Từ vụ Anna Bắc Giang làm thế nào để bảo lĩnh một người?
Vừa qua, một cô gái trẻ có tên là “Anna Bắc Giang” đã lừa đảo hàng loạt vụ tổ chức đám cưới giả với số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng. Điều này đã gây bức xúc dư luận trong những ngày qua, sau khi nhận được tin tố cáo cơ quan điều tra đã vào cuộc và bắt tạm giam cô này. Sau đó, anh trai (ruột) của cô đã đến cơ quan điều tra để thực hiện việc bảo lĩnh để cô được tại ngoại chờ kết quả điều tra của cơ quan công an. Tuy nhiên, sau vài ngày có tin cô gái này đã trộm xe của anh và bỏ trốn. Từ vụ việc trên thì theo quy định làm thế nào để thực hiện thủ tục bảo lĩnh một người đang bị tạm giam? Hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây! 1. Bảo lĩnh là gì? Có thể hiểu bảo lĩnh là hình thức một cá nhân làm đơn cam kết xin tại ngoại đối với người có hành vi phạm tội đang trong quá trình điều tra. Cụ thể tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 giải thích thuật ngữ bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Theo đó, đối với những người đang trong quá trình điều tra cơ quan có thẩm quyền xét thấy người này không gây nguy hại hay vi phạm các quy định sau khi được người thân bảo lĩnh, thì có thể cho họ tại ngoại về với cộng đồng chờ kết quả điều tra. Đối với trường của cô gái lừa đảo đám cưới hàng tỷ đồng, thì người anh của cô đã làm đơn cam kết đảm bảo theo quy định trên và được cơ quan có thẩm quyền đồng ý tại ngoại cùng với gia đình. 2. Người nào có thể thực hiện bảo lĩnh? Căn cứ khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định cụ thể 02 đối tượng được quyền thực hiện biện pháp bảo lĩnh đối với người đang bị tạm giam điều tra bao gồm: (1) Cơ quan, tổ chức của bị can, bị cáo Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. (2) Thân nhân của bị can, bị cáo Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Lưu ý: Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Như vậy, người anh của cô này thuộc trường hợp là đối tượng được quyền bảo lãnh theo diện là thân nhân cho em gái của mình. 3. Nghĩa vụ của người được bảo lĩnh Khi cá nhân, tổ chức làm giấy bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Trong đó, bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Không may thay sự việc trên người anh của Anna BG đã vi phạm các quy định cam kết về bảo lãnh khi để cô này bỏ trốn sau vài ngày tại ngoại. Theo đó, trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Thẩm quyền phê duyệt bảo lĩnh (1) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. (2) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp. (3) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Sau đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. 5. Thời hạn bảo lĩnh Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Như vậy, khi thực hiện bảo lĩnh bị can, bị cáo thì đối tượng được quyền thực hiện biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là cơ quan, tổ chức hoặc là người thân của người đang bị tạm giam. Khi thực hiện bảo lĩnh tùy mức độ hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền sẽ phê duyệt và được sự đồng ý của Tòa án, người được tại ngoại phải tuân thủ các quy định như đã cam kết nếu vi phạm cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện lệnh bắt người.
Bảo lĩnh và bảo lãnh khác nhau như thế nào?
Tại Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về bảo lĩnh như sau: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Tại Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về bão lãnh như sau: Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Như vậy có thể thấy rằng khái niệm bảo lĩnh và bảo lãnh là hoàn toàn khác nhau. Bảo lĩnh là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,. Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong dân sự. Trong trường hợp bị tạm giam, người thân thích của người bị tạm giam có thể đứng ra bảo lĩnh, vấn đề này được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Theo quy định trên, người thân đủ đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh.
Người bao nhiêu tuổi mới có thể thực hiện bảo lĩnh cho bị can trong vụ án hình sự?
Căn cứ vào Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về việc bảo lĩnh trong đó có quy định như sau: 1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. 2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. 3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. 6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định trên có thể thấy theo quy định thì chỉ cần cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can là người thân thích của họ và và cần ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Người được tại ngoại có được điều hành doanh nghiệp không?
Theo Bộ Luật tố tụng hình sự 2015: "Điều 121. Bảo lĩnh 1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. 2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. 3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. 6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật." Theo đó, pháp luật không có quy định hạn chế hay cấm người được bảo lĩnh được tiếp tục đảm nhận công tác. Luật doanh nghiệp cũng không hạn chế việc này. Tuy nhiên, nếu trong quyết định tại ngoại có ghi rõ là cấm đảm nhận chức vụ thì người này phải tuân theo quyết định.
