Người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt
Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 từ ngày được công bố luôn tạo ra nhiều sự quan tâm mọi người. Nổi bật hơn cả là vấn đề người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt. Cụ thể thế nào, hãy cùng tìm hiểu. 1. Nguyên tắc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ Căn cứ Điều 4 Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 quy định về nguyên tắc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ như sau: - Bảo đảm ngân sách nhà nước, cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị hiện đại, các điều kiện bảo đảm và nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của lực lượng trực tiếp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Huy động, sử dụng các nguồn lực để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Bố trí tương ứng từ các khoản thu tiền xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ và tiền đấu giá biển số xe sau khi nộp vào ngân sách nhà nước để tăng cường, hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị, phục vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn giao thông theo quy định của Chính phủ. - Hiện đại hoá các trung tâm chỉ huy giao thông; bảo đảm kết nối, chia sẻ Cơ sở dữ liệu về trật tự, an toàn giao thông đường bộ giữa các cơ quan nhà nước có liên quan. - Tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đầu tư, xây dựng, chuyển giao hệ thống, phương tiện, thiết bị giám sát phục vụ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tự nguyện tham gia phối hợp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ phù hợp với quy định của pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ và xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. - Bảo đảm công bằng, bình đẳng, an toàn đối với người tham gia giao thông đường bộ; tạo thuận lợi cho trẻ em, phụ nữ mang thai, người già yếu, người khuyết tật trong tham gia giao thông đường bộ; xây dựng văn hóa giao thông; giáo dục, phổ biến, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ cho trẻ em, học sinh để hình thành, nâng cao ý thức tự bảo vệ bản thân và tự giác chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp, cộng tác, hỗ trợ, giúp đỡ cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, có thành tích thì được khen thưởng, bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; người bị tổn hại về danh dự, nhân phẩm thì được khôi phục; người bị thương, bị tổn hại về sức khỏe, tính mạng thì bản thân, gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. - Phát triển phương tiện giao thông đường bộ đồng bộ với phát triển kết cấu hạ tầng đường bộ, điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu đi lại của người dân; nhập khẩu, sản xuất, lắp ráp phương tiện giao thông đường bộ bảo đảm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ đối với phương tiện giao thông trên thế giới; ưu tiên phát triển phương tiện vận tải công cộng, hạn chế sử dụng phương tiện giao thông cá nhân tham gia giao thông tại các đô thị lớn; ưu tiên chuyển đổi phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang phương tiện sử dụng điện, năng lượng xanh, thân thiện môi trường, hạ tầng cung cấp năng lượng sạch. Những nguyên tắc trên có ý nghĩa xã hội lớn lao trong việc bảo đảm sự an toàn và trật tự trong giao thông đường bộ. Nếu có thể đảm bảo những nguyên tắc trên, chắc chắn người dân sẽ an toàn hơn khi tham gia giao thông. 2. Người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt Trước hết, ta cần hiểu thế nào là người mất năng lực hành vi dân sự? Căn cứ khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau về mất năng lực hành vi dân sự: Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Bên cạnh đó, căn cứ khoản 2 Điều 30 Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 có quy định về người đi bộ, người khuyết tật, già yếu, người mất năng lực hành vi dân sự, phụ nữ mang thai, trẻ em phải tuân thủ các quy định sau: - Trẻ em dưới 07 tuổi khi đi qua đường phải có người lớn dẫn dắt; - Người khuyết tật sử dụng xe lăn có động cơ hoặc không có động cơ phải đi trên vỉa hè, lề đường và nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ và xe thô sơ; - Người khiếm thị khi đi trên đường bộ phải có người dẫn dắt hoặc có công cụ để báo hiệu cho người khác nhận biết là người khiếm thị; - Người mất năng lực hành vi dân sự khi đi trên đường bộ phải có người dẫn dắt; - Mọi người có trách nhiệm giúp đỡ trẻ em dưới 07 tuổi, phụ nữ mang thai, người già yếu, người khuyết tật, người mất năng lực hành vi dân sự khi đi qua đường. Cần biết, việc quy định người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt là đang bảo vệ an toàn cho chính bản thân họ và cho cả cộng đồng. Việc này đảm bảo an toàn cho tất cả, góp phần xây dựng một môi trường giao thông an toàn và văn minh hơn.
"Đất có lề, quê có thói" là gì? Đặt tên họ theo tập quán của các vùng miền có được không?
Đất có lề, quê có thói được hiểu là gì? Đặt tên họ theo tập quán của các vùng miền có được không? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. "Đất có lề, quê có thói" được hiểu là gì? - "Đất có lề" tức là lề luật là những thói quen, quy định quy tắc, thông lệ… của địa phương hay của cộng đồng dân cư của người nào đó. Ta thường nghe nói tới lề lối, lề luật, lề phép… - Còn "Quê có thói" nghĩa là thói quen, thói tục, thói cách, cách thức, tục lệ, tập quán, phong tục… - Nghĩa của câu "Đất có lề, quê có thói" gần giống với câu "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá" hoặc "Nhập gia tùy tục". Theo đó, "Đất có lề, quê có thói" có nghĩa là ở địa phương nào thì cũng có những luật lệ, phong tục, thói quen. Khi đến địa phương đó chúng ta phải hiểu biết, tôn trọng lề luật, tập tục của họ để ứng xử cho phù hợp. Có những thói quen, lề luật ở đất khách không giống quê mình nhưng bản thân ta vẫn phải tôn trọng, tránh bị cho là kém duyên, hoặc nặng nề hơn là vi phạm quy tắc, quy định, luật lệ ở địa phương đó. Ngoài ra, câu tục ngữ còn chỉ một số đặc điểm tập quán riêng ở một số khu vực như ở một số có những tập quán đặt tên họ khác so với nhiều vùng như: - Đối với đồng bào dân tộc thiểu số Châu Mạ, tỉnh Lâm Đồng thì phần “họ” được dùng để phân biệt giữa người nam và người nữ (nam giới mang họ K’ như K’Nhất, K’Quyn..., nữ giới mang họ Ka như Ka Rêm, Ka Hệp...), ngoài ra không sử dụng bất kỳ họ nào khác. Trường hợp con trai do người mẹ đơn thân sinh ra, mẹ mang họ Ka nhưng con trai phải mang họ K’ để tránh nhầm lẫn là giới tính nữ. - Hoặc một số tập quán khác không đặt họ như: Tập quán của người Ba Na ở Tây Nguyên, Bình Định, Phú Yên; người Brâu, người Xơ-đăng ở Kon Tum; người Mã Liềng ở huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình), Hương Khê (Hà Tĩnh)... thì người con trai dân tộc Ba Na thường gọi là Yang Danh, con gái thường gọi là: Thưr, Thớp, Yung, Blui, Aying, Klrot, Blinh, Chơ, Y owu, Nhiêng, Đim, Đech, Njưk… Đặt tên họ theo tập quán của các vùng miền có được pháp luật công nhận không? Căn cứ theo Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc áp dụng tập quán như sau: Áp dụng tập quán - Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. - Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Do đó, những tập quán được áp dụng trong giao dịch dân sự phải là các tập quán đã được hình thành trong đời sống dân sự cụ thể, đã được thực hiện và sử dụng thường xuyên được cộng đồng thừa nhận. Căn cứ tại khoản 2, khoản 3 Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định đối với việc đặt tên cho con như sau: Quyền có họ, tên - Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ. [...] - Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.” Theo đó, họ của cá nhân có thể xác định theo tập quán nếu cha mẹ không có thỏa thuận họ của con theo cha đẻ hoặc mẹ đẻ. Tuy nhiên, họ của con vẫn phải đảm bảo theo họ cha hoặc họ mẹ. Ngoài ra, tên của Công dân Việt Nam có thể bằng tiếng dân tộc khác của Việt Nam, không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ. Như vậy, câu tục ngữ "Đất có lề, quê có thói" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu và tôn trọng sự đa dạng văn hóa trong các phong tục tập quán của các vùng miền khác nhau.
Cá nhân có được phép thay đổi dân tộc không?
Dân tộc của mỗi cá nhân là một trong những đặc điểm nhân thân cơ bản và có tính bền vững. Vậy khi một cá nhân có nhu cầu được thay đổi dân tộc thì có được chấp nhận không và giấy tờ thủ tục ra sao? 1. Quy định pháp luật về quyền thay đổi dân tộc Theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Dân sự 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây: - Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau; - Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình. Ngoài ra tại Khoản 4,5 Điều 29 Bộ luật Dân sự 2015 có thêm quy định: - Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó. - Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam. 2. Thẩm quyền xác định lại dân tộc - Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh trước đây hoặc nơi cư trú của người yêu cầu thay đổi dân tộc nếu thay đổi dân tộc cho công dân Việt Nam ở trong nước. - Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi: + Đã đăng ký trước đây hoặc nơi cư trú của người nước ngoài đối với người nước ngoài đã đăng ký hộ tịch tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; + Người Việt Nam hiện đã định cư nước ngoài đã đăng ký hộ tịch trước đây; + Đã đăng ký trước đây hoặc nơi cư trú của công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước. 3. Thủ tục xác định lại dân tộc a. Các hồ sơ cần chuẩn bị - Tờ khai đăng ký việc thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư 04/2020/TT-BTP Hướng dẫn luật Hộ tịch. - Bản chính giấy khai sinh của người cần thay đổi dân tộc. - Bản sao có công chứng, chứng thực sổ hộ khẩu. - Bản sao chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân (nếu có). - Các giấy tờ, tài liệu liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi dân tộc: ví dụ như văn bản thỏa thuận của cha mẹ về việc thay đổi dân tộc cho con hoặc văn bản xác định cha, mẹ, con,… b. Thủ tục xác định lại dân tộc Bước 1: Người yêu cầu nộp hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền Bước 2: Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ Khi người có yêu cầu gửi hồ sơ xin thay đổi dân tộc, người tiếp nhận hồ có trách nhiệm kiểm tra toàn bộ hồ sơ của người có yêu cầu. Nếu xét thấy hồ sơ chưa đầy đủ, còn thiếu giấy tờ thì người tiếp nhận phải hướng dẫn người nộp hồ sơ bổ sung và hoàn thiện theo quy định pháp luật. Người tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm tiếp nhận đúng, đầy đủ hồ sơ theo quy định của pháp luật thì mới được tiến hành thủ tục thay đổi dân tộc theo yêu cầu. Người tiếp nhận phải ký, ghi rõ họ, chữ đệm, tên của mình. Bước 3: Tiến hành thay đổi dân tộc Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ, nếu thấy việc thay đổi dân tộc là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu thay đổi dân tộc ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
Con không có tên trong di chúc có được thừa kế?
Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Thông thường, người ta sẽ để lại tài sản cho người thân thuộc của mình nhưng nếu cha mẹ không ghi tên con vào di chúc và không để lại tài sản cho con thì con có được nhận thừa kế không? 1. Di chúc hợp pháp Nội dung di chúc là phần quan trọng nhằm xác định người có quyền và nghĩa vụ liên quan, nhưng trước khi xác định quyền và nghĩa vụ của người được đề cập trong di chúc thì phải xem xét tính hợp pháp của di chúc đó vì khi di chúc hợp pháp thì di chúc mới phát sinh hiệu lực. Theo Khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc hợp pháp phải có đủ điều kiện sau đây: - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; - Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. Ngoài điều kiện trên thì di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại Khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015. Đối với di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng. 2. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Thông thường, cha mẹ sẽ để lại tài sản cho con và lập di chúc xác định phần thừa kế. Thế nhưng không phải lúc nào cha mẹ cũng cho con thừa kế tài sản của mình, có những trường hợp cha mẹ để lại tài sản cho người khác hoặc quyên góp từ thiện và không để lại bất kỳ tài sản nào cho con. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật thì dù con không được ghi tên thừa hưởng tài sản trong di chúc nhưng vẫn được thừa kế. Cụ thể tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây vẫn được thừa kế dù trong di chúc không đề cập cho họ được hưởng thừa kế: - Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; - Con thành niên mà không có khả năng lao động. Từ quy định trên có thể thấy con chưa thành niên hoặc con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng di sản dù cha mẹ không cho con thừa kế theo di chúc. Về phần được hưởng thừa kế thì con chưa thành niên, con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất. Như vậy, nếu cha mẹ không để lại tài sản cho con và không ghi tên con vào di chúc thì con vẫn được hưởng thừa kế trong trường hợp là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Tuy nhiên, phần hưởng di sản chỉ bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Xử lý vi phạm với trẻ dưới 16 tuổi theo bộ luật dân sự
Trẻ chưa đủ 16 tuổi vi phạm vào việc trộm cắp hay xúc phạm danh dự của 1 tổ chức thì xử lý vi phạm như thế nào theo Bộ luật dân sự? Căn cứ theo Khoản 2, 3 Điều 586 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân 2. … Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.” Như vậy, trong trường hợp người vi phạm dưới 16 tuổi tức là chưa đủ 18 theo pháp luật quy định, khi vi phạm vào việc trộm cắp hay xúc phạm danh dự, theo luật dân sự thì người vi phạm phải bổi thường thiệt hại bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Còn đối với trường hợp mà người vi phạm có người giám hộ thì người giám hộ được lấy tài sản của người vi phạm để bồi thường, khi không đủ thì người giám hộ phải lấy tài sản của mình để bồi thường (trừ trường hợp chứng mình được mình không có lỗi trong việc giám hộ)
Chuộc lại tài sản dưới góc nhìn pháp lý
Trong cuộc sống sẽ có những thời điểm nguồn tài chính của chúng ta trở nên eo hẹp, để giải quyết khó khăn, một số người có nhu cầu tạm thời bán tài sản cho người khác để lấy tiền trong một thời gian ngắn sau đó chuộc lại. Đây là một việc rất thường thấy, tuy nhiên do thiếu hiểu biết về pháp luật mà nhiều người đã mất đi tài sản của mình. Bài viết hôm nay sẽ giúp mọi người có thêm thông tin về việc chuộc lại tài sản dưới góc nhìn pháp lý. Chuộc lại tài sản dưới góc nhìn pháp lý - Minh họa 1. Chuộc lại tài sản là gì? Chuộc lại là tài sản là việc sử dụng tiền, tài sản có giá trị quy đổi ra tiền để lấy lại những tài sản trước đó đã thuộc sở hữu của mình tuy nhiên vì một số lý do mà đã bán cho người khác và có thỏa thuận về việc lấy lại tài sản. 2. Có được chuộc lại tài sản đã bán không? Căn cứ vào Điều 454 Bộ luật dân sự 2015 cho phép bên bán có thể thỏa thuận với bên mua về quyền chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn gọi là thời hạn chuộc lại. Về bản chất Về bản chất, đây là một hợp đồng mua bán có điều kiện. Các bên khi mua bán có thoả thuận quyền chuộc lại tài sản ngay từ đầu. Thời hạn mà các bên thoả thuận chuộc lại tài sản gọi là “ thời hạn chuộc lại. Pháp luật không giới hạn thời hạn này sẽ là bao nếu các bên có thoả thuận, tuy nhiên nếu các bên không thoả thuận thì nếu tài sản là động sản thì thời hạn chuộc lại không quá 01 năm và nếu tài sản là bất động sản thì thời hạn chuộc lại không quá 05 năm kể từ thời điểm giao tài sản Lưu ý: Trong thời hạn này, bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, trừ khi giữa hai bên có sự thỏa thuận khác. 3. Bên mua có bán tài sản khi thời gian chuộc lại vẫn còn không? Căn cứ vào khoản 2 điều 454 Bộ luật dân sự 2015, bên mua không được phép xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho bất kỳ một bên thứ 3 nào trừ trường hợp được bên bán đồng ý. Rủi ro đối với tài sản sẽ do bên mua chịu cũng căn cứ tại điều 454 Luật này. Như vậy việc chuộc lại tài sản đã bán là có thể và hoàn toàn hợp pháp nếu tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi hết thời hạn được chuộc lại, bên bán sẽ mất đi quyền định đoạt với tài sản, lúc này bên mua có thể tự do chuyển nhượng quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Tranh chấp lối đi, tường rào: phải giải quyết thế nào?
