; - Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; - Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; - Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo quy định trên thì việc con nuôi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi chưa đủ căn cứ để làm chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi mà con nuôi phải bị kết án về tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của cha mẹ nuôi thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi mới chấm dứt. 3. Người có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi Tổ chức, cá nhân sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp con nuôi bị kết án về tội xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi: (Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010) - Cha mẹ nuôi. - Con nuôi đã thành niên. - Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi. - Cơ quan lao động, thương binh và xã hội; - Hội liên hiệp phụ nữ. 4. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi Theo Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010, việc chấm dứt nuôi con nuôi sẽ dẫn đến các hệ quả sau: - Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. - Ngoài ra, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình trước khi được cho làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục. Như vậy, con nuôi có hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi chưa chấm dứt mà việc nuôi con nuôi sẽ chấm dứt trong trường hợp con nuôi bị kết án về tội xâm phạm sức khỏe, tính mạng của cha mẹ nuôi.
Con nuôi đã thành niên thì quan hệ với cha mẹ nuôi chấm dứt?
Người thành niên là người đủ 18 tuổi và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, ngoại trừ trường hợp người đó mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự và có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Liệu khi một người đã đủ 18 tuổi thì quan hệ giữa người đó và cha mẹ nuôi sẽ chấm dứt? 1. Nuôi con nuôi là gì? Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì nuôi con nuôi được hiểu là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi là việc nhận người khác làm con nuôi và nhận người khác làm cha mẹ nuôi, từ đó phát sinh quan hệ cha mẹ và con với nhau. Tuy nhiên, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi có thể sẽ chấm dứt khi con đã thành niên không? 2. Căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi Theo quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010 thì việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau: - Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; - Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; - Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi; - Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi 2010. Từ quy định trên, có thể thấy khi con nuôi đã thành niên thì quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt trong trường hợp con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi. Nếu cha mẹ và con không muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi vẫn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. 3. Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi Khi con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Khoản 1 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010). Theo đó, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ chấm dứt. Trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công lao đóng góp vào khối tài sản chung của cha mẹ nuôi thì được hưởng phần tài sản tương xứng với công lao đóng góp theo thỏa thuận với cha mẹ nuôi; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình trước khi được cho làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì các quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con được khôi phục. Như vậy, con nuôi đã thành niên thì quan hệ với cha mẹ nuôi chấm dứt trong trường hợp con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi, điều này phải đến từ sự mong muốn chấm dứt quan hệ của cha mẹ nuôi và con nuôi chớ không phải khi con đã thành niên thì quan hệ ấy sẽ chấm dứt. Nếu giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi vẫn được tiếp tục và được pháp luật bảo vệ.
Quyền nuôi con của cha mẹ nuôi sẽ bị chấm dứt khi nào?
Nhận nuôi con nuôi là một nghĩa cử cao đẹp và là truyền thống tương thân, tương ái của người Việt Nam đối với những trẻ không được may mắn hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn mà không thể tiếp tục nuôi con. Tuy nhiên, việc nhận con nuôi cũng là một thủ tục quan trọng chứ không chỉ thể hiện qua lời nói. Nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ, thì gia đình nhận nuôi phải đảm bảo cuộc sống của trẻ được học tập, vui chơi như sự phát triển như bình thường. Trường hợp, có dấu hiệu ảnh hưởng đến trẻ có thể bị chấm dứt quyền nuôi con nuôi. 1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi Người nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010. Theo đó, người này phải có: - Năng lực hành vi dân sự đầy đủ. - Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. - Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. - Có tư cách đạo đức tốt. Theo quy định trên, thì người muốn nhận nuôi con phải lớn hơn con mình nhận nuôi 20 tuổi và là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Không thuộc một trong các trường hợp mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đáp ứng được điều kiện vật chất để có thể nuôi con. Ngoài ra, những người sau đây không được nhận con nuôi: (1) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên. (2) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh. (3) Đang chấp hành hình phạt tù. (4) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Lưu ý: Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng các quy định trên. 2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi Tương tự như các mối quan hệ nhân thân đối với trẻ em có gia đình trong điều kiện bình thường. Người nhận nuôi con nuôi sẽ có một số quyền tương tự như cha mẹ ruột. Theo đó, hệ quả của việc nuôi con nuôi sẽ được quy định tại Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 như sau: Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình phải bình đẳng và tôn trọng nhau. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. Đặc biệt, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi. 3. Các hành vi nghiêm cấm đối với con nuôi Luật này cũng nghiêm cấm cha mẹ nuôi có một số hành vi chuộc lợi và đối xử phân biệt đối với con nhận nuôi. Qua đó, nhằm bảo vệ trẻ không bị thiệt thòi Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010 có một số quy định cấm như sau: - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em. - Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi. - Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. - Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số. - Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước. - Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi. - Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Trường hợp mà các cá nhân có hành vi và sử dụng con nuôi vào mục đích bất chính được quy định như trên sẽ bị nghiêm cấm và được yêu cầu chấm quan hệ cũng như quyền lợi và nghĩa vụ với nhau. 4. 04 trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi Tùy vào từng trường hợp có thể phát sinh do cha mẹ nuôi, do con nuôi hoặc yếu tố thứ ba tác động thì để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ. Cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định chấm dứt nghĩa vụ nuôi con nuôi trong các trường hợp sau đây: (1) Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi. (2) Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi. (3) Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi. (4) Vi phạm quy định nghiêm cấm đối với con nuôi theo Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010. Như vậy, nếu người nào là cha mẹ nuôi mà rơi vào 04 trường hợp bị yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi hoặc đương nhiên bị chấm dứt tư cách là cha mẹ nuôi theo quy định như trên.