Xin tại ngoại vì bị mắc bệnh được không?
Xin tại ngoại vì mắc bệnh được không? - Hình minh họa Trong thời gian tạm giam để điều tra, nhiều bị can, bị cáo có nhu cầu được tại ngoại để chữa bệnh hay vì một lý do khác. Pháp luật có cho phép tại ngoại vì lý do mắc bệnh không? 1. Tại ngoại là gì? Pháp luật Việt Nam chưa quy định tại ngoại là gì? Tuy nhiên ta có thể hiểu tại ngoại là trạng thái không bị giam giữ sau khi có quyết định điều tra, khởi tố bị can, cáo. 2. Trường hợp được tại nào ngoại Bộ Luật tố tụng dân sự không quy định các trường hợp được tại ngoại, nhưng có quy định hình thức bảo lĩnh (bảo lãnh) và đặt tiền để bảo đảm giúp bị can bị cáo có thể tại ngoại trong thời gian tạm giam. a. Biện pháp bảo lãnh Theo Điều 121 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định: Để bị can được bảo lãnh thì người đứng ra bảo lãnh có thể là người thân thích hoặc là tổ chức, cơ quan mà bị can là người của tổ chức, cơ quan đó. Theo đó, người thân phải có ít nhất 02 người và phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: - Là người đủ 18 tuổi trở lên; - Có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; - Có thu nhập ổn định, đủ điều kiện quản lý người được bảo lĩnh; - Có giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập... Lưu ý: Nếu là cơ quan, tổ chức thì phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó. b. Biện pháp đặt tiền bảo Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy đính mức tiền đảm bảo dựa vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội và những trường hợp được sử dụng biện pháp bảo đảm. Nếu bị can vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan trong thời gian được tại ngoại thì số tiền đã đặt sẽ bị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước và bị can sẽ bị tạm giam. Nếu người này chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền này sẽ được trả lại.Như vậy ta có thể hiểu để được tại ngoại thì bị ca, bị cáo phải được bảo lãnh hoặc đặt tiền để bảo đảm Như vậy để được tại ngoại thì bị can bị cáo phải được bảo lãnh hoặc đặt tiền bảo đảm. tuy nhiên không phải trường hợp nào bị can, bị cáo cũng được tại ngoại. được chấp nhận sử dụng biện pháp thay thế tạm giam hay không còn phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của hành vi và nhân thân của của bị can bị cáo. 3. Bị mắc bệnh có xin tại ngoại được không? Theo như phân tích ở trên, thì mắc bệnh sẽ là một tiêu trí để được xem xét có được bảo lãnh hay chứ không là điều kiện để bắt buộc có được chấp nhập sử dựng biện pháp bảo lãnh hay đặt tiền bảo đảm thay thế tạm giam hay không. Như vậy, để được tại ngoại còn phụ thuộc vài nhiều yếu tố khác nữa, dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, và các yếu tố khác mà bị can bị cáo sẽ được xem xét có được tại ngoại hay không. 4. Thời gian được tại ngoại là bao lâu? Khi đó thời gian tại ngoại phụ thuộc vào thời hạn bảo lĩnh và thời hạn đặt tiền để đảm bảo: - Thời hạn bảo lĩnh được quy định tại khoản 5 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.” - Thời hạn đặt tiền để đảm bảo được quy định tại khoản 4 Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
Quy định về bảo lĩnh theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
1. Về khái niệm: Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam dối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Khi quyết định cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của họ. Đối tượng được áp dụng biện pháp này thường là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn hoặc bị can, bị cáo ốm đau. 2. Các dạng bảo lĩnh: Hai dạng bảo lĩnh: tổ chức bảo lĩnh và cá nhân bảo lĩnh. – Cá nhân nhận bảo lĩnh: + Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh + Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh là người thân thích của bị can, bị cáo thì phải có từ hai người trở lên. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. – Tổ chức nhận bảo lĩnh: phải thỏa mãn điều kiện là người được bảo lĩnh (bị can, bị cáo) phải là thành viên của tổ chức đó. Nếu là chính quyền địa phương đứng ra bảo lĩnh thì người được bảo lĩnh phải là người cư trú ở địa phương đó. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Nội dung giấy cam đoan phải ghi rõ trách nhiệm của mình trong việc không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được các cơ quan tiến hành tố tụng thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc bảo lĩnh. 3. Nghĩa vụ của bị can, bị cáo được bảo lĩnh: Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: - Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép; - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Những người có quyền ra quyết định bảo lĩnh: + Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; + Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; + Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. + Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì cá nhân hoặc tổ chức đó bị tước quyền nhận bảo lĩnh và phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan. Trong trường hợp này, bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Mục đích của biện pháp bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng Trong cuộc sống thường ngày, hai từ bảo lãnh và bảo lĩnh được dùng như nhau, chẳng qua là do cách phát âm khác nhau của từng vùng miền. Nhưng về mặt pháp luật, hai từ này lại là hai chế định hoàn toàn khác nhau: Bảo lãnh chỉ có trong quan hệ pháp luật dân sự, còn bảo lĩnh chỉ có trong tố tụng hình sự. Bảo lãnh, theo điều 335 Bộ luật dân sự 2015 là “biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Đây là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình . Ví dụ: Một ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ hưởng của hợp đồng khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp đồng (bảo lãnh ngân hàng). Còn Bảo lĩnh, theo Bộ luật tố tụng hình sự là “biện pháp ngăn chặn”. Chỉ trong pháp luật tố tụng hình sự mới có khái niệm bảo lĩnh. Tuy nhiên, nhiều người, kể cả cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn quen gọi là bảo lãnh. Song song đó, cũng cần phân biệt biện pháp bảo lĩnh với một số biện pháp ngăn chặn khác được quy định tại Điều 122, Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đó là: - Cấm đi khỏi nơi cư trú: Nếu như biện pháp bảo lĩnh không hạn chế các quyền công dân thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không được tự ý rời khỏi nơi cư trú của mình. Trong thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo phải chịu sự giám sát, quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú. - Đặt tiền để bảo đảm: Bên cạnh các căn cứ để áp dụng giống biện pháp bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền để bảo đảm, còn quy định cơ quan tiến hành tố tụng có quyền tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền họ đã đặt nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Nếu bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ trả lại cho họ số tiền đã đặt. Trên đây là những quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo lĩnh. Mọi người tham khảo nhé!
Bảo lĩnh cho người phạm tội nghiêm trọng thì tiền bảo đảm phải đặt bao nhiêu?
Trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực ngày 1/1/2018 có quy định về bảo lĩnh, đây là biện pháp thay thế biện pháp tạm giam. Khi áp dụng biện pháp này thì bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ có thể phải đặt tiền bảo lĩnh. Tiền bảo lĩnh này căn cứ vào đâu để nộp và nộp bao nhiêu
"Bảo lãnh" và "Bảo lĩnh" khác nhau thế nào?
Trong cuộc sống thường ngày, hai từ bảo lãnh và bảo lĩnh được dùng như nhau, chẳng qua là do cách phát âm khác nhau của từng vùng miền. Nhưng về mặt pháp luật, hai từ này lại là hai chế định hoàn toàn khác nhau. Sau đây là bảng so sánh một vài tiêu chí của 2 từ này: TIÊU CHÍ BẢO LÃNH BẢO LĨNH Quan hệ pháp luật áp dụng Chỉ có trong quan hệ pháp luật dân sự Chỉ có trong tố tụng hình sự Khái niệm Là “biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, theo đó người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Điều luật quy định Được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 tại: - Hình thức bảo lãnh (Điều 362) - Phạm vi bảo lãnh (Điều 363) - Thù lao (Điều 364) - Trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh (Điều 365) - Quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh (Điều 366) - Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh (Điều 367) - Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Điều 368) - Xử lý tài sản của bên bảo lãnh (Điều 369) - Hủy bỏ việc bảo lãnh (Điều 370) - Chấm dứt việc bảo lãnh (Điều 371). Điều 92 BLTTHS 2003 Như vậy, sự khác nhau giữa bảo lãnh với bảo lĩnh trong pháp luật là khác về bản chất chứ không chỉ khác về cách phát âm. … Thiết nghĩ chúng ta nên chú ý hơn, nhất là các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, luật sư thì càng phải nói và viết chính xác theo đúng quy định.
Từ vụ Anna Bắc Giang làm thế nào để bảo lĩnh một người?