Hàng xóm trên thực tế thường hay xảy ra các mâu thuẫn với nhau trong quá trình sử dụng đất, mà thường thấy nhất là những tranh chấp liên quan đến lối đi, tường rào, cột mốc, ranh giới. Những trường hợp này sẽ đươc giải quyết thế nào? Tranh chấp lối đi, tường rào: phải giải quyết thế nào - Minh họa 1. Giải quyết tranh chấp quyền về lối đi qua. Quyền về lối đi qua Căn cứ theo Điều 254 Bộ luật dân sự 2015 “Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.” Căn cứ Theo điều 171 Luật đất đai 2013 “ Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối đi; cấp, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý trên thửa đất liền kề.” Cả hai quy định này đều cho thấy hộ dân sống trong thửa đất bị vây bọc bởi các thửa đất khác sẽ quyền yêu cầu một lối đi qua được tạo trên phần đất của thửa đất vây bọc ở phía ngoài. Lối đi này phải xem xét đến sự hợp lý và ít gây phiền hà nhất cho bên nhường đất tạo lập lối đi. Trên thực tế, có nhiều trường hợp do mâu thuẫn, do không thống nhất được vị trí đất..v.v..mà hai bên tranh chấp với nhau về lối đi qua. Việc giải quyết sẽ được thực hiện như thế nào? Thủ tục giải quyết khi phát sinh tranh chấp về lối đi qua Căn cứ khoản 2 Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015, nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định. Người muốn khởi kiện tiến hành việc nộp đơn khởi kiện tại Tòa án ( căn cứ điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự 2015) Một bộ hồ sợ khởi kiện sẽ bao gồm: - Đơn khởi kiện; - Bản sao CCCD, CMND của người khởi kiện; -Bản sao các giấy tờ khác thể hiện quyền lợi chính đáng với lối đi chung như văn tự thỏa thuận, hóa đơn chi phí xây dựng lối đi… Đơn khởi kiện sẽ được nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, hoặc Tòa án nhân dân cấp huyện nơi nguyên đơn cư trú nếu hai bên có thỏa thuận ( Căn cứ Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) Sau khi nộp đơn, trình tự xử lý vụ án tại Tòa án sẽ xảy ra như sau: Nộp đơn khởi kiện => Tòa án sẽ Tiếp nhận và thụ lý => Chuẩn bị xét xử => Xét xử sơ thẩm => Thi hành án. Lưu ý: Đây là cách giải quyết tranh chấp quyền về lối đi qua, tức phần đất được dùng làm lôi đi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của bên có đất nằm phía ngoài, vụ tranh chấp sẽ được giải quyết bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án. Riêng trường hợp cũng tranh chấp về lối đi nhưng không xác định được lối đi chung đó là của ai thì đây là tranh chấp về quyền sử dụng đất, không giải quyết theo thủ tục này. 2. Giải quyết tranh chấp về tường rào Quy định về mốc giới Căn cứ vào Điều 176 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau: “Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các chủ thể đó.” Mốc giới đánh dấu ranh giới giữa hai thửa đất liền kề nhau, những mốc giới thường thấy như việc dựng rào bằng cột mốc, tường rào, cây cối..v.v.. Pháp luật quy định những mốc giới này ( tức tường rào, cột mốc) phải được lập trên phần đất của người lập mốc giới, không xâm phạm qua đất của thửa đất cạnh bên. Vậy nên mốc giới lúc này sẽ thuộc sở hữu riêng của người lập ra nó. Tuy nhiên trong trường hợp hai bên có thỏa thuận lập chung một mốc giới, cùng bỏ tiền và công sức để lập mốc giới thì lúc này mốc giới sẽ sở hữu chung của hai bên. Việc không có sự thỏa thuận mà tự lập mốc giới sang phần đất của người khác thì phải dỡ bỏ khi chủ sở hữu phần đất đó có yêu cầu. Thủ tục giải quyết khi phát sinh tranh chấp về tường rào Tranh chấp mốc giới giữa các thửa đất liền kề Căn cứ Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 quy định Hai bên trước hết tự thỏa thuận với nhau. Nếu không đạt được sự thỏa thuận thì nộp đơn lên UBNX xã để tiến hành thủ tục hòa giải ( giải quyết không quá 45 ngày). Trường hợp đã được hòa giải mà hòa giải không thành, hoặc hòa giải thành mà sau đó một bên đổi ý thì có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất Hồ sơ bao gồm - Đơn khởi kiện; - Bản sao CCCD, CMND của người khởi kiện; - Bản sao biên bản hòa giải tại UBND cấp xã; -Bản sao các giấy tờ khác thể hiện quyền lợi chính đáng đối với mốc giới Tranh chấp về việc lấn chiếm mốc giới (lấn chiếm tường rào) Căn cứ Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 quy định Hai bên trước hết tự thỏa thuận với nhau. Nếu không đạt được sự thỏa thuận thì nộp đơn lên UBNX xã để tiến hành thủ tục hòa giải ( giải quyết không quá 45 ngày). Trường hợp đã được hòa giải mà hòa giải không thành, hoặc hòa giải thành mà sau đó một bên đổi ý thì căn cứ vào Điều 203 chia ra hai trường hợp để giải quyết: TH1: Trường hợp một bên có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ tại điều 100 luật này thì nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất TH2: Trường hợp không có giấy chứng quyền sử dụng đất thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức là nộp đơn yêu cầu tại UBND cấp huyện hoặc Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất. Hồ sơ bao gồm - Đơn khởi kiện/Đơn yêu cầu giải quyết khiếu nại ; - Bản sao CCCD, CMND của người khởi kiện/ người yêu cầu; - Bản sao biên bản hòa giải tại UBND cấp xã; -Bản sao các giấy tờ khác thể hiện đất thuộc quyền sử dụng của mình. Sau khi nộp đơn, trình tự xử lý vụ án tại Tòa án sẽ xảy ra như sau: Nộp đơn khởi kiện => Tòa án sẽ Tiếp nhận và thụ lý => Chuẩn bị xét xử => Xét xử sơ thẩm => Thi hành án. Sau khi nộp đơn, trình tự giải quyết đơn khiếu nại tại UBND sẽ xảy ra như sau: Nộp đơn khiếu nại => UBND sẽ Tiếp nhận và thụ lý => Yều cầu giải trình, xác minh, đối thoại ( nếu cần) => Ra quyết định giải quyết khiếu nại Trên đây là những thông tin liên quan đến hưởng giải quyết khi phát sinh tranh chấp về lối đi qua, tường rào. Ngoài ra, mọi người có thể xem thêm bài viết liên quan tại đây: Không có sổ đỏ, tranh chấp đất đai giải quyết như thế nào?
Bảo lưu quyền sở hữu khi bên mua nợ tiền
Trong thực tế cuộc sống sẽ luôn tồn tại những giao dịch mua bán mà người mua trong cùng một thời điểm không thể thanh toán toàn bộ tiền tài sản cho bên bán, vậy nên các bên thỏa thuận với nhau về việc mua trả chậm, chia ra nhiều lần để trả. Để đảm bảo bên mua sẽ trả đủ tiền cho bên bán sau khi nhận tài sản, pháp luật đã đưa ra quy định về Bảo lưu quyền sở hữu tại điều 331 Bộ luật dân sự 2015. Vậy Bảo lưu quyền sở hữu tài sản là gì? Sẽ được áp dụng khi nào mà có thể buộc bên mua phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán? Bảo lưu quyền tài sản khi bên mua nợ tiền - Minh họa Điều 453 Bộ luật dân sự đã quy định về việc bảo lưu quyền sở hữu của bên bán trong những giao dịch mà các bên trong quan hệ mua bán trả chậm. Cụ thể như sau: “Điều 453. Mua trả chậm, trả dần 1. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo đó, bên mua sau khi nhận tài sản, có thể trả góp tiền mua nhiều lần nếu như đạt được sự thỏa thuận với bên bán. Thế nhưng để đảm bảo quyền được thanh toán đầy đủ của bên bán, pháp luật đã được ra quy định về quyền bảo lưu tài sản. Nói một cách đơn giản, bảo lưu quyền sở hữu có nghĩa là trước khi bên mua thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền với bên bán, tài sản vẫn sẽ thuộc quyền sở hữu và định đoạt của bên bán, dù có đang nằm trong tay bên mua căn cứ vào Điều 331 Bộ luật dân sự 2015 Về hình thức Việc hai bên thỏa thuận về hình thức thanh toán chậm sẽ không đương nhiên hình thành quyền bảo lưu tài sản. Để đảm bảo quyền lợi của chính mình, bên bán phải thỏa thuận với bên mua về việc xác lập biện pháp bảo lưu quyền sở hữu và tiến hành đăng ký biện pháp này với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Căn cứ Điều 9,Nghị định số 102/2017/NĐ-CP quy định về thẩm quyền đăng ký biện pháp bảo đảm - Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất: Thẩm quyền sẽ thuộc về thì Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường - Trường hợp tài sản là động sản hoặc tài sản khác: Thẩm quyền thuộc về Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp Lưu ý: Quyền bảo lưu tài sản này phải được lập thành văn bản cứ khoản 2 điều 453 Bộ luật dân sự 2015. Quyền và nghĩa vụ của các bên khi thỏa thuận quyền Bảo lưu tài sản Bên bán tài sản (Điều 322 Bộ luật dân sự 2015) - Bên bán có quyền đòi lại tài sản nếu bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán - Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi đã trừ giá trị hao mòn - Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại Bên mua tài sản ( Điều 333 Bộ luật dân sự 2015) - Bên mua có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực. - Ngoài ra, bên mua có nghĩa vụ phải chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác Từ đó có thể thấy rằng, quyền bảo lưu tài sản sẽ đảm bảo cho bên mua phải thanh toán đủ số tiền còn nợ cho bên bán, vì nếu không, bên bán có quyền đòi lại tài sản của mình, bởi bản chất tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên bán. Theo các quy định đã nêu trên, có thể suy ra quyền bảo lưu tài sản này sẽ chỉ chấm dứt trong trường hợp bên mua đã trả đủ tiền, hoặc bên bán đã nhận lại tài sản bảo lưu, hoặc tuân theo sự thỏa thuận giữa các bên nếu các bên có thỏa thuận mới.
Bình luận nội dung Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thừa kế?
