Khi nào tài sản của người khác trở thành của mình?
Khi nào tài sản của người khác trở thành của mình? Vấn đề đặt ra nghe có vẻ vô lý nhưng pháp luật lại công nhận về quyền sở hữu trong các trường hợp cụ thể sau: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Theo đó, - Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. - Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. - Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản. BLDS 2015 quy định các trường hợp dưới đây được xác định “tài sản thuộc sở hữu của người khác sẽ trở thành của mình” : 1. Điều 165 BLDS quy định về trường hợp Chiếm hữu có căn cứ pháp luật: - Điểm d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; - Điểm đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Ví dụ: trường hợp được quy định tại điều 232 về Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc 1. Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm. 2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia cầm bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và chi phí khác cho người bắt được gia cầm. Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất lạc, người bắt được gia cầm được hưởng hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia cầm. 2. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu tại điều 228 - Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. - Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước. 3. Điều 236. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Hiểu như thế nào là "chiếm hữu ngay tình"?
Chiếm hữu ngay tình đã được quy định trong Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 tại Điều 189 theo đó “người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật”. Hiện nay, Điều 180 BLDS 2015 lại thay đổi theo hướng “ chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. So với Điều 189 BLDS 2005, Điều 180 BLDS 2015 đã có sự thay đổi hẳn. Cụ thể, thay vì người chiếm hữu phải chứng minh mình “không biết và không thể biết” việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật mới là chiếm hữu ngay tình. Điều 180 BLDS 2015 thì chỉ yêu cầu người chiếm hữu chứng minh mình “có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Thực ra, việc đánh giá tác động của sự thay đổi này là rất khó. Ví dụ, A mua của B một chiếc xe máy mà B trộm được bao gồm cả giấy tờ xe. Trong trường hợp này, A được xác định là không ngay tình theo BLDS 2005 vì có thể biết về hành vi chiếm hữu không có căn cứ pháp luật của mình. Cũng tình huống trên, nếu A chứng minh được bất kỳ ai khi rơi vào tình huống thực tế cụ thể của A cũng đều cho rằng việc mua bán của mình là hợp pháp thì việc chiếm hữu của A có được coi là ngay tình và A sẽ được hưởng những quyền lợi từ việc chiếm hữu ngay tình không trên cơ sở Điều 180 BLDS 2015? Việc thay đổi có những dấu hiệu tiến bộ để bảo vệ người đang chiếm hữu tài sản, nhưng các tiêu chí đánh giá còn khá trừu tượng. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 184 BLDS 2015 theo hướng “người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh”. Ở đây, điều luật chỉ có suy đoán một người chiếm hữu là chiếm hữu ngay tình. Quy định vừa nêu cho thấy người đang nắm giữ, chi phối tài sản chưa đủ để suy đoán là ngay tình, vì để hưởng sự suy đoán này, người đang nắm giữ, chi phối phải còn chứng minh thêm rằng họ nắm giữ, chi phối tài sản “như chủ thể có quyền đối với tài sản” thì mới được coi là “người chiếm hữu” (hiểu đơn giản là: phải chứng minh rằng họ là “người chiếm hữu” để được hưởng suy đoán là “ngay tình”, chừng nào chưa là người chiếm hữu thì chưa được hưởng suy đoán là người ngay tình). Chú ý kỹ hơn, chúng ta thấy điều mà pháp luật suy đoán không phải là cứ cầm giữ, chi phối tài sản thì được suy đoán là người chiếm hữu; luật chỉ đưa ra suy đoán về sự ngay tình sau khi người liên quan hội đủ điều kiện là “người chiếm hữu”. Nói cách khác, người đang nắm giữ, chi phối tài sản có nghĩa vụ chứng minh mình có đủ tư cách của “người chiếm hữu” (tức đáp ứng hai điều kiện ở trên) còn người có tranh chấp với họ có nghĩa vụ chứng minh sự không ngay tình.
Khi nào tài sản của người khác trở thành của mình?