Vừa qua, một cô gái trẻ có tên là “Anna Bắc Giang” đã lừa đảo hàng loạt vụ tổ chức đám cưới giả với số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng. Điều này đã gây bức xúc dư luận trong những ngày qua, sau khi nhận được tin tố cáo cơ quan điều tra đã vào cuộc và bắt tạm giam cô này. Sau đó, anh trai (ruột) của cô đã đến cơ quan điều tra để thực hiện việc bảo lĩnh để cô được tại ngoại chờ kết quả điều tra của cơ quan công an. Tuy nhiên, sau vài ngày có tin cô gái này đã trộm xe của anh và bỏ trốn. Từ vụ việc trên thì theo quy định làm thế nào để thực hiện thủ tục bảo lĩnh một người đang bị tạm giam? Hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây! 1. Bảo lĩnh là gì? Có thể hiểu bảo lĩnh là hình thức một cá nhân làm đơn cam kết xin tại ngoại đối với người có hành vi phạm tội đang trong quá trình điều tra. Cụ thể tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 giải thích thuật ngữ bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Theo đó, đối với những người đang trong quá trình điều tra cơ quan có thẩm quyền xét thấy người này không gây nguy hại hay vi phạm các quy định sau khi được người thân bảo lĩnh, thì có thể cho họ tại ngoại về với cộng đồng chờ kết quả điều tra. Đối với trường của cô gái lừa đảo đám cưới hàng tỷ đồng, thì người anh của cô đã làm đơn cam kết đảm bảo theo quy định trên và được cơ quan có thẩm quyền đồng ý tại ngoại cùng với gia đình. 2. Người nào có thể thực hiện bảo lĩnh? Căn cứ khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định cụ thể 02 đối tượng được quyền thực hiện biện pháp bảo lĩnh đối với người đang bị tạm giam điều tra bao gồm: (1) Cơ quan, tổ chức của bị can, bị cáo Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. (2) Thân nhân của bị can, bị cáo Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Lưu ý: Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Như vậy, người anh của cô này thuộc trường hợp là đối tượng được quyền bảo lãnh theo diện là thân nhân cho em gái của mình. 3. Nghĩa vụ của người được bảo lĩnh Khi cá nhân, tổ chức làm giấy bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Trong đó, bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Không may thay sự việc trên người anh của Anna BG đã vi phạm các quy định cam kết về bảo lãnh khi để cô này bỏ trốn sau vài ngày tại ngoại. Theo đó, trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Thẩm quyền phê duyệt bảo lĩnh (1) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. (2) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp. (3) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. Sau đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. 5. Thời hạn bảo lĩnh Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Như vậy, khi thực hiện bảo lĩnh bị can, bị cáo thì đối tượng được quyền thực hiện biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là cơ quan, tổ chức hoặc là người thân của người đang bị tạm giam. Khi thực hiện bảo lĩnh tùy mức độ hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền sẽ phê duyệt và được sự đồng ý của Tòa án, người được tại ngoại phải tuân thủ các quy định như đã cam kết nếu vi phạm cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện lệnh bắt người.
Bảo lĩnh và bảo lãnh khác nhau như thế nào?
Tại Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về bảo lĩnh như sau: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Tại Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về bão lãnh như sau: Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Như vậy có thể thấy rằng khái niệm bảo lĩnh và bảo lãnh là hoàn toàn khác nhau. Bảo lĩnh là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,. Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong dân sự. Trong trường hợp bị tạm giam, người thân thích của người bị tạm giam có thể đứng ra bảo lĩnh, vấn đề này được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau: Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Theo quy định trên, người thân đủ đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh.
Người bao nhiêu tuổi mới có thể thực hiện bảo lĩnh cho bị can trong vụ án hình sự?
Căn cứ vào Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về việc bảo lĩnh trong đó có quy định như sau: 1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. 2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. 3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. 6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định trên có thể thấy theo quy định thì chỉ cần cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can là người thân thích của họ và và cần ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Người được tại ngoại có được điều hành doanh nghiệp không?
Theo Bộ Luật tố tụng hình sự 2015: "Điều 121. Bảo lĩnh 1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. 2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. 3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. 6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật." Theo đó, pháp luật không có quy định hạn chế hay cấm người được bảo lĩnh được tiếp tục đảm nhận công tác. Luật doanh nghiệp cũng không hạn chế việc này. Tuy nhiên, nếu trong quyết định tại ngoại có ghi rõ là cấm đảm nhận chức vụ thì người này phải tuân theo quyết định.