Phân tích các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định pháp luật hiện hành. Bình luận nội dung Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
HĐTP TANDTC chuẩn bị ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 201 BLHS
Hướng dẫn áp dụng Điều 201 BLHS - Minh họa Hội đồng thẩm phán TANDTC đang dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Đáng chú ý trong dự thảo này là hướng dẫn Xác định số tiền thu lợi bất chính và việc Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể. Theo đó: Về việc xác định số tiền thu lợi bất chính trong một số trường hợp cụ thể: 1. Trường hợp giao dịch dân sự chưa hết thời hạn mà bị phát hiện thì tiền thu lợi bất chính được xác định theo số tiền mà người vay thực tế đã trả. Ví dụ 1: Nguyễn Văn A cho Nguyễn Văn B vay 300 triệu đồng trong thời gian 02 tháng, tiền lãi là 90 triệu đồng được trả làm 2 đợt cho đến khi hết hạn hợp đồng. Tuy nhiên, khi hết 1 tháng, B mới trả được 45 triệu thì hành vi cho vay lãi nặng bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. Trường hợp này, tiền thu lợi bất chính được xác định là số tiền 45 triệu trừ đi số tiền lãi 5 triệu (mức lãi suất 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự). Ví dụ 2: Nguyễn Văn A cho Nguyễn Văn B vay 300 triệu đồng, thời hạn vay là 02 tháng, tiền lãi là 80 triệu đồng. Tuy nhiên thực tế A cho giao cho B 220 triệu đồng tiền vay, còn 80 triệu đồng A đã trừ trước tiền lãi. Khi hết thời hạn 1 tháng thì bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. Trường hợp này, số tiền thu lợi bất chính được xác định là 80 triệu trừ đi số tiền lãi 5 triệu (mức lãi suất 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự). 2. Trường hợp giao dịch dân sự đã hết hạn nhưng người vay chưa trả được tiền lãi hoặc mới trả được một phần tiền lãi thì số tiền thu lợi bất chính vẫn được xác định trên cơ sở của cả thời gian của giao dịch dân sự. Về việc Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể 1. Trường hợp người thực hiện hành vi cho vay lãi nặng thu phí của người vay (như phí hợp đồng, phí tư vấn, phí dịch vụ, phí liên lạc...) thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để xác định lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự. 2. Trường hợp người môi giới (trung gian) câu kết với người cho vay thu phí dịch vụ của người vay để cùng thu lợi bất chính thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để tính lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự. 3. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. 4. Trường hợp người trung gian thực hiện hành vi tư vấn, môi giới... hoặc có hành vi khác tham gia vào quá trình cho vay lãi nặng, đòi nợ (như dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, góp vốn ...) mà biết rõ để thực hiện việc cho vay lãi nặng mà vẫn thực hiện thì bị xử lý hình sự với vai trò là đồng phạm trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. 5. Trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như ép buộc lấy tài sản, đánh người vay...) thì tùy từng trường hợp họ phải xử lý trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng. Ví dụ: A đánh B gãy tay để đòi lại số tiền đã cho vay lãi nặng. A phạm tội cố ý gây thương tích và tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Xem thêm những nội dung khác tại file đính kèm dưới đây.
Giải đáp 3 câu hỏi về vụ Người đàn ông chết nghi do Bạo dâm
Vụ người đàn ông chết do bạo dâm Hôm qua, một tin tức được nhiều người chú ý là vụ việc người đàn ông chết trong tư thế quỳ, nghi vấn do trước đó có thực hiện hành vi quan hệ tình dục theo kiểu “Bạo dâm” với người khác. DanLuat sẽ trả lời ngắn gọn 3 thắc mắc mà dư luận đang quan tâm sau đây! Câu hỏi 1: Bạo dâm có phải hiếp dâm? => Không, nếu hai bên đã thỏa thuận. Giải thích: Theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), dấu hiệu cơ bản của tội này là thực hiện hành vi quan hệ tình dục hoặc quan hệ tình dục khác “trái với ý muốn của nạn nhân”. Ngược lại, việc “bạo dâm” lại là những hành vi quan hệ tình dục mạnh bạo, … do hai bên tự thỏa thuận với nhau, qua đó có thể hiện sự đồng thuận và không thể xem là “trái với ý muốn”. Như vậy, để quyết định trong trường hợp của vụ án này có phải là hiếp dâm hay không, vẫn cần kết luận của cơ quan điều tra về yếu tố “trái với ý muốn” Câu hỏi 2: Tội hiếp dâm có áp dụng trong trường hợp nạn nhân là người đồng tính? => Có. Giải thích: Tội hiếp dâm không quy định về giới tính của người bị hại, bất kể hành vi nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì đều bị coi là phạm tội. (Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Tại khung tăng nặng của tội này, hành vi hiếp dâm nếu dẫn đến kết quả là nạn nhân chết hoặc tự sát thì có thể bị tuyên án mức án cao nhất là 12-20 năm tù hoặc chung thân. Câu hỏi 3: Nếu quan hệ trong sự đồng thuận nhưng làm bạn tình chết thì phải chịu trách nhiệm gì? *Về Dân sự: Chưa xét đến việc làm chết người phải chịu trách nhiệm gì, chỉ cần bạn gây thiệt hại về tính mạng cho người khác, bạn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, trong đó bao gồm: - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo - Chi phí hợp lý cho việc mai táng; - Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; - Thiệt hại khác do luật quy định. - Một khoản tiền bù đắp tổn thất cho người ở hàng thừa kế thứ nhất hoặc những người nạn nhân trực tiếp nuôi dưỡng hoặc những người đã trực tiếp nuôi dưỡng nạn nhân, mức bù đắp này tối đa bằng 100 lần mức lương cơ sở. (Điều 591 Bộ luật dân sự 2015) *Về Hình sự: Tùy theo kết luận của cơ quan điều tra mà kẻ làm chết người có thể phạm các tội: - Giết người (nếu chủ đích là tước đoạt mạng sống nạn nhân) (Điều 123 BLHS 2015) - Vô ý làm chết người. (Điều 128 BLHS 2015).
Trường hợp nào ngày chết không phải ngày giỗ?
Ngày chết pháp lý của một người - Ảnh minh họa Với tư duy thông thường của mọi người, ngày chết của một người sẽ là ngày giỗ của họ, tuy nhiên với tư duy pháp lý thì sao? Khai tử thông thường Khi một người chết, việc khai tử của người đó thực hiện theo Điều 33 Luật Hộ tịch 2014 như sau: “1. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử.” Trong nội dung khai tử, Khoản 2 Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định: “Khi đăng ký khai tử theo quy định của Luật Hộ tịch, nội dung khai tử phải bao gồm các thông tin: Họ, chữ đệm, tên, năm sinh của người chết; số định danh cá nhân của người chết, nếu có; nơi chết; nguyên nhân chết; giờ, ngày, tháng, năm chết theo Dương lịch; quốc tịch nếu người chết là người nước ngoài.” Theo đó, ngày người chết sẽ được xác định theo thông tin được cung cấp từ người khai tử, tuy nhiên có những trường hợp việc xác nhận ngày chết không đơn giản như vậy. Một số trường hợp khai tử đặc biệt Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 quy định, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: - Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống - Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống - Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác - Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống Sau khi căn cứ vào các trường hợp trên, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Từ đó, có thể thấy từ quy định trên những tình huống như: - Người bị tuyên bố là đã chết thực ra không chết và có thông tin xác thực là còn sống - Người bị tuyên bố là đã chết thực ra đã chết trong khoảng thời gian không có thông tin xác thực là còn sống. Đây sẽ là những trường hợp ngày được tuyên bố chết về mặt pháp lý khác với ngày gia đình chọn làm ngày giỗ của người chết. Ngoài ra, còn những trường hợp nào khác mà ngày chết của một người và ngày được tuyên bố chết về mặt pháp lý là hay ngày khác nhau, xin mời bạn đọc đóng góp thông tin!
Người khởi kiện có 3 ngày để lựa chọn lại Hòa giải viên
Thông tư 03/2020/TT-TANDTC Đây là quy định mới được ban hành tại Thông tư 03/2020/TT-TANDTC quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định hòa giải viên. Theo Khoản 3, Khoản 4 Điều 16 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, người khởi kiện, người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự có tổng cộng 6 ngày để trả lời thông báo Tòa án về quyền lựa chọn Hòa giải viên của mình. Quy định chi tiết Điều này, Khoản 1 Điều 3 Thông tư 03 quy định “Thông báo của Tòa án phải kèm theo danh sách Hòa giải viên tại Tòa án đó”. Tuy nhiên trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu muốn lựa chọn Hòa giải viên khác không có trong danh sách trên, Khoản 3 Điều 3 quy định: “3. Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện khác trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì phải thực hiện thủ tục lấy ý kiến của Hòa giải viên được lựa chọn và ý kiến của Tòa án nơi Hòa giải viên làm việc theo quy định tại khoản 3 Điều 17 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.” Tiếp đó, Khoản 4 Điều trên hướng dẫn: - Sau khi thực hiện thủ tục theo quy định trên mà nhận được ý kiến không đồng ý của Hòa giải viên, của Tòa án nơi Hòa giải viên làm việc thì người khởi kiện, người yêu cầu có thể lựa chọn Hòa giải viên khác. - Việc lựa chọn lại Hòa giải viên được thực hiện theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 3, tức họ vẫn có thêm 3 ngày kể từ khi nhận được thông báo từ chối của Hòa giải viên để tiếp tục lựa chọn Hòa giải viên khác. Xem chi tiết Thông tư ở file đính kèm dưới đây:
Có phải bồi thường khi người khác tự ý lao đầu vào xe mình?
Người khác tự ý lao vào xe mình - Ảnh minh họa Không ít trường hợp tài xế điều khiển xe cơ giới (kể cả xe máy, ô tô) đang lưu thông trên đường thì bất ngờ có người lao thẳng vào xe của mình, dẫn đến thiệt hại xảy ra. Trong những trường hợp này, trách nhiệm của mỗi bên ra sao? Để trả lời được câu hỏi này, ta phân tích tình huống dưới hai góc độ: 1. Về dân sự Trong quan hệ dân sự, bất kể một thiệt hại nào xảy ra trên thực tế đều phải được bồi thường toàn bộ, kịp thời, tuy nhiên khi bên thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. (Khoản 1, Khoản 4 Điều 585 Bộ luật dân sự 2015). Chỉ có một trường hợp duy nhất người gây thiệt hại không phải bồi thường, theo quy định tại Khoản 2 Điều 584 BLDS: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Quay lại với vấn đề đã đặt ra: Người khác tự ý lao đầu vào xe của mình thì trách nhiệm bồi thường như thế nào? Tại Khoản 2 Điều 601 Bộ luật dân sự có quy định: “2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Vì các loại xe cơ giới như xe máy, ô tô được xếp vào nhóm “nguồn nguy hiểm cao độ” tại Khoản 1 Điều trên nên người tài xế vẫn phải bồi thường cho người bị thương dù mình không có lỗi, trừ khi có những căn cứ sau: - Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại - Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (Khoản 3 Điều 601 BLDS) “Lỗi cố ý” được định nghĩa ở Điều 364 BLDS: “Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.” Việc xác định lỗi cố ý này không thể dễ dàng phân tích một cách lý thuyết mà phải dựa trên điều tra thực tế, xem xét các hành vi khách quan, thời gian, không gian xảy ra hành vi. Riêng đối với tài xế lái xe, nếu họ chứng minh được việc lao đầu vào xe hơi của nạn nhân gây thiệt hại cho họ thì thậm chí người bị thiệt hại còn phải bồi thường ngược lại cho người điều khiển phương tiện. 2. Về hình sự Trong quan hệ hình sự, hành vi tông chết người khi tham gia giao thông còn có thể tác động đến một khách thể khác, đó là các quy định của pháp luật, trật tự an toàn xã hội. Khi khách thể này bị xâm phạm, Nhà nước hoàn toàn có thể xem xét hành vi xâm phạm là một hành vi phạm tội và cần phải trừng trị. Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đối với tội này, người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: - Làm chết người - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; - Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Cần hết sức lưu ý là ở đây, chỉ cần có 2 yếu tố: vi phạm quy định về an toàn gao thông và gây ra thiệt hại (với người bị tông hoặc với tài sản của Nhà nước) là đủ để xử lý hình sự, cho dù người vi phạm không hề cố tình tông vào nạn nhân. Nếu người lái xe không vi phạm bất kỳ quy định nào của pháp luật về giao thông đường bộ, họ sẽ không bị khép vào tội này. Theo những phân tích trong bài, phần lớn những vụ việc tương tự chỉ có thể được phân rõ trách nhiệm bồi thường khi được điều tra, làm rõ vụ việc và Tòa án ra quyết định cuối cùng.
Bị thương do thú trong sở thú xổng chuồng: Ai bồi thường?
