Có được đi khám bệnh ở nơi khác khi đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú không?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì? Ai có thẩm quyền ban hành lệnh này? Có được đi điều trị bệnh ở nơi khác khi đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú không? Bài viết sau sẽ giải đáp các thắc mắc nêu trên. (1) Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì? Căn cứ theo Khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về cấm đi khỏi nơi cư trú như sau: “Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.” Như vậy, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng cho bị can, bị cáo có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng để đảm bảo rằng họ có mặt khi có lệnh triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ngoài ra, bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp này còn phải thực hiện nghĩa vụ tuân thủ lệnh cấm: trong đó bao gồm: - Không được rời khỏi nơi cư trú mà không có sự cho phép của cơ quan đã ra lệnh cấm. - Luôn có mặt khi được triệu tập bởi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan. - Hành vi đúng mực: Không trốn chạy, không tiếp tục phạm tội, không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.cách tốt nhất để giải quyết vụ án nhanh chóng và công bằng. (2) Ai là người có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú? Những người có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định tại Khoản 3 Điều 123 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 bao gồm: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. - Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp. - Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. - Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng. Ngoài ra, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ. (3) Có được đi khám bệnh ở nơi khác khi đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú không? Căn cứ theo Khoản 5 Điều 123 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định như sau: “Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.” Như vậy, trong trường hợp cá nhân đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, để được có thể đi điều trị bệnh ở nơi khác cần liên hệ, xin phép chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý để được sự đồng ý và cấp giấy phép để được tạm thời đi khỏi nơi cư trú. Mẫu Giấy phép tạm thời đi khỏi nơi cư trú được ban hành kèm theo Thông tư 61/2017/TT-BCA của Bộ Công an. Xem và Tải về Mẫu Giấy phép tạm thời đi khỏi nơi cư trú tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/02/29/giay-phep-tam-thoi-di-khoi-noi-cu-tru.doc Tổng kết lại, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn được áp dụng cho bị cáo, bị can nhằm đảm bảo sự hiện diện của họ khi có lệnh triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trường hợp đang bị áp dụng lệnh cấm vẫn có thể đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên cần phải có được sự đồng ý và giấy phép của các cơ quan quản lý nơi bị can, bị cáo đang cư trú.
Người giám định có thể là người thân thích của bị can bị cáo không?
Điều 68 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định: "Điều 68. Người giám định 1. Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật. .... 5. Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp sau: a) Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; b) Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản trong vụ án đó; c) Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó". Như vậy, căn cứ quy định trên, thì khi người giám định là người thân thích của bị can, bị cáo thì người giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi.
Phân biệt nghi can, nghi phạm, bị can, bị cáo?
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. (Theo Điều 31 Hiến pháp 2013) Song song đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng có quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thế nhưng, dân mình lại ít khi quan tâm vấn đề này, khi một vụ án được điều tra, một người bị phía công an mời lên để thẩm vấn, hoặc điều tra, bị tình nghi và tạm giữ, tạm giam đối tượng đó. Họ luôn cho rằng người đó có tội..và có những ý nghĩ xấu về người này. Quá trình xét xử, oan sai là vấn đề không tránh khỏi, có thể do rủi ro nghề nghiệp, có thể do không cẩn trọng khi thực hiện…Hậu quả cho người bị oan là không nhỏ, hơn nữa về danh dự, nhân phẩm, danh tiếng…của họ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhận thấy được điều đó, quy định tố tụng hình sự đã có những phân loại cho từng tên gọi với đối tượng bị tình nghi, tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra. Dưới đây là cách phân biệt các tên gọi này: Tiêu chí Bị can Bị cáo Khái niệm Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử Quyền - Được biết mình bị khởi tố về tội gì. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Trình bày lời khai. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Tham gia phiên toà. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa. - Nói lời sau cùng trước khi nghị án. - Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Như vậy, bị can và bị cáo là tên gọi khác nhau của người bị bắt trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Còn nghi can, nghi phạm là gì? Trong Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không tồn tại hai thuật ngữ “nghi can” và “nghi phạm”. Thế nhưng, chúng ta có thể hiểu 2 thuật ngữ này như sau: Nghi can: Được hiểu là người bị nghi có liên quan đến vụ án và thuộc trường hợp chưa bị bắt. Nghi phạm: Được hiểu là người bị nghi là tội phạm, có dấu hiệu của một tội phạm và đã bị lệnh bắt.