Khi nào tài sản của người khác trở thành của mình? Vấn đề đặt ra nghe có vẻ vô lý nhưng pháp luật lại công nhận về quyền sở hữu trong các trường hợp cụ thể sau: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật. Theo đó, - Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. - Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. - Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản. BLDS 2015 quy định các trường hợp dưới đây được xác định “tài sản thuộc sở hữu của người khác sẽ trở thành của mình” : 1. Điều 165 BLDS quy định về trường hợp Chiếm hữu có căn cứ pháp luật: - Điểm d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; - Điểm đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; Ví dụ: trường hợp được quy định tại điều 232 về Xác lập quyền sở hữu đối với gia cầm bị thất lạc 1. Trường hợp gia cầm của một người bị thất lạc mà người khác bắt được thì người bắt được phải thông báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Sau 01 tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì quyền sở hữu đối với gia cầm và hoa lợi do gia cầm sinh ra trong thời gian nuôi giữ thuộc về người bắt được gia cầm. 2. Trường hợp chủ sở hữu được nhận lại gia cầm bị thất lạc thì phải thanh toán tiền công nuôi giữ và chi phí khác cho người bắt được gia cầm. Trong thời gian nuôi giữ gia cầm bị thất lạc, người bắt được gia cầm được hưởng hoa lợi do gia cầm sinh ra và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia cầm. 2. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu tại điều 228 - Tài sản vô chủ là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. - Người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước. 3. Điều 236. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Hiểu như thế nào là "chiếm hữu ngay tình"?
Chiếm hữu ngay tình đã được quy định trong Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 tại Điều 189 theo đó “người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật”. Hiện nay, Điều 180 BLDS 2015 lại thay đổi theo hướng “ chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. So với Điều 189 BLDS 2005, Điều 180 BLDS 2015 đã có sự thay đổi hẳn. Cụ thể, thay vì người chiếm hữu phải chứng minh mình “không biết và không thể biết” việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật mới là chiếm hữu ngay tình. Điều 180 BLDS 2015 thì chỉ yêu cầu người chiếm hữu chứng minh mình “có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Thực ra, việc đánh giá tác động của sự thay đổi này là rất khó. Ví dụ, A mua của B một chiếc xe máy mà B trộm được bao gồm cả giấy tờ xe. Trong trường hợp này, A được xác định là không ngay tình theo BLDS 2005 vì có thể biết về hành vi chiếm hữu không có căn cứ pháp luật của mình. Cũng tình huống trên, nếu A chứng minh được bất kỳ ai khi rơi vào tình huống thực tế cụ thể của A cũng đều cho rằng việc mua bán của mình là hợp pháp thì việc chiếm hữu của A có được coi là ngay tình và A sẽ được hưởng những quyền lợi từ việc chiếm hữu ngay tình không trên cơ sở Điều 180 BLDS 2015? Việc thay đổi có những dấu hiệu tiến bộ để bảo vệ người đang chiếm hữu tài sản, nhưng các tiêu chí đánh giá còn khá trừu tượng. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 184 BLDS 2015 theo hướng “người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh”. Ở đây, điều luật chỉ có suy đoán một người chiếm hữu là chiếm hữu ngay tình. Quy định vừa nêu cho thấy người đang nắm giữ, chi phối tài sản chưa đủ để suy đoán là ngay tình, vì để hưởng sự suy đoán này, người đang nắm giữ, chi phối phải còn chứng minh thêm rằng họ nắm giữ, chi phối tài sản “như chủ thể có quyền đối với tài sản” thì mới được coi là “người chiếm hữu” (hiểu đơn giản là: phải chứng minh rằng họ là “người chiếm hữu” để được hưởng suy đoán là “ngay tình”, chừng nào chưa là người chiếm hữu thì chưa được hưởng suy đoán là người ngay tình). Chú ý kỹ hơn, chúng ta thấy điều mà pháp luật suy đoán không phải là cứ cầm giữ, chi phối tài sản thì được suy đoán là người chiếm hữu; luật chỉ đưa ra suy đoán về sự ngay tình sau khi người liên quan hội đủ điều kiện là “người chiếm hữu”. Nói cách khác, người đang nắm giữ, chi phối tài sản có nghĩa vụ chứng minh mình có đủ tư cách của “người chiếm hữu” (tức đáp ứng hai điều kiện ở trên) còn người có tranh chấp với họ có nghĩa vụ chứng minh sự không ngay tình.