Thú trong sở thú gây thiệt hại - Ảnh minh hoạ Giả sử một người đi vào sở thú và bị một con thú trong đó xổng chuồng gây thiệt hại. Trường hợp này có phải bồi thường hay không? Nếu có thì ai sẽ phải bồi thường? Trước tiên, chúng ta xác định việc xảy ra thiệt hại và bồi thường ở đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp luật về dân sự, áp dụng Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) để giải quyết. Trong trường hợp này, yếu tố trực tiếp gây thiệt hại là Thú dữ trong sở thú, vậy xếp Thú dữ vào căn cứ bồi thường nào? Điều 601 BLDS có quy định: "Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật. 2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác." Phân tích điều luật trên ta thấy: 1. "Thú dữ" được xếp vào "nguồn nguy hiểm cao độ". 2. Chủ sở hữu của thú dữ phải có trách nhiệm trông giữ nguồn nguy hiểm cao độ. 3. Việc thú dữ gây thiệt hại cho người khác, cho dù chủ sở hữu có lỗi hay không thì vẫn phải bồi thường. 4. Vẫn có căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường cho chủ sở hữu, trong trường hợp thiệt hại hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại Như đã phân tích ở trên, "lỗi cố ý của người bị thiệt hại" sẽ là căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường cho chủ sở hữu, trong trường hợp này có thể hiểu, nếu việc con thú xổng chuồng là do người tham quan cố ý chọc ghẹo, tác động vào con thú hoặc có hành vi khác trực tiếp khiến cho con thú xổng chuồng và gây thiệt hại cho họ, người chủ của thú vật sẽ không phải bồi thường, nên đừng dại chọc thú dữ! Như vậy, thú trong sở thú gây thiệt hại thì chủ của chúng sẽ phải bồi thường, trừ trường hợp bạn cố tình tác động lên chúng dẫn đến thiệt hại Cuối cùng, chủ của thú trong sở thú là ai? Bạn đọc hãy chú ý khi đến sở thú, hỏi ngay bảo vệ để biết ai là người sở hữu những con thú này nhé!
Cấm dịch vụ đòi nợ thuê từ 01/01/2021: Hướng dẫn cách đòi nợ đúng luật
Đòi nợ hợp pháp - Ảnh minh họa Vay, mượn tài sản là hình thức giao dịch phổ biến trong Dân sự, tuy nhiên không phải lúc nào việc vay mượn này cũng diễn ra suôn sẻ theo ý muốn của người cho vay. Theo quy định tại Luật đầu tư sửa đổi 2020 sắp có hiệu lực từ 1/1/2021, dịch vụ đòi nợ đã chính thức bị đưa vào danh sách cấm đầu tư, kinh doanh. Vậy phải thực hiện việc đòi nợ như thế nào để không trái với quy định của pháp luật? Dù trên thực tế có rất nhiều hình thức vay, mượn tài sản khác nhau nhưng về bản chất, việc cho vay tồn tại dưới dạng một hợp đồng (có thể tồn tại cả dưới dạng lời nói hoặc văn bản). Tại Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” Như vậy việc “hoàn trả” là bắt buộc đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng vay. Kế đó, tại Điều 466 BLDS cũng quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay trường hợp bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. Về lãi suất: Mức lãi suất tối đa khi vay tiền Xem TẠI ĐÂY Chiếu theo những quy định trên, điều đầu tiên giúp bảo vệ quyền lợi của người cho vay là thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng vay. Kế đến khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết, nếu bên vay vẫn không thực hiện nghĩa vụ và bên cho vay không muốn kéo dài thời gian chậm trả, việc đòi nợ sẽ được thực hiện theo pháp luật Dân sự hoặc Hình sự như sau: Về dân sự: Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc chậm trả của con nợ là căn cứ cho thấy quyền, lợi ích hợp pháp của người cho vay đã bị xâm phạm, theo đó có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận, huyện nơi mình sinh sống. Trong hồ sơ cần nộp những căn cứ chứng minh mình có quyền hợp pháp với số tiền mà bên vay đang nợ. Đối với phương án này, người đòi nợ cần cân nhắc thời gian giải quyết tranh chấp có thể kéo dài qua các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, lúc này nếu phát hiện “con nợ” có dấu hiệu tẩu tán tài sản, khi khởi kiện tùy tình hình thực tế mà chủ nợ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc đồng thời các biện pháp sau: - Kê biên tài sản đang tranh chấp. - Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. - Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước. - Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ. - Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Xem chi tiết trình tự giải quyết vụ, việc dân sự tại đây. Về hình sự: Nếu bên vay có hành vi gian dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi tẩu tán tài sản, bỏ trốn… nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ thì hành vi của người đó có dấu hiệu tội phạm về các tội tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như: - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) Trong trường hợp này, người cho vay cần làm đơn tố giác gửi cơ quan điều tra, đề nghị điều tra, xử lý người vay đồng thời giải quyết vấn đề trả nợ vay theo Điều 30 BLTTHS 2015. Trường hợp người vay không có ý định gian dối nhắm trốn tránh việc trả nợ mà vì lý do cá nhân chưa đủ khả năng trả thì chỉ cần làm đơn khởi kiện dân sự để tòa giải quyết theo yêu cầu. Xem chi tiết quy trình giải quyết vụ án hình sự tại đây. Sau khi bản án, quyết định Dân sự, Hình sự có hiệu lực thi hành, việc truy đòi tài sản đối với con nợ tiến hành theo quy định tại Luật thi hành án dân sự hợp nhất 2018. Mời bạn đọc đóng góp thêm kinh nghiệm giải quyết của mình trong việc đòi nợ!
Người làm chứng trong di chúc!
Người làm chứng rất quan trọng trong việc lập di chúc tuy nhiên, không phải loại di chúc nào cũng có người làm chứng. Bộ luật Dân sự quy định 2 trường hợp di chúc phải có người làm chứng đó là di chúc bằng văn bản có người làm chứng và di chúc bằng miệng. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng là khi người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc mà phải đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy di chúc, còn di chúc miệng là trường hợp người lập di chúc bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản. Cả hai trường hợp này đều phải có ít nhất hai người làm chứng. Theo Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015 thì mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, tuy nhiên những người thuộc một trong những trường hợp sau đây sẽ không được làm người làm chứng: Một là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. Những người này có thể tác động lên ý chí của người lập di chúc khiến họ không thể tự do định đoạt tài sản và ghi vào những nội dung di chúc mà không theo ý muốn của bản thân. Hai là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc như là đồng sở hữu tài sản, chủ nợ, con nợ, … .Việc làm chứng của những người này sẽ không đảm bảo tính khách quan khi có tranh chấp xảy ra. Cuối cùng là người chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Những người này không thể tự chịu trách nhiệm với hậu quả, mặt khác không thể chắc chắn họ nhận thức đúng ý chí của người lập di chúc. Và đương nhiên những người này không thể làm chứng được. Trên thực tế, người lập di chúc sẽ nhờ luật sư hoặc các công chứng viên làm người làm chứng cho di chúc của mình.
Cha mẹ ủy quyền cho con vay nợ, sau khi cha mẹ chết giải quyết trách nhiệm thế nào?
Cha mẹ ủy quyền cho con vay nợ Ba mẹ có làm hđ uỷ quyền cho chị A thế chấp vay tiền. Chị A căn cứ vào đó vay tiền của tôi, tài sản thế chấp là nhà đất đứng tên ba mẹ chị ấy. Hợp đồng được công chứng hợp pháp. Sau đó ba, mẹ hoặc cả 2 người mất thì quyền lợi của tôi được giải quyết thế nào? Xin luật sư tư vấn giúp. Xin cảm ơn
Những đối tượng được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Quyền định đoạt là một quyền thiêng liêng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình đồng thời cũng thể hiện quyền tự do của mỗi cá nhân và thừa kế là một cách mà chủ sở hữu định đoạt tài sản của mình. Trước khi chết, người có tài sản được quyền định đoạt tài sản của mình trong di chúc cho ai theo ý chí của họ, tuy nhiên không hoàn toàn tự do trong việc định đoạt và một trong những giới hạn đó chính là chế định “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”. Vậy đó là những người nào? Theo Bộ luật Dân sự hiện hành, những chủ thể được hưởng thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cụ thể là hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, đó là “con chưa thành niên, cha, mẹ vợ chồng” và “ con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. Cụ thể: Con chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, pháp luật không nhắc tới thời điểm xác định tuổi của người chưa thành niên là thời điểm lập di chúc, thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chia di sản. Theo quan điểm của người viết thì nên xác định tuổi của người chưa thành niên vào thời điểm mở thừa kế vì đây là thời điểm di chúc có hiệu lực và khả năng chia di sản mới có thể được tiến hành. Cha, mẹ được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Trong quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 chỉ quy định chung là cha, mẹ không nói cụ thể là cha, mẹ ruột, cha, mẹ nuôi hay cha, mẹ vợ (chồng). Tuy nhiên, tại một quy định khác về hàng thừa kế thứ nhất thì cha, mẹ được quy định rõ là cha, mẹ ruột và cha, mẹ nuôi. Vì vậy, chúng ta có suy luận cha, mẹ ở đây là cha, mẹ ruột và cha, mẹ nuôi (không bao gồm cha, mẹ vợ (chồng)). Vợ, chồng là những người có quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ. Những người chung sống như vợ chồng chỉ thiết lập mối quan hệ tài sản mà không có quan hệ vợ chồng với nhau và không được hưởng thừa kế trong trường hợp này. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động là người không có khả năng lao động từ nhỏ hoặc những người bị mất khả năng lao động do tai nạn. Bộ luật Dân sự cũng không nêu rõ những trường hợp nào thì được coi là mất khả năng dân sự. Tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có liệt kê một số trường hợp được coi là mất khả năng lao động đó là những trường hợp sau khi điều trị, bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên. Ngoài ra, trên thực tế, một số Tòa án còn coi người đến tuổi nghỉ hưu cũng thuộc trường hợp này. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định một số trường hợp thuộc những đối tượng trên nhưng không được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (khoản 2 Điều 644). Trên đây, là những trường hợp mà pháp luật cho phép được hưởng di sản thừa kế mà không bị phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
CGST xịt hơi cay vào người điều khiển phương tiện dẫn đến tử vong: Xử lý thế nào?
Theo tuoitre.vn, một tổ CSGT tại tỉnh Đồng Tháp truy đuổi xe máy không chấp hành hiệu lệnh, sau đó xịt hơi cay vào người điều khiển phương tiện dẫn đến người này tông xe vào lề đường khiến một người chết, một người bị thương nặng. Vậy tổ CSGT trong trường hợp này ngoài bị đình chỉ công tác thì sẽ bị xử lý như thế nào dưới góc độ pháp luật? Cũng theo tuoitre.vn khi trả lời câu hỏi liên quan đến việc CSGT có được xịt hơi cay về phía xe đang chạy, một đại diện Phòng tham mưu Công an tỉnh Đồng Tháp cho hay: "Theo quy định, trong quá trình CSGT tuần tra, phát hiện người điều khiển phương tiện có vi phạm, không chấp hành hiệu lệnh dừng xe, gây nguy hiểm đối với người thi hành nhiệm vụ thì được phép sử dụng công cụ hỗ trợ, trong đó có xịt hơi cay.” Như vậy để xác định được trách nhiệm pháp lý đối với tổ CSGT trong vụ việc thì phải làm rõ ba vấn đề sau đây: *Bình xịt hơi cay có được xem là phương tiện nguy hiểm hay nguồn nguy hiểm cao độ hay không? Bình xịt hơi cay (cũng được gọi tắt là OC spray - Oleoresin Capsicum) là một thiết bị tự vệ (đôi khi để tấn công) bằng cách bất ngờ phun các chất cay như hạt tiêu, ớt, các chất hóa học gây cay khác về phía mặt đối thủ gây chảy nước mắt, đau đớn và có thể gây mù tạm thời, được sử dụng trong chống bạo động, tự vệ cá nhân. *Hành vi của tổ CSGT là trực tiếp hay gián tiếp gây tai nạn chết người? Vấn đề được đặt ra ở đây là hành vi dùng bình xịt hơi cay là nguyên nhân trực tiếp hay là hành vi gián tiếp dẫn đến tai nạn chết người kia. Theo quan điểm của tôi, vụ việc trên rơi vào trường hợp gián tiếp gây tai nạn chết người; vì có thể thấy, tổ CGST thuộc tỉnh Đồng tháp không phải là người trực tiếp gây ra tai nạn, mà đã thông qua một dụng cụ, phương tiện khác (cụ thể là bình xịt hơi cay) dẫn đến tai nạn trên. Tuy nhiên, có thể khẳng định, đây là một hành vi với lỗi cố ý gián tiếp vì khi thực hiện hành vi trên thì tổ CSGT nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây nguy hiểm, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. *Xác định trách nhiệm pháp lý Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến việc dùng bình xịt hơi cay của tổ CSGT xuất phát từ hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông của nạn nhân. Tuy nhiên sẽ có một số ý kiến cho rằng, trách nhiệm của người thi hành pháp luật không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo quy định pháp luật, mà còn phải lường trước được những hậu quả có thế xảy ra. Theo tôi, chúng ta sẽ phải chờ kết quả xác minh và báo cáo từ Phòng CSGT tỉnh Đồng Tháp về vụ việc trên để có cái nhìn khách quan nhất. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp luật, tổ CSGT kia có thể phải chịu trách nhiệm pháp luật, cụ thể như sau: - Phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân do sử dụng phương tiện nguy hiểm không phù hợp dẫn đến tai nạn thương vong theo quy định Điều 601 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 72 Điều 1 Luật Hình sự sửa đổi 2017 về tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ dẫn đến chết người; theo đó mức phạt, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; ngoài ra, còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ.