Pháp luật bảo vệ “quyền im lặng” của bị can, bị cáo tới đâu?
Dân gian có câu “im lặng là vàng”, tuy nhiên trong tố tụng hình sự im lặng không chỉ là vàng mà trở thành tính sống còn của sinh mạng con người. Thời gian qua, chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an (không khai, không “nhận tội”… nên bị kẻ mang danh công quyền đánh chết). Vậy quyền im lặng trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo được bảo vệ tới đâu? 1. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội Đoạn 2 điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Như vậy, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Song luật không đề cập rõ “bị can, bị cáo có quyền im lặng khi bị hỏi cung, đứng trước tòa … hay không? Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nếu bị can, bị cáo “im lặng” theo đúng nghĩa đen thì nhiều khả năng bị can, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ - “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Rõ ràng, quyền im lặng của bị can, bị cáo không được bảo vệ một cách tuyệt đối. 5 bị cáo từng là cán bộ công an phải ra tòa vì tội dùng nhục hình làm chết nghi can. 2. Nếu bị can, bị cáo im lặng tuyệt đối trong quá trình hỏi cung thì sao? Đoạn 3 điều 6, đoạn 1 và 2 điều 7 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: - Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình. - Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. - Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Như vậy, nếu bị can, bị cáo giữ im lặng tuyệt đối (điều tra viên hỏi – bị can, bị cáo im lặng không trả lời), điều tra viên cũng không có quyền dùng nhục hình với bị can, bị cáo. Song thực tế hoàn toàn khác, tất cả đều xuất phát từ hai yếu tố cơ bản: áp lực phải giải quyết nhanh vụ án và đạo đức điều tra viên bị phai mờ. 3. Giải pháp nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo? Muốn không để xảy ra những cái chết đau lòng từ việc ép cung, dùng nhục hình thì phải phá vỡ hai yếu tố cơ bản gây hại nêu trên. (i) Tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” Khoản 3 điều 23 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” – ý nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực tế khó lòng giải quyết được. Hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Như vậy, muốn không xảy ra trường hợp oan sai thì phải chấp nhận bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp nhất định. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 cần sửa đổi nội dung này để tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo. (ii) Không để cái xấu có môi trường tồn tại Pháp luật khó lòng thay đổi hay kiểm soát “đạo đức phai mờ của điều tra viên” nhưng pháp luật có thể không cho cái xấu sinh ra từ “đạo đức phai mờ” đó có môi trường tồn tại. Nghĩa là, pháp luật cần phải quy định những vấn đề sau: - Một là, đề cao hơn nữa quyền im lặng của bị can, bị cáo: + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tuyệt đối đúng theo nghĩa đen của từ “im lặng”; hoặc + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tương đối: bị can, bị cáo được quyền im lặng cho đến khi gặp luật sư riêng của mình; mọi lời khai không có chứng kiến của luật sư đều không có giá trị pháp lý trừ trường hợp bị can, bị cáo không cần luật sư. Điều này sẽ góp phần loại trừ tình trạng ép cung, dùng nhục hình để lấy lời khai giả. - Hai là, có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình hỏi cung: Có thể tạo cơ chế giám sát như sau: + Phương án lắp đặt camera tại các phòng hỏi cung được xem là hiệu quả nhất hiện nay. Song thực tế, để lắp đặt hệ thống camera trên toàn quốc thì kinh phí rất lớn nên khó lòng thực hiện ngay. + Có biên bản xác định tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo trước khi hỏi cung và sau khi hỏi cung; nếu trước khi hỏi cung không đủ sức khỏe hoặc có khả năng nếu hỏi cung xong thì bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thì không được hỏi cung cho đến khi bị cáo khỏe hẳn; nếu trước khi hỏi cung tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo là khỏe nhưng sau khi hỏi cung xong sức khỏe bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì người hỏi cung phải chịu trách nhiệm. Có như vậy, quyền im lặng của bị can, bị cáo mới được bảo vệ toàn diện từ pháp lý cho đến thực tiễn.
Có được đi khám bệnh ở nơi khác khi đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú không?
Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì? Ai có thẩm quyền ban hành lệnh này? Có được đi điều trị bệnh ở nơi khác khi đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú không? Bài viết sau sẽ giải đáp các thắc mắc nêu trên. (1) Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì? Căn cứ theo Khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về cấm đi khỏi nơi cư trú như sau: “Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.” Như vậy, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng cho bị can, bị cáo có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng để đảm bảo rằng họ có mặt khi có lệnh triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ngoài ra, bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp này còn phải thực hiện nghĩa vụ tuân thủ lệnh cấm: trong đó bao gồm: - Không được rời khỏi nơi cư trú mà không có sự cho phép của cơ quan đã ra lệnh cấm. - Luôn có mặt khi được triệu tập bởi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan. - Hành vi đúng mực: Không trốn chạy, không tiếp tục phạm tội, không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.cách tốt nhất để giải quyết vụ án nhanh chóng và công bằng. (2) Ai là người có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú? Những người có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định tại Khoản 3 Điều 123 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 bao gồm: - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. - Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp. - Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. - Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng. Ngoài ra, người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ. (3) Có được đi khám bệnh ở nơi khác khi đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú không? Căn cứ theo Khoản 5 Điều 123 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định như sau: “Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.” Như vậy, trong trường hợp cá nhân đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, để được có thể đi điều trị bệnh ở nơi khác cần liên hệ, xin phép chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý để được sự đồng ý và cấp giấy phép để được tạm thời đi khỏi nơi cư trú. Mẫu Giấy phép tạm thời đi khỏi nơi cư trú được ban hành kèm theo Thông tư 61/2017/TT-BCA của Bộ Công an. Xem và Tải về Mẫu Giấy phép tạm thời đi khỏi nơi cư trú tại đây: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/02/29/giay-phep-tam-thoi-di-khoi-noi-cu-tru.doc Tổng kết lại, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn được áp dụng cho bị cáo, bị can nhằm đảm bảo sự hiện diện của họ khi có lệnh triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trường hợp đang bị áp dụng lệnh cấm vẫn có thể đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên cần phải có được sự đồng ý và giấy phép của các cơ quan quản lý nơi bị can, bị cáo đang cư trú.
Người giám định có thể là người thân thích của bị can bị cáo không?
Điều 68 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định: "Điều 68. Người giám định 1. Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật. .... 5. Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp sau: a) Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; b) Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản trong vụ án đó; c) Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó". Như vậy, căn cứ quy định trên, thì khi người giám định là người thân thích của bị can, bị cáo thì người giám định phải từ chối hoặc bị thay đổi.
Phân biệt nghi can, nghi phạm, bị can, bị cáo?
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. (Theo Điều 31 Hiến pháp 2013) Song song đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng có quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Thế nhưng, dân mình lại ít khi quan tâm vấn đề này, khi một vụ án được điều tra, một người bị phía công an mời lên để thẩm vấn, hoặc điều tra, bị tình nghi và tạm giữ, tạm giam đối tượng đó. Họ luôn cho rằng người đó có tội..và có những ý nghĩ xấu về người này. Quá trình xét xử, oan sai là vấn đề không tránh khỏi, có thể do rủi ro nghề nghiệp, có thể do không cẩn trọng khi thực hiện…Hậu quả cho người bị oan là không nhỏ, hơn nữa về danh dự, nhân phẩm, danh tiếng…của họ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhận thấy được điều đó, quy định tố tụng hình sự đã có những phân loại cho từng tên gọi với đối tượng bị tình nghi, tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra. Dưới đây là cách phân biệt các tên gọi này: Tiêu chí Bị can Bị cáo Khái niệm Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử Quyền - Được biết mình bị khởi tố về tội gì. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Trình bày lời khai. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định. - Tham gia phiên toà. - Được giải thích về quyền và nghĩa vụ. - Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định. - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. - Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa. - Nói lời sau cùng trước khi nghị án. - Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án. - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nghĩa vụ Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Như vậy, bị can và bị cáo là tên gọi khác nhau của người bị bắt trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Còn nghi can, nghi phạm là gì? Trong Hiến pháp 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003 không tồn tại hai thuật ngữ “nghi can” và “nghi phạm”. Thế nhưng, chúng ta có thể hiểu 2 thuật ngữ này như sau: Nghi can: Được hiểu là người bị nghi có liên quan đến vụ án và thuộc trường hợp chưa bị bắt. Nghi phạm: Được hiểu là người bị nghi là tội phạm, có dấu hiệu của một tội phạm và đã bị lệnh bắt.