Xin tại ngoại vì bị mắc bệnh được không?
Xin tại ngoại vì mắc bệnh được không? - Hình minh họa Trong thời gian tạm giam để điều tra, nhiều bị can, bị cáo có nhu cầu được tại ngoại để chữa bệnh hay vì một lý do khác. Pháp luật có cho phép tại ngoại vì lý do mắc bệnh không? 1. Tại ngoại là gì? Pháp luật Việt Nam chưa quy định tại ngoại là gì? Tuy nhiên ta có thể hiểu tại ngoại là trạng thái không bị giam giữ sau khi có quyết định điều tra, khởi tố bị can, cáo. 2. Trường hợp được tại nào ngoại Bộ Luật tố tụng dân sự không quy định các trường hợp được tại ngoại, nhưng có quy định hình thức bảo lĩnh (bảo lãnh) và đặt tiền để bảo đảm giúp bị can bị cáo có thể tại ngoại trong thời gian tạm giam. a. Biện pháp bảo lãnh Theo Điều 121 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định: Để bị can được bảo lãnh thì người đứng ra bảo lãnh có thể là người thân thích hoặc là tổ chức, cơ quan mà bị can là người của tổ chức, cơ quan đó. Theo đó, người thân phải có ít nhất 02 người và phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: - Là người đủ 18 tuổi trở lên; - Có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; - Có thu nhập ổn định, đủ điều kiện quản lý người được bảo lĩnh; - Có giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập... Lưu ý: Nếu là cơ quan, tổ chức thì phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó. b. Biện pháp đặt tiền bảo Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy đính mức tiền đảm bảo dựa vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội và những trường hợp được sử dụng biện pháp bảo đảm. Nếu bị can vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan trong thời gian được tại ngoại thì số tiền đã đặt sẽ bị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước và bị can sẽ bị tạm giam. Nếu người này chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền này sẽ được trả lại.Như vậy ta có thể hiểu để được tại ngoại thì bị ca, bị cáo phải được bảo lãnh hoặc đặt tiền để bảo đảm Như vậy để được tại ngoại thì bị can bị cáo phải được bảo lãnh hoặc đặt tiền bảo đảm. tuy nhiên không phải trường hợp nào bị can, bị cáo cũng được tại ngoại. được chấp nhận sử dụng biện pháp thay thế tạm giam hay không còn phụ thuộc vào mức độ nguy hiểm của hành vi và nhân thân của của bị can bị cáo. 3. Bị mắc bệnh có xin tại ngoại được không? Theo như phân tích ở trên, thì mắc bệnh sẽ là một tiêu trí để được xem xét có được bảo lãnh hay chứ không là điều kiện để bắt buộc có được chấp nhập sử dựng biện pháp bảo lãnh hay đặt tiền bảo đảm thay thế tạm giam hay không. Như vậy, để được tại ngoại còn phụ thuộc vài nhiều yếu tố khác nữa, dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, và các yếu tố khác mà bị can bị cáo sẽ được xem xét có được tại ngoại hay không. 4. Thời gian được tại ngoại là bao lâu? Khi đó thời gian tại ngoại phụ thuộc vào thời hạn bảo lĩnh và thời hạn đặt tiền để đảm bảo: - Thời hạn bảo lĩnh được quy định tại khoản 5 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.” - Thời hạn đặt tiền để đảm bảo được quy định tại khoản 4 Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tại Bộ luật này. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.