Người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt
Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 từ ngày được công bố luôn tạo ra nhiều sự quan tâm mọi người. Nổi bật hơn cả là vấn đề người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt. Cụ thể thế nào, hãy cùng tìm hiểu. 1. Nguyên tắc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ Căn cứ Điều 4 Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 quy định về nguyên tắc bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ như sau: - Bảo đảm ngân sách nhà nước, cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị hiện đại, các điều kiện bảo đảm và nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của lực lượng trực tiếp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Huy động, sử dụng các nguồn lực để bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Bố trí tương ứng từ các khoản thu tiền xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ và tiền đấu giá biển số xe sau khi nộp vào ngân sách nhà nước để tăng cường, hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị, phục vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn giao thông theo quy định của Chính phủ. - Hiện đại hoá các trung tâm chỉ huy giao thông; bảo đảm kết nối, chia sẻ Cơ sở dữ liệu về trật tự, an toàn giao thông đường bộ giữa các cơ quan nhà nước có liên quan. - Tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đầu tư, xây dựng, chuyển giao hệ thống, phương tiện, thiết bị giám sát phục vụ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ; khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tự nguyện tham gia phối hợp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ phù hợp với quy định của pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ và xử lý vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ. - Bảo đảm công bằng, bình đẳng, an toàn đối với người tham gia giao thông đường bộ; tạo thuận lợi cho trẻ em, phụ nữ mang thai, người già yếu, người khuyết tật trong tham gia giao thông đường bộ; xây dựng văn hóa giao thông; giáo dục, phổ biến, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ cho trẻ em, học sinh để hình thành, nâng cao ý thức tự bảo vệ bản thân và tự giác chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ. - Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp, cộng tác, hỗ trợ, giúp đỡ cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ, có thành tích thì được khen thưởng, bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; người bị tổn hại về danh dự, nhân phẩm thì được khôi phục; người bị thương, bị tổn hại về sức khỏe, tính mạng thì bản thân, gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật. - Phát triển phương tiện giao thông đường bộ đồng bộ với phát triển kết cấu hạ tầng đường bộ, điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu đi lại của người dân; nhập khẩu, sản xuất, lắp ráp phương tiện giao thông đường bộ bảo đảm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ đối với phương tiện giao thông trên thế giới; ưu tiên phát triển phương tiện vận tải công cộng, hạn chế sử dụng phương tiện giao thông cá nhân tham gia giao thông tại các đô thị lớn; ưu tiên chuyển đổi phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang phương tiện sử dụng điện, năng lượng xanh, thân thiện môi trường, hạ tầng cung cấp năng lượng sạch. Những nguyên tắc trên có ý nghĩa xã hội lớn lao trong việc bảo đảm sự an toàn và trật tự trong giao thông đường bộ. Nếu có thể đảm bảo những nguyên tắc trên, chắc chắn người dân sẽ an toàn hơn khi tham gia giao thông. 2. Người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt Trước hết, ta cần hiểu thế nào là người mất năng lực hành vi dân sự? Căn cứ khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau về mất năng lực hành vi dân sự: Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Bên cạnh đó, căn cứ khoản 2 Điều 30 Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ 2024 có quy định về người đi bộ, người khuyết tật, già yếu, người mất năng lực hành vi dân sự, phụ nữ mang thai, trẻ em phải tuân thủ các quy định sau: - Trẻ em dưới 07 tuổi khi đi qua đường phải có người lớn dẫn dắt; - Người khuyết tật sử dụng xe lăn có động cơ hoặc không có động cơ phải đi trên vỉa hè, lề đường và nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ và xe thô sơ; - Người khiếm thị khi đi trên đường bộ phải có người dẫn dắt hoặc có công cụ để báo hiệu cho người khác nhận biết là người khiếm thị; - Người mất năng lực hành vi dân sự khi đi trên đường bộ phải có người dẫn dắt; - Mọi người có trách nhiệm giúp đỡ trẻ em dưới 07 tuổi, phụ nữ mang thai, người già yếu, người khuyết tật, người mất năng lực hành vi dân sự khi đi qua đường. Cần biết, việc quy định người mất năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao thông phải có người dẫn dắt là đang bảo vệ an toàn cho chính bản thân họ và cho cả cộng đồng. Việc này đảm bảo an toàn cho tất cả, góp phần xây dựng một môi trường giao thông an toàn và văn minh hơn.
"Đất có lề, quê có thói" là gì? Đặt tên họ theo tập quán của các vùng miền có được không?
Đất có lề, quê có thói được hiểu là gì? Đặt tên họ theo tập quán của các vùng miền có được không? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này. "Đất có lề, quê có thói" được hiểu là gì? - "Đất có lề" tức là lề luật là những thói quen, quy định quy tắc, thông lệ… của địa phương hay của cộng đồng dân cư của người nào đó. Ta thường nghe nói tới lề lối, lề luật, lề phép… - Còn "Quê có thói" nghĩa là thói quen, thói tục, thói cách, cách thức, tục lệ, tập quán, phong tục… - Nghĩa của câu "Đất có lề, quê có thói" gần giống với câu "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá" hoặc "Nhập gia tùy tục". Theo đó, "Đất có lề, quê có thói" có nghĩa là ở địa phương nào thì cũng có những luật lệ, phong tục, thói quen. Khi đến địa phương đó chúng ta phải hiểu biết, tôn trọng lề luật, tập tục của họ để ứng xử cho phù hợp. Có những thói quen, lề luật ở đất khách không giống quê mình nhưng bản thân ta vẫn phải tôn trọng, tránh bị cho là kém duyên, hoặc nặng nề hơn là vi phạm quy tắc, quy định, luật lệ ở địa phương đó. Ngoài ra, câu tục ngữ còn chỉ một số đặc điểm tập quán riêng ở một số khu vực như ở một số có những tập quán đặt tên họ khác so với nhiều vùng như: - Đối với đồng bào dân tộc thiểu số Châu Mạ, tỉnh Lâm Đồng thì phần “họ” được dùng để phân biệt giữa người nam và người nữ (nam giới mang họ K’ như K’Nhất, K’Quyn..., nữ giới mang họ Ka như Ka Rêm, Ka Hệp...), ngoài ra không sử dụng bất kỳ họ nào khác. Trường hợp con trai do người mẹ đơn thân sinh ra, mẹ mang họ Ka nhưng con trai phải mang họ K’ để tránh nhầm lẫn là giới tính nữ. - Hoặc một số tập quán khác không đặt họ như: Tập quán của người Ba Na ở Tây Nguyên, Bình Định, Phú Yên; người Brâu, người Xơ-đăng ở Kon Tum; người Mã Liềng ở huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình), Hương Khê (Hà Tĩnh)... thì người con trai dân tộc Ba Na thường gọi là Yang Danh, con gái thường gọi là: Thưr, Thớp, Yung, Blui, Aying, Klrot, Blinh, Chơ, Y owu, Nhiêng, Đim, Đech, Njưk… Đặt tên họ theo tập quán của các vùng miền có được pháp luật công nhận không? Căn cứ theo Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc áp dụng tập quán như sau: Áp dụng tập quán - Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. - Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Do đó, những tập quán được áp dụng trong giao dịch dân sự phải là các tập quán đã được hình thành trong đời sống dân sự cụ thể, đã được thực hiện và sử dụng thường xuyên được cộng đồng thừa nhận. Căn cứ tại khoản 2, khoản 3 Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định đối với việc đặt tên cho con như sau: Quyền có họ, tên - Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ. [...] - Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này. Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.” Theo đó, họ của cá nhân có thể xác định theo tập quán nếu cha mẹ không có thỏa thuận họ của con theo cha đẻ hoặc mẹ đẻ. Tuy nhiên, họ của con vẫn phải đảm bảo theo họ cha hoặc họ mẹ. Ngoài ra, tên của Công dân Việt Nam có thể bằng tiếng dân tộc khác của Việt Nam, không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ. Như vậy, câu tục ngữ "Đất có lề, quê có thói" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu và tôn trọng sự đa dạng văn hóa trong các phong tục tập quán của các vùng miền khác nhau.
Cá nhân có được phép thay đổi dân tộc không?
Dân tộc của mỗi cá nhân là một trong những đặc điểm nhân thân cơ bản và có tính bền vững. Vậy khi một cá nhân có nhu cầu được thay đổi dân tộc thì có được chấp nhận không và giấy tờ thủ tục ra sao? 1. Quy định pháp luật về quyền thay đổi dân tộc Theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Dân sự 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây: - Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau; - Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình. Ngoài ra tại Khoản 4,5 Điều 29 Bộ luật Dân sự 2015 có thêm quy định: - Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó. - Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam. 2. Thẩm quyền xác định lại dân tộc - Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh trước đây hoặc nơi cư trú của người yêu cầu thay đổi dân tộc nếu thay đổi dân tộc cho công dân Việt Nam ở trong nước. - Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi: + Đã đăng ký trước đây hoặc nơi cư trú của người nước ngoài đối với người nước ngoài đã đăng ký hộ tịch tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; + Người Việt Nam hiện đã định cư nước ngoài đã đăng ký hộ tịch trước đây; + Đã đăng ký trước đây hoặc nơi cư trú của công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước. 3. Thủ tục xác định lại dân tộc a. Các hồ sơ cần chuẩn bị - Tờ khai đăng ký việc thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc theo mẫu ban hành kèm theo Thông tư 04/2020/TT-BTP Hướng dẫn luật Hộ tịch. - Bản chính giấy khai sinh của người cần thay đổi dân tộc. - Bản sao có công chứng, chứng thực sổ hộ khẩu. - Bản sao chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân (nếu có). - Các giấy tờ, tài liệu liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi dân tộc: ví dụ như văn bản thỏa thuận của cha mẹ về việc thay đổi dân tộc cho con hoặc văn bản xác định cha, mẹ, con,… b. Thủ tục xác định lại dân tộc Bước 1: Người yêu cầu nộp hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền Bước 2: Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ Khi người có yêu cầu gửi hồ sơ xin thay đổi dân tộc, người tiếp nhận hồ có trách nhiệm kiểm tra toàn bộ hồ sơ của người có yêu cầu. Nếu xét thấy hồ sơ chưa đầy đủ, còn thiếu giấy tờ thì người tiếp nhận phải hướng dẫn người nộp hồ sơ bổ sung và hoàn thiện theo quy định pháp luật. Người tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm tiếp nhận đúng, đầy đủ hồ sơ theo quy định của pháp luật thì mới được tiến hành thủ tục thay đổi dân tộc theo yêu cầu. Người tiếp nhận phải ký, ghi rõ họ, chữ đệm, tên của mình. Bước 3: Tiến hành thay đổi dân tộc Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ, nếu thấy việc thay đổi dân tộc là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu thay đổi dân tộc ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp trích lục cho người yêu cầu. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
Con không có tên trong di chúc có được thừa kế?
Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Thông thường, người ta sẽ để lại tài sản cho người thân thuộc của mình nhưng nếu cha mẹ không ghi tên con vào di chúc và không để lại tài sản cho con thì con có được nhận thừa kế không? 1. Di chúc hợp pháp Nội dung di chúc là phần quan trọng nhằm xác định người có quyền và nghĩa vụ liên quan, nhưng trước khi xác định quyền và nghĩa vụ của người được đề cập trong di chúc thì phải xem xét tính hợp pháp của di chúc đó vì khi di chúc hợp pháp thì di chúc mới phát sinh hiệu lực. Theo Khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 thì di chúc hợp pháp phải có đủ điều kiện sau đây: - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; - Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. Ngoài điều kiện trên thì di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Trường hợp di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại Khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015. Đối với di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng. 2. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc Thông thường, cha mẹ sẽ để lại tài sản cho con và lập di chúc xác định phần thừa kế. Thế nhưng không phải lúc nào cha mẹ cũng cho con thừa kế tài sản của mình, có những trường hợp cha mẹ để lại tài sản cho người khác hoặc quyên góp từ thiện và không để lại bất kỳ tài sản nào cho con. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật thì dù con không được ghi tên thừa hưởng tài sản trong di chúc nhưng vẫn được thừa kế. Cụ thể tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây vẫn được thừa kế dù trong di chúc không đề cập cho họ được hưởng thừa kế: - Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; - Con thành niên mà không có khả năng lao động. Từ quy định trên có thể thấy con chưa thành niên hoặc con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng di sản dù cha mẹ không cho con thừa kế theo di chúc. Về phần được hưởng thừa kế thì con chưa thành niên, con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất. Như vậy, nếu cha mẹ không để lại tài sản cho con và không ghi tên con vào di chúc thì con vẫn được hưởng thừa kế trong trường hợp là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Tuy nhiên, phần hưởng di sản chỉ bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.