Pháp luật bảo vệ “quyền im lặng” của bị can, bị cáo tới đâu?
Dân gian có câu “im lặng là vàng”, tuy nhiên trong tố tụng hình sự im lặng không chỉ là vàng mà trở thành tính sống còn của sinh mạng con người. Thời gian qua, chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an (không khai, không “nhận tội”… nên bị kẻ mang danh công quyền đánh chết). Vậy quyền im lặng trong tố tụng hình sự của bị can, bị cáo được bảo vệ tới đâu? 1. Bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội Đoạn 2 điều 10 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Như vậy, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Song luật không đề cập rõ “bị can, bị cáo có quyền im lặng khi bị hỏi cung, đứng trước tòa … hay không? Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, nếu bị can, bị cáo “im lặng” theo đúng nghĩa đen thì nhiều khả năng bị can, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ - “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999. Rõ ràng, quyền im lặng của bị can, bị cáo không được bảo vệ một cách tuyệt đối. 5 bị cáo từng là cán bộ công an phải ra tòa vì tội dùng nhục hình làm chết nghi can. 2. Nếu bị can, bị cáo im lặng tuyệt đối trong quá trình hỏi cung thì sao? Đoạn 3 điều 6, đoạn 1 và 2 điều 7 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: - Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình. - Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. - Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Như vậy, nếu bị can, bị cáo giữ im lặng tuyệt đối (điều tra viên hỏi – bị can, bị cáo im lặng không trả lời), điều tra viên cũng không có quyền dùng nhục hình với bị can, bị cáo. Song thực tế hoàn toàn khác, tất cả đều xuất phát từ hai yếu tố cơ bản: áp lực phải giải quyết nhanh vụ án và đạo đức điều tra viên bị phai mờ. 3. Giải pháp nào để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo? Muốn không để xảy ra những cái chết đau lòng từ việc ép cung, dùng nhục hình thì phải phá vỡ hai yếu tố cơ bản gây hại nêu trên. (i) Tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” Khoản 3 điều 23 Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 quy định: “không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” – ý nghĩa thì rất tốt đẹp nhưng thực tế khó lòng giải quyết được. Hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Như vậy, muốn không xảy ra trường hợp oan sai thì phải chấp nhận bỏ lọt tội phạm trong một số trường hợp nhất định. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003 cần sửa đổi nội dung này để tiêu diệt triệt để “áp lực phải giải quyết nhanh vụ án” nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bị can, bị cáo. (ii) Không để cái xấu có môi trường tồn tại Pháp luật khó lòng thay đổi hay kiểm soát “đạo đức phai mờ của điều tra viên” nhưng pháp luật có thể không cho cái xấu sinh ra từ “đạo đức phai mờ” đó có môi trường tồn tại. Nghĩa là, pháp luật cần phải quy định những vấn đề sau: - Một là, đề cao hơn nữa quyền im lặng của bị can, bị cáo: + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tuyệt đối đúng theo nghĩa đen của từ “im lặng”; hoặc + Cho phép bị can, bị cáo được quyền im lặng tương đối: bị can, bị cáo được quyền im lặng cho đến khi gặp luật sư riêng của mình; mọi lời khai không có chứng kiến của luật sư đều không có giá trị pháp lý trừ trường hợp bị can, bị cáo không cần luật sư. Điều này sẽ góp phần loại trừ tình trạng ép cung, dùng nhục hình để lấy lời khai giả. - Hai là, có cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình hỏi cung: Có thể tạo cơ chế giám sát như sau: + Phương án lắp đặt camera tại các phòng hỏi cung được xem là hiệu quả nhất hiện nay. Song thực tế, để lắp đặt hệ thống camera trên toàn quốc thì kinh phí rất lớn nên khó lòng thực hiện ngay. + Có biên bản xác định tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo trước khi hỏi cung và sau khi hỏi cung; nếu trước khi hỏi cung không đủ sức khỏe hoặc có khả năng nếu hỏi cung xong thì bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tính mạng thì không được hỏi cung cho đến khi bị cáo khỏe hẳn; nếu trước khi hỏi cung tình trạng sức khỏe của bị can, bị cáo là khỏe nhưng sau khi hỏi cung xong sức khỏe bị can, bị cáo bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì người hỏi cung phải chịu trách nhiệm. Có như vậy, quyền im lặng của bị can, bị cáo mới được bảo vệ toàn diện từ pháp lý cho đến thực tiễn.