Quy định về bảo lĩnh theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
1. Về khái niệm: Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam dối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần phải ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Khi quyết định cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của họ. Đối tượng được áp dụng biện pháp này thường là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn hoặc bị can, bị cáo ốm đau. 2. Các dạng bảo lĩnh: Hai dạng bảo lĩnh: tổ chức bảo lĩnh và cá nhân bảo lĩnh. – Cá nhân nhận bảo lĩnh: + Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh + Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh là người thân thích của bị can, bị cáo thì phải có từ hai người trở lên. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. – Tổ chức nhận bảo lĩnh: phải thỏa mãn điều kiện là người được bảo lĩnh (bị can, bị cáo) phải là thành viên của tổ chức đó. Nếu là chính quyền địa phương đứng ra bảo lĩnh thì người được bảo lĩnh phải là người cư trú ở địa phương đó. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Nội dung giấy cam đoan phải ghi rõ trách nhiệm của mình trong việc không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được các cơ quan tiến hành tố tụng thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc bảo lĩnh. 3. Nghĩa vụ của bị can, bị cáo được bảo lĩnh: Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: - Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép; - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam. 4. Những người có quyền ra quyết định bảo lĩnh: + Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành; + Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; + Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử. + Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì cá nhân hoặc tổ chức đó bị tước quyền nhận bảo lĩnh và phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan. Trong trường hợp này, bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Mục đích của biện pháp bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng Trong cuộc sống thường ngày, hai từ bảo lãnh và bảo lĩnh được dùng như nhau, chẳng qua là do cách phát âm khác nhau của từng vùng miền. Nhưng về mặt pháp luật, hai từ này lại là hai chế định hoàn toàn khác nhau: Bảo lãnh chỉ có trong quan hệ pháp luật dân sự, còn bảo lĩnh chỉ có trong tố tụng hình sự. Bảo lãnh, theo điều 335 Bộ luật dân sự 2015 là “biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Đây là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình . Ví dụ: Một ngân hàng cam kết sẽ thanh toán cho bên thụ hưởng của hợp đồng khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy bảo lãnh nếu bên đối tác không thực hiện được trách nhiệm của mình trong hợp đồng (bảo lãnh ngân hàng). Còn Bảo lĩnh, theo Bộ luật tố tụng hình sự là “biện pháp ngăn chặn”. Chỉ trong pháp luật tố tụng hình sự mới có khái niệm bảo lĩnh. Tuy nhiên, nhiều người, kể cả cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn quen gọi là bảo lãnh. Song song đó, cũng cần phân biệt biện pháp bảo lĩnh với một số biện pháp ngăn chặn khác được quy định tại Điều 122, Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đó là: - Cấm đi khỏi nơi cư trú: Nếu như biện pháp bảo lĩnh không hạn chế các quyền công dân thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không được tự ý rời khỏi nơi cư trú của mình. Trong thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo phải chịu sự giám sát, quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú. - Đặt tiền để bảo đảm: Bên cạnh các căn cứ để áp dụng giống biện pháp bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền để bảo đảm, còn quy định cơ quan tiến hành tố tụng có quyền tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền họ đã đặt nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Nếu bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ trả lại cho họ số tiền đã đặt. Trên đây là những quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo lĩnh. Mọi người tham khảo nhé!
Bảo lĩnh cho người phạm tội nghiêm trọng thì tiền bảo đảm phải đặt bao nhiêu?
Trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực ngày 1/1/2018 có quy định về bảo lĩnh, đây là biện pháp thay thế biện pháp tạm giam. Khi áp dụng biện pháp này thì bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ có thể phải đặt tiền bảo lĩnh. Tiền bảo lĩnh này căn cứ vào đâu để nộp và nộp bao nhiêu
"Bảo lãnh" và "Bảo lĩnh" khác nhau thế nào?
Trong cuộc sống thường ngày, hai từ bảo lãnh và bảo lĩnh được dùng như nhau, chẳng qua là do cách phát âm khác nhau của từng vùng miền. Nhưng về mặt pháp luật, hai từ này lại là hai chế định hoàn toàn khác nhau. Sau đây là bảng so sánh một vài tiêu chí của 2 từ này: TIÊU CHÍ BẢO LÃNH BẢO LĨNH Quan hệ pháp luật áp dụng Chỉ có trong quan hệ pháp luật dân sự Chỉ có trong tố tụng hình sự Khái niệm Là “biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, theo đó người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Điều luật quy định Được quy định trong Bộ luật dân sự 2005 tại: - Hình thức bảo lãnh (Điều 362) - Phạm vi bảo lãnh (Điều 363) - Thù lao (Điều 364) - Trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh (Điều 365) - Quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh (Điều 366) - Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh (Điều 367) - Miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Điều 368) - Xử lý tài sản của bên bảo lãnh (Điều 369) - Hủy bỏ việc bảo lãnh (Điều 370) - Chấm dứt việc bảo lãnh (Điều 371). Điều 92 BLTTHS 2003 Như vậy, sự khác nhau giữa bảo lãnh với bảo lĩnh trong pháp luật là khác về bản chất chứ không chỉ khác về cách phát âm. … Thiết nghĩ chúng ta nên chú ý hơn, nhất là các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, luật sư thì càng phải nói và viết chính xác theo đúng quy định.