Xử lý vi phạm với trẻ dưới 16 tuổi theo bộ luật dân sự
Trẻ chưa đủ 16 tuổi vi phạm vào việc trộm cắp hay xúc phạm danh dự của 1 tổ chức thì xử lý vi phạm như thế nào theo Bộ luật dân sự? Căn cứ theo Khoản 2, 3 Điều 586 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân 2. … Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. 3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.” Như vậy, trong trường hợp người vi phạm dưới 16 tuổi tức là chưa đủ 18 theo pháp luật quy định, khi vi phạm vào việc trộm cắp hay xúc phạm danh dự, theo luật dân sự thì người vi phạm phải bổi thường thiệt hại bằng tài sản của mình, nếu không đủ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Còn đối với trường hợp mà người vi phạm có người giám hộ thì người giám hộ được lấy tài sản của người vi phạm để bồi thường, khi không đủ thì người giám hộ phải lấy tài sản của mình để bồi thường (trừ trường hợp chứng mình được mình không có lỗi trong việc giám hộ)
Chuộc lại tài sản dưới góc nhìn pháp lý
Trong cuộc sống sẽ có những thời điểm nguồn tài chính của chúng ta trở nên eo hẹp, để giải quyết khó khăn, một số người có nhu cầu tạm thời bán tài sản cho người khác để lấy tiền trong một thời gian ngắn sau đó chuộc lại. Đây là một việc rất thường thấy, tuy nhiên do thiếu hiểu biết về pháp luật mà nhiều người đã mất đi tài sản của mình. Bài viết hôm nay sẽ giúp mọi người có thêm thông tin về việc chuộc lại tài sản dưới góc nhìn pháp lý. Chuộc lại tài sản dưới góc nhìn pháp lý - Minh họa 1. Chuộc lại tài sản là gì? Chuộc lại là tài sản là việc sử dụng tiền, tài sản có giá trị quy đổi ra tiền để lấy lại những tài sản trước đó đã thuộc sở hữu của mình tuy nhiên vì một số lý do mà đã bán cho người khác và có thỏa thuận về việc lấy lại tài sản. 2. Có được chuộc lại tài sản đã bán không? Căn cứ vào Điều 454 Bộ luật dân sự 2015 cho phép bên bán có thể thỏa thuận với bên mua về quyền chuộc lại tài sản đã bán sau một thời hạn gọi là thời hạn chuộc lại. Về bản chất Về bản chất, đây là một hợp đồng mua bán có điều kiện. Các bên khi mua bán có thoả thuận quyền chuộc lại tài sản ngay từ đầu. Thời hạn mà các bên thoả thuận chuộc lại tài sản gọi là “ thời hạn chuộc lại. Pháp luật không giới hạn thời hạn này sẽ là bao nếu các bên có thoả thuận, tuy nhiên nếu các bên không thoả thuận thì nếu tài sản là động sản thì thời hạn chuộc lại không quá 01 năm và nếu tài sản là bất động sản thì thời hạn chuộc lại không quá 05 năm kể từ thời điểm giao tài sản Lưu ý: Trong thời hạn này, bên bán có quyền chuộc lại bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên mua trong một thời gian hợp lý. Giá chuộc lại là giá thị trường tại thời điểm và địa điểm chuộc lại, trừ khi giữa hai bên có sự thỏa thuận khác. 3. Bên mua có bán tài sản khi thời gian chuộc lại vẫn còn không? Căn cứ vào khoản 2 điều 454 Bộ luật dân sự 2015, bên mua không được phép xác lập giao dịch chuyển quyền sở hữu tài sản cho bất kỳ một bên thứ 3 nào trừ trường hợp được bên bán đồng ý. Rủi ro đối với tài sản sẽ do bên mua chịu cũng căn cứ tại điều 454 Luật này. Như vậy việc chuộc lại tài sản đã bán là có thể và hoàn toàn hợp pháp nếu tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi hết thời hạn được chuộc lại, bên bán sẽ mất đi quyền định đoạt với tài sản, lúc này bên mua có thể tự do chuyển nhượng quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Tranh chấp lối đi, tường rào: phải giải quyết thế nào?
Hàng xóm trên thực tế thường hay xảy ra các mâu thuẫn với nhau trong quá trình sử dụng đất, mà thường thấy nhất là những tranh chấp liên quan đến lối đi, tường rào, cột mốc, ranh giới. Những trường hợp này sẽ đươc giải quyết thế nào? Tranh chấp lối đi, tường rào: phải giải quyết thế nào - Minh họa 1. Giải quyết tranh chấp quyền về lối đi qua. Quyền về lối đi qua Căn cứ theo Điều 254 Bộ luật dân sự 2015 “Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.” Căn cứ Theo điều 171 Luật đất đai 2013 “ Quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề bao gồm quyền về lối đi; cấp, thoát nước; tưới nước, tiêu nước trong canh tác; cấp khí ga; đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý trên thửa đất liền kề.” Cả hai quy định này đều cho thấy hộ dân sống trong thửa đất bị vây bọc bởi các thửa đất khác sẽ quyền yêu cầu một lối đi qua được tạo trên phần đất của thửa đất vây bọc ở phía ngoài. Lối đi này phải xem xét đến sự hợp lý và ít gây phiền hà nhất cho bên nhường đất tạo lập lối đi. Trên thực tế, có nhiều trường hợp do mâu thuẫn, do không thống nhất được vị trí đất..v.v..mà hai bên tranh chấp với nhau về lối đi qua. Việc giải quyết sẽ được thực hiện như thế nào? Thủ tục giải quyết khi phát sinh tranh chấp về lối đi qua Căn cứ khoản 2 Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015, nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định. Người muốn khởi kiện tiến hành việc nộp đơn khởi kiện tại Tòa án ( căn cứ điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự 2015) Một bộ hồ sợ khởi kiện sẽ bao gồm: - Đơn khởi kiện; - Bản sao CCCD, CMND của người khởi kiện; -Bản sao các giấy tờ khác thể hiện quyền lợi chính đáng với lối đi chung như văn tự thỏa thuận, hóa đơn chi phí xây dựng lối đi… Đơn khởi kiện sẽ được nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, hoặc Tòa án nhân dân cấp huyện nơi nguyên đơn cư trú nếu hai bên có thỏa thuận ( Căn cứ Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) Sau khi nộp đơn, trình tự xử lý vụ án tại Tòa án sẽ xảy ra như sau: Nộp đơn khởi kiện => Tòa án sẽ Tiếp nhận và thụ lý => Chuẩn bị xét xử => Xét xử sơ thẩm => Thi hành án. Lưu ý: Đây là cách giải quyết tranh chấp quyền về lối đi qua, tức phần đất được dùng làm lôi đi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của bên có đất nằm phía ngoài, vụ tranh chấp sẽ được giải quyết bằng hình thức khởi kiện tại Tòa án. Riêng trường hợp cũng tranh chấp về lối đi nhưng không xác định được lối đi chung đó là của ai thì đây là tranh chấp về quyền sử dụng đất, không giải quyết theo thủ tục này. 2. Giải quyết tranh chấp về tường rào Quy định về mốc giới Căn cứ vào Điều 176 Bộ luật dân sự 2015 có quy định như sau: “Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Các chủ sở hữu bất động sản liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các chủ thể đó.” Mốc giới đánh dấu ranh giới giữa hai thửa đất liền kề nhau, những mốc giới thường thấy như việc dựng rào bằng cột mốc, tường rào, cây cối..v.v.. Pháp luật quy định những mốc giới này ( tức tường rào, cột mốc) phải được lập trên phần đất của người lập mốc giới, không xâm phạm qua đất của thửa đất cạnh bên. Vậy nên mốc giới lúc này sẽ thuộc sở hữu riêng của người lập ra nó. Tuy nhiên trong trường hợp hai bên có thỏa thuận lập chung một mốc giới, cùng bỏ tiền và công sức để lập mốc giới thì lúc này mốc giới sẽ sở hữu chung của hai bên. Việc không có sự thỏa thuận mà tự lập mốc giới sang phần đất của người khác thì phải dỡ bỏ khi chủ sở hữu phần đất đó có yêu cầu. Thủ tục giải quyết khi phát sinh tranh chấp về tường rào Tranh chấp mốc giới giữa các thửa đất liền kề Căn cứ Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 quy định Hai bên trước hết tự thỏa thuận với nhau. Nếu không đạt được sự thỏa thuận thì nộp đơn lên UBNX xã để tiến hành thủ tục hòa giải ( giải quyết không quá 45 ngày). Trường hợp đã được hòa giải mà hòa giải không thành, hoặc hòa giải thành mà sau đó một bên đổi ý thì có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất Hồ sơ bao gồm - Đơn khởi kiện; - Bản sao CCCD, CMND của người khởi kiện; - Bản sao biên bản hòa giải tại UBND cấp xã; -Bản sao các giấy tờ khác thể hiện quyền lợi chính đáng đối với mốc giới Tranh chấp về việc lấn chiếm mốc giới (lấn chiếm tường rào) Căn cứ Điều 202, 203 Luật đất đai 2013 quy định Hai bên trước hết tự thỏa thuận với nhau. Nếu không đạt được sự thỏa thuận thì nộp đơn lên UBNX xã để tiến hành thủ tục hòa giải ( giải quyết không quá 45 ngày). Trường hợp đã được hòa giải mà hòa giải không thành, hoặc hòa giải thành mà sau đó một bên đổi ý thì căn cứ vào Điều 203 chia ra hai trường hợp để giải quyết: TH1: Trường hợp một bên có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ tại điều 100 luật này thì nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất TH2: Trường hợp không có giấy chứng quyền sử dụng đất thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức là nộp đơn yêu cầu tại UBND cấp huyện hoặc Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất. Hồ sơ bao gồm - Đơn khởi kiện/Đơn yêu cầu giải quyết khiếu nại ; - Bản sao CCCD, CMND của người khởi kiện/ người yêu cầu; - Bản sao biên bản hòa giải tại UBND cấp xã; -Bản sao các giấy tờ khác thể hiện đất thuộc quyền sử dụng của mình. Sau khi nộp đơn, trình tự xử lý vụ án tại Tòa án sẽ xảy ra như sau: Nộp đơn khởi kiện => Tòa án sẽ Tiếp nhận và thụ lý => Chuẩn bị xét xử => Xét xử sơ thẩm => Thi hành án. Sau khi nộp đơn, trình tự giải quyết đơn khiếu nại tại UBND sẽ xảy ra như sau: Nộp đơn khiếu nại => UBND sẽ Tiếp nhận và thụ lý => Yều cầu giải trình, xác minh, đối thoại ( nếu cần) => Ra quyết định giải quyết khiếu nại Trên đây là những thông tin liên quan đến hưởng giải quyết khi phát sinh tranh chấp về lối đi qua, tường rào. Ngoài ra, mọi người có thể xem thêm bài viết liên quan tại đây: Không có sổ đỏ, tranh chấp đất đai giải quyết như thế nào?
Bảo lưu quyền sở hữu khi bên mua nợ tiền
Trong thực tế cuộc sống sẽ luôn tồn tại những giao dịch mua bán mà người mua trong cùng một thời điểm không thể thanh toán toàn bộ tiền tài sản cho bên bán, vậy nên các bên thỏa thuận với nhau về việc mua trả chậm, chia ra nhiều lần để trả. Để đảm bảo bên mua sẽ trả đủ tiền cho bên bán sau khi nhận tài sản, pháp luật đã đưa ra quy định về Bảo lưu quyền sở hữu tại điều 331 Bộ luật dân sự 2015. Vậy Bảo lưu quyền sở hữu tài sản là gì? Sẽ được áp dụng khi nào mà có thể buộc bên mua phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán? Bảo lưu quyền tài sản khi bên mua nợ tiền - Minh họa Điều 453 Bộ luật dân sự đã quy định về việc bảo lưu quyền sở hữu của bên bán trong những giao dịch mà các bên trong quan hệ mua bán trả chậm. Cụ thể như sau: “Điều 453. Mua trả chậm, trả dần 1. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo đó, bên mua sau khi nhận tài sản, có thể trả góp tiền mua nhiều lần nếu như đạt được sự thỏa thuận với bên bán. Thế nhưng để đảm bảo quyền được thanh toán đầy đủ của bên bán, pháp luật đã được ra quy định về quyền bảo lưu tài sản. Nói một cách đơn giản, bảo lưu quyền sở hữu có nghĩa là trước khi bên mua thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền với bên bán, tài sản vẫn sẽ thuộc quyền sở hữu và định đoạt của bên bán, dù có đang nằm trong tay bên mua căn cứ vào Điều 331 Bộ luật dân sự 2015 Về hình thức Việc hai bên thỏa thuận về hình thức thanh toán chậm sẽ không đương nhiên hình thành quyền bảo lưu tài sản. Để đảm bảo quyền lợi của chính mình, bên bán phải thỏa thuận với bên mua về việc xác lập biện pháp bảo lưu quyền sở hữu và tiến hành đăng ký biện pháp này với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Căn cứ Điều 9,Nghị định số 102/2017/NĐ-CP quy định về thẩm quyền đăng ký biện pháp bảo đảm - Trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất: Thẩm quyền sẽ thuộc về thì Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường - Trường hợp tài sản là động sản hoặc tài sản khác: Thẩm quyền thuộc về Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp Lưu ý: Quyền bảo lưu tài sản này phải được lập thành văn bản cứ khoản 2 điều 453 Bộ luật dân sự 2015. Quyền và nghĩa vụ của các bên khi thỏa thuận quyền Bảo lưu tài sản Bên bán tài sản (Điều 322 Bộ luật dân sự 2015) - Bên bán có quyền đòi lại tài sản nếu bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán - Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi đã trừ giá trị hao mòn - Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại Bên mua tài sản ( Điều 333 Bộ luật dân sự 2015) - Bên mua có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực. - Ngoài ra, bên mua có nghĩa vụ phải chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác Từ đó có thể thấy rằng, quyền bảo lưu tài sản sẽ đảm bảo cho bên mua phải thanh toán đủ số tiền còn nợ cho bên bán, vì nếu không, bên bán có quyền đòi lại tài sản của mình, bởi bản chất tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên bán. Theo các quy định đã nêu trên, có thể suy ra quyền bảo lưu tài sản này sẽ chỉ chấm dứt trong trường hợp bên mua đã trả đủ tiền, hoặc bên bán đã nhận lại tài sản bảo lưu, hoặc tuân theo sự thỏa thuận giữa các bên nếu các bên có thỏa thuận mới.
Bình luận nội dung Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thừa kế?
Phân tích các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định pháp luật hiện hành. Bình luận nội dung Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
HĐTP TANDTC chuẩn bị ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 201 BLHS
Hướng dẫn áp dụng Điều 201 BLHS - Minh họa Hội đồng thẩm phán TANDTC đang dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Đáng chú ý trong dự thảo này là hướng dẫn Xác định số tiền thu lợi bất chính và việc Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể. Theo đó: Về việc xác định số tiền thu lợi bất chính trong một số trường hợp cụ thể: 1. Trường hợp giao dịch dân sự chưa hết thời hạn mà bị phát hiện thì tiền thu lợi bất chính được xác định theo số tiền mà người vay thực tế đã trả. Ví dụ 1: Nguyễn Văn A cho Nguyễn Văn B vay 300 triệu đồng trong thời gian 02 tháng, tiền lãi là 90 triệu đồng được trả làm 2 đợt cho đến khi hết hạn hợp đồng. Tuy nhiên, khi hết 1 tháng, B mới trả được 45 triệu thì hành vi cho vay lãi nặng bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. Trường hợp này, tiền thu lợi bất chính được xác định là số tiền 45 triệu trừ đi số tiền lãi 5 triệu (mức lãi suất 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự). Ví dụ 2: Nguyễn Văn A cho Nguyễn Văn B vay 300 triệu đồng, thời hạn vay là 02 tháng, tiền lãi là 80 triệu đồng. Tuy nhiên thực tế A cho giao cho B 220 triệu đồng tiền vay, còn 80 triệu đồng A đã trừ trước tiền lãi. Khi hết thời hạn 1 tháng thì bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. Trường hợp này, số tiền thu lợi bất chính được xác định là 80 triệu trừ đi số tiền lãi 5 triệu (mức lãi suất 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự). 2. Trường hợp giao dịch dân sự đã hết hạn nhưng người vay chưa trả được tiền lãi hoặc mới trả được một phần tiền lãi thì số tiền thu lợi bất chính vẫn được xác định trên cơ sở của cả thời gian của giao dịch dân sự. Về việc Truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể 1. Trường hợp người thực hiện hành vi cho vay lãi nặng thu phí của người vay (như phí hợp đồng, phí tư vấn, phí dịch vụ, phí liên lạc...) thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để xác định lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự. 2. Trường hợp người môi giới (trung gian) câu kết với người cho vay thu phí dịch vụ của người vay để cùng thu lợi bất chính thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để tính lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự. 3. Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. 4. Trường hợp người trung gian thực hiện hành vi tư vấn, môi giới... hoặc có hành vi khác tham gia vào quá trình cho vay lãi nặng, đòi nợ (như dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, góp vốn ...) mà biết rõ để thực hiện việc cho vay lãi nặng mà vẫn thực hiện thì bị xử lý hình sự với vai trò là đồng phạm trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. 5. Trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như ép buộc lấy tài sản, đánh người vay...) thì tùy từng trường hợp họ phải xử lý trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng. Ví dụ: A đánh B gãy tay để đòi lại số tiền đã cho vay lãi nặng. A phạm tội cố ý gây thương tích và tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Xem thêm những nội dung khác tại file đính kèm dưới đây.
Giải đáp 3 câu hỏi về vụ Người đàn ông chết nghi do Bạo dâm
Vụ người đàn ông chết do bạo dâm Hôm qua, một tin tức được nhiều người chú ý là vụ việc người đàn ông chết trong tư thế quỳ, nghi vấn do trước đó có thực hiện hành vi quan hệ tình dục theo kiểu “Bạo dâm” với người khác. DanLuat sẽ trả lời ngắn gọn 3 thắc mắc mà dư luận đang quan tâm sau đây! Câu hỏi 1: Bạo dâm có phải hiếp dâm? => Không, nếu hai bên đã thỏa thuận. Giải thích: Theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), dấu hiệu cơ bản của tội này là thực hiện hành vi quan hệ tình dục hoặc quan hệ tình dục khác “trái với ý muốn của nạn nhân”. Ngược lại, việc “bạo dâm” lại là những hành vi quan hệ tình dục mạnh bạo, … do hai bên tự thỏa thuận với nhau, qua đó có thể hiện sự đồng thuận và không thể xem là “trái với ý muốn”. Như vậy, để quyết định trong trường hợp của vụ án này có phải là hiếp dâm hay không, vẫn cần kết luận của cơ quan điều tra về yếu tố “trái với ý muốn” Câu hỏi 2: Tội hiếp dâm có áp dụng trong trường hợp nạn nhân là người đồng tính? => Có. Giải thích: Tội hiếp dâm không quy định về giới tính của người bị hại, bất kể hành vi nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân thì đều bị coi là phạm tội. (Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) Tại khung tăng nặng của tội này, hành vi hiếp dâm nếu dẫn đến kết quả là nạn nhân chết hoặc tự sát thì có thể bị tuyên án mức án cao nhất là 12-20 năm tù hoặc chung thân. Câu hỏi 3: Nếu quan hệ trong sự đồng thuận nhưng làm bạn tình chết thì phải chịu trách nhiệm gì? *Về Dân sự: Chưa xét đến việc làm chết người phải chịu trách nhiệm gì, chỉ cần bạn gây thiệt hại về tính mạng cho người khác, bạn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, trong đó bao gồm: - Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo - Chi phí hợp lý cho việc mai táng; - Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; - Thiệt hại khác do luật quy định. - Một khoản tiền bù đắp tổn thất cho người ở hàng thừa kế thứ nhất hoặc những người nạn nhân trực tiếp nuôi dưỡng hoặc những người đã trực tiếp nuôi dưỡng nạn nhân, mức bù đắp này tối đa bằng 100 lần mức lương cơ sở. (Điều 591 Bộ luật dân sự 2015) *Về Hình sự: Tùy theo kết luận của cơ quan điều tra mà kẻ làm chết người có thể phạm các tội: - Giết người (nếu chủ đích là tước đoạt mạng sống nạn nhân) (Điều 123 BLHS 2015) - Vô ý làm chết người. (Điều 128 BLHS 2015).
Trường hợp nào ngày chết không phải ngày giỗ?
Ngày chết pháp lý của một người - Ảnh minh họa Với tư duy thông thường của mọi người, ngày chết của một người sẽ là ngày giỗ của họ, tuy nhiên với tư duy pháp lý thì sao? Khai tử thông thường Khi một người chết, việc khai tử của người đó thực hiện theo Điều 33 Luật Hộ tịch 2014 như sau: “1. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người chết thì vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử; trường hợp người chết không có người thân thích thì đại diện của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm đi khai tử.” Trong nội dung khai tử, Khoản 2 Điều 4 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định: “Khi đăng ký khai tử theo quy định của Luật Hộ tịch, nội dung khai tử phải bao gồm các thông tin: Họ, chữ đệm, tên, năm sinh của người chết; số định danh cá nhân của người chết, nếu có; nơi chết; nguyên nhân chết; giờ, ngày, tháng, năm chết theo Dương lịch; quốc tịch nếu người chết là người nước ngoài.” Theo đó, ngày người chết sẽ được xác định theo thông tin được cung cấp từ người khai tử, tuy nhiên có những trường hợp việc xác nhận ngày chết không đơn giản như vậy. Một số trường hợp khai tử đặc biệt Điều 71 Bộ luật dân sự 2015 quy định, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây: - Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống - Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống - Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác - Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống Sau khi căn cứ vào các trường hợp trên, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết. Từ đó, có thể thấy từ quy định trên những tình huống như: - Người bị tuyên bố là đã chết thực ra không chết và có thông tin xác thực là còn sống - Người bị tuyên bố là đã chết thực ra đã chết trong khoảng thời gian không có thông tin xác thực là còn sống. Đây sẽ là những trường hợp ngày được tuyên bố chết về mặt pháp lý khác với ngày gia đình chọn làm ngày giỗ của người chết. Ngoài ra, còn những trường hợp nào khác mà ngày chết của một người và ngày được tuyên bố chết về mặt pháp lý là hay ngày khác nhau, xin mời bạn đọc đóng góp thông tin!
Người khởi kiện có 3 ngày để lựa chọn lại Hòa giải viên
Thông tư 03/2020/TT-TANDTC Đây là quy định mới được ban hành tại Thông tư 03/2020/TT-TANDTC quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định hòa giải viên. Theo Khoản 3, Khoản 4 Điều 16 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, người khởi kiện, người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự có tổng cộng 6 ngày để trả lời thông báo Tòa án về quyền lựa chọn Hòa giải viên của mình. Quy định chi tiết Điều này, Khoản 1 Điều 3 Thông tư 03 quy định “Thông báo của Tòa án phải kèm theo danh sách Hòa giải viên tại Tòa án đó”. Tuy nhiên trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu muốn lựa chọn Hòa giải viên khác không có trong danh sách trên, Khoản 3 Điều 3 quy định: “3. Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện khác trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì phải thực hiện thủ tục lấy ý kiến của Hòa giải viên được lựa chọn và ý kiến của Tòa án nơi Hòa giải viên làm việc theo quy định tại khoản 3 Điều 17 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.” Tiếp đó, Khoản 4 Điều trên hướng dẫn: - Sau khi thực hiện thủ tục theo quy định trên mà nhận được ý kiến không đồng ý của Hòa giải viên, của Tòa án nơi Hòa giải viên làm việc thì người khởi kiện, người yêu cầu có thể lựa chọn Hòa giải viên khác. - Việc lựa chọn lại Hòa giải viên được thực hiện theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 3, tức họ vẫn có thêm 3 ngày kể từ khi nhận được thông báo từ chối của Hòa giải viên để tiếp tục lựa chọn Hòa giải viên khác. Xem chi tiết Thông tư ở file đính kèm dưới đây:
Có phải bồi thường khi người khác tự ý lao đầu vào xe mình?
Người khác tự ý lao vào xe mình - Ảnh minh họa Không ít trường hợp tài xế điều khiển xe cơ giới (kể cả xe máy, ô tô) đang lưu thông trên đường thì bất ngờ có người lao thẳng vào xe của mình, dẫn đến thiệt hại xảy ra. Trong những trường hợp này, trách nhiệm của mỗi bên ra sao? Để trả lời được câu hỏi này, ta phân tích tình huống dưới hai góc độ: 1. Về dân sự Trong quan hệ dân sự, bất kể một thiệt hại nào xảy ra trên thực tế đều phải được bồi thường toàn bộ, kịp thời, tuy nhiên khi bên thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. (Khoản 1, Khoản 4 Điều 585 Bộ luật dân sự 2015). Chỉ có một trường hợp duy nhất người gây thiệt hại không phải bồi thường, theo quy định tại Khoản 2 Điều 584 BLDS: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Quay lại với vấn đề đã đặt ra: Người khác tự ý lao đầu vào xe của mình thì trách nhiệm bồi thường như thế nào? Tại Khoản 2 Điều 601 Bộ luật dân sự có quy định: “2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Vì các loại xe cơ giới như xe máy, ô tô được xếp vào nhóm “nguồn nguy hiểm cao độ” tại Khoản 1 Điều trên nên người tài xế vẫn phải bồi thường cho người bị thương dù mình không có lỗi, trừ khi có những căn cứ sau: - Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại - Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (Khoản 3 Điều 601 BLDS) “Lỗi cố ý” được định nghĩa ở Điều 364 BLDS: “Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.” Việc xác định lỗi cố ý này không thể dễ dàng phân tích một cách lý thuyết mà phải dựa trên điều tra thực tế, xem xét các hành vi khách quan, thời gian, không gian xảy ra hành vi. Riêng đối với tài xế lái xe, nếu họ chứng minh được việc lao đầu vào xe hơi của nạn nhân gây thiệt hại cho họ thì thậm chí người bị thiệt hại còn phải bồi thường ngược lại cho người điều khiển phương tiện. 2. Về hình sự Trong quan hệ hình sự, hành vi tông chết người khi tham gia giao thông còn có thể tác động đến một khách thể khác, đó là các quy định của pháp luật, trật tự an toàn xã hội. Khi khách thể này bị xâm phạm, Nhà nước hoàn toàn có thể xem xét hành vi xâm phạm là một hành vi phạm tội và cần phải trừng trị. Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đối với tội này, người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: - Làm chết người - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên - Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; - Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Cần hết sức lưu ý là ở đây, chỉ cần có 2 yếu tố: vi phạm quy định về an toàn gao thông và gây ra thiệt hại (với người bị tông hoặc với tài sản của Nhà nước) là đủ để xử lý hình sự, cho dù người vi phạm không hề cố tình tông vào nạn nhân. Nếu người lái xe không vi phạm bất kỳ quy định nào của pháp luật về giao thông đường bộ, họ sẽ không bị khép vào tội này. Theo những phân tích trong bài, phần lớn những vụ việc tương tự chỉ có thể được phân rõ trách nhiệm bồi thường khi được điều tra, làm rõ vụ việc và Tòa án ra quyết định cuối cùng.
Bị thương do thú trong sở thú xổng chuồng: Ai bồi thường?
Thú trong sở thú gây thiệt hại - Ảnh minh hoạ Giả sử một người đi vào sở thú và bị một con thú trong đó xổng chuồng gây thiệt hại. Trường hợp này có phải bồi thường hay không? Nếu có thì ai sẽ phải bồi thường? Trước tiên, chúng ta xác định việc xảy ra thiệt hại và bồi thường ở đây thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp luật về dân sự, áp dụng Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) để giải quyết. Trong trường hợp này, yếu tố trực tiếp gây thiệt hại là Thú dữ trong sở thú, vậy xếp Thú dữ vào căn cứ bồi thường nào? Điều 601 BLDS có quy định: "Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật. 2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác." Phân tích điều luật trên ta thấy: 1. "Thú dữ" được xếp vào "nguồn nguy hiểm cao độ". 2. Chủ sở hữu của thú dữ phải có trách nhiệm trông giữ nguồn nguy hiểm cao độ. 3. Việc thú dữ gây thiệt hại cho người khác, cho dù chủ sở hữu có lỗi hay không thì vẫn phải bồi thường. 4. Vẫn có căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường cho chủ sở hữu, trong trường hợp thiệt hại hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại Như đã phân tích ở trên, "lỗi cố ý của người bị thiệt hại" sẽ là căn cứ để miễn trách nhiệm bồi thường cho chủ sở hữu, trong trường hợp này có thể hiểu, nếu việc con thú xổng chuồng là do người tham quan cố ý chọc ghẹo, tác động vào con thú hoặc có hành vi khác trực tiếp khiến cho con thú xổng chuồng và gây thiệt hại cho họ, người chủ của thú vật sẽ không phải bồi thường, nên đừng dại chọc thú dữ! Như vậy, thú trong sở thú gây thiệt hại thì chủ của chúng sẽ phải bồi thường, trừ trường hợp bạn cố tình tác động lên chúng dẫn đến thiệt hại Cuối cùng, chủ của thú trong sở thú là ai? Bạn đọc hãy chú ý khi đến sở thú, hỏi ngay bảo vệ để biết ai là người sở hữu những con thú này nhé!
Cấm dịch vụ đòi nợ thuê từ 01/01/2021: Hướng dẫn cách đòi nợ đúng luật
Đòi nợ hợp pháp - Ảnh minh họa Vay, mượn tài sản là hình thức giao dịch phổ biến trong Dân sự, tuy nhiên không phải lúc nào việc vay mượn này cũng diễn ra suôn sẻ theo ý muốn của người cho vay. Theo quy định tại Luật đầu tư sửa đổi 2020 sắp có hiệu lực từ 1/1/2021, dịch vụ đòi nợ đã chính thức bị đưa vào danh sách cấm đầu tư, kinh doanh. Vậy phải thực hiện việc đòi nợ như thế nào để không trái với quy định của pháp luật? Dù trên thực tế có rất nhiều hình thức vay, mượn tài sản khác nhau nhưng về bản chất, việc cho vay tồn tại dưới dạng một hợp đồng (có thể tồn tại cả dưới dạng lời nói hoặc văn bản). Tại Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 có quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.” Như vậy việc “hoàn trả” là bắt buộc đối với bên có nghĩa vụ trong hợp đồng vay. Kế đó, tại Điều 466 BLDS cũng quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay trường hợp bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. Về lãi suất: Mức lãi suất tối đa khi vay tiền Xem TẠI ĐÂY Chiếu theo những quy định trên, điều đầu tiên giúp bảo vệ quyền lợi của người cho vay là thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng vay. Kế đến khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết, nếu bên vay vẫn không thực hiện nghĩa vụ và bên cho vay không muốn kéo dài thời gian chậm trả, việc đòi nợ sẽ được thực hiện theo pháp luật Dân sự hoặc Hình sự như sau: Về dân sự: Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc chậm trả của con nợ là căn cứ cho thấy quyền, lợi ích hợp pháp của người cho vay đã bị xâm phạm, theo đó có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận, huyện nơi mình sinh sống. Trong hồ sơ cần nộp những căn cứ chứng minh mình có quyền hợp pháp với số tiền mà bên vay đang nợ. Đối với phương án này, người đòi nợ cần cân nhắc thời gian giải quyết tranh chấp có thể kéo dài qua các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, lúc này nếu phát hiện “con nợ” có dấu hiệu tẩu tán tài sản, khi khởi kiện tùy tình hình thực tế mà chủ nợ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc đồng thời các biện pháp sau: - Kê biên tài sản đang tranh chấp. - Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. - Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước. - Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ. - Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ. Xem chi tiết trình tự giải quyết vụ, việc dân sự tại đây. Về hình sự: Nếu bên vay có hành vi gian dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi tẩu tán tài sản, bỏ trốn… nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ thì hành vi của người đó có dấu hiệu tội phạm về các tội tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như: - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) Trong trường hợp này, người cho vay cần làm đơn tố giác gửi cơ quan điều tra, đề nghị điều tra, xử lý người vay đồng thời giải quyết vấn đề trả nợ vay theo Điều 30 BLTTHS 2015. Trường hợp người vay không có ý định gian dối nhắm trốn tránh việc trả nợ mà vì lý do cá nhân chưa đủ khả năng trả thì chỉ cần làm đơn khởi kiện dân sự để tòa giải quyết theo yêu cầu. Xem chi tiết quy trình giải quyết vụ án hình sự tại đây. Sau khi bản án, quyết định Dân sự, Hình sự có hiệu lực thi hành, việc truy đòi tài sản đối với con nợ tiến hành theo quy định tại Luật thi hành án dân sự hợp nhất 2018. Mời bạn đọc đóng góp thêm kinh nghiệm giải quyết của mình trong việc đòi nợ!
Người làm chứng trong di chúc!
Người làm chứng rất quan trọng trong việc lập di chúc tuy nhiên, không phải loại di chúc nào cũng có người làm chứng. Bộ luật Dân sự quy định 2 trường hợp di chúc phải có người làm chứng đó là di chúc bằng văn bản có người làm chứng và di chúc bằng miệng. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng là khi người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc mà phải đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy di chúc, còn di chúc miệng là trường hợp người lập di chúc bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản. Cả hai trường hợp này đều phải có ít nhất hai người làm chứng. Theo Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015 thì mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, tuy nhiên những người thuộc một trong những trường hợp sau đây sẽ không được làm người làm chứng: Một là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. Những người này có thể tác động lên ý chí của người lập di chúc khiến họ không thể tự do định đoạt tài sản và ghi vào những nội dung di chúc mà không theo ý muốn của bản thân. Hai là người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc như là đồng sở hữu tài sản, chủ nợ, con nợ, … .Việc làm chứng của những người này sẽ không đảm bảo tính khách quan khi có tranh chấp xảy ra. Cuối cùng là người chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Những người này không thể tự chịu trách nhiệm với hậu quả, mặt khác không thể chắc chắn họ nhận thức đúng ý chí của người lập di chúc. Và đương nhiên những người này không thể làm chứng được. Trên thực tế, người lập di chúc sẽ nhờ luật sư hoặc các công chứng viên làm người làm chứng cho di chúc của mình.
Cha mẹ ủy quyền cho con vay nợ, sau khi cha mẹ chết giải quyết trách nhiệm thế nào?
Cha mẹ ủy quyền cho con vay nợ Ba mẹ có làm hđ uỷ quyền cho chị A thế chấp vay tiền. Chị A căn cứ vào đó vay tiền của tôi, tài sản thế chấp là nhà đất đứng tên ba mẹ chị ấy. Hợp đồng được công chứng hợp pháp. Sau đó ba, mẹ hoặc cả 2 người mất thì quyền lợi của tôi được giải quyết thế nào? Xin luật sư tư vấn giúp. Xin cảm ơn
Những đối tượng được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Quyền định đoạt là một quyền thiêng liêng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình đồng thời cũng thể hiện quyền tự do của mỗi cá nhân và thừa kế là một cách mà chủ sở hữu định đoạt tài sản của mình. Trước khi chết, người có tài sản được quyền định đoạt tài sản của mình trong di chúc cho ai theo ý chí của họ, tuy nhiên không hoàn toàn tự do trong việc định đoạt và một trong những giới hạn đó chính là chế định “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”. Vậy đó là những người nào? Theo Bộ luật Dân sự hiện hành, những chủ thể được hưởng thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cụ thể là hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, đó là “con chưa thành niên, cha, mẹ vợ chồng” và “ con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. Cụ thể: Con chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, pháp luật không nhắc tới thời điểm xác định tuổi của người chưa thành niên là thời điểm lập di chúc, thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chia di sản. Theo quan điểm của người viết thì nên xác định tuổi của người chưa thành niên vào thời điểm mở thừa kế vì đây là thời điểm di chúc có hiệu lực và khả năng chia di sản mới có thể được tiến hành. Cha, mẹ được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Trong quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 chỉ quy định chung là cha, mẹ không nói cụ thể là cha, mẹ ruột, cha, mẹ nuôi hay cha, mẹ vợ (chồng). Tuy nhiên, tại một quy định khác về hàng thừa kế thứ nhất thì cha, mẹ được quy định rõ là cha, mẹ ruột và cha, mẹ nuôi. Vì vậy, chúng ta có suy luận cha, mẹ ở đây là cha, mẹ ruột và cha, mẹ nuôi (không bao gồm cha, mẹ vợ (chồng)). Vợ, chồng là những người có quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ. Những người chung sống như vợ chồng chỉ thiết lập mối quan hệ tài sản mà không có quan hệ vợ chồng với nhau và không được hưởng thừa kế trong trường hợp này. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động là người không có khả năng lao động từ nhỏ hoặc những người bị mất khả năng lao động do tai nạn. Bộ luật Dân sự cũng không nêu rõ những trường hợp nào thì được coi là mất khả năng dân sự. Tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có liệt kê một số trường hợp được coi là mất khả năng lao động đó là những trường hợp sau khi điều trị, bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên. Ngoài ra, trên thực tế, một số Tòa án còn coi người đến tuổi nghỉ hưu cũng thuộc trường hợp này. Ngoài ra, Bộ luật Dân sự cũng quy định một số trường hợp thuộc những đối tượng trên nhưng không được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (khoản 2 Điều 644). Trên đây, là những trường hợp mà pháp luật cho phép được hưởng di sản thừa kế mà không bị phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
CGST xịt hơi cay vào người điều khiển phương tiện dẫn đến tử vong: Xử lý thế nào?
Theo tuoitre.vn, một tổ CSGT tại tỉnh Đồng Tháp truy đuổi xe máy không chấp hành hiệu lệnh, sau đó xịt hơi cay vào người điều khiển phương tiện dẫn đến người này tông xe vào lề đường khiến một người chết, một người bị thương nặng. Vậy tổ CSGT trong trường hợp này ngoài bị đình chỉ công tác thì sẽ bị xử lý như thế nào dưới góc độ pháp luật? Cũng theo tuoitre.vn khi trả lời câu hỏi liên quan đến việc CSGT có được xịt hơi cay về phía xe đang chạy, một đại diện Phòng tham mưu Công an tỉnh Đồng Tháp cho hay: "Theo quy định, trong quá trình CSGT tuần tra, phát hiện người điều khiển phương tiện có vi phạm, không chấp hành hiệu lệnh dừng xe, gây nguy hiểm đối với người thi hành nhiệm vụ thì được phép sử dụng công cụ hỗ trợ, trong đó có xịt hơi cay.” Như vậy để xác định được trách nhiệm pháp lý đối với tổ CSGT trong vụ việc thì phải làm rõ ba vấn đề sau đây: *Bình xịt hơi cay có được xem là phương tiện nguy hiểm hay nguồn nguy hiểm cao độ hay không? Bình xịt hơi cay (cũng được gọi tắt là OC spray - Oleoresin Capsicum) là một thiết bị tự vệ (đôi khi để tấn công) bằng cách bất ngờ phun các chất cay như hạt tiêu, ớt, các chất hóa học gây cay khác về phía mặt đối thủ gây chảy nước mắt, đau đớn và có thể gây mù tạm thời, được sử dụng trong chống bạo động, tự vệ cá nhân. *Hành vi của tổ CSGT là trực tiếp hay gián tiếp gây tai nạn chết người? Vấn đề được đặt ra ở đây là hành vi dùng bình xịt hơi cay là nguyên nhân trực tiếp hay là hành vi gián tiếp dẫn đến tai nạn chết người kia. Theo quan điểm của tôi, vụ việc trên rơi vào trường hợp gián tiếp gây tai nạn chết người; vì có thể thấy, tổ CGST thuộc tỉnh Đồng tháp không phải là người trực tiếp gây ra tai nạn, mà đã thông qua một dụng cụ, phương tiện khác (cụ thể là bình xịt hơi cay) dẫn đến tai nạn trên. Tuy nhiên, có thể khẳng định, đây là một hành vi với lỗi cố ý gián tiếp vì khi thực hiện hành vi trên thì tổ CSGT nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây nguy hiểm, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. *Xác định trách nhiệm pháp lý Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến việc dùng bình xịt hơi cay của tổ CSGT xuất phát từ hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông của nạn nhân. Tuy nhiên sẽ có một số ý kiến cho rằng, trách nhiệm của người thi hành pháp luật không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo quy định pháp luật, mà còn phải lường trước được những hậu quả có thế xảy ra. Theo tôi, chúng ta sẽ phải chờ kết quả xác minh và báo cáo từ Phòng CSGT tỉnh Đồng Tháp về vụ việc trên để có cái nhìn khách quan nhất. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp luật, tổ CSGT kia có thể phải chịu trách nhiệm pháp luật, cụ thể như sau: - Phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân do sử dụng phương tiện nguy hiểm không phù hợp dẫn đến tai nạn thương vong theo quy định Điều 601 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 72 Điều 1 Luật Hình sự sửa đổi 2017 về tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ dẫn đến chết người; theo đó mức phạt, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; ngoài ra, còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ.