Trình tự, thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm
Bản án có hiệu lực pháp luật khi nào? Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền kháng cáo có thể thực hiện kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Về thời hạn, người có quyền và trình tự thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm sẽ được nêu cụ thể trong nội dung bên dưới. I. Thời hạn và người có quyền kháng cáo Thời hạn kháng cáo Người có quyền kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm + 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Điều 273, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 271, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Bản án hình sự sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Điều 333, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 - Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ - Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. - Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. - Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Điều 331, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 Bản án hành chính sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Điều 206, Luật Tố tụng hành chính 2015 Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 204, Bộ luật Tố tụng Hành chính 2015 II. Trình tự thủ tục kháng cáo 1. Bản án dân sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. 2. Bản án hình sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo - Đơn kháng cáo có các nội dung chính: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; + Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. - Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo 3. Bản án hành chính sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế
Số hiệu 1082/2009/HC-ST Tiêu đề Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế Ngày ban hành 05/05/2009 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 1082/2009/HC-ST Ngày: 05/5/2009. V/v Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Tiến Long Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Hồ Thị Mười 2. Bà Lê Thị Nhung Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Thu Ba – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Có ông Võ Quang Huy - Kiểm sát viên. Mở phiên tòa công khai ngày 05 tháng 5 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm vụ án khiếu kiện: “Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế ”, thụ lý số 02/HCST ngày 05/02/2009; Theo quyết định đưa ra xét xử số: 750/2009/QĐST-HC ngày 21/4/2009; giữa: Người khởi kiện:Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S Địa chỉ: 362/1 Tôn Đản, phường 4, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Có ông Vũ Minh Hùng giám đốc công ty làm đại diện tham gia tố tụng tại tòa. Người bị kiện: Cục trưởng Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: 02 Hàm Nghi, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ủy quyền cho ông Phan Mạnh Lân đại diện tham gia tố tụng tại tòa. NHẬN THẤY Ông Vũ Minh Hùng giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn A.S trình bày: Ngày 01/6/2007 công ty trách nhiệm hữu hạn A.S có ký kết hợp đồng nhập màn hình vi tính đã qua sử dụng. Đến ngày 17/01/2007 hàng về tại cảng Cát Lái, Thành phố Hồ Chí Minh, công ty đã mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu và nộp thuế ngày 20/7/2007. Nhưng sau 02 tháng ngày 28/9/2007 Chi cục hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, vì căn cứ vào quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVTngày 21/5/2007 của Bộ bưu Chính viễn thông nên cho rằng hàng hóa của chúng tôi là hàng cấm nhập khẩu và cùng ngày ra quyết định tạm giữ toàn bộ số hàng hóa của chúng tôi, đến nay bị giữ hơn 01 năm làm thiệt hại cho chúng tôi rất lớn. Căn cứ điểm 2 phần ghi chú điều 1 quyết định 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của bộ bưu chính viễn thông quy định: “Màn hình máy tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng không thuộc danh mục này”. Nên hàng hóa chúng tôi nhập khẩu không bị cấm. Ngày 03/9/2008 Cục hải quan thành phố ra quyết định số140/QĐ-HQTP về việc xử phạt vi phạm hành chính công ty tôi là không đúng với quy định. Trong khi cũng có công ty Sovilaco nhập hàng cùng loại, cùng thời điểm thì không bị tịch thu. Nay tôi yêu cầu hủy quyết định số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của hải quan Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Cục Trưởng cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S ký kết hợp đồng ngày 01/12/2006; ngày 17/01/2007 hàng cập cảng Cát Lái; trong thời gian này quyết định số 20/2006/QĐ-BBCVT ngày 30/6/2006 của bộ bưu chính viễn thông đang có hiệu lực cấm nhập khẩu màn hình vi tính và đến ngày 24/5/2007 bộ bưu chính viễn thông ra quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVT về việc cho phép nhập khẩu nhập màn hình vi tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng. Mặc dù ngày 20/7/2007 làm thủ tục hải quan cho lô hàng như theo công văn số 1717/BBCVT–CNCNTT ngày 03/8/2007 thì chỉ những mặt hàng màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma mới được nhập khẩu. Cho nên công ty trách nhiệm hữu hạn A.S có hành vi nhập khẩu mặt hàng caám nhập. Nên ngày 03/9/2008 Cục hải quan Thaønh phoá Hoà Chí Minh có quyết định số 140/QĐ-HQTP với nội dung xử phạt công ty trách nhiệm hữu hạn A.S 20.000.000 đồng và tịch thu toàn bộ lô hàng vi phạm. Còn công ty Sovilaco không cùng thời điểm và cũng không liên quan đến công ty trách nhiệm hữu hạn A.S. Ngày 13/3/2009 Tòa án đã tạo điều kiện các bên thỏa thuận nhưng Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S và giữ nguyên quyết định xử phạt số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 đối với công ty trách nhiệm hữu hạn A.S. Tại phiên tòa hôm nay: Ông Vũ Minh Hùng giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn A.S vẫn yêu cầu hủy quyết định xử phạt số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, vì quyết định này áp dụng không đúng điểm 2 phần ghi chú điều 1 quyết định 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của bộ bưu chính viễn thông quy định: “Màn hình máy tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng không thuộc danh mục này”. Đại diện Cục trưởng cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S và giữ nguyên quyết định xử phạt số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục trưởng cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh. Ý kiến đại diện viện kiểm sát cho rằng theo đơn khởi kiện của Công ty A.S thì còn trong thời hạn khởi kiện vụ án hành chính, nên tòa án thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật. Ngày 20/11/2007 hải quan chuyển hồ sơ cho cơ quan công an và ngày 18/8/2008 công an có quyết định không khởi tố vụ án nên ngày 03/9/2008 Hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 140 là đúng về thời hạn xử phạt vi phạm hành chính. Trong thời gian cấm nhập màn hình vi tính thì công ty A.S đã ký hợp đồng mua và sau khi có quyết định 11/2007 và công văn 1717 của bộ Bưu chính viễn thông thì việc nhập hàng của công ty A.S là trái với quy định. Nên Hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 140 ngày 03/9/2008 là đúng, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty A.S. XÉT THẤY Sau khi Nghiên cứu hồ sơ, thẩm vấn công khai và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định: Sau khi nhận được quyeát định giải quyết khiếu nại của Hải quan, ngày 14/11/2008 công ty trách nhiệm hữu hạn A.S khởi kiện quyết định số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục trưởng hải quan thành phố. Là đúng về thời hạn khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S cho rằng quyết định xử phạt của Hải quan là trái với những gì pháp luật quy định. Thu giữ toàn bộ số hàng hóa của chúng tôi, đến nay bị giữ hơn 01 năm làm thiệt hại cho chúng tôi rất lớn. Xét thấy, ngày 01/12/2006 Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S ký kết hợp đồng nhập màn hình vi tính đã qua sử dụng; Ngày 17/01/2007 hàng cập cảng Cát Lái, Thành phố Hồ Chí Minh; ngày 20/7/2007công ty trách nhiệm hữu hạn A.S đã mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu và nộp thuế theo quy định. Ngày 28/9/2007 Chi cục hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, là sau hơn 02 tháng kể từ ngày Công ty A.S mở tờ khai hàng hoá nhập khẩu. Theo biên bản vi phạm hành chính số 200/KV1-Cát Lái/BB-HO1 ngày 28/9/2007 do Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 lập, có chữ ký của ông Dương Quốc Hùng chỉ là đội trưởng đội thanh tra hàng hóa xuất khẩu cát lái ký ở vị trí người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong biên bản là trái với khỏan 1 điều 20 của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có trách nhiệm lập biên bản theo đúng mẫu quy định đối với vi phạm hành chính mà mình phát hiện và chuyển kịp thời tới người có thẩm quyền xử phạt. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký theo quy định tại khỏan 3 điều 55 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính”; Tại điều 32 nghị định 97/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan như sau: “Đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan không thuộc trường hợp quy định tại điều 31 nghị định này, người có thẩm quỳên xử phạt phải kịp thời lập biên bản theo quy định. Nếu ngừơi lập biên bản không có thẩm quyền xử phạt thì thủ trưởng trực tiếp của ngừơi đó là một trong những ngừơi quy định tại điều 28 của nghị định này phải ký tên vào biên bản; trong trường hợp cần thiết thì tiến hành xác minh trước khi ký biên bản. Hình thức, nội dung, trình tự lập biên bản thực hiện theo quy định tại điều 55 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính”; theo đó người có thẩm quyền xử phạt trong trường hợp này phải là Cục trưởng Cục hải quan Thành phố Hồ Chí Minh mới có quyền ký vào vị trí của người có thẩm quyền xử phạt tại biên bản vi phạm hành chính. Xét quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 Cục Trưởng cục hải quan thành phố. Sau khi lập biên bản vi phạm hành chính Cục trưởng cục Hải quan không thực hiện đúng với khoản 1 điều 62 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: “Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền”; có nghĩa, người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự khi còn trong thời hạn xử phạt được quy định tại khoản 1 điều 56 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: “Thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính; đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày. …”; và trái với điều 33 của nghị định 97/2007/NĐ-CPngày 07/6/2007 của chính phủ quy định: “Hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thực hiện theo quy định tại điều 56 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính”. Bởi người đại diện Hải quan cho rằng sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đến khi chuyển hồ sơ cho công an, Hải quan không có thu thập xác minh gì thêm, chỉ làm văn bản trao đổi với Viện kiểm sát. Đối chiếu với vụ việc này đã rõ và không phải xác minh, thu thập chứng cứ nên thời hạn xử phạt là 10 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Nhưng đến ngày 03/9/2008 (hơn một năm sau) Cục Trưởng cục hải quan thành phố mới ra quyết định số 140/QĐ-HQTP về việc xử phạt vi phạm hành chính công ty A.S là trái với quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt. Vì ngày lập biên bản vi phạm hành chính 28/9/2007 nhưng đến ngày chuyển hồ sơ cho cơ quan công an là ngày 20/11/2007 là ñaõ quá 30 ngày theo quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Xét về nội dung, theo văn bản ngày 24/5/2007 của Bộ bưu chính viễn thông ra quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVT sửa đổi bổ sung quyết định 20/2006/QĐ-BBCVT ngày 30/6/2006 và có hiệu lực ngày 28/6/2007 quy định tại điểm 2 phần ghi chú điều 1 như sau: “Màn hình máy tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng không thuộc danh mục này”. Theo đó thì màn hình vi tính không phân biệt loại nào cũng được nhập kể từ ngày văn bản này có hiệu lực. Tuy nhiên, đến ngày 03/8/2007 Bộ bưu chính viễn thông có công văn số 1717/BBCVT – CNCNTT trả lời công văn của hải quan xác định lại chỉ những mặt hàng màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma mới được nhập khẩu. Đây là văn bản giải thích cách hiểu câu chữ trong quyết định của Bộ Trưởng. Việc hiểu sao cũng được, là lỗi của bộ Bưu chính viễn thông khi ban hành văn bản, cho nên mới có sự giải thích, không phải lỗi của người dân. Như vậy, kể từ ngày 28/6/2007 cho đến ngày 03/8/2007 không phân biệt loại màn hình nào cũng được nhập. Theo ý kiến của đại diện Hải quan cho rằng luôn tính có lợi cho khách hàng và thời điểm tính áp dụng hiệu lực văn bản đối với hàng nhập khẩu từ khi làm thủ tục kê khai hải quan. Đối chiếu với thời gian công ty trách nhiệm hữu hạn A.S làm thủ tục hải quan và nộp thuế cho lô hàng ngày 20/7/2007, đáng lý Hải quan phải thông quan vì tại thời điểm này chưa có công văn 1717 của bộ Bưu chính Viễn Thông, nhưng cơ quan Hải quan lại ra quyết định số 140/QĐ-HQTP với nội dung xử phạt công ty trách nhiệm hữu hạn A.S 20.000.000 đồng và tịch thu toàn bộ lô hàng vi phạm là trái với những gì pháp luật quy định và mâu thuẫn với ý kiến của đại diện cơ quan Hải quan trình bày. Bởi tại thời điểm kê khai hàng hóa nhập khẩu không vi phạm quy định cấm nhập của Bộ Bưu chính viễn thông. Nhưng cơ quan hải quan Thành phố Hồ Chí Minh lại cho rằng công ty A.S có dấu hiệu tội phạm là trái với quyết định 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của bộ bưu chính viễn thông. Sau khi Hải quan chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan công an ngày 20/11/2007 thì đến ngày 18/8/2008 cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố Hồ Chí Minh ra thông báo số 999/CV-PC15 kết luận hành vi của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S không cấu thành tội phạm do nhập khẩu hàng cấm nhập, nên không khởi tố vụ án hình sự. Cho nên quyết định số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục trưởng cục hải quan Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt công ty trách nhiệm hữu hạn A.S là không có căn cứ. Tuy nhiên, tại toà Công ty A.S cho rằng việc nhập hàng màn hình vi tính đã qua sử dụng vào nước ta vừa qua không chỉ riêng công ty A.S, mà trước đó có công ty Sovilaco nhập hàng (cũng là màn hình vi tính 17” loại cong và loại thẳng đã qua sử dụng) về đến cảng ngày 20/12/2006 trứơc khi hàng của công ty A.S đến cảng ngày 17/01/2007 thì được thông quan theo quyết định số 129/QĐ-HQTP-HC16 ngày 11/7/2007 còn hàng của công ty A.S lại bị xử phạt và tịch thu là mâu thuẫn và đối xử không công bằng giữa các doanh nghiệp. Thực tế Hải quan có cho thông qua đối với lô hàng của doanh nghiệp Sovilaco như Công ty A.S trình bày. Ý kiến đại diện viện kiểm sát không thống nhất với nhận định trên của tòa. Vì những lẽ nêu trên. QUYẾT ĐỊNH Căn cứ khoản 14 điều 11, điểm b khoản 2 điều 12, điều 19, 29, 30, 49, 56 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Căn cứ điều 55, khoản 1 điều 56, khoản 1 điều 62 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Căn cứ điều 9, 21, 29 nghị định 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Căn cứ quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của Bộ trưởng Bộ bưu chính viễn thông. Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S yêu cầu hủy quyết định 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 cuûa Cục Trưởng cục hải quan Thành phố Hoà Chí Minh vì có căn cứ. Hủy quyết định 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục Trưởng cục hải quan Thành phố Hoà Chí Minh vì không có căn cứ. Án phí sơ thẩm Cục Trưởng cục hải quan Thành phố Hoà Chí Minh phải chịu 50.000đồng. Án phí sơ thẩm công ty trách nhiệm hữu hạn A.S không phải chịu; hoàn trả lại cho công ty trách nhiệm hữu hạn A.S tiền tạm ứng án phí đã nộp 50.000 đồng theo biên lai số 006698 ngày 17/12/2008 của thi hành án dân sự Thành phố Hoà Chí Minh, do ông Vũ Minh Hùng nộp Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Thi hành án dân sự; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Võ Tiến Long
Số hiệu 1712/2009/HC-PT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất Ngày ban hành 09/9/2009 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 1712/2009/HC-PT. Ngày: 09/9/2009. V/v “Khiếu kiện quyết định, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất”. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Quế Phượng. Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Đình. 2. Ông Võ Tiến Long. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Quý Ngân - Cán bộ Tòa án thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh: Ông Võ Quang Huy - Kiểm sát viên nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 09 tháng 9 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2009/TLPT-HC ngày 11 tháng 8 năm 2009 về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất” do Bản án hành chính sơ thẩm số03/2009/HC-ST ngày 17 tháng 6 năm 2009 của Tòa án nhân dân quận 9 bị kháng cáo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1469/2009/QĐPT-HC ngày 17 tháng 8 năm 2009 giữa các đương sự: Người khởi kiện: 1. Ông Vũ Hồng Thái, sinh năm 1955 Địa chỉ: 300/9 đường Lê Văn Việt, khu phố 4 , phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Bà Nguyễn Thị Tiết, sinh năm 1958 Địa chỉ: 96 đường Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Trần Quý – thuộc đòan luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Người Bị kiện: Ủy ban nhân dân quận 9. Địa chỉ: 232 Xa lộ Hà Nội, khu phố 1, phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Hồ Văn Năm – Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Cao Minh Hải – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Theo giấy ủy quyền số 1199/UBND ngày 25/8/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: 1. Ông Trương Văn Be, sinh năm 19 56. Địa chỉ: 98 A tổ 3, khu phố 7, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Bà Nguyễn Kim Lang, sinh năm 1950 Địa chỉ: 35 đường 311, khu phố 5, phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. (Các đương sự có mặt). NHẬN THẤY: Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau: Ngày 17/10/2006 Ủy ban nhân dân quận 9 ra Quyết định số 416/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang với nội dung : “Công nhận khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang là có cơ sở. Điều chỉnh phần diện tích 32,5m2 là đường đi chung hiện hữu ra khỏi diện tích được công nhận trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết để điều chỉnh lại cho đúng diện tích sử dụng. Lý do: Phần đường đi chung diện tích 32,5m2 là lối đi hiện hữu dẫn vào nhà ông Be và bà Lang đã được thể hiện trên bản đồ địa chính năm 2003. Khi lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận bà Tiết không chừa đường đi chung này trên bản vẽ sơ đồ nhà đất dẫn đến việc Ủy ban nhân dân quận 9 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 cho bà Tiết đã cấp luôn phần đường đi này.” Ngày 03/11/2006, ông Thái và bà Tiết nhận được Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 của Ủy ban nhân dân quận 9 và nộp đơn khiếu nại quyết định này vào ngày 22/01/2007. Ngày 01/11/2007, Ủy ban nhân dân quận 9 ra Quyết định số 384/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Hồng Thái, với nội dung: Bác đơn của ông Vũ Hồng Thái khiếu nại Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 vì không có cơ sở xem xét, giải quyết. Ngày 22/11/2007, ông Thái, bà Tiết nhận được Quyết định số 384/QD-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Không đồng ý với các Quyết định trên, ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận 9 vào ngày 25/12/2007 với yêu cầu hủy hai Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Trong quá trình Tòa giải quyết vụ án, ngày 24/10/2008 Ủy ban nhân dân quận 9 ra Quyết định số 826/QĐ-UBND thu hồi Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9 với lý do sai sót trong trình tự, thủ tục ban hành. Đồng thời Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định 141/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 về việc giải quyết khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang, và ban hành Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 với nội dung: “Điều chỉnh phần đường đi chung diện tích 32,5m2 ra khỏi phần đất được công nhận trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 20/7/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết để điều chỉnh lại theo đúng hiện trạng và diện tích sử dụng” Sau khi nhận được các Quyết định trên. Ngày 04/5/2009 ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết xác định lại yêu cầu khởi kiện như sau: Ông Thái vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Đối với Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 về việc điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết thì hiện nay ông Thái đã khiếu nại quyết định này đến Ủy ban nhân dân quận 9 nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Ông Thái sẽ khởi kiện Quyết định 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 trong 1 vụ án khác sau khi Ủy ban nhân dân quận 9 có kết quả giải quyết khiếu nại. Tại phiên Tòa ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết vẫn giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện: Yêu cầu hủy Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Không yêu cầu Tòa xem xét giải quyết đối với Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 của Ủy ban nhân dân quận 9. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện đề nghị Tòa chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện. Đại diện của người bị kiện trình bày: Hiện nay Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9 đã bị thu hồi, hủy bỏ nên không còn giá trị thi hành do đó yêu cầu khởi kiện của ông Thái và bà Tiết là không có căn cứ pháp luật, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Thái và bà Tiết. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang đề nghị Tòa không chấp nhận yêu cầu của ông Thái và bà Tiết. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 9 phát biểu ý kiến, nhận định vụ án và kết luận : Hiện tại đối tượng khởi kiện của vụ án là Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 không còn có hiệu lực thi hành vì Ủy ban nhân dân quận 9 đã thu hồi và đã được thay thế bởi Quyết định số 825/QD-UBND ngày 24/10/2008 của Ủy ban nhân dân quận 9. Tuy nhiên ông Thái và bà Tiết không yêu cầu Tòa xem xét đối với Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/20/2008 mà chỉ yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QD-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Xét yêu cầu của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết là không có căn cứ pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu của ông Thái và bà Tiết. Bản án sơ thẩm số 03/2009/HC-ST ngày 17/6/2009 của Tòa án nhân dân quận 9 đã áp dụng : - Điểm a khoản 2 Điều 2, khoản 17 Điều 11, khoản 1 Điều 12, Điều 30, Điều 49, Điều 56 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006); - Khoản 5 Điều 38 luật Đất đai năm 2003; - Điểm b, d khoản 2 Điều 42 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật Đất đai năm 2003; - Điều 80 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002); - Điều 27, 30 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án ; Tuyên xử: 1. Không chấp nhận tòan bộ yêu cầu của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết yêu cầu hủy Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và quyết định giải quyết khiếu nại số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 2.Án phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết cùng chịu, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí 50.000 đồng đã tạm nộp theo biên lai thu tiền số 000666 ngày 04/01/2008 của Thi hành án dân sự quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Thái, bà Tiết đã nộp đủ án phí. Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật. Ngày 22/6/2009 ông Vũ Hồng Thái, bà Nguyễn Thị Tiết có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông về việc hủy quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành có nội dung thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho vợ chồng ông Tại phiên Tòa phúc thẩm ông Vũ Hồng Thái và luật sư xác định yêu cầu kháng cáo và trình bày căn cứ kháng cáo bản án sơ thẩm như sau: - 1. Yêu cầu hủy bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng về thời gian hoãn, dừng việc xét xử, về việc Tòa án giao cho ông Thái các bản sao Quyết định (mới) của Ủy ban quận 9 ban hành trong khi đó ông Thái cho rằng việc tống đạt các Quyết định này cho ông phải là của chính quyền địa phương và Tòa án đã giải thích cho ông theo hướng động viên ông rút đơn khởi kiện với lý do đối tượng khởi kiện không còn trong khi ông chưa nhận được bản chính quyết định của Ủy ban quận 9 thu hồi lại các quyết định mà ông Thái, bà Tiết khởi kiện. - 2. Yêu cầu Tòa hủy các Quyết định hành chính do Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành gồm Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006, quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2008 vì các quyết định này ban hành không có căn cứ pháp luật, không đồng ý bản án tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông với lý do hai Quyết định trên do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành mà ông khởi kiện hiện nay không còn do đã bị Ủy ban nhân dân quận 9 thu hồi hủy bỏ. Đồng thời tại phiên Tòa phúc thẩm, ông Thái, bà Tiết có yêu cầu kháng cáo bổ sung về việc yêu cầu Tòa hủy các quyết định hành chính do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành sau khi ông đã khởi kiện sơ thẩm gồm Quyết định số 141/QD-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 826/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 và Quyết định số 94/QĐ-UBND. Về phía Ủy ban nhân dân quận 9, người đại diện yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm với lý do bản án sơ thẩm tuyên xử có căn cứ đúng pháp luật. Đối với các Quyết định Ủy ban nhân dân quận 9 mới ban hành 24/10/2008 sau khi ông Thái, bà Tiết khởi kiện gồm Quyết định 141/QĐ-UBND, Quyết định số 825/QĐ-UBND và Quyết định 826/QĐ-UBND do các quyết định này có liên quan đến việc ông Thái, bà Tiết khởi kiện nên Ủy ban quận 9 đã gửi cho Tòa án, đồng thời Ủy ban cũng giao 1 bản cho chính quyền địa phương để tống đạt cho ông Thái, bà Tiết theo quy định. Tuy ông Thái chưa nhận được các quyết định này nhưng ông Thái đã được Tòa án và đại diện Ủy ban khi tham gia giải quyết vụ án thông báo cho ông Thái biết về các quyết định này chính vì biết nên ông Thái đã thực hiện quyền khiếu nại của ông theo quy định của pháp luật. Đại diện Ủy ban nhân dân quận 9 có ý kiến trình bày yêu cầu Tòa không chấp nhận kháng cáo của ông Thái vì các lý lẽ ông Thái, và luật sư trình bày là không có căn cứ đúng pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến về kháng cáo của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết như sau: Đơn kháng cáo của ông Thái, bà Tiết là phù hợp với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về trình tự, thủ tục kháng cáo do đó hợp lệ được chấp nhận. Về nội dung kháng cáo: 1. Đối với các căn cứ kháng cáo của ông Thái và luật sư trình bày tại phiên Tòa yêu cầu hủy bản án sơ thẩm là không phù hợp với quy định pháp luật do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận. 2. Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Thái, bà Tiết về việc hủy hai Quyết định số 416 và Quyết định 384 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành, xét thấy căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ, qua lời khai trình bày của các đương sự tại phiên Tòa cho thấy trong quá trình Tòa án đang giải quyết vụ án do ông Thái và bà Tiết khởi kiện yêu cầu Tòa hủy Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành để thu hồi lại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho ông Thái, bà Tiết để điều chỉnh lại phần diện tích cho phù hợp với hiện trạng và diện tích sử dụng thì ngày 24/10/2008 Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành Quyết định số 826/QĐ-UBND để thu hồi, hủy bỏ hai quyết định bị khởi kiện. Việc Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định số 826/QD-UBND ngày 24/10/2008 là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. Do hiện nay đối tượng khởi kiện của vụ án không còn nên việc Tòa án nhân dân quận 9 bác đơn khởi kiện của ông Thái và bà Tiết yêu cầu hủy Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 là phù hợp với quy định của pháp luật. Kháng cáo của ông Thái, bà Tiết yêu cầu Tòa chấp nhận khởi kiện của ông bà về nội dung này là không có căn cứ. Đối với kháng cáo của ông Thái yêu cầu hủy các Quyết định 141/QD-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 826/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 và Quyết định số 94/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân quận 9 là vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu và các nội dung này ông Thái, bà Tiết chưa khởi kiện ở cấp sơ thẩm do đó không thuộc phạm vi giải quyết của cấp phúc thẩm đề nghị Tòa không xem xét. Từ những ý kiến trên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chi Minh đề nghị xét xử theo hướng bác kháng cáo của ông Thái, bà Tiết và giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Về hình thức: Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2009/HC-ST do Tòa án nhân dân quận 9 xét xử ngày 17/6/2009. Ngày 22/6/2009 ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết là người khởi kiện có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 50.000 đồng theo biên lai thu số 009132 quyển 0183, ngày 23/6/2009 của Thi hành án dân sự quận 9. Đơn kháng cáo, thủ tục trình tự kháng cáo của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết là phù hợp với quy định của Điều 55, khoản 1 Điều 56 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do đó được chấp nhận. Về nội dung kháng cáo: 1. Xét các căn cứ ông Thái, bà Tiết và luật sư trình bày để yêu cầu hủy bản án sơ thẩm là không phù hợp với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính do đó không chấp nhận 2. Đối với kháng cáo của ông Thái và bà Tiết yêu Tòa hủy quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành. Hội đồng xét xử nhận định như sau: Xét Quyết định số 416/QĐ-UBND do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành ngày 17/10/2006 là quyết định có nội dung giải quyết khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang về việc Ủy ban nhân dân quận 9 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 cho ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Do không đồng ý nên ông Thái và bà Tiết đã khiếu nại Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 của Ủy ban nhân dân quận 9 theo quy định của pháp luật và đã được Ủy ban nhân dân quận 9 giải quyết bằng Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007; Ngày 25/12/2007 ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết khởi kiện tại Tòa án yêu cầu xem xét hủy hai Quyết định (nói trên) của Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành và đã được Tòa án thụ lý vụ án ngày 10/01/2008. Ngày 24/10/2008 Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định số 826 thu hồi Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QD-UBND ngày 01/11/2007, cùng ngày Ủy ban quận 9 ban hành quyết định số 141/QD-UBND để giải quyết lại khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang và ban hành Quyết định số 825/QĐ-UBND điểu chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 đã cấp cho ông Thái, bà Tiết. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính quy định “ ... Trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện có quyền rút 1 phần hoặc tòan bộ nội dung đơn kiện, người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định hành chính....” do đó xét thấy việc Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định số826/QD-UBND ngày 24/10/2008 là không trái với quy định pháp luật đã được viện dẫn trên. Xét thấy mặc dù Quyết định hành chính số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 đã được Ủy ban nhân dân quận 9 thu hồi nên không còn giá trị để thực hiện, tuy nhiên theo chứng cứ thể hiện trong hồ sơ và tại phiên Tòa sơ thẩm, ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết xác định giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện, yêu cầu Tòa tuyên hủy đối với hai Quyết định đã khởi kiện do đó căn cứ điểm b mục 6 phần Quyết nghị của Nghị Quyết số 04/2006/HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính, đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25//12/1998 và ngày 05/4/2006 do đó việc Tòa án nhân dân quận 9 tiến hành đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật. Xét thấy tại phiên Tòa phúc thẩm, ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết xác định chỉ yêu cầu Tòa hủy Quyết định 416/QD-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9, do hiện nay hai Quyết định này Ủy ban nhân dân quận 9 đã thu hồi nên không còn tồn tại, ngòai yêu cầu hủy hai quyết định thì ông Thái và bà Tiết không còn yêu cầu nào khác. Do hai Quyết định nói trên không còn tồn tại, nên việc ông Thái, bà Tiết yêu cầu Tòa tuyên hủy đối với đối tượng không còn tồn tại là không cần thiết và không phù hợp pháp luật, án sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Thái và bà Tiết là có căn cứ phù hợp pháp luật. Đối với kháng cáo của ông Thái và bà Tiết có liên quan đến các Quyết định số 141/QĐ -UBND, Quyết định 825/QĐ-UBND và Quyết định 826/QĐ -UBND do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành cùng ngày 24/10/2008 và Quyết định số 94QĐ –UBND là vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, đồng thời các nội dung này ông Thái, bà Tiết xác định chưa khởi kiện tại giai đọan sơ thẩm do đó nội dung kháng cáo này của ông Thái, bà Tiết không thuộc phạm vi giải quyết vụ án của cấp phúc thẩm nên không xem xét. Ý kiến phát biểu đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tại phiên Tòa là phù hợp với nhận xét đánh giá của Hội đồng xét xử. Từ những nhận xét trên, do kháng cáo của ông Thái và bà Tiết không có căn cứ – Không được chấp nhận. Về án phí do án sơ thẩm được giữ nguyên nên ông Thái và bà Tiết phải chịu án phí phúc thẩm, được cấn trừ vào 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã tạm nộp. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 64 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; QUYẾT ĐỊNH Áp dụng điều 29, điểm a khoản 2 điều 64 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; Áp dụng Nghị định Chính phủ số 70/CP ngày 12/6/1997 quy định về án phí, lệ phí Tòa án; 1. Bác kháng cáo của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết yêu cầu hủy quyết định hành chính số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 và Quyết định số 383/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9. 2. Về án phí: Ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết cùng chịu 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) án phí phúc thẩm và 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) án phí sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp theo hai biên lai thu số 009132 quyển 0183, ngày 23/6/2009 và biên lai thu số 000666, quyển 0014 ngày 04/01/2008 của Thi hành án dân sự quận 9 (cả hai biên lai người nộp tiền là ông Vũ Hồng Thái). Ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết đã nộp đủ án phí sơ thẩm và phúc thẩm. 3 Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Tòa án nhân dân quận 9; - Thi hành án dân sự quận 9 ; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Tương Quế Phượng
Số hiệu 244/2009/HC-ST Tiêu đề Khiếu kiện “quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến họat động kinh doanh, tài chính của thương nhân ” Ngày ban hành 13/02/2009 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 244/2009/HC-ST Ngày: 13/02/2009 NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán: Bà Trương Quế Phượng Các Hội Thẩm Nhân Dân: 1. Ông Đặng Trung Tâm 2. Bà Hồ Thị Diệu Hà Thư ký Tòa An ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tiểu Hồng - Kiểm sát viên. Ngày 13 tháng 02 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án khiếu kiện “quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiệnquyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến họat động kinh doanh, tài chính của thương nhân ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 333/2009/QĐXX-HC ngày 05/02/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữa các đương sự: Người khởi kiện: 1. Bà Kwan Po Ping, sinh năm 1947. Có mặt Quốc tịch: Trung Quốc 2. Ông Lui Lik Chee, sinh năm 1970. Quốc tịch: Canada Cùng địa chỉ: 80A Trần Đình Xu, phường Cầu Kho, quận 1 thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lui Lik Chee có đơn đề nghị được xét xử vắng mặt. Người phiên dịch cho người khởi kiện: Ông Lương Quan Thạch, sinh năm 1947, Địa chỉ: 313/2 Nguyễn Trải, phường 7 quận 5 (ông Thạch là người phiên dịch do người khởi kiện tự chọn lựa và được Tòa án chấp nhận). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Lê Thị Minh Nhân – Thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh; Người bị kiện: ........... Sở Kế họach và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. ................................... Địa chỉ: 32 Lê Thánh Tôn, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. ................................... Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: ................................... Ông Hà Hữu Trí; ................................... Chức vụ Phó phòng đăng ký đầu tư doanh nghiệp của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy ủy quyền của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (tên giao dịch Food Center of SaiGon)do ông Trần Mỹ Đãi – Phó Tổng Giám đốc làm đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền của Chủ tịch HĐQT (Giấy ủy quyền không có con dấu do con dấu hiện nay ông Lui Lik Chee đang giữ và đang tranh chấp). Địa chỉ: 393B Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho quận 1. Có mặt. 2. Công ty SXKD & DV 990 Địa chỉ: 214 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Do ông Trần Mỹ Đãi làm đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch HĐQT. Có mặt. 3. Công ty Madarin Hong Kong Do ông Lui Kwong Wah – đại diện. Quốc tịch: Trung quốc (Hong Kong) Địa chỉ 52/22 Cù Lao, phường 2 quận Phú Nhuận; thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc: 3/18 Nơ Trang Long, phường 7 quận Bình Thạnh. Có mặt. Ông Lui Kwong Wah nghe, nói được tiếng Việt và có đại diện ủy quyền tham gia phiên Tòa do đó ông Wah không yêu cầu người phiên dịch. Người đại diện theo ủy quyền của ông Lui Kwong Wah: Ông Trần Trung Dũng, sinh năm 1965. Địa chỉ 177 Trần Phú, phường 4 quận 5. Có mặt. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 24/01/2008 người khởi kiện bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee trình bày yêu cầu và căn cứ pháp lý khởi kiện đối với “hành vi hành chính Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong việc ban hành Giấy xác nhận số 7726/SKHĐTDN ngày 30/11/2007” như sau: 1.1 Nội dung yêu cầu khởi kiện: */. Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping có mối quan hệ là mẹ con., giữa ông và ông Lui Kwong Wah có quan hệ là cha con. Ông là Tổng Giám đốc Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (tên giao dịch là Food Center op Sai Gon) và là ủy viên Hội đồng quản trị trong công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn từ năm 1997 cho đến nay. Bà Kwan Po Ping là ủy viên Hội đồng quản trị liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn ( tên giao dịch Rood Center of Sai Gon). Ngày 01/12/2007 ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping có nhận được bản sao Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT–DN ngày 30/11/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh có nội dung xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị của bên nước ngoài trong Công ty liên doanh. Theo đó Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã xác nhận như sau: “ Bên nước ngoài trong Công ty Liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (Công ty Madarin HongKong) đã cử: 1. Ông Nguyễn Sơn Trà (sinh ngày 16/12/1941; quốc tịch Việt Nam; chứng minh nhân dân số 020077493 cấp ngày 07/6/1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ thường trú tại số 105, đường 3 tháng 2, phường 11 quận 10 thành phố Hồ Chí Minh) và 2. Bà Thái Thị Cẩm Tú ( sinh ngày 06/12/1972; quốc tịch Việt Nam; chưng minh nhân dân số 022254857 cấp ngày 24/3/1995 tại thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ thường trú tại số 5/41A Nơ Trang Long, phường 7 quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ) Thay thế 1. Ông Lui Lik Chee 2. Bà Kwan Po Ping Làm thành viên Hội đồng quản trị của Công ty Liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn”. Sau khi nhận được Giấy xác nhận nói trên ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping không đồng ý do Giấy xác nhận đã đương nhiên chấm dứt tư cách thành viên Hội đồng quản trị Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn của ông, bà và như vậy cũng mặc nhiên làm chấm dứt các quyền lợi của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping trong khi không có thông qua các hình thức, trình tự , thủ tục đã được quy định trong Điều lệ liên doanh, theo pháp luật về đầu tư . Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping cho rằng Giấy xác nhận của Sở Kế họach và Đầu tư đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình nên đã thực hiện quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật đối với hành vi trên của Sở Kế họach và Đầu tư. Theo người khởi kiện trình bày, từ khi nộp đơn khiếu nại đã quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật nhưng Sở Kế họach và Đầu tư không giải quyết đơn khiếu nại theo quy định tại điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo. Do đó ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã gửi đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu hủy Giấy xác nhận 7726/SKHĐT – DN ngày 30/11/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh Ngày 28/02/2008 ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping nộp đơn khiếu kiện với nội dung “ khiếu kiện Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế họach và Đầu tư “ . Đơn khiếu kiện có nội dung như sau: */. Ngày 25/12/2007, ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping lại tiếp tục nhận được Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN về việc xác nhận Hội đồng quản trị và Ban điều hành của Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn . Giấy có nội dung như sau : Xác nhận: Hội đồng quản trị: 1. Chủ tịch : Ông Dương Ngọc Cứ 2. Phó chủ tịch : Ông Lui Kwong Wah 3. Ủy viên : Ông Phạm Văn Khước 4. Ủy viên : Bà Thái Thị Cẩm Tú 5. Ủy viên : Ông Nguyễn Sơn Trà Ban Điều hành: 1. Tổng Giám đốc : Ông Lui Kwong Wah 2. Phó Tổng Giám đốc : Ông Trần Mỹ Đãi Giấy xác nhận này thay thế các Giấy xác nhận số 1732/GXN-KHĐT ngày 08/5/2003 và số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 của Sở Kế họach và Đầu tư và có Giá trị pháp lý để Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn thuận tiện trong quan hệ giao dịch với các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý của Nhà nước Việt Nam. Không đồng ý với nội dung của Giấy xác nhận 8206 (nói trên) nên ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã tiếp tục làm đơn khiếu nại; Tuy nhiên cũng như lần khiếu nại trước ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping cũng không được Sở Kế họach và Đầu tư giải quyết đơn khiếu nại theo quy định của luật Khiếu nại, Tố cáo. Do đó ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã gửi đơn khiếu kiện đến Tòa án yêu cầu hủy Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh. Tại phiên Tòa hôm nay ông Lui Lik Chee vắng mặt , tuy nhiên theo đơn xin vắng mặt của ông Chee , ông giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện, bà Kwan Po Ping giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện. Bà Kwan Po Ping trình bày tuy rằng Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ban hành ngày 21/12/2007 có nội dung thay thế Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT- DN ngày 30/11/2007 tuy nhiên do người bị kiện trình bày căn cứ vào Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2006 đã xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị bên nước ngoài của ông Nguyễn Sơn Trà và bà Thái Thị Cẩm Tú do đó các cuộc họp của Hội đồng quản trị được hai thành viên này tham gia ngày 03/ 12/2007, ngày 18/12/2007 (các cuộc họp làm căn cứ để Sở ban hành Giấy xác nhận 8206 ngày 21/12/2007) là có căn cứ đúng thành phần. Do đó giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện đối với Giấy xác nhận 7726 mặc dù Giấy xác nhận này đã được Giấy xác nhận 8206 thay thế. Ngày 12/02/2008 người khởi kiện nộp đơn bổ sung yêu cầu Tòa triệu tập cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và chấp hành viên thuộc cơ quan Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc đã phát hành văn bản số 849/THA ngày 16/11/2006 ( do người bị kiện đã xác định trong các văn bản tại hồ sơ và tại phiên tòa công văn 849 là 1 trong những căn cứ có tính quyết định để Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành hai Giấy xác nhận). Người khởi kiện cho rằng công văn số 849/THA nói trên đã ban hành hoàn toàn trái với nội dung Quyết định 20/06 ngày 30/12/2006 của Hội đồng trọng tài quốc tế Việt Nam và đã vượt thẩm quyền theo pháp lệnh thi hành án, văn bản này đã làm thiệt hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện tuy nhiên bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee xác định trong phạm vi vụ kiện này chưa có yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành vi hành chính của Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong việc ban hành hai Giấy xác nhận nói trên , đồng thời chưa có yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với việc chấp hành viên đã ban hành văn bản 849/THA ngày 16/11/2006. 1.2 Căn cứ pháp lý : Người khởi kiện và luật sư trình bày căn cứ pháp lý để yêu cầu hủy hai giấy xác nhận trên như sau: */. Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành vi phạm cả về hình thức lẫn nội dung. Theo luật sư: Về thẩm quyền ban hành: Căn cứ vào luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư và cả văn bản số9087/BKH-KCN-KCX ngày 07/12/2006 của Bộ kế họach và Đầu tư không có nội dung nào quy định Sở kế họach và đầu tư có thẩm quyền ban hành Giấy xác nhận để thay thế tư cách thành viên của công ty. Trong văn bản của Bộ kế họach và đầu tư khi trả lời một số câu hỏi liên quan đến luật Đầu tư và luật Doanh nghiệp đã xác định rỏ “ luật doanh nghiệp và luật đầu tư không có quy định tuy nhiên trong những trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của doanh nghiệp về việc xác định tư cách chủ chốt của doanh nghiệp để thực hiện các công việc như : khắc dấu, thuê nhà.... thì Sở xác nhận”, do đó việc xác nhận của Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh là vi phạm về thẩm quyền ban hành. *./ Về nội dung: Các căn cứ được Sở kế họach và đầu tư viện dẫn làm cơ sở pháp lý cho việc ban hành thì những căn cứ này là trái pháp luật – cụ thể như sau: a) Đối với Quyết định Trọng tài vụ kiện số 20/06 ngày 30/12/2006 của Trọng Tài Việt Nam là vi phạm pháp luật do: - Thỏa thuận trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật, vi phạm khoản 2, 3, 4 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vì: - Ngay từ khi thành lập Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn, Công ty Madarin HongKong đã ngưng họat động từ trước đó 330 ngày (điều này đã được ông Lui Kwong Wah thừa nhận trong đơn kiện), như vậy ông Lui Kwong Wah không còn đủ tư cách để khởi kiện theo tài phán Trọng tài; - Thực tế việc góp vốn của bên nước ngoài tại Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn ( công ty Madarin HongKong) gồm có 05 người theo biên bản xác nhận góp vốn của công ty Madarin HongKọng tại Công ty liên doanh, biên bản có chữ ký của ông Lui Kwong Wah ngày 14/02/2000; cả 05 người góp vốn đều không có ủy quyền cho ông Lui Kwong Wah kiện, thay thế các thành viên Hội đồng quản trị tham gia tố tụng trọng tài; - Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tố tụng trọng tài khi không mời ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping tham gia tố tụng trọng tài với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Không gửi quyết định trọng tài cho ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping; - Bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee là những người tham gia góp vốn vào công ty liên doanh do đó bà Po Ping và ông Lik Chee không chấp nhận việc ông Lui Kwong Wah tự nhận mình là chủ sổ hữu duy nhất của công ty Madarin HongKong do đó ông Lui Kwong Wah không có quyền tự ý đơn phương thay thế hai thành viên hội đồng quản trị bên nước ngoài trong công ty liên doanh. Hiện nay bà Po Ping và ông Lui Lik Chee đã có đơn gửi đến các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam để yêu cầu xem xét, hiện nay Bộ Kế họach và Đầu tư đã có văn bản gửi cho Bộ Tư pháp, Tòa án Tối cao và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam để xem xét. Đồng thời hiện nay vụ án bà Po Ping và ông Lui Lik Chee khởi kiện ông Lui Kwong Wah về việc tranh chấp tiền vay, tiền góp vốn tại Công ty liên doanh Nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn đã được Tòa án Tối cao Đặc khu hành chính HồngKong thụ lý giải quyết (lý do chưa giải quyết được vì triệu tập nhiều lần nhưng ông Lui Kwong Wah vắng mặt) b) Văn bản số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh, được Sở Kế hoạch và đầu tư cho rằng căn cứ để Sở ban hành hai Giấy xác nhận là trái với pháp lệnh thi hành án dân sự do nội dung của Văn bản này không đúng (vượt), không có trong nội dung của Quyết định Trọng tài vụ kiện 20/06 ngày 30/12/2006 và công văn này ban hành không có căn cứ khi Hội đồng quản trị Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn chưa tiến hành các cuôc họp theo đúng trình tự, thủ tục đã được quy định theo Điều 8 của Điều lệ liên doanh. c) Việc Sở Kế hoạch và Đầu tư căn cứ vào Văn bản đề nghị số 63/07 ngày 03/12/2007 và hồ sơ đính kèm nộp ngày 05/12/2007, ngày 10/12/2007 ngày 21/12/2007 của Công ty Liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn là những văn bản bất hợp pháp do công ty Madarin Hong Kong đã chấm dứt tồn tại từ ngày 02/7/1991 thì không thể nào có văn bản đề nghị số 10/07 ngày 05/11/2007 và hồ sơ đính kèm nộp ngày 07/11/2007 của công ty Madarin; còn công ty Madarin Hong Kong do ông Lui Kwong Wah mới đăng ký lại vào năm 2007 thì đăng ký sau ngày phát hành những văn bản này, đồng thời đây không phải là công ty Madarin HongKong tham gia giải quyết theo tố tụng trọng tài. Từ những căn cứ trên ông Lui Lik Chee và bà Kwong Po Ping và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện yêu cầu Tòa hủy hai Giấy xác nhận Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã xác nhận. Về phía người bị kiện - Ông Hà Hữu Trí đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên hai Giấy xác nhận đã ban hành mà phía người khởi kiện đã khởi kiện. Về căn cứ pháp lý để ban hành hai Giấy xác nhận này, đã được Sở xác định theo văn bản 1996/SKHĐT-DN ngày 08/4/2008 gửi cho Tòa án thành phố Hồ Chí Minh do đó tại phiên Tòa, đại diện người bị kiện chỉ trình bày bổ sung 1 số ý kiến như sau: - Sở Kế họach và đầu tư thừa nhận khi nhận được đơn khiếu nại của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping về hai Giấy xác nhận do Sở ban hành nhưng Sở chậm giải quyết đơn khiếu nại theo quy định của luật Khiếu nại và Tố cáo là thiếu sót, thiếu sót này do nguyên nhân khách quan vì công việc nhiều, biên chế giải quyết công việc thì ít, thời gian giải quyết khiếu nại lại nhanh. Tuy không ban hành văn bản giải quyết khiếu nại cho ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping, nhưng khi nhận được đơn khiếu nại Sở đã có làm việc, tiếp xúc với người khiếu nại để nghe ý kiến của người khiếu nại đồng thời Sở cũng tạo điều kiện trao đổi thông tin, cung cấp cho người khiếu nại những vấn đề có liên quan trong việc ban hành hai Giấy xác nhận; - Hai Giấy xác nhận được Sở ban hành chỉ có ý nghĩa xác nhận thành phần cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp theo đề nghị của doanh nghiệp. Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 đã xác định tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành Công ty liên doanh do đó có nội dung thay thế Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận số 1732/GXN-KHĐT ngày 08/5/2003, Giấy xác nhận 7726 chỉ có nội dung thay thế hai thành viên của HĐQT ( không thay đổi tất cả thành viên theo Giấy xác nhận 1732) do đó chỉ có thành viên nào được ghi trong Giấy xác nhận 7726 mới bị thay đổi, các thành viên còn lại của Giấy xác nhận 1732 thì vẫn giữ nguyên, không thay đổi do đó Giấy xác nhận 7726 không nhất thiết phải ghi “ Giấy này thay thế Giấy 1732 ngày 08/5/2003. Việc luật sư lập luận cho rằng Giấy xác nhận 7726 không ghi Giấy này thay thế Giấy xác nhận 1732 như vậy Giấy xác nhận 1732 vẫn còn hiệu lực tồn tại và như vậy tư cách của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping vẫn còn tồn tại là không đúng. - Khi Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 là căn cứ vào văn bản số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh. Theo Sở thì văn bản này là điều kiện đủ để ban hành Giấy xác nhận. Khi ban hành Sở chỉ căn cứ vào nội dung của công văn 849 để thực hiện – Sở không yêu cầu hồ sơ xác nhận phải có biên bản Hội đồng quản trị Công ty liên doanh ăn uống Sài Gòn theo như trình tự, thủ tục đã được quy định tại Điều 8 của Điều lệ liên doanh vì Sở nghĩ rằng yêu cầu cũng không thể thực hiện được do ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping là hai người bị thay thế sẽ không hợp tác thực hiện, thực tế trước khi ban hành Giấy xác nhận, qua công tác quản lý thì Sở cũng đã có nhiều thông tin về sự mâu thuẫn, tranh chấp về vốn, địa vị pháp lý của Bên nước ngoài trong Công ty liên doanh. - Căn cứ pháp lý để Sở ban hành Giấy xác nhận 8206 được căn cứ vào các biên bản Hội đồng quản trị công ty liên doanh đã họp ngày 03/12/2007, ngày 18/12/2007 và đã có nội dung thống nhất 100% thay đổi hai thành viên Hội đồng quản trị, thay đổi Tổng Giám đốc. Đại diện người bị kiện giải thích rằng do Giấy xác nhận 7726 ngày 30/11/2007 đã xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị của ông Nguyễn Sơn Trà và bà Thái Thị Cẩm Tú do đó sự tham gia của ông Trà, bà Tú với tư cách thành viên Hội đồng quản trị theo biên bản họp ngày 03/12/2008 và 18/12/2008 là phù hợp với quy định tại Điều 8 Điều lệ liên doanh về trình tự, thủ tục. - Do ông Lui Kwong Wah có nộp cho Sở kế họach và đầu tư tờ cam kết tuyên thệ của ông có chứng nhận của Tòa án Tối cao Hong Kong để xác định ông là chủ sở hữu duy nhất của Công ty Madarin HongKong – do đó Sở mới chấp nhận đề nghị của ông Wah để ban hành Giấy xác nhận. -Các quyết định số 1787/2007/QĐST-KDTM ngày 25/9/2007 và số 970/2007/QĐST-KIDM ngày 13/6/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định số137/2007/QĐPT-KDTM ngày 26/12/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh;. Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan trình bày : Đại diện Công ty Liên doanh Nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn và đại diện Công ty 990 ( ông Trần Mỹ Đãi) trình bày như sau : - Công ty liên doanh (bên Việt Nam) chỉ chấp nhận việc thay đổi thành viên của Hội đồng quản trị bên nước ngoài khi việc thay đổi được thực hiện đúng trình tự, thủ tục do pháp luật và điều lệ liên doanh đã quy định theo nguyên tắc: “ là người của bên nào thì bên đó có quyền thay đổi; nếu có lý do chính đáng; không làm ảnh hưởng đến họat động của công ty”. Việc Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành hai Giấy xác nhận (nói trên ) là không có căn cứ do: - Việc thay thế không được tiến hành đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật và điều lệ liên doanh quy định, cụ thể theo điều 8 Điều lệ liên doanh thì việc thay thế thành viên Hội đồng quản trị (ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping) phải được 2/3 thành viên Hội đồng quản trị chấp nhận, thay thế Tổng Giám đốc phải 100% thành viên Hội đồng quản trị chấp nhận. Tại biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 10/7/2007, chỉ có ý kiến cá nhân của ông Lui Kwong Wah, các thành viên khác không có ý kiến – Ngoài cuộc họp này, Hội đồng quản trị không có cuộc họp nào khác do đó việc Sở ban hành Giấy xác nhận 7726 là không có căn cứ đúng trình tự, thủ tục đã được Điều lệ liên doanh (vẫn còn hiệu lực thực hiện) quy định – do đó Giấy xác nhận 7726 ban hành trái pháp luật. (Không thể chấp nhận lý giải của Người bị kiện là bỏ qua yếu tố này vì không thể nào tiến hành họp được theo Điều 8 Điều lệ liên doanh vì người khởi kiện chắc chắn không đồng ý); - Việc đề nghị thay đổi của bên nước ngoài là không thể thực hiện được do không thỏa mãn điều kiện “không làm ảnh hưởng đến họat động công ty”. Trước khi Sở ban hành Giấy xác nhận, Sở Kế họach và đầu tư đã có rất nhiều thông tin để có căn cứ xác định rằng “Bên nước ngoài đang có mâu thuẫn gay gắt, nghiêm trọng trong nội bộ về vấn đề vốn góp, địa vị pháp lý trong công ty” do đó khi mâu thuẩn này chưa được giải quyết thì không nên thay đổi mà duy trì hiện trạng và giải quyết dứt điểm mâu thuẫn. Sau khi Sở ban hành Giấy xác nhận, lợi dụng việc này bên nước ngoài đã bán toàn bộ tài sản, không thanh tóan lương, các quyền lợi cho những người trong công ty ...công ty không họat động được do không có dấu ... Chính việc Sở ban hành Giấy xác nhận đã làm cho mâu thuẫn thêm gay gắt, kéo theo những tổn thất thiệt hại của 1 bên liên doanh là Việt Nam, tuy nhiên trong vụ kiện này với tư cách đại diện cho công ty 990 và 1 bên liên doanh, ông Đãi xác định có khả năng sẽ khởi kiện đối với những quyền lợi bị thiệt hại trong vụ kiện khác. - Các biên bản họp ngày 03/12/2007 và 18/12/2007 có sự tham gia của ông Nguyễn Sơn Trà và bà Thái Thị Cẩm Tú, theo ông Đãi không có giá trị thực hiện vì Điều 8 Điều lệ liên doanh “thành phần HĐQT tham gia cuộc họp” là thành viên của Hội đồng quản trị đương nhiệm (trước khi thay đổi). Ông Đãi trình bày các cuộc họp này không có giá trị thực hiện vì khi họp không có sự thống nhất, tự nguyện mà do áp lực của bên nước ngoài. - Ông Đãi xác định căn cứ vào các tài liệu về việc góp vốn của bà PoPing có chứng kiến của Công ty liên doanh, các phiếu thu tiền góp vốn được thể hiện trong hồsơ, dấu của công ty liên doanh, chữ ký của ông Chủ tịch Hội đồng quản trị, người lập phiếu thu là hòan tòan đúng. - Công ty Madarin HongKong đã ngưng họat động trước ngày chính thức ký hợp đồng liên doanh nên không có quyền áp đặt thay người; Công ty 99 xác định ông Lui Kwong Wah không phải là chủ sở hữu duy nhất của công ty Madarin HongKong vì việc ông Lui Kwong Wah chuyển nhượng vốn cho bà Kwan Po Ping có sự xác nhận cửa công ty 990, đồng thời việc ông Lui Kwong Wah cho rằng ông là chủ sở hữu duy nhất là trái với các tài liệu do chính ông đã xác lập (văn bản ngày 09/9/1995 và biên bản xác nhận góp vốn lập ngày 14/02/2000 gồm có 05 thành viên); - Ông Đãi trình bày thêm quyết định hòa giỉai thành trọng tài không rỏ ràng nhưng Sở kế họach đầu tư không yêu cầu những người tham gia tố tụng trọng tài hay cơ quan trọng tài giải thích lại lấy làm căn cứ là thiếu cơ sở, trong quyết định này không xác định thay đổi thành viên Hội đồng quản trị là ai ? cũng không có nội dung thay đổi Tổng Giám đốc do đó việc Sở kế họach đầu tư và chấp hành viên ban hành công văn 849 cho rằng căn cứ Quyết định hòa giải thành trọng tài để ban hành Giấy xác nhận là chủ quan, duy ý chí, áp đặt và trái với quyết định trọng tài. Từ những nội dung trên với tư cách đại diện cho Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn và Công ty 990, ông Trần Mỹ Đãi yêu cầu Tòa hủy hai giấy xác nhận của Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành. Khôi phục lại tình trạng ban đầu của Công ty liên doanh. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lui Kwong Wah trình bày: Giấy xác nhận của Sở kế họach và đầu tư ban hành là có căn cứ đúng pháp luật – đề nghị giữ nguyên. Những căn cứ đó như sau: - Ông Lui Kwong Wah là chủ sở hữu duy nhất của Công ty Madarin Hong Kong, theo cam kết tuyên thệ của ông Wah được Tòa án tối cao Hong Kong xác nhận đúng theo pháp luật quốc tế do đó ông Lui Kwong Wah là chủ sở hữu tài sản duy nhất, thì ông Wah có quyền chỉ định thay đổi thành viên Hội đồng quản trị của bên nước ngoài, điều này không trái với pháp luật quốc tế; - Bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee không có đóng góp vốn vào công ty Madarin Hong Kong nên không có tư cách gì trong công ty này. Khi ông Lui Kwong Wah ký tên xác nhận phần vốn của công ty Madarin HongKong trong Công ty Food Center or Sai Gon gồm có 05 người, trong đó có phần vốn góp của bà Po Ping và ông Lui Lik Chee theo văn bản lập ngày 14/02/2000 là do ông Wah bị áp lực của bà Ping. Do đó nay ông Wah đã có thư công bố hủy bỏ việc xác nhận góp vốn này. Đối với văn bản do ông Wah lập ngày 09/9/1995 xác định ông và bà Kwan Po Ping là đồng sở hữu trong Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn là do ông Wah nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, còn trong thực tế bà Po Ping không đóng góp tiền vốn gì cả. Việc ông Wah là chủ sơ hữu duy nhất nên khi bà Po Ping, ông Lui Lik Chee tham gia Hội đồng quản trị là do ông Wah chỉ định cho đủ số lượng người, ông Chee và bà Po Ping không tham gia với tư cách thành viên góp vốn vì các tài liệu hợp đồng khi thành lập liên doanh, ngay từ đầu chỉ có 1 mình ông Wah đứng ra giao dịch với bên Việt Nam, không có sự tham gia nào của bà Po Ping và ông Chee; - Theo pháp luật quốc tế thì Công ty Madarin Hong Kong có thể ngưng hoạt động trong nước để tham gia đầu tư ở nước ngoài, do đó viêc công ty Madarin Hong Kong, ngưng họat động từ năm 1992 không có nghĩa là công ty phá sản hay giải thể, do đó tư cách của công ty Madarin Hong Kong vẫn còn tồn tại. - Hợp đồng chuyển nhượng vốn, tuy được công ty liên doanh thừa nhận và ông Lui Kwong Wah cũng thừa nhận là có thực nhưng không có giá trị vì hợp đồng không có ghi ngày tháng, không có ghi số tiền vốn chuyển nhượng, hợp đồng này chỉ làm trên danh nghĩa mà thôi. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên Tòa có ý kến về vụ kiện như sau: Đơn khởi kiện của ông Lui Lik Chee và bà Po Ping làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định của pháp luật . Tòa án thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết là đúng theo thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 12, khoản 6 Điều 11, Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. Về nội dung khởi kiện, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Về thẩm quyền tuy pháp luật không có quy định tuy nhiên căn cứ vào ý kiến của Bộ Kế họach và Đầu tư tại công văn số 9087/BKH-KCN&KCX ngày 07/12/2006 thì việc ban hành Giấy xác nhận của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh là đúng thẩm quyền; Về nội dung: Xét việc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và công văn số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh xác nhận ông Nguyễn Sơn Trà, bà Thái Thị Cẩm Tú là thành viên Hội đồng quản trị (bên nước ngoài) thay thế cho ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping tuy ông Trà, bà Tú không tham gia góp vốn vào bên nước ngoài nhưng do ông Lui Kwong Wah là chủ sở hữu duy nhất (bên nước ngoài) nên việc chỉ định thay thế là không trái với Điều 22 Điều lệ liên doanh. Tuy công ty Madarin Hong Kong không còn họat động từ năm 1991 – 1992 tại Hong Kong nhưng thực tế vẫn họat động tại Việt Nam với 1 thành viên chủ sở hữu duy nhất là ông Lui Kwong Wah. Năm 2007 công ty Madarin Hong Kong do ông Wah làm chủ đã đăng ký họat động lại, được Nhà nước chấp nhận do đó ông Wah có quyền chỉ định thay người. Đối với giấy xác nhận 8206 – Căn cứ vào các biên bản họp Hội đồng quản trị Công ty liên doanh ngày 03/12/2007 và 18/12/2007 với thành viên Hội đồng quản trị 05 người (Việt Nam hai người – bên nước ngoài ba người gồm ông Wah, bà Tú, ông Trà là người mới được thay đổi theo Giấy xác nhận 7726 ngày 30/11/2007) các biên bản thể hiện có sự thống nhất 100% trong Hội đồng quản trị, do đó việc Sở căn cứ vào các biên bản này để ban hành Giấy xác nhận 8206 là phù hợp với Điều lệ liên doanh. Từ những ý kiến trên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện về việc Hủy hai Giấy xác nhận do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành. Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên Tòa; Sau khi nghe các bên đương sự và luật sư trình bày các ý kiến tranh luận; Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án; XÉT THẤY Xét thấy tại phiên Tòa, ông Lui Lik Chee, người khởi kiện đã được Tòa triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt. Bà Kwan Po Ping là mẹ của ông Lui Lik Chee và đồng là người khởi kiện trình bày do ông Lui Lik Chee có công việc nên không thể đến tham gia phiên Tòa theo triệu tập, bà Kwan Po Ping, đề nghị Tòa tiến hành xét xử vắng mặt ông Lui Lik Chee theo đơn của ông Lui Lik Chee. Xét thấy ông Lui Lik Chee đã có các bản khai, trình bày đầy đủ về các yêu cầu khởi kiện của mình. Việc vắng mặt của ông Lui Lik Chee không làm ảnh hưởng đến việc xem xét yêu cầu khởi kiện của ông, các đương sự khác trong vụ kiện không có ý kiến gì về sự vắng mặt của ông Lui Lik Chee do đó căn cứ điểm a khoản 5 Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006) Tòa tiến hành xét xử vắng mặt ông Lui Lik Chee là có căn cứ đúng pháp luật. Xét tại phiên Tòa bà Kwan Po Ping, quốc tịch Trung quốc có nhờ ông Lương Quan Thạch làm người phiên dịch cho bà, việc ông Thạch tham gia phiên Tòa với tư cách là người phiên dịch cho bà Po Ping các đương sự khác trong vụ kiện không có ý kiến. Căn cứ Điều 7 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (2006) có quy địnhtiếng nói, chữ viết dùng trong qúa trình giải quyết vụ án hành chính là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình và căn cứ khoản 1, 2 Điều 26 Pháp lệnh. Tòa chấp nhận tư cách tham gia tố tụng của ông Lương Quan Thạch là phù hợp với quy định của pháp lệnh. Xét thấy Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành có nội dung “quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến họat động kinh doanh, tài chính của thương nhân, hai Giấy xác nhận (nói trên ) được xác định là hành vi hành chính lần đầu , là lọai quyết định, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính được quy định tại khoản 6 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006. Xét 02 Giấy xác nhận nói trên, ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã thực hiện quyền khiếu nại theo quy định tại Điều 31 luật Khiếu nại, Tố cáo tuy nhiên Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết đơn khiếu nại theo quy định tại Điều 36 luật Khiếu nại, Tố cáo; Căn cứ vào biên nhận nhận “đơn khiếu nại” của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Lui Lik Che và bà Kwan Po Ping. Tại phiên Tòa , đại diện người bị kiện xác định việc không giải quyết khiếu nại là có thực. Do đó căn cứ điểm a khoản 1 điều 2, khoản 6 Điều 11 , điểm c khoản 2 Điều 12 và điểm a khoản 2 điều 30 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã sửa đổi, bổ sung năm 2006) đơn khiếu kiện vụ án hành chính của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã làm trong thời hạn, đúng trình tự, thủ tục, và đúng thẩm quyền đã pháp luật được quy định. Xét tại phiên Tòa người khởi kiện và người bị kiện đều xác định tại Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007, có nội dung thay thế Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007. Qua thừa nhận của hai bên đã thể hiện Giấy xác nhận 7726 vào thời điểm ngày 21/12/2007 không còn hiệu lực tồn tại do đã bị thay thế. Tuy nhiên tại phiên Tòa, sau khi được giải thích, bà Kwan Po Ping vẫn giữ nguyên khởi kiện yêu cầu Tòa hủy Giấy xác nhận số 7726. Đồng thời đại diện của người bị kiện xác định, thừa nhận từ Giấy xác nhận 7726 là căn cứ tiếp theo để người bị kiện ban hành Giấy xác nhận 8206. Do đó căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b mục 6 của Nghị quyết04/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25/12/1998 và ngày 05/42006 Tòa tiếp tục giải quyết các yêu cầu khởi kiện theo thủ tục chung. Xét tại phiên Tòa và theo đơn ngày 12/02/2008 người khởi kiện nộp đơn bổ sung yêu cầu Tòa triệu tập cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và chấp hành viên thuộc cơ quan Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc đã phát hành văn bản số 849/THA ngày 16/11/2006 tuy nhiên tại phiên Tòa bà Kwan Po Ping xác định trong vụ kiện này bà không có yêu cầu bồi thường thiệt hại dân sự do công văn số 849/THA gây ra cho bà. Do đó trong phạm vi xem xét yêu cầu khởi kiện của Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee không cần thiết phải triệu tập, tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và chấp hành viên. · Nhận xét của Hội đồng xet xử về thẩm quyền ban hành Giấy xác nhận của Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh: Căn cứ Mục 6 Công văn số 9087/BKH-KCN&KCX ngày 07/12/2006 của Bộ Kế họach và Đầu tư có nội dung như sau: “Pháp luật về Đầu tư và Pháp luật về doanh nghiệp không quy định doanh nghiệp phải đăng ký nhân sự chủ chốt. Tuy nhiên do các pháp luật khác yêu cầu phải có xác nhận thì mới làm các thủ tục liên quan như khắc dấu, làm visa… Nếu nhà đầu tư có nhu cầu thì Sở Kế họach và Đầu tư hoặc Ban quản lý Khu công nghiệp cần xác nhận cho nhà đầu tư” do vậy việc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành hai Giấy xác nhận (nói trên) là đúng thẩm quyền đã được quy định; - Nhận xét của Hội đồng xét xử về các căn cứ pháp lý được người bị kiện áp dụng để ban hành hai Giấy xác nhận bị khiếu kiện: a) Xét tại phiên Tòa đại diện của người bị kiện cho rằng 1 trong các căn cứ pháp lý để Sở ban hành 2 Giấy xác nhận nói trên chính là do Quyết định công nhận Hòa giải thành của Hội Đồng Trọng Tài vụ kiện 20/06 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đính kèm biên bản hòa giải thành vụ tranh chấp số 20/06 giữa Công ty Madarin Hong Kong và Công ty 990 (điều kiện cần) và công văn số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh về việc thi hành quyết định Trọng tài (điều kiện đủ). Tuy nhiên sau khi Tòa đối chiếu nội dung của công văn 849/THA ngày 16/11/2007 với nội dung của Quyết định hòa giải thành ngày 30/11/2006 (kèm theo biên bản hòa giải thành) thì tại Quyết định hòa giải thành và biên bản hòa giải thành đều không có nội dung “ xác định thay thế thành viên cụ thể nào của Hội đồng quản trị bên nước ngoài và cũng không có nội dung thay thế Tổng Giám đốc Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn” do đó việc Sở kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cho rằng đã căn cứ vào hai văn bản này để ban hành hai Giấy xác nhận là không có cơ sở. b) Ngoài ra đại diện người bị kiện cho rằng do công ty Madarin Hong Kong ( ông Lui Kwong Wah) là chủ sở hữu duy nhất bên nước ngoài ( theo tuyên thệ của ông Wah có chứng nhận của Tòa án tối cao tại Hong Kong và Ma Cao) nên ông Wah có quyền chỉ định thành viên trong Hội đồng quản trị (bên nước ngoài). Xét thấy trình bày này của đại diện người bị kiện là không có cơ sở khi người bị kiện chỉ căn cứ duy nhất vào bản tuyên thệ của ông Wah trong khi qua thừa nhận của đại diện người bị kiện thì trước khi ban hành Giấy xác nhận , người bị kiện đã có nhiều thông tin, nhiều tài liệu về việc cần phải xem xét lại tư cách chủ sở hữu duy nhất của ông Lui Kwong Wah, và những tài liệu này là có cơ sở tin cây do được chính ông Lui Kwong Wah tự mình xác lập , cụ thể như: - Văn bản ông Lui Kwong Wah lập ngày 09/9/1995 để gửi cho Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, giám đốc công ty 990 có nội dung : “ ..Mọi vấn đề pháp lý và thực tế hiển nhiên là bên chủ đầu tư nước ngoài, công ty Madarin Hong Kong là 1 công ty sở hữu duy nhất (sole proprietorship) . Theo luật pháp Hong Kong và theo thiển ý , cũng theo luật pháp Việt nam, tôi và vợ tôi, bà Kwan Po Ping là đồng sở hữu chủ công ty Madarin và hệ qủa tất nhiên là chúng tôi đều là đồng sở hữu trong Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn” “Hợp đồng sang nhượng cổ phần lập ngày 08/4/1995 giữa ông Lui Kwong Wah và bà Kwan Po Ping có sự xác nhận của công ty 990, công ty liên doanh- kèm theo các phiếu thu có nội dung – kể từ ngày 08/4/1995 bà Kwan Po Ping có 31,5% cổ phần trong Công ty liên doanh ( tức 45 % vốn góp của phía nước ngoài ) Ông Lui Kwong Wah phải giúp bà Kwan Po Ping hòan tất thủ tục sang nhượng cổ phần với các cơ quan, chính quyền Việt Nam cho tới khi bà Kwan Po Ping có tên trong Giấy phép đầu tư.” Và tại biên bản xác nhận góp vốn phần của Madarin Hong Kong trong công ty liên doanh Nhà hàng ăn uống Sài Gòn (Food Center or SaiGon) lập ngày 14/02/2000 có chữ ký của 05 thành viên gồm ông Lui Kwong Wah, bà Kwan Po Ping, ông Lui Lik Chee, ông Lai Tai, ông Lee Bing đã xác định số tiền Madarin Hong Kong gốp vốn đầu tư trong Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn tại thành phố Hồ Chí Minh là của 05 thành viên ( có tên kể trên); c) Mặt khác qua thừa nhận của người khởi kiện cũng như của ông Lui Kwong Wah thì hiện nay việc tranh chấp trong nội bộ bên nước ngoài về vốn góp trong công ty Madarin HongKong, về khoản tiền vay mượn giữa ông Lui Kwong Wah và bà Kwan Po Ping và các tranh chấp nội bộ giữa hai bên Tòa án Tối cao đặc khu Hong Kong đang thụ lý thụ lý giải quyết (sau khi Tòa án tại Việt Nam đình chỉ vụ án không giải quyết do không thuộc thẩm quyền) , do đó xét thấy tại phiên Tòa , tuy rằng ông Lui Kwong Wah và đại diện theo ủy quyền của ông Wah có trình bày việc ông Lui Kwong Wah đã có thư công bố ngày 15/12/2005 để hủy bỏ thư công bố ngày 06/9/2001, và các tài liệu trước đây ông xác lập có nội dung xác định tư cách đồng sở hữu của bà Kwan Po Ping, ông Lui Lik Chee..., ông Wah cho rằng các tài liệu nêu trên do ông xác lập không còn hiệu lực trong khi bà Kwan Po Ping, ông Lui Lik Chee không thừa nhận nên thư công bố của ông Lui Kwong Wah chỉ là hành vi đơn phương nên không thể xem thư công bố của ông là có giá trị để từ đó xác định ông là chủ sở hữu duy nhất của Công ty Madarin Hong Kong. d) Xét thấy tại phiên Tòa, ông Lui Kwong Wah và đại diện theo ủy quyền của ông trình bày theo luật pháp quốc tế thì doanh nghiệp có thể ngưng họat động trong nước để đầu tư ra nước ngoài, trình bày này của đại diện ông Wah nhằm xác định công ty Madarin Hong Kong hiện nay vẫn còn tồn tại là không có cơ sở vì không phù hợp với mục A.1 Phần thứ hai – Kết quả thanh tra (trang 3) và mục A. I, II Kết luận (trang 18) của Kết luận thanh tra số 7392/KLĐT-TTr ngày 16/11/2007 của Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh về tình hình họat động kinh doanh của Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (Đòan thanh tra theo Quyết định số 094/QĐ-SKHĐT ngày 30/5/2007) đồng thời cũng không phù hợp với văn bản của Cục Thuế vụ gửi cho ông Wah ngày 20/02/2004 (được ông Lui Kwong Wah thừa nhận), văn bản có nội dung “do Công ty Madarin (Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số : 0636577-000) vào ngày 02 tháng 7 năm 1991, vì doanh nghiệp này đã ngừng họat động kinh doanh hơn 10 năm. Căn cứ theo Điều 4(4) “Quy định đăng ký kinh doanh” chúng tôi đã xóa bỏ dữ liệu của công ty này trong sổ đăng ký kinh doanh. Vì vậy chúng tôi không thể đáp ứng yêu cầu của ông căn cứ theo Điều 19 “Quy định đăng ký kinh doanh” cấp giấy chứng nhận kiểm tra và phó bản Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp này, hoặc trích lục dữ liệu từ sổ đăng ký”. e) Xét thấy quyết định công nhận hòa giải thành vụ kiện số 20/06 ngày 30/12/2006 của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam công nhận biên bản hòa giải thành lập ngày 30/12/2006 tuy tại Điều 2 không xác định việc thay thế hai thành viên Hội đồng quản trị là thành viên cụ thể nào nhưng Biên bản xác định rỏ việc thay thế hai thành viên Hội đồng quản trị phải được thực hiện theo đúng quy định pháp luật hiện hành, hợp đồng liên doanh và Điều lệ liên doanh Nhà hàng ăn uống Sài gòn, đồng thời tại bản kết luận thanh tra số 7392/KHĐT-TTr ngày 16/11/2007 của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh mục IX (trang 30) cũng thể hiện “Giao Phòng doanh nghiệp nước ngoài hướng dẫn và cấp Giấy xác nhận thay đổi thành viên Hội đồng quản trị trong Công ty liên doanh theo đúng quy định của pháp luật, quyết định của Trọng tài Quốc tế. Căn cứ vào các nội dung đã viện dẫn trên và qua các nhận xét đã được phân tích tại các phần trên. Xét thấy việc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007, về trình tự, thủ tục thực hiện là chưa phù hợp với Điều 8 của Điều lệ liên doanh khi tại phiên Tòa các đương sự đồng xác định ngoài biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 10/7/2007 ( với ý kiến của cá nhân ông Lui Kwong Wah) thì không còn biên bản nào khác; đồng thời cũng không phù hợp với Điều 22 của Hợp đồng liên doanh vì tại Điều 22 phải thỏa mãn điều kiện “có lý do chính đáng, không ảnh hưởng đến họat động của công ty”, trong khi đó trước khi ban hành Giấy xác nhận, theo thừa nhận của đại diện người bị kiện cho thấy người bị kiện đã biết rỏ những mâu thuẫn đang tồn tại, đang diễn ra trong nội bộ bên nước ngoài, trong liên doanh và đang ảnh hưởng đến họat động của liên doanh. Đối với Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007. Xét thấy rại phiên Tòa, đại diện người bị kiện cho rằng căn cứ vào Giấy xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị (ông Nguyễn Sơn Trà, bà Thái Thị Cẩm Tú) của Giấy xác nhận 7726 ngày 30/11/2006 do đó các cuộc họp của Hội đồng quản trị ngày 03/12/2007, ngày 18/12/2007 ( có sự tham gia của hai thành viên này ) là đúng thành phần. Do đó các biên bản này được Sở Kế họach và đầu tư làm căn cứ để ban hành Giấy xác nhận 8206 ngày 21/12/2007. Xét thấy tại kết luận thanh tra (nêu trên) đã nhận xét giữa Điều 22 Hợp đồng liên doanh và Điều 8 Điều lệ liên doanh có sự mâu thuẫn nhau, và tại Mục 6 Công văn số 9087/BKH-KCN&KCX ngày 07/12/2006 của Bộ Kế họach và Đầu tư khi trả lời về các nội dung có liên quan đến việc thực hiện luật Đầu tư, luật Doanh nghiệp có nội dung : Pháp luật về Đầu tư và Pháp luật về doanh nghiệp không quy định doanh nghiệp phải đăng ký nhân sự chủ chốt. Tuy nhiên do các pháp luật khác yêu cầu phải có xác nhận thì mới làm các thủ tục liên quan như khắc dấu, làm visa… Nếu nhà đầu tư có nhu cầuthì Sở Kế họach và Đầu tư hoặc Ban quản lý Khu công nghiệp cần xác nhận cho nhà đầu tư. Do pháp luật không có quy định, do đó căn cứ vào văn bản của Bộ Kế họach và Đầu tư đã nêu rỏ Sở Kế họach và đầu tư khi xác nhận cho doanh nghiệp ( nhà đầu tư) phải xuất phát từ “ nhu cầu của nhà đầu tư” và Sở “ cần phải xác nhận ”, để nhà đầu tư (doanh nghiệp )làm các thủ tục cần thiết xuất phát từ “ các văn bản pháp luật khác yêu cầu phải có xác nhận như làm vi sa, khắc dấu,... ”, do đó trong trường hợp cụ thể tại Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn khi nội dung Hợp đồng liên doanh, và nội dung của Điều lệ liên doanh có mâu thuẫn với nhau tranh chấp bên nước ngoài về vốn, địa vị pháp lý đang được Tòa án Tối cao tại Hong Kong giải quyết” do vậy việc Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy xác nhận là không phù hợp với nội dung văn bản hướng dẫn của Bộ Kế họach và đầu tư. Đối với các cuộc họp được Hội đồng quản trị Công ty liên doanh Nhà hàng ăn uống Sài Gòn tổ chức vào tháng 12 . Hội đồng xét xử nhận xét như sau: */ Biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị Công ty liên doanh ngày 03/12/2007 có nội dung “công bố Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007” ; - Nghị quyết Hội đồng Quản trị Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn ngày 03/12/2007 có nội dung “Tiếp nhận và thực hiện ngay giấy xác nhận 7726 thay đổi thành viên của Hội đồng quản trị của phía nước ngoài” - Công văn số 63/07 ngày 03/12/2007 của Hội đồng Quản trị có nội dung “ Thực hiện việc sắp xếp lại việc thay đổi nhân sự tham gia Hội đồng quản trị của phía nước ngoài theo Giấy xác nhận số 7726 ngày 30/11/2007 của Sở Kế họach và đầu tư....kính đề nghị Giám đốc Sở xác nhận việc bổ nhiệm....” */. 02 Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 17/12/2007 có nội dung “bãi nhiệm chức vụ của ông Lui Lik Chee và bãi nhiệm chức vụ của bà Kwan Po Ping” ( kèm theo hai biên bản là hai nghị quyết); Qua nội dung của các cuộc họp đã được nêu trên, Xét thấy việc Sở Kế họach và đầu tư cho rằng những biên bản, những nghị quyết này là cơ sở pháp lý, thể hiện sự chủ động đề nghị của doanh nghiệp và Giấy xác nhận của Sở Kế họach và đầu tư chỉ có ý nghĩa Nhà nước ghi nhận quyền tự chủ động quyết định của doanh nghiệp, của nhà đầu tư là không phù hợp với diễn biến sự việc, và không đúng với trình tự, thủ tục đã được quy định trong Hợp đồng liên doanh, Điều lệ liên doanh. Từ những nhận xét trên. Xét thấy khiếu kiện của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping yêu cầu hủy hai Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành là có căn cứ được chấp nhận. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm được trả lại là 50.000 đồng (năm mươi ngàn) tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp theo hai biên lai thu số 004384, quyển 088 ngày 07/3/2008 của Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh; Bởi các lẽ trên; Căn cứ điều 2, khoản 6 điều 11 , điều 29, điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006; Căn cứ điều 27 và khoản 1 điều 30 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về lệ phí, án phí Tòa án, QUYẾT ĐỊNH: 1. Xử: Chấp nhận đơn khiếu kiện của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping về việc hủy hai Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh; Hủy hai Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành. 2. Về án phí: Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, được trả lại là 50.000 đồng (năm mươi ngàn) tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm theo biên lai thu tiền số 004384 quyển 088 ngày 07/3/2008 của thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Ông Lui Lik Chee vắng mặt thời hạn kháng cáo của ông Chee là 10 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Thi hành án dân sự; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Trương Quế Phượng
Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai
Số hiệu 176/2009/HCPT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai Ngày ban hành 16/01/2009 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 176/2009/HCPT Ngày: 16/01/2009 V/v: Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Anh. Các thẩm phán: 1/ Bà Trần Thị Lệ Uyên. 2/ Ông Lê Hoàng Tấn. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hợi – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Rân – Kiểm sát viên. Ngày 16 tháng 01 năm 2009 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính đã thụ lý số 56/2008-TLPT-HC ngày 20-10-2008, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chinh về quản lý đất đai” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2008/QĐPT-HC ngày 04/12/2008 giữa: Người khởi kiện: Bà Dương Thị Léo, sinh năm 1973. Trú tại: 64/6 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Có Luật sư Trang Sĩ Xê bảo vệ quyền lợi cho người khởi kiện. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Trụ sở: 01 Lý Nam Đế, Thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Văn Quí, sinh năm 1956. Chức vụ: Chuyên viên Phòng Tài Nguyên và Môi Trường. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: 1/ Ông Nguyễn Hữu Phước, sinh năm 1960 Trú tại: 60/5C ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1957. Trú tại: 48/18 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 2/ Ông Dương Văn Mạo, sinh năm 1955 Trú tại: 64/3B ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 3/ Bà Dương Thị Trang, sinh năm 1964. Trú tại: 64/3D ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 4/ Ông Dương Văn Hoàng, sinh năm 1966 Trú tại: 64/3A ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 5/ Bà Dương Thị Khéo, sinh năm 1971. Trú tại: 64/3 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 6/ Ông Dương Văn Biếc, sinh năm 1979. Trú tại: 64/3 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Mạo, ông Hoàng, bà Khéo, ông Biếc cùng ủy quyền cho bà Dương Thị Léo làm đại diện. Án sơ thẩm do bà Dương Thị Léo kháng cáo. NHẬN THẤY: Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau: Bà Dương Thị Léo và các ông bà Dương Văn Mạo, Dương Thị Trang, Dương Văn Hoàng, Dương Thị Khéo, Dương Văn Biếc là con của bà Nguyễn Thị Gắt đã chết năm 2004 và ông Dương Văn Diện đã chết năm 1989. Ngày 10/11/1992 bà Nguyễn Thị Gắt được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm các thửa 726,741,745,1017,1504,1785,1784 tờ bản đồ số 2 và 4 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Nguồn gốc phần đất trên là do ông Dương Văn Giáo khai hoang từ năm 1930, ông Giáo chết để lại cho ông Dương Văn Diện là cha của bà Léo và vợ là Nguyễn Thị Gắt sử dụng. Năm 1989 ông Diện mất bà Gắt tiếp tục kê khai đăng ký và đến năm 1992 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi cha bà Léo còn sống trên thửa đất 1784 tờ bản đồ số 4 có vài ngôi mộ bằng đá ong, sau khi ông Giáo mất ông Diện có cho một số gia đình chôn cất người thân trong đó có mồ mả ông, bà của ông Nguyễn Hữu Phước hiện nay trên đất có khỏang 70 ngôi mộ. Năm 2006 ông Phước đứng ra tranh chấp cho rằng đất này là đất của gia tộc ông và sau đó khiếu nại ở xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Ngày 24/07/2007 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định 217/QĐ-UBNDvới nội dung thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2 tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn đã cấp cho bà Nguyễn Thị Gắt theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ – quyết định số 50/QĐUB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn với lý do cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trên đất đã có mồ mả. Không đồng ý với quyết định nói trên bà khiếu nại, ngày 16/11/2007 Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn đã ban hành quyết định số 357/QĐ-UBND bác yêu cầu khiếu nại của bà giữ nguyên quyết định 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007. Bà Léo yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn với lý do Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành các quyết định trên vi phạm quy định của Luật Đất đai làm xâm hại đến lợi ích của bà. Đại diện Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn trình bày: Năm 2006 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn nhận đơn khiếu nại của ông Nguyễn Hữu Phước về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Gắt vì trên đất có mồ mả ông bà của ông Phước. Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn nhận thấy thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2là đất thổ mộ. Trước năm 1975 thuộc thửa 123 tờ bản đồ số 5 diện tích 5.184m2 là lọai đất màu và đất chuyên dùng khác, sau 1975 thuộc 2 thừa 1784 và 1785 trong đó thửa 1784 tờ bản đồ số 4 là đất chuyên dùng khác bà Nguyễn Thị Gắt mới đăng ký từ năm 1990. Thực tế thửa 1784 tờ bản đồ số 4 có 70 ngôi mộ các lọai, trong số các ngôi mộ trên đất có những mộ được chôn cất từ lúc ông Giáo còn sống đến khi ông Diện quản lý thì vẫn tiếp tục cho chôn cất tiếp cho đến nay trong đó có cả mộ của họ hàng bà Léo. Theo tài liệu 299/1982 đất do bà Nguyễn Thị Đua đăng ký thửa 1214 diện tích 600m2/5.184m2 tờ bản đồ số 4 lọai đất chuyên dùng khác và đất màu. Theo tài liệu 02/1990 do bà Nguyễn Thị Gắt đăng ký thuộc thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2 loại đất chuyên dùng khác . Ngày 10/11/1992 bà Nguyễn Thị Gắt được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 24/07/2007 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định số 217/QĐ-UBND với nội dung thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2 tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn đã cấp cho bà Nguyễn Thị Gắt theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ – quyết định số 50/QĐUB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn với lý do cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trên đất đã có mồ mả và giao lại cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết cử người trông nom mồ mả của gia tộc trên thửa đất 1784. Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn vẫn giữ nguyên quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: 1/ Ông Nguyễn Hữu Phước trình bày: Nguồn gốc đất là của gia tộc bà Léo, trên đất có chôn ông, bà và người thân quen tổng cộng có khỏang 60 ngôi mộ. Việc Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định 217/QĐ-UBND với nội dung thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 tại xã Xuân Thới Thượng huyện Hóc Môn là đúng với thực tế. Ông yêu cầu giữ nguyên quyết định nói trên. 2/ Bà Dương Thị Léo đại diện cho ông Dương Văn Mạo, ông Dương Văn Hoàng, bà Dương Thị Khéo, ông Dương Văn Biếc yêu cầu hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. 3/ Bà Dương Thị Trang không có ý kiến về khiếu kiện của bà Léo. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 06/2008/HC-ST ngày của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn đã quyết định: Căn cứ Điều 49 Luật Đất đai 2003. Bác yêu cầu của người khởi kiện bà Dương Thị Léo yêu cầu hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. Chấp nhận yêu cầu của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn và ông Nguyễn Hữu Phước không đồng ý hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. Căn cứ Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ quy định về án phí lệ phí Tòa án. An phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng bà Léo phải chịu được khấu trừ vào 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 09654 ngày 31/01/2008 của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 02/10/2008 bà Dương Thị Léo có đơn kháng cáo yêu cầu yêu cầu huỷ quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 cuả Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 18/12/2008. Người khởi kiện bà Dương Thị Léo vẫn giữ nguyên khởi kiện và kháng cáo yêu cầu yêu cầu huỷ quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Đại diện cho bên bị kiện Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn đồng ý rút điểm b Điều 2 của quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007, các phần khác của quyết định yêu cầu giữ nguyên. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Đại diện cho ông Nguyễn Văn Phước cho rằng trên thửa đất 1784 có mộ của bà Nguyễn Thị Yến là em gái ông Phước, và mộ bà cố, ông cố của ông Phứớc là bà Nguyễn Thị Xạ, ông Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Đa nên yêu cầu giữ nguyên án sơ thẩm. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Léo cho rằng Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn thu hồi đất vì trên đất có mồ mả nhưng không xác định thân nhân của những ngôi mộ là ai, các ngôi mộ chiếm diện tích bao nhiêu, quyết định giao cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết cử người trông coi mồ mả nhưng không xác định thân tộc ông Thiết là ai, có bao nhiêu người, cấp sơ thẩm không triệu tập thân nhân của những mộ có trên đất tham gia tố tụng là có thiếu sót nên đề nghị hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Do đại diện Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn rút một phần của quyết định bị khiếu kiện nên phiên tòa tạm dừng chờ Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định mới sửa đổi bổ sung. Ngày 06/01/2009 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định số 17/QĐ-UBND điều chỉnh một phần quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Ngày 14/01/2009 bà Dương Thị Léo rút toàn bộ đơn khởi kiện. Tại phiên Tòa phúc thẩm hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cho rằng việc Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn rút điểm b Điều 2 của quyết định 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007, các phần khác giữ nguyên là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật, bà Dương Thị Léo đã có đơn rút đơn khởi kiện, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 41 và điểm đ khoản 2 Điều 64 đề nghị hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên họp và nghe đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên họp, Hội đồng xét xử nhận định. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ/10/11/92, quyết định số 50/QĐ-UB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn thì bà Nguyễn Thị Gắt được quyền sử dụng 8.683m2 đất thuộc các thửa 745,741, 726, tờ bản đồ số 2 và thửa 1504, 1017, 1785, 1784 tờ bản đồ số 4 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, trong đó thửa 1784 tờ bản đồ số 4 có diện tích 1.188m2 thuộc loại đất chuyên dùng khác. Ngày 18/03/2004 bà Nguyễn Thị Gắt chết, bà Dương Thị Léo là con của bà Gắt tiếp tục quản lý sử dụng thửa đất 1784 diện tích 1.188m2 mà trên thửa đất này có khoản 70 ngôi mộ là người trong thân tộc bà Léo. Ngày 24/07/2007 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ra quyết định số 217/QĐ-UBND thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 có diện tích 1.188m2 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ/10/11/92, quyết định số 50/QĐ-UB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn đã cấp cho bà Nguyễn Thị Gắt với lý do “Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trên đất đã có mồ mả” đồng thời giao cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết cử người trông coi mồ mả. Bà Dương Thị Léo khiếu kiện và kháng cáo cho rằng việc thu hồi và giao đất như quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn nói trên là xâm hại đến lợi ích của bà; Trong quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn xác nhận rằng trên thửa đất 1784 tờ bản đồ số 4 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn có diện tích 1.188m2 thuộc khu dân cư hiện có khoản 70 ngôi mộ mà thân nhân của những ngôi mộ này là ai, 70 ngôi mộ chiếm bao nhiêu diện tích và nằm ở vị trí nào của thửa 1784 Ủy ban nhân dân huyện không xác định được; Việc Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn giao cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết quản lý các ngôi mộ trong thửa đất 1784 là chưa chính xác. Đại diện phía ông Phước thì cho rằng trên thửa đất 1784 có một ngôi mộ của em gái ông Phước và 03 ngôi mộ của cụ cố của mẹ ông Phước đồng thời cũng là cụ cố của bà Nguyễn Thị Gắt (mẹ bà Léo). Ngày 06/01/2009 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định số17/QĐ-UBND điều chỉnh một phần quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Ngày 14/01/2009 bà Dương Thị Léo có đơn rút đơn khởi kiện. Xét việc rút đơn kiện của bà Dương Thị Léo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 và điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính nên cần phải hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành ngày 01/06/2006. QUYẾT ĐỊNH: Áp dụng Nghị định 70/CP của Chính phủ ngày 12/06/1997 về án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận việc bà Dương Thị Léo rút toàn bộ đơn khởi kiện; Hủy bản án hành chính sơ thẩm số 06/2008/HC-ST ngày 29/09/2008 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn về việc “Khiếu kiện quyết định hành chinh về quản lý đất đai” giữa người khởi kiện: bà Dương Thị Léo với người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm đã thụ lý số 56/2008/TLPT-HCngày 20/10/2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. An phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng bà Dương Thị Léo phải chịu được khấu trừ 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 09654 ngày 21/01/2008 của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. An phí hành chính phúc thẩm 50.000 đồng không ai phải chịu, hoàn tạm ứng án phí 50.000 đồng cho bà Léo theo biên lai thu số 05299 ngày 02/10/2008 của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn; - Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Đinh Thị Ánh
Số hiệu 64/2009/HC-PT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế Ngày ban hành 09/01/2009 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số : 64/2009/HC-PT Ngày: 09/01/2009 NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán: Bà Trương Quế Phượng. Các Thẩm phán : 1. Bà Trần Thị Lệ Uyên 2. Bà Đinh Thị Ánh Thư ký Tòa An ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Tư - Kiểm sát viên. Ngày 02 và ngày 09 tháng 01 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử phúc thẩm công khai đối với vụ án khiếu kiện “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” do Tòa án nhân dân quận 12 đã xét xử sơ thẩm bằng bản án số 05/2008/HCST ngày 15/7/2008 giữa các đương sự: Người khởi kiện: Ông Tôn Thất Lộc, sinh năm 1964 Địa chỉ 68A, tổ 6, khu phố 7, phường Tân Hưng Thuận , quận 12, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Tôn Nữ Thị Trinh, sinh năm 1962. Địa chỉ: 6A, cư xá Bà Điểm, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh; theo văn bản ủy quyền lập ngày 29/01/2008, số chứng thực 16. quyển 1 TP/CC-SCC/HĐGD của Ủy ban nhân dân quận 12 (bút lục 132) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Trần Văn Việt – Thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện: Chi Cục Thuế Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh Trụ sở: 27 Quốc lộ 1A, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền của người bị kịện: 1. Ông Trương Khánh Cường – Đội phó Đội kiểm tra thuế quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Ông Nguyễn Thanh Bé – Chuyên viên Phòng Pháp chế Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh. Ông Cường và ông Bé được Chi Cục trưởng Chi cục Thuế quận 12, ủy quyền theo giấy ủy quyền số 1071/CCT ngày 15/12/2008. (Các đương sự có mặt) ; Nhân chứng: 1. Ông Nguyễn Thành Sơn – Tổ trưởng tổ thú y – trạm Thú y quận 12. Có mặt Địa chỉ: 384/34 KP3, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Ông Nguyễn Huy Hoàng, vắng mặt Địa chỉ: 91A7/5 Phạm Văn Hai, phường 13 quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Bà Nguyễn Thị Phương Nhi, có mặt Địa chỉ: 20 đường số 2, phường Hiệp Bình Chánh quận Thủ Đức, thành phố Hố Chí Minh. 4. Ông Nguyễn Bá Lực, có mặt Địa chỉ: 453/56KH Lê Văn Sĩ, phường 12, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. 5. Ông Nguyễn Vũ Trường Giang, vắng mặt Địa chỉ: 541/109 Huỳnh Văn Bánh, phường 14 quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ông Phạm Văn Trung, vắng mặt Địa chỉ: C12, Tân Sơn, phường 12 quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. 7. Ông Vũ Đình Trúc, vắng mặt Địa chỉ: Tổ 19, khu phố 1, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh 8. Ông Nguyễn Văn Tú, vắng mặt Địa chỉ: 177, khu phố 6, phường Tân Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 9. Bà Nguyễn Thị Hồng, vắng mặt Địa chỉ: 69/5 khu phố 7, phường Tân Thới Nhất, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 10. Bà Huỳnh Thị Xuân, vắng mặt Địa chỉ: 52/6 ấp Đông Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. An sơ thẩm do ông Tôn Thất Lộc kháng cáo. NHẬN THẤY Theo án sơ thẩm nội dung vụ án như sau: Ngày 17/12/2007, ông Lộc có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân quận 12, yêu cầu Tòa hủy hai quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 và quyết định số 2124/Qđ-XPHC ngày 21/11/2007 của Chi cục Thuế quận 12 ban hành vì cho rằng hai quyết định này trái pháp luật, quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 có nội dung truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp với với ông Lộc, số tiền truy thu tổng cộng là 413.737.537 đồng (bốn trăm mười ba triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm ba mươi bảy đồng). Trong giai đọan Tòa án nhân dân quận 12 thụ lý giải quyết vụ án hành chính số 08/2007/TLST-HC do ông Lộc khởi kiện thì ngày 17/3/2008 Chi cục Thuế quận 12 ban hành quyết định số 2331 sửa đổi điều 1 của quyết định 2124/QĐ-XPHC, bỏ hình phạt chính là chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xử lý hành vi của ông Lộc, thay bằng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra là truy thu thuế ẩn lậu với số tiền đã nêu tại quyết định 2124 là 413.737.537 đồng (bốn trăm mười ba triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm ba mươi bảy đồng), các phần còn lại vẫn giữ nguyên. Ngày 24/3/2008, ông Lộc khiếu nại quyết định 2331/QĐ-CCT ngày 17/3/2008 và Chi cục Thuế quận 12 đã có văn bản số 244/CCT ngày 07/4/2008 từ chối giải quyết khiếu nại của ông Lộc. Ngày 02/5/2008 ông Lộc đã khởi kiện quyết định 2331 tại Tòa án quận 12, được Tòa án quận 12 thụ lý giải quyết theo số thụ lý 05/2008/TLST-HC ngày 02/5/2008. Đồng thời ngày 18/6/2008 ông Lộc cũng có yêu cầu đề nghị Tòa xét hủy quyết định 2331 trong cùng vụ án thụ lý số 08/2007/TLST-HC ngày 17/12/2007 do đó Tòa án quận 12 đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án hành chính số 01/2008/QĐ-TĐCngày 20/6/2008 về việc xét quyết định số 2331 tại vụ án hành chính thụ lý số05/2008/TLST-HC ngày 02/5/2008 và xem xét yêu cầu bổ sung ông Lộc về việc yêu cầu hủy quyết định 2331 trong cùng vụ án thụ lý số 08/2007/TLST-HC ngày 17/12/2007. Chi cục Thuế quận 12 xác định quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007, quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007, quyết định số 2331/QĐ-CCT ngày 17/3/2008 được ban hành là đúng pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 12 đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc, giữ nguyên các quyết định của Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành. Tại bản án hành chính sơ thẩm số: 05/2008/HCST ngày 15 tháng 7 năm 2008 Toà án nhân dân quận 12 đã quyết định: Căn cứ Luật Thuế Giá trị gia tăng; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; Điều 46 luật Khiếu nại, tố cáo; Điều 2, khoản 10 Điều 11, Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; Nghị định 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ; Nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính phủ; Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính Phủ quy định về án phí, lệ phí tòa án. Xử: 1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc về việc yêu cầu Tòa tuyên hủy các quyết định sau đây của Chi cục Thuế quận 12: - Quyết định 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; - Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007; - Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 2. An phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng)ông Tôn Thất Lộc phải nộp, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm ông Lộc đã nộp là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số 007643 ngày 17/12/2007 của Thi hành án dân sự quận 12 Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 17/7/2008 ông Tôn Thất Lộc có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; Lý do kháng cáo như sau: - Ông Lộc cho rằng quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 của Chi cục thuế quận 12 truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp , buộc ông phải nộp số tiền tổng cộng 413.737.537 đồng (bốn trăm mười ba triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm ba mươi bảy đồng) là không đúng do ông không trực tiếp kinh doanh giết mổ heo mà ông chỉ cho thuê mặt bằng để các cá nhân, các hộ tự giết mổ. Số tiền ông cho thuê mặt bằng hàng tháng trước đây là 22.500.000 đồng, sau tăng lên là 24.000.000 đồng. Do đó ông Lộc cho rằng ông không có hành vi kinh doanh như Quyết định nêu nên ông không phải chịu khoản tiền thuế này. - Hàng tháng ông đều nộp đủ khoản tiền thuế cho Nhà nước theo như thông báo của cơ quan Thuế, hình thức nộp thuế của ông là “thuế ổn định” tức là “thuế khóan”; - Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 của Chi cục Thếu quận 12 là quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng không được lập đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định, trước khi ban hành quyết định chi cục Thuế quận 12 không lập biên bản vi phạm hành chính, ngoài ra ông Lộc cho rằng quyết định số 2124 và 2331 do Chi cục Thuế quận 12 ban hành chỉ nhằm mục đích sửa chữa bổ sung cho quyết định 1826. Từ những lý do trên ông Lộc yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông. Tại phiên toà phúc thẩm: Bà Tôn Nữ Thị Trinh đại diện cho ông Tôn Thất Lộc trình bày yêu cầu kháng cáo như sau: 1. Về nội dung kháng cáo - Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc (như đơn kháng cáo) cụ thể như sau: Yêu cầu hủy các quyết định do Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành gồm: - Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; - Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; - Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008. 2. Về căn cứ kháng cáo: Bà Trinh cho rằng ba quyết định nói trên được Chi cục Thuế quận 12 ban hành trái pháp luật do: - Không có biên bản vi phạm hành chính để làm căn cứ ban hành quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; - Ông Tôn Thất Lộc không có hành vi vi phạm như Quyết định số 1826 xác định, ông Lộc không có trực tiếp kinh doanh giết mổ heo nên không có thu nhập từ kinh doanh (ẩn lậu), ông Lộc chỉ cho các cá nhân và các hộ thuê mặt bằng để các cá nhân và các hộ tự giết mổ heo, việc ông Lộc cho thuê có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định thông qua các bản hợp đồng, bản khai của các cá nhân, hộ thuê mặt bằng thừa nhận và qua bản xác nhận của tổ thú y thuộc tram thú y quận 12; - Hàng tháng ông Lộc đều nộp đủ số tiền thuế do cơ quan Thuế thông báo nộp, mức thuế được xác định bằng hình thức thuế “ổn định” “thuế khóan”, mức thuế này do cơ quan thuế xác định từ 3 đến 6 tháng; bà Trinh cho rằng khi bà kê khai thuế bà đều có trình bày cho cán bộ thuế biết rỏ việc ông Lộc không kinh doanh giết mổ heo mà chỉ cho các hộ, các cá nhân thuê lại ô chuồng để thực hiện việc giết mổ ( do trước đây tình hình giết mổ gia súc ở quận 12 còn rời rạc, không quản lý được, nên theo chủ trương chung và được địa phương gợi ý do ông Lộc có mặt bằng nên ông Lộc đã xây dựng thành các ô chuồng để việc giết mổ được tập họp lại, nhà nước sẽ quản lý, kiểm sóat việc giết mổ có hiệu quả hơn), bà Trinh trình bày khi kê khai thuế là do cán bộ thuế hướng dẫn, mức tính thuế được tính “ổn định” trên doanh thu cho thuê ô, chồng, việc Chi cục thuế quận 12 cho rằng ông Lộc có hành vi không kê khai thực tế về họat động của ông Lộc là không đúng, vì việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng tất cả mọi người đều biết, tổ thú ý hàng ngày đều có mặt và quản lý lượng heo giết mổ của các cá nhân, các hộ , bà Trinh cho rằng từ trước đến nay nếu như cán bộ thuế yêu cầu các cá nhân, các hộ phải chịu khoản tiền thuế này thì ông Lộc sẽ thông báo cho các cá nhân này biết để họ thực hiện cũng như từ trước đến nay những cá nhân, hộ giết mổ là người trực tiếp nộp khoản tiền phí, lệ phí cho tổ thú y. Do đó bà Trinh yêu cầu Tòa xem xét việc Chi cục thuế quận 12 buộc ông Lộc phải nộp khoản thuế truy thu là không phù hợp pháp luật. Đại diện của người bị kiện (Chi cục Thuế Quận 12) trình bày: Yêu cầu giữ nguyên án sơ thẩm vì các hành vi của Chi cục Thuế quận 12 đã thực hiện để “áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” đối với trường hợp vi phạm của ông Tôn Thất Lộc là có căn cứ đúng với hành vi vi phạm của ông Lộc, đúng với trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định. Cụ thể đại diện cho người bị kiện xác định: - Các Quyết định số 1826/QĐ-XPHC, Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 do Cục Thuế quận 12 ban hành ngày 23/10/2007 có nội dung truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập kinh doanh “ẩn lậu” của ông Tôn Thất Lộc, đây không phải là quyết định hành chính xử phạt vi phạm hành chính do đó theo quy định của pháp luật trong trường hợp này thì Chi cục Thuế quận 12 không phải lập biên bản vi phạm hành chính; - Căn cứ theo luật Thuế Giá trị gia tăng và Thuế thu nhập doanh nghiệp, biểu thuế suất và đối chiếu với số lượng heo được giết mổ do Trạm Thu y quận 12 xác định. Từ đó khoản tiền truy thu thuế chi cục Thuế quận 12 xử lý buộc ông Lộc phải truy nộp là có căn cứ đúng pháp luật; - Đại diện cho người bị kiện trình bày, tuy ông Lộc không thừa nhận ông trực tiếp giết mổ heo, và các cá nhân, các hộ thuê ô chuồng của ông Lộc có lời khai xác định thừa nhận việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng là có thực, và mặc dù số phí, lệ phí giết mổ nộp cho Trạm Thú y quận 12 khi thực hiện việc giết mổ heo có lúc do ông Lộc trực tiếp nộp, có lúc do các cá nhân, các hộ giết mổ trực tiếp nộp và trạm thú y quận 12 đã có văn bản, có lời khai tại Tòa xác định thừa nhận việc nhờ ông Lộc thu dùm khoản tiền này cho trạm thú y tuy nhiên quan hệ này cơ quan thuế không biết do ông Lộc không có thông báo với cơ quan thuế, do đó theo theo giấy phép kinh doanh do ông Lộc đứng tên nên cơ quan thuế xác định ông Lộc có hành vi kinh doanh giết mổ heo nên ông Lộc phải nộp khoản tiền thuế này. - Việc ông Lộc nộp thuế hàng tháng theo hình thức “thuế ổn định” là đúng, mặc dù các văn bản pháp luật do Tổng cục thuế ban hành thì cơ quan thuế có trách nhiệm khảo sát, kiểm tra trước khi ấn định mức thuế “ổn định” , đây là thiếu sót của cơ quan thuế. Tuy nhiên mức kê khai thuế là do ông Lộc tự kê khai – tự chịu trách nhiệm, do đó khi xác định được khoản doanh thu thực tế phát sinh từ họat động kinh doanh giết mổ của ông Lộc có chênh lệch so với khoản doanh thu nhập đã kê khai nộp thuế thì ông Lộc phải chịu trách nhiệm để nộp lại cho đúng theo quy định. Đại diện cho ngưới bị kiện yêu cầu Tòa bác kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc. Kiểm sát viên nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc làm trong thời hạn luật định hợp lệ. Về nội dung kháng cáo của ông Lộc (theo đơn kháng cáo) và qua trình bày tại phiên Tòa phúc thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Xét thấy qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, ông Tôn Thất Lộc đựơc Ủy ban nhân dân quận 12 cấp giấy phép kinh doanh hành nghề “giết mổ gia súc” và cơ sở giết mổ do ông Lộc đăng ký có tên gọi là “cơ sở giết mổ trung tâm”. Ông Lộc khởi kiện và kháng cáo yêu cầu hủy các quyết định do Chi cục Thuế quận 12 ban hành có nội dung buộc ông Lộc phải truy nộp khoản tiền thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh thu “ẩn lậu” là không có căn cứ, việc ông Lộc cho rằng ông không có hành vi giết mổ gia súc và chỉ cho các hộ, các cá nhân thuê mặt bằng, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến như sau: Căn cứ vào các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và qua lời khai của các nhân chứng tại phiên tòa, bản xác nhận và lời khai của đại diện Trạm Thú y quận 12 tại phiên Tòa, có căn cứ xác định việc ông Lộc không thực hiện việc giết mổ heo và cho thuê ô, chuồng là có thực nhưng đây là quan hệ giữa cá nhân ông Lộc và các cá nhân, các hộ thuê, quan hệ này ông Lộc không báo cáo với cơ quan thuế, ông Lộc cho rằng có báo cáo nhưng không có tài liệu nào chứng minh, do gia súc được giết mổ từ cơ sở kinh doanh của ông Lộc, mặc dù Trạm thú y nhờ ông Lộc thu hộ được trạm xác nhận, nhưng ông Lộc là người trực tiếp nộp khoản phí thú y này và do gia súc được giết mổ từ cơ sở kinh doanh của ông Lộc do đó việc Chi cục Thuế quận 12 buộc ông Lộc phải nộp khoản thuế từ doanh thu “ẩn lậu” là cần thiết. Từ những nhận xét trên, án sơ thẩm tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc là có căn cứ, kháng cáo của ông Lộc là không có cơ sở để chấp nhận. Do đó đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị xử theo hướng – Bác kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc – Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm– Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lộc về việc Hủy các quyết định do Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành gồm: Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết qủa tranh luận , ý kiến phát biểu về vụ án của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên Tòa. Hội đồng xét xử nhận định: 1. Về hình thức đơn kháng cáo: Xét bản án hành chính sơ thẩm số 05/2008/HC-ST được Tòa án nhân dân quận 12 tuyên xử ngày 15/7/2008. Ngày 17/7/2008 ông Tôn Thất Lộc có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của ông Lộc làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 56 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006). 2. Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hiệu khởi kiện: Căn cứ vào đơn khởi kiện vụ án hành chính của ông Tôn Thất Lộc có nội dung “yêu cầu hủy quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 , quyết định 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Cục Thuế quận 12 và Quyết định 2331/QĐ-CCT ngày 17/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12”. Xét : - Quyết định số 1826 là quyết định hành chính xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có nội dung “áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” ; - Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Cục Thuế quận 12 ban hành tại Điều 1 có nội dung “ sửa 1 phần căn cứ được nêu tại Quyết định 1826”; - Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 có nội dung “sửa đổi một số nội dung của Quyết định 1826 và quyết định 2124, nội dung được sửa là Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm pháp luật về thuế gây ra trong trường hợp không áp dụng xử phạt”. Xét 3 Quyết định hành chính của Chi cục Thuế quận 12 nói trên được ban hành vào ba thời điểm khác nhau (ngày 23/10/2007, ngày 21/11/2007 và ngày 17/3/ 2008 ) hai quyết định sau được ban hành sau khi ông Tôn Thất Lộc có đơn khiếu nại, và có nội dung điều chỉnh, sửa chữa bổ sung về phần tiêu đề quyết định, về căn cứ pháp luật được áp dụng , về thay đổi hình thức phạt chính đối với quyết định hành chính lần đầu số 1826/QĐ-XPHC ngày 13/10/2007. Cả ba quyết định này tại phần nội dung quyết định đều thể hiện hình thức “áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” đối với ông Tôn Thất Lộc – do đó các quyết định Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành là lọai việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006; Căn cứ vào Quyết định giải quyết khiếu nại số 2310/QĐ/GQKN/CCT ngày 05/12/2007 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 có nội dung “ không công nhận nội dung đơn khiếu nại ngày 25/10/2007 của ông Tôn Thất Lộc – Giữ nguyên quyết định 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 và quyết định 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Chi cục Thuế quận 12” Quyết định giải quyết khiếu nại đã được Chi cuc trưởng Chi cục Thuế quận 12 ban hành theo trình tự, thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định, đây là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại của ông Tôn Thất Lộc. Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại, ngày 17/12/2007 ông Lộc đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy hai quyết định 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 và quyết định 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành là có căn cứ đúng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2, khoản 10 Điều 11, điểm c khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; - Đối với quyết định số 2331/CCT ngày 17/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 ban hành sau khi ông Lộc có đơn khiếu nại đối với quyết định 1816 và 2124 , sau khi nhận được quyết định này , ông Tôn Thất Lộc đã khiếu nại theo quy định của luật Khiếu nại, Tố cáo và do Chi cục Thuế quận 12 đã có văn bản số 244/CCT ngày 07/4/2008 từ chối giải quyết khiếu nại của ông Lộc . Ngày 02/5/2008 ông Lộc đã khởi kiện quyết định 2331 tại Tòa án quận 12 và đã được Tòa án quận 12 chấp nhận thụ lý đơn kiện tuy nhiên do quyết định số 2331 chỉ thay đổi phần “ tiêu đề của quyết định” và phần nội dung quyết định “ không áp dụng hình phạt chính đối với ông Tôn Thất Lộc, chỉ còn nội dung áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế vẫn giữ nguyên do đó căn cứ vào yêu cầu bổ sung của ông Tôn Thất Lộc ngày 18/6/2008 , Tòa án quận 12 đã xem xét cả quyết định số 2331 trong cùng vụ án thụ lý số 08/2007/TLST-HC ngày 17/12/2007 là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.. Từ những nhận xét trên - Xét thấy Tòa án nhân dân quận 12 thụ lý giải quyết đơn kiện của ông Lộc là có căn cứ đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hiệu, trình tự, thủ tục khởi kiện đã được quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; 3.Về nội dung kháng cáo: - Xét Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 của Chi cục Thuế quận 12 ban hành tuy quyết định có viện dẫn pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và có tiêu đề “ Quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về Thuế”, tại phần quyết định có nội dung “ áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” . Xét tại phiên Tòa, đại diện cho người bị kiện trình bày một trong các căn cứ để Chi cục Thuế quận 12 ban hành quyết định 1826/QĐ-XPHC là biên bản kiểm tra được lập để ghi nhận đối với sai phạm diễn ra tại Trung tâm giết mổ gia súc quận 12 , mặc dù biên bản này ông Lộc không ký tên nhưng đã được Đoàn kiểm tra lập theo đúng trình tự pháp luật quy định, có người chứng kiến ký tên do đó xét việc ông Tôn Thất Lộc khởi kiện và kháng cáo cho rằng Cục Thuế quận 12 ban hành quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 trái pháp luật do vi phạm về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi không lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 55 Pháp lệnh là không có căn cứ. - Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 729/TM-DV/HKD do Ủy ban nhân dân quận 12 cấp ngày 21/7/2000 có căn cứ xác định ông Tôn Thất Lộc là người đứng tên đăng ký kinh doanh đối với “ Cơ sở giết mổ gia súc trung tâm” được đặt tại địa chỉ số 241/2 khu phố 2, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, ngành nghề kinh doanh theo Giấy chứng nhận là: Giết mổ heo; - Căn cứ vào Quyết định số 1514/QĐ-CCT ngày 19/9/2007 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 về việc kiểm tra tình hình giết mổ gia súc năm 2007 tại Cơ sở giết mổ gia súc trung tâm; và căn cứ vào biên bản xác minh do Chi cục Thuế quận 12 lập ngày 24/9/2007 và ngày 25/9/2007 tại Trạm Thú y quận 12 xác định số lượng heo được giết mổ tại cơ sở gia súc trung tâm như sau: · Từ ngày 01/01/2006 - 31/12/2006 là 178.539 con heo; · Từ ngày 01/01/2007 - 19/ 9/2007 là 183.412 con heo; Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, qua lời khai, trình bày của đại diện ông Tôn Thất Lộc, đại diện của người bị kiện tại phiên Tòa phúc thẩm cho thấy ông Tôn Thất Lộc không có yêu cầu kháng cáo, tranh chấp về số lượng heo đã giết mổ tại Trung tâm giết mổ gia súc quận 12 đã được Chi cục thuế quận 12 xác định. Do đó có căn cứ kết luận xác định số luợng heo đã giết mổ tại cơ sở nói trên là đúng thực tế. Xét qua tranh luận của các đương sự tại phiên Tòa phúc thẩm giữa đại diện cho ông Tôn Thất Lộc (người khởi kiện) và đại diện cho Chi cục Thuế quận 12 (người bị kiện) . Để xem xét yêu cầu kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc cần phải xem xét đánh giá hành vi vi phạm pháp luật về thuế của ông Tôn Thất Lộc đối với “doanh thu thực tế phát sinh từ lượng heo giết mổ ” và nghĩa vụ nộp thuế đối với “ khoản doanh thu này”; Tại phiên Tòa , đại diện ông Tôn Thất Lộc cho rằng việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng để các cá nhân và các hộ thuê tự giết mổ đều được ông Lộc báo cáo với cán bộ phụ trách thuế. Lời khai này của ông Lộc phía người bị kiện không thừa nhận, tuy nhiên sau khi xem xét các tài liệu do ông Lộc xuất trình gồm các bản hợp đồng cho thuê ô, chuồng, lời khai của các cá nhân (thuê ô, chuồng), bản xác nhận của ông Nguyễn Thành Sơn (trạm thú y quận 12 – phụ trách kiểm soát thú y của cơ sở giết mổ gia súc Trung tâm) có cơ sở để xác định việc ông Tôn Thất Lộc cho thuê ô, chuồng và doanh thu thực tế của ông Lộc thu về hàng tháng được phát sinh từ họat động cho thuê ô, chuồng là có thực, việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng đã được hình thành và diễn ra 1 thời gian dài kể tư khi bắt đầu kinh doanh vào năm 2000 cho đến khi kiểm tra xử lý năm 2007. Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ cho thấy ông Tôn Thất Lộc không có biểu hiện gian dối khi kê khai đối với khoản doanh thu của ông nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Từ những phân tích trên xét thấy tuy rằng Chi cục thuế quận 12 đã kiểm tra, xác minh và đã chứng minh đúng lượng heo giết mổ tại cơ sở giết mổ Trung tâm do ông Tôn Thất Lộc đứng tên đăng ký kinh doanh tuy nhiên việc Chi cục Thuế quận 12 căn cứ lượng heo giết mổ thực tế để từ đó Chi cục Thuế quận 12 xác định ông Tôn Thất Lộc đã có hành vi kê khai không đúng thu nhập và đã không kê khai khoản “ doanh thu ẩn lậu” là không phù hợp với tài liệu, chứng cứ khách quan đã được thu thập trong hồ sơ, bởi lẽ có căn cứ để xác định tuy lượng heo giết mổ thực tế có chênh lệch so với lượng heo kê khai chịu thuế của ông Lộc, nhưng doanh thu hàng tháng của ông Lộc không phát sinh, không được tăng lên từ lượng heo giết mổ chênh lệch này. Căn cứ Quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/7/2004 của Tổng cục Thuế về việc ban hành quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể (có hiệu lực từ ngày 01/10/2004). Tại phần B, mục I có quy định như sau: I/ Đối với hộ ổn định thuế: a.1 Hướng dẫn hộ kinh doanh kê khai doanh thu kinh doanh, nhận tờ khai. b.1 Điều tra doanh thu thực tế: Đội thuế chọn ra một số hộ kinh doanh đại diện cho các ngành, nghề, quy mô kinh doanh để điều tra điển hình làm căn cứ đánh gía tính chính xác của các tờ khai do hộ kinh doanh tự kê khai và làm căn cứ để hiệp thương với hộ kinh doanh kê khai doanh thu không đúng hoặc ấn định thuế đối với những hộ kinh doanh không kê khai, không nộp tờ khai. Kết quả điều tra doanh thu thực tế phải được lập thành biên bản có ký xác nhận giữa Đòan kiểm tra và chủ hộ kinh doanh. Nếu chủ hộ kinh doanh không ký thì phải có xác nhận của các thành viên Đòan kiểm tra và người chứng kiến (nếu có). Kết quả điều tra doanh thu thực tế phải được phản ảnh theo mẫu 04/HKD. c.1 Dự kiến doanh thu tính thuế của từng hộ kinh doanh: - Căn cứ vào tờ khai doanh thu của hộ kinh doanh, căn cứ vào kết quả điều tra doanh thu thực tế. Đội thuế lập danh sách hộ kinh doanh, dự kiến doanh thu của từng hộ kinh doanh theo mẫu số 05/HKD đưa ra trao đổi thống nhất trong Đội thuế. - Đội thuế phải niêm yết công khai doanh thu dự kiến đã thống nhất của từng hộtại địa điểm thích hợp Trụ sở UBND phường, xã. Trụ sở Đội thuế) và thông báo công khai địa điểm niêm yết để hộ kinh doanh biết và tham gia ý kiến, thời gian niêm yết công khai chậm nhất hết ngày 30 của tháng cuối kỳ ổn định hoặc ngày 25 của tháng bắt đầu kinh doanh. Trong thời gian niêm yết công khai, Đội thuế cử cán bộ tiếp xúc và giải thích những thắc mắc của hộ kinh doanh. Sau khi đã công khai, căn cứ ý kiến đóng góp của đại diện hộ kinh doanh Đội thuế điều chỉnh lại những trường hợp bất hợp lý nếu thấy cần thiết. - Doanh thu dự kiến của từng hộ kinh doanh sau khi điều chỉnh (nếu có) Đội Thuế chuyển Hội Đồng tư vấn Thuế tham gia và có ý kiến xác nhận. Trường hợp Hội đồng tư vấn thuế không thống nhất theo Đội thuế giải trình, nếu Hội đồng tư vấn thuế không chấp thuận thì Đội thuế tập hợp báo cáo lãnh đạo Chi cục Thuế quyết định. - Sau khi thực hiện các bước nêu trên Đội thuế tổng hợp kết quả doanh thu dự kiến báo cáo Chi cục Thuế để làm căn cứ tính thuế. - Trường hợp trong thời gian ổn định thuế nếu có sự biến động tăng hoặc giảm từ 25% về doanh thu kinh doanh so với doanh thu đã khóan ổn định do mở rộng thêm kinh doanh, bổ sung mặt hàng, ngành nghề kinh doanh, hay do giá cả tăng (giảm) đột biến thì Đội thuế yêu cầu hộ kinh doanh kê khai lại doanh thu kinh doanh với cơ quan thuế. Đội thuế căn cứ vào tình hình thực tế họat động kinh doanh và kê khai của hộ để ấn định lại doanh thu tính thuế” Xét tại phiên Tòa đại diện Chi cục Thuế quận 12 đã xác định lọai hình thuế được cơ quan Thuế áp dụng đối với ông Tôn Thất Lộc là “ thuế ổn định 6 tháng”. Xác nhận này của Chi cục Thuế quận 12 phù hợp với lời khai của ông Tôn Thất Lộc và phù hợp với đề xuất của Đội quản lý thuế đã được lãnh đạo Chi cục Thuế quận 12 chấp thuận ( phù hợp với điểm c.1 viện dẫn trên ) Tính đến thời điểm ban hành quyết định 1826 thì lọai hình thuế này vẫn được duy trì, áp dụng và ông Tôn Thất Lộc đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Căn cứ vào quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/7/2004 của Tổng cục Thuế về việc ban hành quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể thì quan hệ xác lập thuế giữa ông Tôn Thất Lộc và cơ quan Thuế được căn cứ theo điểm a, b, c mục I phần B ( trích dẫn trên) . Xét việc người bị kiện cho rằng ông Tôn Thất Lộc đã tự kê khai và phải chịu trách nhiệm về kê khai của mình. Tuy nhiên theo trình bày của Trạm Thú y quận 12 thì “việc giết mổ tại trung tâm đều được Trạm Thú y theo dõi, quản lý hàng ngày từ số lượng heo giết mổ nhập về và lượng heo đưa ra thị trường tiêu thụ” do đó trong trường hợp này quyền và nghĩa vụ của người kê khai và của cơ quan Thuế thực hiện theo theo điểm a, b, c mục I phần B của quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/7/2004 là hòan tòan thuận lợi. Căn cứ Điều 1 luật Thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/6/2003 (được Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 18/2003/L-CTN ngày 26/6/2003) quy định : “ Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp Tổ chức, cá nhân sản xuất , kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (dưới đây gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ đối tượng được quy định tại Điều 2 của luật này”. Từ những nhận xét trên; Xét thấy có căn cứ xác định ông Tôn Thất Lộc không có hành vi “giết mổ”, ông Lộc không có khoản “ thu nhập” từ hành vi này là có thực; Xét tại phiên Tòa , qua trình bày của các hộ, các cá nhân có thuê ô, chuồng của ông Tôn Thất Lộc cũng như của đại diện Tổ thú y quận 12 thì đại diện người bị kiện cho rằng mặc dù ông Lộc cho thuê ô chuồng có thể là thực nhưng do ông Lộc đứng tên đăng ký kinh doanh nên ông phải chịu trách nhiệm , tuy nhiên khi xử lý vụ việc thì Chi cục thuế quận 12 lại buộc ông Lộc phải chịu trách nhiệm về hành vi ông không kê khai đối với khỏan “doanh thu ẩn lậu” là không đúng với tính chất sai phạm, với tài liệu chứng cứ đã phản ánh trong hồ sơ. Việc Chi cục thuế quận 12 ban hành buộc ông Lộc phải nộp bổ sung khoản thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản doanh thu “ ẩn lậu ” là không có căn cứ , kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc là có cơ sở nên được chấp nhận sửa án sơ thẩm; Do kháng cáo được chấp nhận ông Tôn Thất Lộc không phải chịu án phí phúc thẩm, án phí sơ thẩm do người bị kiện chịu; Căn cứ Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính (đã sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2006); Căn cứ Điều 27, khoản 2 Điều 30 Nghị định Chính phủ số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án; QUYẾT ĐỊNH: 1. Về hình thức: Đơn kháng cáo của của ông Tôn Thất Lộc làm trong thời hạn hợp lệ. 2. Về nội dung: Chấp nhận kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc. Sửa phần quyết định của bản án sơ thẩm . Tuyên Xử: Chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc về việc hủy các Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2008, Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 do Chi Cục Thuế quận 12 ban hành. 3. Về án phí: Ông Tôn Thất Lộc không phải chịu án phí phúc thẩm được trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tạm nộp là 50.000 (năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 008272, quyển 0166 ngày 17/7/2008 của Thi hành án Dân sự quận 12. Chi cục Thuế quận 12 phải chịu án phí sơ thẩm là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Trả lại cho ông Tôn Thất Lộc tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) theo biên lại thu tiền số 007643 ngày 17/12/2007 của Thi hành án Dân sự quận 12. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Tòa án nhân dân quận 12; - Thi hành án dân sự quận 12; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Trương Quế Phượng
Khởi kiện “quyết định hành chính trong việc áp dụng thuế, truy thu thuế..."
Số hiệu 1682/2008/HC-ST Tiêu đề Khởi kiện “quyết định hành chính trong việc áp dụng thuế, truy thu thuế...” Ngày ban hành 06/10/2008 Cấp xét sử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 1682/2008/HC-ST Ngày : 06/ 10/2008 Thụ lý số: 13/2008/TLST-HC Ngày : 10/7/2008. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán: Bà Trương Quế Phượng Các Hội Thẩm Nhân Dân: 1. Ông Phạm Công Nhân 2. Bà Đặng Kim Dung Thư ký Tòa An ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: BàNguyễn Thị Tiểu Hồng - Kiểm sát viên Trong các ngày 29 tháng 9 và 06 tháng 10 năm 2008 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án khởi kiện “quyết định hành chính trong việc áp dụng thuế, truy thu thuế..” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1649/2008/QĐST-HC ngày 12/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữa các đương sự: Người khởi kiện: Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học T.H.M.S Địa chỉ: 87 Phù Đổng Thiên Vương, phường 11, quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện cho người khởi kiện: Ông Lương Khải Ân, sinh năm 1975, Địa chỉ thường trú 18/5/1 Lê Văn Thọ, phường 11 quận Gò Vấp – theo giấy ủy quyền số 06/2008/GUQ ngày 12/6/2008 của Giám đốc Công ty. Người bị kiện: Cục Kiểm tra sau thông quan–Tổng cục Hải quan Địa chỉ: 92 Võ thị Sáu , quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Văn phòng phía Nam: 15B Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1 thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện:Ông Trần Kế Thắng, chức vụ Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ 5, Cục Kiểm tra sau thông quan. Giấy ủy quyền số 193/KTSTQ -KHTH ngày 08/8/2008 của Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan (Các đương sự có mặt). NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2008 người khởi kiện Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật và Tin học T.H.M.S do ông Lương Khải Ân đại diện trình bày yêu cầu và căn cứ pháp lý khởi kiện “ quyết định hành chính số 003ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan, Tổng cục Hải quan” như sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS là đơn vị chuyên họat động sản xuất kinh doanh cân xe tải theo Giấy phép thành lập số 4102003499 do Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/01/2001. Từ năm 2003 cho đến nay Công ty đã nhiều lần nhập khẩu về Việt Nam lô hàng thiết bị thử độ nén bê tông và cân xe tải với mã số thuế hàng hóa nhập khẩu là 9204, thuế suất là 0%, thuế Giá trị gia tăng là 5%. Đến tháng 7/ 2007 Cục Kiểm tra sau thông quan , Tổng cục Hải quan yêu cầu điều chỉnh lại tên hàng hóa nhập khẩu là thiết bị sản xuất cân hoặc phụ tùng cân mã số hàng hóa là 8423 với mức thuế suất từ 15% - 30% và thuế Giá trị gia tăng là 5%. Qua nhiều lần làm việc với Cục Kiểm tra sau thông quan đến ngày 31/3/2008 Cục Kiểm tra sau thông quan có quyết định số 003 với nội dung “truy thu thuế đối với Công ty là 617.537.341 đồng”. Không đồng ý nên Công ty đã khiếu nại theo quy định của pháp luật và ngày 26/5/2008 Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 007/QĐ-KTSTQ với nội dung “ Giữ nguyên nội dung của Quyết định số 003 ngày 31/3/2008”. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại do đó Công ty đã khởi kiện ra Tòa –Yêu cầu hủy quyết định số 003/QĐ-KTSTQ và Quyết định 007/QĐ-KTSTQ nói trên vì hai quyết định ban hành không có căn cứ và đã làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của công ty; Ông Lương Khải Ân trình bày các căn cứ khởi kiện như sau: 1. Công ty không có hành vi gian dối khi kê khai mã hàng nhập khẩu, việc kê khai của công ty đã được các chi cục hải quan có thẩm quyền thông quan kiểm tra và cho phép thông quan nay truy thu thuế sẽ gây thiệt hại lớn cho Công ty vì Công ty đã tính chi phí hàng hóa với mức thuế suất được các Chi cục Hải quan chấp thuận khi bán ra thị trường. 2. Theo ông Ân thì sự việc Công ty nhập khẩu các lô hàng đã xảy ra từ năm 2003 đến nay đã 05 năm Cục Kiểm tra sau thông quan mới ra quyết định truy thu thuế là không đúng quy định của pháp luật do tại phần II mục 1 điểm 3 Thông tư số 59/2007/ TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính quy định “Trường hợp phát hiện có sự gian lận, trốn thuế thì phải truy thu tiền thuế trong thời hạn năm năm trở về trước kể từ ngày kiểm tra phát hiện. Ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận, trốn thuế là ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký quyết định truy thu thuế”. Ông Ân cho rằng trong tổng số 25 tờ khai hải quan bị Cục kiểm tra sau thông quan xử lý truy thu thuế có hai tờ khai đã quá thời hiệu 5 năm. 3. Các lô hàng Công ty nhập tại 25 tờ khai Hải quan bị Cục kiểm tra sau thông quan xử lý có nguồn gốc xuất xứ từ nước Hàn quốc (Korea), Trung quốc và Hoa Kỳ là những nước có quan hệ tối huệ quốc với Việt Nam, do đó việc nhập khẩu được tính thuế suất theo mức thuế suất ưu đãi, tuy nhiên theo tính toán của Cục kiểm tra sau thông quan đối với số tiền truy thu tại quyết định 03/QĐ-KTSTQ thì Công ty THMS chưa được xem xét khoản thuế suất ưu đãi này. Tại phiên Tòa công ty THMS cho rằng để hưởng thuế suất ưu đãi, theo quy định của pháp luật, khi làm hồ sơ kê khai hải quan thì công ty phải nộp cho cơ quan hải quan tờ khai xuất xứ hàng hóa (gọi tắt là CO), song đối với 25 tờ khai hải quan bị xử lý công ty không nộp do công ty thấy không cần thiết, không có ý nghĩa vì mức thuế suất = 0%. Tại phiên Tòa đại diện theo ủy quyền của Công ty THMS xác định hiện nay đối với 25 tờ khai hải quan (nói trên), công ty không có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định của pháp luật do đó không thể nộp ngay cho Hội đồng xử án, công ty đề nghị được dừng phiên Tòa trong thời gian 45 ngày để công ty yêu cầu bên bán hàng (Trung quốc, Hàn quốc và Hoa Kỳ) gửi các giấy chứng nhận về. Ngoài ra tại phiên Tòa khi được Hội đồng xét xử hỏi về các giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo hợp đồng đã ký giữa công ty THMS và các công ty bên bán đều có thể hiện nội dung “ bên bán phải gửi bộ hồ sơ cho bên mua gồm nhiều lọai giấy tờ trong đó có Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho công ty THMS – vì sao đến nay vẫn không có - và việc không có gửi về là trái với thỏa thuận vì sao công ty không có ý kiến “ thì người đại diện của công ty THMS cho rằng do công ty THMS thiếu hiểu biết về pháp luật và do các Chi cục Hải quan (khi cho thông quan) và Cục kiểm tra sau thông quan (khi kiểm tra xử lý) không có yêu cầu nên phía công ty không có sự giải trình cũng như chưa yêu cầu công ty bán hàng gửi chứng từ xuất xứ hàng hóa về. Tuy nhiên sau khi Quyết định 003 xử lý, đối chiếu với quy định của mức thuế suất ưu đãi thì công ty nhận thấy nếu công ty được hưởng mức thuế suất ưu đãi thì sẽ giảm từ 30% (thuế suất thông thường) xuống còn 20% (mức thuế suất ưu đãi), khoản chênh lệch này khá lớn, do đó công ty yêu cầu được Hội đồng xét xử chấp thuận cho công ty thời gian để bổ sung chứng cứ này để nếu phải nộp thêm khoản tiền thuế còn thiếu thì cũng chỉ nộp theo mức thuế ưu đãi. 3. Việc truy thu thuế theo Quyết định 03 của Cuc kiểm tra sau thông quan không hợp lý thể hiện như sau: * Trong khi thuế suất nhập khẩu cân nguyên chiếc trên 1000kg là 3% thì thuế suất của thiết bị thử độ nén dùng để sản xuất cân lên đến 30% -> là không phù hợp; * Mức thuế suất hiện hành đối với thiết bị cân là 5% trong khi thuế suất truy thu cao hơn thuế suất hiện hành -> là không phù hợp; * Nhiều doanh nghiệp trước đây nhập hàng tương tự như trên vẫn được áp dụng mức thuế suất 0% trong khi truy thu với công ty là -> không hợp lý; Tại phiên Tòa ông Lương Khải Ân đại diện cho người bị kiện xác định giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện: Yêu cầu hủy quyết định số 003 ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan đã ban hành ban hành. Về phía người bị kiện do Ông Trần Kế Thắng đại diện theo ủy quyền của Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan, Tổng cục Hải quan có ý kiến như sau: Yêu cầu Tòa bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ Thuật & Tin Học THMS, với tư cách đại diện cho người bị kiện vẫn Giữ nguyên quyết định hành chính số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan về việc “truy thu thuế ” đối với Công ty TNHH. THMS do đã áp sai mã số hàng nhập khẩu và giữ nguyên Quyết định 007/QĐ-KTSTQ ngày 26/5/2008 của Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan đã ban hành vì các quyết định này được ban hành là có căn cứ phù hợp pháp luật được chứng minh như sau: 1. Theo quy định tại khoản 3 Điều 110 Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 thì “thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế là 05 năm , quá thời hiệu thì người nộp thuế không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền trốn thuế, số tiền thuế gian lận vào ngân sách Nhà nước “ Các lô hàng nhập khẩu của Công ty THMS tính từ thời điểm nhập khẩu đến thời điểm Cục Kiểm tra sau thông quan có thông báo số 190/KTSTQ-KV5 ngày 07/11/2007 gửi đến Công ty để giải trình về các lô hàng là vẫn còn trong thời hạn 05 năm. Do đó việc Cục Kiểm tra sau thông quan ban hành Quyết định 003 “truy thu thuế” đối với Công ty là hòan tòan đúng quy định của Luật Quản lý thuế. Ông Thắng cho rằng Công ty THMS chứng minh bằng thông tư số 59/2007/TT-BTC để cho rằng có hai tờ khai hải quan bị xử lý trong tổng số 25 tờ khai hải quan là đã quá thời hiệu 5 năm là không đúng, quyết định số 003/QĐ-KTSTQ của Cục kiểm tra sau thông quan, không có hình thức xử phạt mà chỉ truy thu khoản tiền thuế mà công ty nộp chưa đủ do đó nếu cho rằng qúa năm năm thì cũng không vi phạm Điều 110 Luật Quản lý thuế, ngòai ra đại diện của người bị kiện cho rằng hiệu lực pháp luật của Luật Quản lý thuế cao hơn Thông tư số 59/TT-BTC do đó trong trường hợp có sự mâu thuẫn, không rỏ giữa hai văn bản này thì phải áp dụng Luật Quản lý Thuế. 2. Công ty THMS so sánh và nêu sự bất hợp lý trong việc áp dụng thuế suất giữa nhập khẩu nguyên chiếc và nhập khẩu thiết bị , giữa thuế suất được áp dụng “ để truy thu” và thuế suất “ hiện nay” nội dung này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục Kiểm tra sau thông quan vì Cục Kiểm tra sau thông quan chỉ là cơ quan áp dụng các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền ban hành và các văn bản áp dụng vẫn còn hiệu lực để thi hành. 3. Công ty cho rằng hiện nay có những doanh nghiệp họat động tương tự nhưng hàng nhập khẩu vẫn được áp dụng theo mức thuế suất 0%: Điều này Cục Kiểm tra sau thông quan đã tiến hành kiểm tra và đã có xử lý đối với từng trường hợp cụ thể. Công ty THMS không thể so sánh các trường hợp khác để lọai trừ trách nhiệm của mình, vì hành vi không nộp đủ thuế của Công ty THMS là đã vi phạm quy định của pháp luật, phải bị xử lý. 4. Việc Công ty TNHH. THMS cho rằng khi áp mã số hàng hóa đã được các Chi cục Hải quan đồng ý nên mới chấp thuận thông quan. Theo luật Hải quan quy định tại thời điểm làm thủ tục thông quan hàng hóa, cơ quan Hải quan hoặc miễn kiểm tra hàng hóa, hoặc chỉ mới kiểm tra sơ bộ hàng hóa và hồ sơ. Để đảm bảo quản lý Nhà nước đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu thì việc kiểm tra sâu sẽ được tiến hành sau khi thông quan do đó không thể cho rằng hàng hóa đã được thông quan thì đã đảm bảo không có sự vi phạm về pháp luật trong việc kê khai và chịu thuế. Ngoài ra theo trình bày của đại diện người bị kiện việc áp sai mã số hàng hóa còn do lỗi cố ý của Công ty TNHH. THMS, điều này thể hiện khi Công ty nhập khẩu hàng hóa và kê khai thì Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất lập biên bản xử lý và xác định lại mã số hàng hóa nhưng sau đó Công ty vẫn tiếp tục khai mã số sai. 5. Đối với mức thuế suất đã được Cục kiểm tra sau thông quan áp dụng để truy thu khoản tiền thuế còn thiếu của Công ty là hòan tòan đúng với Quyết định và biểu thuế đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành tương ứng với từng thời điểm của các tờ khai hải quan do đó quyết định 03/QĐ-KTSTQ truy thu mức thuế suất 30% được căn cứ vào mức thuế suất thông thường = 150% thuế suất ưu đãi ( theo quyết định 1803 thì mức thuế suất của mã hàng 84239029 là 20% x 150% = 30%) , và sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì biểu thuế của Nhà nước chỉ còn phân biệt là thuế ưu đãi đặc biệt và Thuế suất thường = thuế suất ưu đãi do đó theo Quyết định 110 thì mức thuế suất ưu đãi của mã hàng 84239019 = 20% do đó thuế suất thông thường = 20%). Tại phiên Tòa phía công ty THMS yêu cầu dừng phiên tòa 45 ngày để bổ sung Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhằm được xem xét hưởng mức thuế suất ưu đãi. Đại diện của người bị kiện không chấp nhận vì theo quy định của luật Hải quan Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) là 1 lọai chứng từ phải được doanh nghiệp nộp cho cơ quan hải quan ngay khi làm tờ khai hải quan (để được xem xét mức thuế suất ưu đãi), trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn nộp có thể gia hạn tối đa là 60 ngày, Hiện nay các Giấy chứng nhận này nếu được doanh nghiệp nộp cũng không còn giá trị để xem xét. Việc nộp CO là quyền lợi của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp phải chủ động và phải thực hiện theo đúng quy định, doanh nghiệp không thể cho rằng do Chi cục Hải quan và cục kiểm tra sau thông quan không yêu cầu để biện luận cho hành vi vi phạm của mình. Ngoài ra đại diện của người bị kiện cho rằng một trong những lý do mà doanh nghiệp không nộp là vì trong giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa có mô tã hàng hóa, loại – do đó để khai mã hàng, mô tả hàng hóa theo ý chí của doanh nghiệp thì doanh nghiệp không nộp CO. Người bị kiện cho rằng điều này thể hiện rỏ vì tại tờ khai Chi cục Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất đã áp lại mã hàng, nhưng công ty đã thừa nhận, đã thực hiện , không khiếu nại và không hề yêu cầu có thời gian để bổ sung chứng nhận xuất xứ hàng hóa (vì theo hợp đồng chứng từ này đã được gửi kèm với hàng hóa khi đến Việt Nam). Ngoài ra tại phiên Tòa, đại diện của người bị kiện trình bày theo quy định tại điều 9 luật Quản lý thuế thì số tiền thuế doanh nghiệp phải nộp được tính trên căn cứ giá hàng hóa về đến Việt Nam ( bao gồm giá trị hàng, phí vận chuyển và phí bảo hiểm nếu có - CIF), do đó việc đại diện của công ty THMS cho rằng tiền thuế được tính trên giá trị hàng hóa nguyên tệ là hiểu chưa đúng và không phù hợp với quy định pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên Tòa có ý kến về vụ kiện như sau: Đơn khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học THMS làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 39 luật Khiếu nại, tố cáo. Tòa án thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết là đúng theo thẩm quyền được quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. Về nội dung khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học THMS, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Quyết định 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục kiểm tra sau thông quan ban hành để truy thu khoản tiền thuế còn thiếu của Công ty THMS là có căn cứ đúng với hành vi vi phạm của Công ty, đúng với các quy định của pháp luật tương ứng như Luật quản lý thuế, luật Hải quan, Quyết định và biểu thuế của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Không có căn cứ để cho rằng hai tờ khai hải quan bị xử lý quá thời hiệu năm năm là trái pháp luật vì trong trường hợp này Cục kiểm tra sau thông quan chỉ xử lý bằng hình thức truy thu khoản tiền thuế mà doanh nghiệp nộp chưa đủ. Từ những quan điểm đã phân tích trên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa xét xử theo hướng: Bác đơn khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học THMS yêu cầu hủy Quyết định số 003/QĐ-KTSTQ do Cục Kiểm tra sau thông quan ban hành ngày 31/3/2008. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên Tòa; Sau khi nghe các bên đương sự phát biểu ý kiến tranh luận, và nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ kiện; Hội đồng xét xử nhận xét về vụ án như sau: Về tư cách tham gia tố tụng trong vụ án : Trong quá trình giải quyết vụ án Công ty THMS có yêu cầu triệu tập các Chi cục Hải quan có liên quan đến việc đã cho thông quan các lô hàng của Công ty tại 25 tờ khai Hải quan nói trên để làm rỏ trách nhiệm của các chi cục hải quan. Xét thấy theo nội dung đơn khởi kiện của Công ty THMS, phía công ty không có yêu cầu gì về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với hành vi của các chi cục Hải quan đã cho phép Công ty thông quan các lô hàng thuộc 25 tờ khai hải quan nói trên, đại diện công ty THMS cho rằng công ty yêu cầu Tòa triệu tập các chi cục Hải quan chỉ nhằm làm rỏ trách nhiệm và sau đó công ty có thể khởi kiện các chi cục Hải quan bằng 1 vụ án khác . Xét thấy sự tham gia hay không tham gia của các Chi cục Hải quan gồm chi cục Hải quan Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh, chi cục Hải quan CK Cảng Sài Gòn khu vực 1, Chi cục Hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, chi cục Hải quan Cảng Cát Lái trong vụ án không làm ảnh hưởng đến việc xem xét tính hợp pháp , tính có căn cứ của Quyết định số 03/KTSTQ ngày 31/3/2007 của Cục kiểm tra sau thông quan, do trong vụ án các chi cục Hải quan nói trên không tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan . Do đó không chấp nhận yêu cầu của Công ty THMS hõan phiên Tòa để triệu tập các chi cục Hải quan tham gia tố tụng. 2. Quyết định số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan ban hành có nội dung “truy thu thuế”đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS do đó Quyết định số 003 (nói trên ) được xác định là Quyết định hành chính lần đầu, đây là lọai quyết định thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006. Quyết định giải quyết khiếu nại số 007/QĐ-KTSTQ do Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan-Tổng Cục Hải quan ban hành ngày 26/5/20008 có nội dung “ bác khiếu nại của Công ty THMS, giữ nguyên quyết định số 003/QĐ-KTSTQ” – Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại , ngày 12/6/2008 Công ty THMS làm đơn khởi kiện; Đơn khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS đã làm trong thời hạn, đúng thủ tục, đúng thẩm quyền đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2, khoản 10 Điều 11 và điểm a khoản 2 Điều 30 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã sửa đổi, bổ sung năm 2006). 3. Về thẩm quyền ban hành quyết định truy thu thuế số 003/Q-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý Thuế quy định: “Cơ quan quản lý thuế gồm có Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan, Chi cục Hải quan”. Căn cứ Điều 103 Luật Quản lý Thuế và khoản 2 Điều 109 Luật Quản lý Thuế quy định: “ Đối với hành vi quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 103 của Luật này thì thủ trưởng cơ quan quản lý Thuế, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan có thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế”. Khoản 3 điều 32 Luật Hải quan (đã sửa đổi, bổ sung) đã quy định kiểm tra sau thông quan như sau: 3. Trong thời hạn năm 5 kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được quyền ra quyết định kiểm tra sau thông quan. Trong trường hợp cần thiết, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định kiểm tra sau thông quan. 4. Căn cứ Quyết định kiểm tra sau thông quan, cán bộ hải quan trực tiếp kiểm tra sổ sách, chứng từ kế tóan... 5..... Chính phủ quy định cụ thể về kiểm tra sau thông quan”. Căn cứ Thông tư số 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ Tài Chính hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu: I. Hình thức và phương thức kiểm tra sau thông quan gồm có: “ - Kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan theo phương pháp đối chiếu, so sánh giữa nội dung khai tại hồ sơ hải quan với các thông tin nghiệp vụ hải quan và các quy định pháp luật có liên quan - Kiểm tra tại trụ sở đơn vị được kiểm tra....” II. Trình tự và nội dung kiểm tra sau thông quan: Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: Kiểm tra hồ sơ hải quan Kết thúc việc kiểm tra Kiểm tra tại trụ sở, đơn vị được kiểm tra Khi tiến hành kiểm tra tại trụ sở đơn vị được kiểm tra, cán bộ kiểm tra sau thông quan thực hiện: Công bố Quyết định kiểm tra sau thông quan Căn cứ vào các quy định đã được viện dẫn trên, xét việc kiểm tra sau thông quan của Cục Kiểm tra sau thông quan đối với trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học là “ kiểm tra sau thông quan – được thực hiện tại trụ sở Hải quan “ do đó không có Quyết định kiểm tra sau thông quan là không trái với quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Hải quan. Từ những nhận xét trên xét thấy Cục Kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan ban hành quyết định số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 để truy thu thuế đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS là đúng thẩm quyền , trình tự đã được pháp luật quy định 4. Quyết định 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục kiểm tra sau thông quan được Hội đồng xử án xem xét với các nội dung sau: : 4.1 Về thời hiệu : * Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 110 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định : “ thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế là 05 năm kể từ ngày có hành vi vi phạm, quá thời hiệu thì đối tượng nộp thuế không bị xử phạt nhưngvẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu ...” * Căn cứ công văn số 190/KTSTQ-NV 5 ngày 07/11/2007 của Cục Kiểm tra sau thông quan thông báo cho Công ty TNHH.THMS đến để giải trình đối với các lô hàng nhập khẩu của Công ty tại 25 tờ khai Hải quan phát sinh từ ngày 22/01/2003 đến ngày 25/9/2007 là còn trong thời hạn 05 năm. Hơn nữa căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 110 thì thời hiệu 5 năm chỉ có ý nghĩa đối với các trường hợp doanh nghiệp bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm , Quyết định 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2007 của Cục kiểm tra sau thông quan chỉ truy thu số tiền thuế doanh nghiệp THMS chưa nộp đủ, do đó không trái với quy định của pháp luật về thời hiệu. 4. 2 về việc áp mã hàng : Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học T.H.M.S cho rằng Quyết định số 003 vi phạm do đã chủ quan trong việc áp mã hàng hóa từ 9024801000 sang mã số 8423901900: Tại các bản khai Công ty trách nhiệm hữu hạn T.H.M.S trình bày: Công ty được thành lập theo Giấy phép số 4102003499 do Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/01/2001, là đơn vị chuyên họat động sản xuất kinh doanh cân xe tải – lô hàng mà công ty đã nhập khẩu tại 25 tờ khai hải quan mà Cục kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan truy thu thuế theo công ty khai là bộ cảm biến và bộ hiển thị ( thiết bị thử độ nén) – dùng để làm cân xe . Theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ Tài Chánh ban hành , kèm theo biểu thuế thì: Mã hàng 8423 Mô tả hàng hóa: Cân ( trừ các lọai cân đo có độ nhậy 5 cg hoặc nhậy hơn) kể cả máy đếm, máy kiểm tra họat động bằng nguyên lý cân, các lọai quả cân. Mã hàng 84239019 Mô tả hàng hóa : Bộ phận của cân Và Mã hàng 9024 Mô tả hàng hóa: Máy và thiết bị thử độ cứng, độ bền, độ nén, độ đàn hồi hay các tính chất cơ học khác của vật liệu ( ví dụ : kim loai, gỗ, hàng dệt, giấy, plastic) Mã hàng 90248010 Mô tả hàng hóa: họat động bằng điện Từ những nội dung về mã hàng, về mô tả hàng hóa đã được viện dẫn trên, đối chiếu lời khai của đại diện Công ty THMS thì thiết bị công ty nhập về được công ty sử dụng vào mục đích kinh doanh của công ty từ trước đến nay là để sử dụng làm cân xe tải - điều nay là hòan tòan phù hợp với chức năng kinh doanh của công ty khi được cấp phép kinh doanh. Từ những căn cứ này cho thấy việc Cục kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan xác định các lô hàng nhập khẩu Bộ cảm ứng, bộ hiển thị ( thiết bị thử độ nén) do công ty T.H,M.S nhập khẩu thuộc mã hàng 8423, mã hàng hóa 84239019 là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Công ty T.H.M.S cho rằng lô hàng của công ty thuộc mã hàng 9024, mã hàng hóa 90248010 là không có căn cứ, không phù hợp với đặc điểm của màng hàng đã được mô tả hàng hóa và không phù hợp với chức năng kinh doanh của công ty khi đăng ký vì công ty THMS không có chức năng kinh doanh thiết bị ( mà là kinh doanh mua bán cân xe tải). Mặt khác xét thấy việc Cục kiểm tra sau thông quan áp mã hàng hóa lô hàng công ty THMS nhập thuộc mã 84239019 là có căn cứ và đã được chính Công ty THMS thừa nhận thông qua việc Chi cục Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất chỉnh sửa chuyển đổi mã tại lô hàng tờ khai hải quan số 32282 ngày 05/12/2006 và Công ty đã chấp nhận – đã thực hiện việc nộp thuế và không có khiếu nại , ngòai ra sau khi Cục kiểm tra sau thông quan ban hành Quyết định hành chính số 03/ KTSTQ , tại các biên bản làm việc , đối thọai giữa Công ty THMS và Cục kiểm tra sau thông quan ngày 06/12/2007, 19/12/2007, 05/3/2008 phía công ty đều xác định việc “ áp mã hàng hóa của Cục kiểm tra sau thông quan là có căn cứ.” 4.3 Về mức thuế suất áp dụng: Căn cứ Nghị định 94/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định như sau: Điểm a khoản 1 Điều 1 “ thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam “ Và điểm b) khoản 1 Điều 1 quy định “ thuế suất thông thường được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất cao hơn 50% so với thuế suất ưu đãi quy định tại điểm a mục 1 của Điều này.....”. Xét thấy tại phiên Tòa phía công ty THMS cho rằng đối với các lô hàng mà công ty đã nhập khẩu tại 25 tờ khai hải quan là thuộc nhóm được hưởng mức thuế suất ưu đãi, do xuất xứ của các lô hàng là của Trung quốc, Hàn Quốc và Hoa Kỳ (là ba nước thuộc các nước có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc, tức nhóm quan hệ được điều chỉnh theo điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị định 94/1998.NĐ-CP ngày 17/11/1998). Do đó người đại diện của Công ty THMS tại phiên tòa có yêu cầu dừng phiên tòa 45 ngày , công ty sẽ yêu cầu công ty bán hàng gửi giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa của các lô hàng thuộc 25 tờ khai hải quan về để xem xét lại cho công ty được hưởng mức thuế suất ưu đãi 20% (theo quyết định 003 thì áp dụng thức suất thường là 30%). Yêu cầu này của phía công ty THMS không được người bị kiện chấp nhận. Xét thấy theo quy định của pháp luật thì để được hưởng mức thuế suất ưu đãi, công ty THMS phải nộp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho cơ quan hải quan (gọi tắt là CO) trong thời hạn quy định cụ thể là phải nộp ngay khi làm thủ tục hải quan để thông quan, trong từng trường hợp cụ thể thì cơ quan Hải quan có thể cho gia hạn nộp là 60 ngày. Xét thời điểm phát sinh của 25 tờ khai hải quan là ngày 22/01/2003 đến ngày 25/9/2007 do đó yêu cầu của đại diện công ty THMS là không có căn cứ phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1, khoản 3, khoản 4, khoản 8 Mục III Thông tư Liên tịch09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 của Bộ Thương Mại và Tổng Cục Hải quan hướng dẫn về việc xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hóa nên không được chấp nhận. Xét việc Cục kiểm tra sau thông quan đã áp dụng mức thuế suất thông thường để tính thuế truy thu đối với công ty THMS là có căn cứ phù hợp với các quy định pháp luật đã được viện dẫn trên. * Căn cứ quy định tại Điều 2 Quyết định số 1803/1998/QĐ-BTC ngày 11/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về việc ban hành Biểu thuế thuế nhập khẩu ưu đãi như sau “Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Quyết định này thay thế cho Biểu thuế thuế nhập khẩu hiện hành, có hiệu lực thi hành và áp dụng cho tất cả các tờ khai hàng hóa nhập khẩu đăng ký với cơ quan Hải quan bắt đầu từ ngày 01/01/1999” – Biểu thuế kèm theo Quyết định: mã hàng 84239010 ...thuế suất 20 và căn cứ Điều 3 Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩư ưu đãi quy định : “ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo quyết định này có hiệu lực thi hành và áp dụng cho tất cả các tờ khai hàng hóa nhập khẩu nộp cho cơ quan Hải quan bắt đầu từ ngày 01/9/2003 thay thế cho Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Quyết định số 1803/1998/QĐ-BTC ngày 11/12/1998...” – Biểu thuế kèm theo quyết định : mã hàng 84239019 ( bộ phận của cân ) – thuế suất 20% và tại Điều 1 Quyết định số 97/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc áp dụng biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi quy định “ Tiếp tục áp dụng mức thuế ......... suất thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Quyết định 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003..... tại Điều 4 quyết định số 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi quy định “ Quyết định này có hiệu lực thi hành và áp dụng cho các tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đăng ký với cơ quan hải quan kể từ ngày 15/9/2006. Hủy bỏ Quyết định số 97/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ tài chính ....” - Biểu thuế ban hành kèm theo quyết định: mã hàng 8423901900 (bộ phận của cân) – thuế suất 20%. Căn cứ vào 25 tờ khai Hải quan (theo liệt kê đính kèm trong hồ sơ), sau đối chiếu với các quy định pháp luật đã được viện dẫn ở phần nhận xét trên gồm (quyết định và biểu thuế kèm theo), đối chiếu thời gian Công ty THMS đã nhập khẩu lô hàng, đối chiếu với số lượng hàng hóa đã nhập khẩu theo tờ khai hải quan, Xét thấy việc Cục kiểm tra sau thông quan buộc công ty THMS truy nộp lại đủ số tiền thuế còn thiếu là 617.537.341 đồng ( gồm Thuế nhập khẩu là 588.130.805 đồng và Thuế VAT là 29.406.536 đồng ) là có căn cứ đúng pháp luật (bản liệt kê chi tiết kèm theo bản án là phụ lục của bản án) Từ những nhận xét trên không chấp nhận đơn khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS yêu cầu Hủy quyết định truy thu thuế số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan . Về án phí hành chính sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 50.000 đồng được cấn trừ vào 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã tạm nộp theo biên lai thu số 005198, quyển 104 ngày 01/7/2008 của Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh (người nộp tiền Lương Khải Ân); Bởi các lẽ trên; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2, khoản 10 điều 11, điều 29, điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006; Căn cứ khoản 2 Điều 2, Điều 103, khoản 2 Điều 109, khoản 3 Điều 110 Luật Quản lý Thuế Căn cứ Điều 22, khoản 3 Điều 32 luật Hải quan ( đã sửa đổi, bổ sung) và căn cứ điểm a) khoản 1, khoản 3, khoản 4, khoản 8 Mục III Thông tư Liên tịch 09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 của Bộ Thương Mại và Tổng Cục Hải quan hướng dẫn về việc xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hóa. Căn cứ Thông tư 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Căn cứ Quyết định 1803/1998/QĐ-BTC ngày 11/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và (biểu thuế kèm theo Quyết định) Căn cứ Quyết định 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và (biểu thuế kèm theo Quyết định) Căn cứ Quyết định số 97/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Căn cứ Quyết định số 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và (biểu thuế kèm theo) Căn cứ điều 27 và khoản 1 điều 30 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về lệ phí, án phí Tòa án, TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH QUYẾT ĐỊNH: 1. Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS về việc hủy quyết định hành chính “truy thu thuế ” số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan. 2. Về án phí: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) được cấn trừ vào 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã tạm nộp theo biên lai thu số 005198, quyển 104 ngày 01/7/2008 của Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh (người nộp tiền Lương Khải Ân); 3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Thi hành án dân sự; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Trương Quế Phượng
Hủy hành vi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND thành phố Hạ Long
Số hiệu 02/2012/HC-ST Tiêu đề Hủy hành vi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND thành phố Hạ Long Ngày ban hành 19/11/2012 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính
Số hiệu 01/2012/HC-ST Tiêu đề Yêu cầu hủy quyết định cưỡng chế và lập lại phương án bồi thường GPMB theo đúng quy định của pháp luật Ngày ban hành 17/07/2012 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính
Khởi kiện quyết định hành chính của UBND huyện Yên Hưng
Số hiệu 03/HC-ST Tiêu đề Khởi kiện quyết định hành chính của UBND huyện Yên Hưng Ngày ban hành 06/08/2012 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính
Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng
Số hiệu 1546/2012/HCPT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng Ngày ban hành 19/12/2012 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính
Trình tự, thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm
Bản án có hiệu lực pháp luật khi nào? Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền kháng cáo có thể thực hiện kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Về thời hạn, người có quyền và trình tự thủ tục kháng cáo bản án sơ thẩm sẽ được nêu cụ thể trong nội dung bên dưới. I. Thời hạn và người có quyền kháng cáo Thời hạn kháng cáo Người có quyền kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm + 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Điều 273, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 - Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 271, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Bản án hình sự sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Điều 333, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 - Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ - Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. - Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. - Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. - Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Điều 331, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 Bản án hành chính sơ thẩm + 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Điều 206, Luật Tố tụng hành chính 2015 Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền kháng cáo bản án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều 204, Bộ luật Tố tụng Hành chính 2015 II. Trình tự thủ tục kháng cáo 1. Bản án dân sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. 2. Bản án hình sự sơ thẩm - Trình tự kháng cáo - Đơn kháng cáo có các nội dung chính: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; + Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo. - Kèm theo đơn kháng cáo hoặc cùng với việc trình bày trực tiếp là chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) để chứng minh tính có căn cứ của kháng cáo 3. Bản án hành chính sơ thẩm - Trình tự kháng cáo Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính sau đây: + Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; + Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người kháng cáo; + Kháng cáo toàn bộ hoặc một phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; + Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo; + Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế
Số hiệu 1082/2009/HC-ST Tiêu đề Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế Ngày ban hành 05/05/2009 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 1082/2009/HC-ST Ngày: 05/5/2009. V/v Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Tiến Long Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Hồ Thị Mười 2. Bà Lê Thị Nhung Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Thu Ba – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Có ông Võ Quang Huy - Kiểm sát viên. Mở phiên tòa công khai ngày 05 tháng 5 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm vụ án khiếu kiện: “Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan ngoài lĩnh vực thuế ”, thụ lý số 02/HCST ngày 05/02/2009; Theo quyết định đưa ra xét xử số: 750/2009/QĐST-HC ngày 21/4/2009; giữa: Người khởi kiện:Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S Địa chỉ: 362/1 Tôn Đản, phường 4, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Có ông Vũ Minh Hùng giám đốc công ty làm đại diện tham gia tố tụng tại tòa. Người bị kiện: Cục trưởng Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: 02 Hàm Nghi, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ủy quyền cho ông Phan Mạnh Lân đại diện tham gia tố tụng tại tòa. NHẬN THẤY Ông Vũ Minh Hùng giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn A.S trình bày: Ngày 01/6/2007 công ty trách nhiệm hữu hạn A.S có ký kết hợp đồng nhập màn hình vi tính đã qua sử dụng. Đến ngày 17/01/2007 hàng về tại cảng Cát Lái, Thành phố Hồ Chí Minh, công ty đã mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu và nộp thuế ngày 20/7/2007. Nhưng sau 02 tháng ngày 28/9/2007 Chi cục hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, vì căn cứ vào quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVTngày 21/5/2007 của Bộ bưu Chính viễn thông nên cho rằng hàng hóa của chúng tôi là hàng cấm nhập khẩu và cùng ngày ra quyết định tạm giữ toàn bộ số hàng hóa của chúng tôi, đến nay bị giữ hơn 01 năm làm thiệt hại cho chúng tôi rất lớn. Căn cứ điểm 2 phần ghi chú điều 1 quyết định 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của bộ bưu chính viễn thông quy định: “Màn hình máy tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng không thuộc danh mục này”. Nên hàng hóa chúng tôi nhập khẩu không bị cấm. Ngày 03/9/2008 Cục hải quan thành phố ra quyết định số140/QĐ-HQTP về việc xử phạt vi phạm hành chính công ty tôi là không đúng với quy định. Trong khi cũng có công ty Sovilaco nhập hàng cùng loại, cùng thời điểm thì không bị tịch thu. Nay tôi yêu cầu hủy quyết định số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của hải quan Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Cục Trưởng cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S ký kết hợp đồng ngày 01/12/2006; ngày 17/01/2007 hàng cập cảng Cát Lái; trong thời gian này quyết định số 20/2006/QĐ-BBCVT ngày 30/6/2006 của bộ bưu chính viễn thông đang có hiệu lực cấm nhập khẩu màn hình vi tính và đến ngày 24/5/2007 bộ bưu chính viễn thông ra quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVT về việc cho phép nhập khẩu nhập màn hình vi tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng. Mặc dù ngày 20/7/2007 làm thủ tục hải quan cho lô hàng như theo công văn số 1717/BBCVT–CNCNTT ngày 03/8/2007 thì chỉ những mặt hàng màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma mới được nhập khẩu. Cho nên công ty trách nhiệm hữu hạn A.S có hành vi nhập khẩu mặt hàng caám nhập. Nên ngày 03/9/2008 Cục hải quan Thaønh phoá Hoà Chí Minh có quyết định số 140/QĐ-HQTP với nội dung xử phạt công ty trách nhiệm hữu hạn A.S 20.000.000 đồng và tịch thu toàn bộ lô hàng vi phạm. Còn công ty Sovilaco không cùng thời điểm và cũng không liên quan đến công ty trách nhiệm hữu hạn A.S. Ngày 13/3/2009 Tòa án đã tạo điều kiện các bên thỏa thuận nhưng Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S và giữ nguyên quyết định xử phạt số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 đối với công ty trách nhiệm hữu hạn A.S. Tại phiên tòa hôm nay: Ông Vũ Minh Hùng giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn A.S vẫn yêu cầu hủy quyết định xử phạt số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, vì quyết định này áp dụng không đúng điểm 2 phần ghi chú điều 1 quyết định 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của bộ bưu chính viễn thông quy định: “Màn hình máy tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng không thuộc danh mục này”. Đại diện Cục trưởng cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S và giữ nguyên quyết định xử phạt số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục trưởng cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh. Ý kiến đại diện viện kiểm sát cho rằng theo đơn khởi kiện của Công ty A.S thì còn trong thời hạn khởi kiện vụ án hành chính, nên tòa án thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật. Ngày 20/11/2007 hải quan chuyển hồ sơ cho cơ quan công an và ngày 18/8/2008 công an có quyết định không khởi tố vụ án nên ngày 03/9/2008 Hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 140 là đúng về thời hạn xử phạt vi phạm hành chính. Trong thời gian cấm nhập màn hình vi tính thì công ty A.S đã ký hợp đồng mua và sau khi có quyết định 11/2007 và công văn 1717 của bộ Bưu chính viễn thông thì việc nhập hàng của công ty A.S là trái với quy định. Nên Hải quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 140 ngày 03/9/2008 là đúng, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty A.S. XÉT THẤY Sau khi Nghiên cứu hồ sơ, thẩm vấn công khai và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định: Sau khi nhận được quyeát định giải quyết khiếu nại của Hải quan, ngày 14/11/2008 công ty trách nhiệm hữu hạn A.S khởi kiện quyết định số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục trưởng hải quan thành phố. Là đúng về thời hạn khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án được quy định tại pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S cho rằng quyết định xử phạt của Hải quan là trái với những gì pháp luật quy định. Thu giữ toàn bộ số hàng hóa của chúng tôi, đến nay bị giữ hơn 01 năm làm thiệt hại cho chúng tôi rất lớn. Xét thấy, ngày 01/12/2006 Công ty trách nhiệm hữu hạn A.S ký kết hợp đồng nhập màn hình vi tính đã qua sử dụng; Ngày 17/01/2007 hàng cập cảng Cát Lái, Thành phố Hồ Chí Minh; ngày 20/7/2007công ty trách nhiệm hữu hạn A.S đã mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu và nộp thuế theo quy định. Ngày 28/9/2007 Chi cục hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, là sau hơn 02 tháng kể từ ngày Công ty A.S mở tờ khai hàng hoá nhập khẩu. Theo biên bản vi phạm hành chính số 200/KV1-Cát Lái/BB-HO1 ngày 28/9/2007 do Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1 lập, có chữ ký của ông Dương Quốc Hùng chỉ là đội trưởng đội thanh tra hàng hóa xuất khẩu cát lái ký ở vị trí người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong biên bản là trái với khỏan 1 điều 20 của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có trách nhiệm lập biên bản theo đúng mẫu quy định đối với vi phạm hành chính mà mình phát hiện và chuyển kịp thời tới người có thẩm quyền xử phạt. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký theo quy định tại khỏan 3 điều 55 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính”; Tại điều 32 nghị định 97/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan như sau: “Đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan không thuộc trường hợp quy định tại điều 31 nghị định này, người có thẩm quỳên xử phạt phải kịp thời lập biên bản theo quy định. Nếu ngừơi lập biên bản không có thẩm quyền xử phạt thì thủ trưởng trực tiếp của ngừơi đó là một trong những ngừơi quy định tại điều 28 của nghị định này phải ký tên vào biên bản; trong trường hợp cần thiết thì tiến hành xác minh trước khi ký biên bản. Hình thức, nội dung, trình tự lập biên bản thực hiện theo quy định tại điều 55 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính”; theo đó người có thẩm quyền xử phạt trong trường hợp này phải là Cục trưởng Cục hải quan Thành phố Hồ Chí Minh mới có quyền ký vào vị trí của người có thẩm quyền xử phạt tại biên bản vi phạm hành chính. Xét quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 Cục Trưởng cục hải quan thành phố. Sau khi lập biên bản vi phạm hành chính Cục trưởng cục Hải quan không thực hiện đúng với khoản 1 điều 62 của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: “Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền”; có nghĩa, người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự khi còn trong thời hạn xử phạt được quy định tại khoản 1 điều 56 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định: “Thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính; đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày. …”; và trái với điều 33 của nghị định 97/2007/NĐ-CPngày 07/6/2007 của chính phủ quy định: “Hình thức, nội dung, trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thực hiện theo quy định tại điều 56 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính”. Bởi người đại diện Hải quan cho rằng sau khi lập biên bản vi phạm hành chính đến khi chuyển hồ sơ cho công an, Hải quan không có thu thập xác minh gì thêm, chỉ làm văn bản trao đổi với Viện kiểm sát. Đối chiếu với vụ việc này đã rõ và không phải xác minh, thu thập chứng cứ nên thời hạn xử phạt là 10 ngày kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Nhưng đến ngày 03/9/2008 (hơn một năm sau) Cục Trưởng cục hải quan thành phố mới ra quyết định số 140/QĐ-HQTP về việc xử phạt vi phạm hành chính công ty A.S là trái với quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt. Vì ngày lập biên bản vi phạm hành chính 28/9/2007 nhưng đến ngày chuyển hồ sơ cho cơ quan công an là ngày 20/11/2007 là ñaõ quá 30 ngày theo quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Xét về nội dung, theo văn bản ngày 24/5/2007 của Bộ bưu chính viễn thông ra quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVT sửa đổi bổ sung quyết định 20/2006/QĐ-BBCVT ngày 30/6/2006 và có hiệu lực ngày 28/6/2007 quy định tại điểm 2 phần ghi chú điều 1 như sau: “Màn hình máy tính, màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma đã qua sử dụng không thuộc danh mục này”. Theo đó thì màn hình vi tính không phân biệt loại nào cũng được nhập kể từ ngày văn bản này có hiệu lực. Tuy nhiên, đến ngày 03/8/2007 Bộ bưu chính viễn thông có công văn số 1717/BBCVT – CNCNTT trả lời công văn của hải quan xác định lại chỉ những mặt hàng màn hình hiển thị dạng tinh thể lỏng LCD, Plasma mới được nhập khẩu. Đây là văn bản giải thích cách hiểu câu chữ trong quyết định của Bộ Trưởng. Việc hiểu sao cũng được, là lỗi của bộ Bưu chính viễn thông khi ban hành văn bản, cho nên mới có sự giải thích, không phải lỗi của người dân. Như vậy, kể từ ngày 28/6/2007 cho đến ngày 03/8/2007 không phân biệt loại màn hình nào cũng được nhập. Theo ý kiến của đại diện Hải quan cho rằng luôn tính có lợi cho khách hàng và thời điểm tính áp dụng hiệu lực văn bản đối với hàng nhập khẩu từ khi làm thủ tục kê khai hải quan. Đối chiếu với thời gian công ty trách nhiệm hữu hạn A.S làm thủ tục hải quan và nộp thuế cho lô hàng ngày 20/7/2007, đáng lý Hải quan phải thông quan vì tại thời điểm này chưa có công văn 1717 của bộ Bưu chính Viễn Thông, nhưng cơ quan Hải quan lại ra quyết định số 140/QĐ-HQTP với nội dung xử phạt công ty trách nhiệm hữu hạn A.S 20.000.000 đồng và tịch thu toàn bộ lô hàng vi phạm là trái với những gì pháp luật quy định và mâu thuẫn với ý kiến của đại diện cơ quan Hải quan trình bày. Bởi tại thời điểm kê khai hàng hóa nhập khẩu không vi phạm quy định cấm nhập của Bộ Bưu chính viễn thông. Nhưng cơ quan hải quan Thành phố Hồ Chí Minh lại cho rằng công ty A.S có dấu hiệu tội phạm là trái với quyết định 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của bộ bưu chính viễn thông. Sau khi Hải quan chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan công an ngày 20/11/2007 thì đến ngày 18/8/2008 cơ quan cảnh sát điều tra công an Thành phố Hồ Chí Minh ra thông báo số 999/CV-PC15 kết luận hành vi của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S không cấu thành tội phạm do nhập khẩu hàng cấm nhập, nên không khởi tố vụ án hình sự. Cho nên quyết định số 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục trưởng cục hải quan Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt công ty trách nhiệm hữu hạn A.S là không có căn cứ. Tuy nhiên, tại toà Công ty A.S cho rằng việc nhập hàng màn hình vi tính đã qua sử dụng vào nước ta vừa qua không chỉ riêng công ty A.S, mà trước đó có công ty Sovilaco nhập hàng (cũng là màn hình vi tính 17” loại cong và loại thẳng đã qua sử dụng) về đến cảng ngày 20/12/2006 trứơc khi hàng của công ty A.S đến cảng ngày 17/01/2007 thì được thông quan theo quyết định số 129/QĐ-HQTP-HC16 ngày 11/7/2007 còn hàng của công ty A.S lại bị xử phạt và tịch thu là mâu thuẫn và đối xử không công bằng giữa các doanh nghiệp. Thực tế Hải quan có cho thông qua đối với lô hàng của doanh nghiệp Sovilaco như Công ty A.S trình bày. Ý kiến đại diện viện kiểm sát không thống nhất với nhận định trên của tòa. Vì những lẽ nêu trên. QUYẾT ĐỊNH Căn cứ khoản 14 điều 11, điểm b khoản 2 điều 12, điều 19, 29, 30, 49, 56 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Căn cứ điều 55, khoản 1 điều 56, khoản 1 điều 62 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Căn cứ điều 9, 21, 29 nghị định 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Căn cứ quyết định số 11/2007/QĐ-BBCVT ngày 24/5/2007 của Bộ trưởng Bộ bưu chính viễn thông. Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của công ty trách nhiệm hữu hạn A.S yêu cầu hủy quyết định 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 cuûa Cục Trưởng cục hải quan Thành phố Hoà Chí Minh vì có căn cứ. Hủy quyết định 140/QĐ-HQTP ngày 03/9/2008 của Cục Trưởng cục hải quan Thành phố Hoà Chí Minh vì không có căn cứ. Án phí sơ thẩm Cục Trưởng cục hải quan Thành phố Hoà Chí Minh phải chịu 50.000đồng. Án phí sơ thẩm công ty trách nhiệm hữu hạn A.S không phải chịu; hoàn trả lại cho công ty trách nhiệm hữu hạn A.S tiền tạm ứng án phí đã nộp 50.000 đồng theo biên lai số 006698 ngày 17/12/2008 của thi hành án dân sự Thành phố Hoà Chí Minh, do ông Vũ Minh Hùng nộp Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Thi hành án dân sự; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Võ Tiến Long
Số hiệu 1712/2009/HC-PT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất Ngày ban hành 09/9/2009 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 1712/2009/HC-PT. Ngày: 09/9/2009. V/v “Khiếu kiện quyết định, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất”. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Quế Phượng. Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Đình. 2. Ông Võ Tiến Long. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lê Thị Quý Ngân - Cán bộ Tòa án thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh: Ông Võ Quang Huy - Kiểm sát viên nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 09 tháng 9 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2009/TLPT-HC ngày 11 tháng 8 năm 2009 về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai trong việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất” do Bản án hành chính sơ thẩm số03/2009/HC-ST ngày 17 tháng 6 năm 2009 của Tòa án nhân dân quận 9 bị kháng cáo theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1469/2009/QĐPT-HC ngày 17 tháng 8 năm 2009 giữa các đương sự: Người khởi kiện: 1. Ông Vũ Hồng Thái, sinh năm 1955 Địa chỉ: 300/9 đường Lê Văn Việt, khu phố 4 , phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Bà Nguyễn Thị Tiết, sinh năm 1958 Địa chỉ: 96 đường Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Trần Quý – thuộc đòan luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Người Bị kiện: Ủy ban nhân dân quận 9. Địa chỉ: 232 Xa lộ Hà Nội, khu phố 1, phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Hồ Văn Năm – Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Cao Minh Hải – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Theo giấy ủy quyền số 1199/UBND ngày 25/8/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: 1. Ông Trương Văn Be, sinh năm 19 56. Địa chỉ: 98 A tổ 3, khu phố 7, phường Tăng Nhơn Phú A, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Bà Nguyễn Kim Lang, sinh năm 1950 Địa chỉ: 35 đường 311, khu phố 5, phường Hiệp Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. (Các đương sự có mặt). NHẬN THẤY: Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau: Ngày 17/10/2006 Ủy ban nhân dân quận 9 ra Quyết định số 416/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang với nội dung : “Công nhận khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang là có cơ sở. Điều chỉnh phần diện tích 32,5m2 là đường đi chung hiện hữu ra khỏi diện tích được công nhận trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết để điều chỉnh lại cho đúng diện tích sử dụng. Lý do: Phần đường đi chung diện tích 32,5m2 là lối đi hiện hữu dẫn vào nhà ông Be và bà Lang đã được thể hiện trên bản đồ địa chính năm 2003. Khi lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận bà Tiết không chừa đường đi chung này trên bản vẽ sơ đồ nhà đất dẫn đến việc Ủy ban nhân dân quận 9 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 cho bà Tiết đã cấp luôn phần đường đi này.” Ngày 03/11/2006, ông Thái và bà Tiết nhận được Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 của Ủy ban nhân dân quận 9 và nộp đơn khiếu nại quyết định này vào ngày 22/01/2007. Ngày 01/11/2007, Ủy ban nhân dân quận 9 ra Quyết định số 384/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Hồng Thái, với nội dung: Bác đơn của ông Vũ Hồng Thái khiếu nại Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 vì không có cơ sở xem xét, giải quyết. Ngày 22/11/2007, ông Thái, bà Tiết nhận được Quyết định số 384/QD-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Không đồng ý với các Quyết định trên, ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận 9 vào ngày 25/12/2007 với yêu cầu hủy hai Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Trong quá trình Tòa giải quyết vụ án, ngày 24/10/2008 Ủy ban nhân dân quận 9 ra Quyết định số 826/QĐ-UBND thu hồi Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9 với lý do sai sót trong trình tự, thủ tục ban hành. Đồng thời Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định 141/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 về việc giải quyết khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang, và ban hành Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 với nội dung: “Điều chỉnh phần đường đi chung diện tích 32,5m2 ra khỏi phần đất được công nhận trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 20/7/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết để điều chỉnh lại theo đúng hiện trạng và diện tích sử dụng” Sau khi nhận được các Quyết định trên. Ngày 04/5/2009 ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết xác định lại yêu cầu khởi kiện như sau: Ông Thái vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Đối với Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 về việc điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết thì hiện nay ông Thái đã khiếu nại quyết định này đến Ủy ban nhân dân quận 9 nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Ông Thái sẽ khởi kiện Quyết định 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 trong 1 vụ án khác sau khi Ủy ban nhân dân quận 9 có kết quả giải quyết khiếu nại. Tại phiên Tòa ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết vẫn giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện: Yêu cầu hủy Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Không yêu cầu Tòa xem xét giải quyết đối với Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 của Ủy ban nhân dân quận 9. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện đề nghị Tòa chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện. Đại diện của người bị kiện trình bày: Hiện nay Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9 đã bị thu hồi, hủy bỏ nên không còn giá trị thi hành do đó yêu cầu khởi kiện của ông Thái và bà Tiết là không có căn cứ pháp luật, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông Thái và bà Tiết. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang đề nghị Tòa không chấp nhận yêu cầu của ông Thái và bà Tiết. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 9 phát biểu ý kiến, nhận định vụ án và kết luận : Hiện tại đối tượng khởi kiện của vụ án là Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 không còn có hiệu lực thi hành vì Ủy ban nhân dân quận 9 đã thu hồi và đã được thay thế bởi Quyết định số 825/QD-UBND ngày 24/10/2008 của Ủy ban nhân dân quận 9. Tuy nhiên ông Thái và bà Tiết không yêu cầu Tòa xem xét đối với Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 24/20/2008 mà chỉ yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QD-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9. Xét yêu cầu của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết là không có căn cứ pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu của ông Thái và bà Tiết. Bản án sơ thẩm số 03/2009/HC-ST ngày 17/6/2009 của Tòa án nhân dân quận 9 đã áp dụng : - Điểm a khoản 2 Điều 2, khoản 17 Điều 11, khoản 1 Điều 12, Điều 30, Điều 49, Điều 56 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006); - Khoản 5 Điều 38 luật Đất đai năm 2003; - Điểm b, d khoản 2 Điều 42 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật Đất đai năm 2003; - Điều 80 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002); - Điều 27, 30 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án ; Tuyên xử: 1. Không chấp nhận tòan bộ yêu cầu của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết yêu cầu hủy Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và quyết định giải quyết khiếu nại số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. 2.Án phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết cùng chịu, được cấn trừ vào tiền tạm ứng án phí 50.000 đồng đã tạm nộp theo biên lai thu tiền số 000666 ngày 04/01/2008 của Thi hành án dân sự quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Ông Thái, bà Tiết đã nộp đủ án phí. Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật. Ngày 22/6/2009 ông Vũ Hồng Thái, bà Nguyễn Thị Tiết có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông về việc hủy quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành có nội dung thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho vợ chồng ông Tại phiên Tòa phúc thẩm ông Vũ Hồng Thái và luật sư xác định yêu cầu kháng cáo và trình bày căn cứ kháng cáo bản án sơ thẩm như sau: - 1. Yêu cầu hủy bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng về thời gian hoãn, dừng việc xét xử, về việc Tòa án giao cho ông Thái các bản sao Quyết định (mới) của Ủy ban quận 9 ban hành trong khi đó ông Thái cho rằng việc tống đạt các Quyết định này cho ông phải là của chính quyền địa phương và Tòa án đã giải thích cho ông theo hướng động viên ông rút đơn khởi kiện với lý do đối tượng khởi kiện không còn trong khi ông chưa nhận được bản chính quyết định của Ủy ban quận 9 thu hồi lại các quyết định mà ông Thái, bà Tiết khởi kiện. - 2. Yêu cầu Tòa hủy các Quyết định hành chính do Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành gồm Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006, quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2008 vì các quyết định này ban hành không có căn cứ pháp luật, không đồng ý bản án tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông với lý do hai Quyết định trên do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành mà ông khởi kiện hiện nay không còn do đã bị Ủy ban nhân dân quận 9 thu hồi hủy bỏ. Đồng thời tại phiên Tòa phúc thẩm, ông Thái, bà Tiết có yêu cầu kháng cáo bổ sung về việc yêu cầu Tòa hủy các quyết định hành chính do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành sau khi ông đã khởi kiện sơ thẩm gồm Quyết định số 141/QD-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 826/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 và Quyết định số 94/QĐ-UBND. Về phía Ủy ban nhân dân quận 9, người đại diện yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm với lý do bản án sơ thẩm tuyên xử có căn cứ đúng pháp luật. Đối với các Quyết định Ủy ban nhân dân quận 9 mới ban hành 24/10/2008 sau khi ông Thái, bà Tiết khởi kiện gồm Quyết định 141/QĐ-UBND, Quyết định số 825/QĐ-UBND và Quyết định 826/QĐ-UBND do các quyết định này có liên quan đến việc ông Thái, bà Tiết khởi kiện nên Ủy ban quận 9 đã gửi cho Tòa án, đồng thời Ủy ban cũng giao 1 bản cho chính quyền địa phương để tống đạt cho ông Thái, bà Tiết theo quy định. Tuy ông Thái chưa nhận được các quyết định này nhưng ông Thái đã được Tòa án và đại diện Ủy ban khi tham gia giải quyết vụ án thông báo cho ông Thái biết về các quyết định này chính vì biết nên ông Thái đã thực hiện quyền khiếu nại của ông theo quy định của pháp luật. Đại diện Ủy ban nhân dân quận 9 có ý kiến trình bày yêu cầu Tòa không chấp nhận kháng cáo của ông Thái vì các lý lẽ ông Thái, và luật sư trình bày là không có căn cứ đúng pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến về kháng cáo của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết như sau: Đơn kháng cáo của ông Thái, bà Tiết là phù hợp với quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về trình tự, thủ tục kháng cáo do đó hợp lệ được chấp nhận. Về nội dung kháng cáo: 1. Đối với các căn cứ kháng cáo của ông Thái và luật sư trình bày tại phiên Tòa yêu cầu hủy bản án sơ thẩm là không phù hợp với quy định pháp luật do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận. 2. Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Thái, bà Tiết về việc hủy hai Quyết định số 416 và Quyết định 384 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành, xét thấy căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ, qua lời khai trình bày của các đương sự tại phiên Tòa cho thấy trong quá trình Tòa án đang giải quyết vụ án do ông Thái và bà Tiết khởi kiện yêu cầu Tòa hủy Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành để thu hồi lại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho ông Thái, bà Tiết để điều chỉnh lại phần diện tích cho phù hợp với hiện trạng và diện tích sử dụng thì ngày 24/10/2008 Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành Quyết định số 826/QĐ-UBND để thu hồi, hủy bỏ hai quyết định bị khởi kiện. Việc Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định số 826/QD-UBND ngày 24/10/2008 là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. Do hiện nay đối tượng khởi kiện của vụ án không còn nên việc Tòa án nhân dân quận 9 bác đơn khởi kiện của ông Thái và bà Tiết yêu cầu hủy Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 là phù hợp với quy định của pháp luật. Kháng cáo của ông Thái, bà Tiết yêu cầu Tòa chấp nhận khởi kiện của ông bà về nội dung này là không có căn cứ. Đối với kháng cáo của ông Thái yêu cầu hủy các Quyết định 141/QD-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 825/QĐ-UBND ngày 24/10/2008, Quyết định 826/QĐ-UBND ngày 24/10/2008 và Quyết định số 94/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân quận 9 là vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu và các nội dung này ông Thái, bà Tiết chưa khởi kiện ở cấp sơ thẩm do đó không thuộc phạm vi giải quyết của cấp phúc thẩm đề nghị Tòa không xem xét. Từ những ý kiến trên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chi Minh đề nghị xét xử theo hướng bác kháng cáo của ông Thái, bà Tiết và giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Về hình thức: Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2009/HC-ST do Tòa án nhân dân quận 9 xét xử ngày 17/6/2009. Ngày 22/6/2009 ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết là người khởi kiện có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 50.000 đồng theo biên lai thu số 009132 quyển 0183, ngày 23/6/2009 của Thi hành án dân sự quận 9. Đơn kháng cáo, thủ tục trình tự kháng cáo của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết là phù hợp với quy định của Điều 55, khoản 1 Điều 56 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính do đó được chấp nhận. Về nội dung kháng cáo: 1. Xét các căn cứ ông Thái, bà Tiết và luật sư trình bày để yêu cầu hủy bản án sơ thẩm là không phù hợp với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính do đó không chấp nhận 2. Đối với kháng cáo của ông Thái và bà Tiết yêu Tòa hủy quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành. Hội đồng xét xử nhận định như sau: Xét Quyết định số 416/QĐ-UBND do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành ngày 17/10/2006 là quyết định có nội dung giải quyết khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang về việc Ủy ban nhân dân quận 9 cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 cho ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Do không đồng ý nên ông Thái và bà Tiết đã khiếu nại Quyết định 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 của Ủy ban nhân dân quận 9 theo quy định của pháp luật và đã được Ủy ban nhân dân quận 9 giải quyết bằng Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007; Ngày 25/12/2007 ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết khởi kiện tại Tòa án yêu cầu xem xét hủy hai Quyết định (nói trên) của Ủy ban nhân dân quận 9 đã ban hành và đã được Tòa án thụ lý vụ án ngày 10/01/2008. Ngày 24/10/2008 Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định số 826 thu hồi Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QD-UBND ngày 01/11/2007, cùng ngày Ủy ban quận 9 ban hành quyết định số 141/QD-UBND để giải quyết lại khiếu nại của ông Trương Văn Be và bà Nguyễn Kim Lang và ban hành Quyết định số 825/QĐ-UBND điểu chỉnh Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1246/2003 ngày 10/7/2003 đã cấp cho ông Thái, bà Tiết. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính quy định “ ... Trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện có quyền rút 1 phần hoặc tòan bộ nội dung đơn kiện, người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định hành chính....” do đó xét thấy việc Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành Quyết định số826/QD-UBND ngày 24/10/2008 là không trái với quy định pháp luật đã được viện dẫn trên. Xét thấy mặc dù Quyết định hành chính số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định số 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 đã được Ủy ban nhân dân quận 9 thu hồi nên không còn giá trị để thực hiện, tuy nhiên theo chứng cứ thể hiện trong hồ sơ và tại phiên Tòa sơ thẩm, ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết xác định giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện, yêu cầu Tòa tuyên hủy đối với hai Quyết định đã khởi kiện do đó căn cứ điểm b mục 6 phần Quyết nghị của Nghị Quyết số 04/2006/HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính, đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25//12/1998 và ngày 05/4/2006 do đó việc Tòa án nhân dân quận 9 tiến hành đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật. Xét thấy tại phiên Tòa phúc thẩm, ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết xác định chỉ yêu cầu Tòa hủy Quyết định 416/QD-UBND ngày 17/10/2006 và Quyết định 384/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Ủy ban nhân dân quận 9, do hiện nay hai Quyết định này Ủy ban nhân dân quận 9 đã thu hồi nên không còn tồn tại, ngòai yêu cầu hủy hai quyết định thì ông Thái và bà Tiết không còn yêu cầu nào khác. Do hai Quyết định nói trên không còn tồn tại, nên việc ông Thái, bà Tiết yêu cầu Tòa tuyên hủy đối với đối tượng không còn tồn tại là không cần thiết và không phù hợp pháp luật, án sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Thái và bà Tiết là có căn cứ phù hợp pháp luật. Đối với kháng cáo của ông Thái và bà Tiết có liên quan đến các Quyết định số 141/QĐ -UBND, Quyết định 825/QĐ-UBND và Quyết định 826/QĐ -UBND do Ủy ban nhân dân quận 9 ban hành cùng ngày 24/10/2008 và Quyết định số 94QĐ –UBND là vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, đồng thời các nội dung này ông Thái, bà Tiết xác định chưa khởi kiện tại giai đọan sơ thẩm do đó nội dung kháng cáo này của ông Thái, bà Tiết không thuộc phạm vi giải quyết vụ án của cấp phúc thẩm nên không xem xét. Ý kiến phát biểu đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tại phiên Tòa là phù hợp với nhận xét đánh giá của Hội đồng xét xử. Từ những nhận xét trên, do kháng cáo của ông Thái và bà Tiết không có căn cứ – Không được chấp nhận. Về án phí do án sơ thẩm được giữ nguyên nên ông Thái và bà Tiết phải chịu án phí phúc thẩm, được cấn trừ vào 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã tạm nộp. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 64 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; QUYẾT ĐỊNH Áp dụng điều 29, điểm a khoản 2 điều 64 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; Áp dụng Nghị định Chính phủ số 70/CP ngày 12/6/1997 quy định về án phí, lệ phí Tòa án; 1. Bác kháng cáo của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết. Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết yêu cầu hủy quyết định hành chính số 416/QĐ-UBND ngày 17/10/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9 và Quyết định số 383/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 9. 2. Về án phí: Ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết cùng chịu 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) án phí phúc thẩm và 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) án phí sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp theo hai biên lai thu số 009132 quyển 0183, ngày 23/6/2009 và biên lai thu số 000666, quyển 0014 ngày 04/01/2008 của Thi hành án dân sự quận 9 (cả hai biên lai người nộp tiền là ông Vũ Hồng Thái). Ông Vũ Hồng Thái và bà Nguyễn Thị Tiết đã nộp đủ án phí sơ thẩm và phúc thẩm. 3 Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Tòa án nhân dân quận 9; - Thi hành án dân sự quận 9 ; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Tương Quế Phượng
Số hiệu 244/2009/HC-ST Tiêu đề Khiếu kiện “quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến họat động kinh doanh, tài chính của thương nhân ” Ngày ban hành 13/02/2009 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 244/2009/HC-ST Ngày: 13/02/2009 NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán: Bà Trương Quế Phượng Các Hội Thẩm Nhân Dân: 1. Ông Đặng Trung Tâm 2. Bà Hồ Thị Diệu Hà Thư ký Tòa An ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tiểu Hồng - Kiểm sát viên. Ngày 13 tháng 02 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án khiếu kiện “quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiệnquyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến họat động kinh doanh, tài chính của thương nhân ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 333/2009/QĐXX-HC ngày 05/02/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữa các đương sự: Người khởi kiện: 1. Bà Kwan Po Ping, sinh năm 1947. Có mặt Quốc tịch: Trung Quốc 2. Ông Lui Lik Chee, sinh năm 1970. Quốc tịch: Canada Cùng địa chỉ: 80A Trần Đình Xu, phường Cầu Kho, quận 1 thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lui Lik Chee có đơn đề nghị được xét xử vắng mặt. Người phiên dịch cho người khởi kiện: Ông Lương Quan Thạch, sinh năm 1947, Địa chỉ: 313/2 Nguyễn Trải, phường 7 quận 5 (ông Thạch là người phiên dịch do người khởi kiện tự chọn lựa và được Tòa án chấp nhận). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Lê Thị Minh Nhân – Thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh; Người bị kiện: ........... Sở Kế họach và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. ................................... Địa chỉ: 32 Lê Thánh Tôn, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. ................................... Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: ................................... Ông Hà Hữu Trí; ................................... Chức vụ Phó phòng đăng ký đầu tư doanh nghiệp của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy ủy quyền của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (tên giao dịch Food Center of SaiGon)do ông Trần Mỹ Đãi – Phó Tổng Giám đốc làm đại diện theo ủy quyền theo Giấy ủy quyền của Chủ tịch HĐQT (Giấy ủy quyền không có con dấu do con dấu hiện nay ông Lui Lik Chee đang giữ và đang tranh chấp). Địa chỉ: 393B Trần Hưng Đạo, phường Cầu Kho quận 1. Có mặt. 2. Công ty SXKD & DV 990 Địa chỉ: 214 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Do ông Trần Mỹ Đãi làm đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch HĐQT. Có mặt. 3. Công ty Madarin Hong Kong Do ông Lui Kwong Wah – đại diện. Quốc tịch: Trung quốc (Hong Kong) Địa chỉ 52/22 Cù Lao, phường 2 quận Phú Nhuận; thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc: 3/18 Nơ Trang Long, phường 7 quận Bình Thạnh. Có mặt. Ông Lui Kwong Wah nghe, nói được tiếng Việt và có đại diện ủy quyền tham gia phiên Tòa do đó ông Wah không yêu cầu người phiên dịch. Người đại diện theo ủy quyền của ông Lui Kwong Wah: Ông Trần Trung Dũng, sinh năm 1965. Địa chỉ 177 Trần Phú, phường 4 quận 5. Có mặt. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 24/01/2008 người khởi kiện bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee trình bày yêu cầu và căn cứ pháp lý khởi kiện đối với “hành vi hành chính Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong việc ban hành Giấy xác nhận số 7726/SKHĐTDN ngày 30/11/2007” như sau: 1.1 Nội dung yêu cầu khởi kiện: */. Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping có mối quan hệ là mẹ con., giữa ông và ông Lui Kwong Wah có quan hệ là cha con. Ông là Tổng Giám đốc Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (tên giao dịch là Food Center op Sai Gon) và là ủy viên Hội đồng quản trị trong công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn từ năm 1997 cho đến nay. Bà Kwan Po Ping là ủy viên Hội đồng quản trị liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn ( tên giao dịch Rood Center of Sai Gon). Ngày 01/12/2007 ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping có nhận được bản sao Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT–DN ngày 30/11/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh có nội dung xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị của bên nước ngoài trong Công ty liên doanh. Theo đó Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã xác nhận như sau: “ Bên nước ngoài trong Công ty Liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (Công ty Madarin HongKong) đã cử: 1. Ông Nguyễn Sơn Trà (sinh ngày 16/12/1941; quốc tịch Việt Nam; chứng minh nhân dân số 020077493 cấp ngày 07/6/1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ thường trú tại số 105, đường 3 tháng 2, phường 11 quận 10 thành phố Hồ Chí Minh) và 2. Bà Thái Thị Cẩm Tú ( sinh ngày 06/12/1972; quốc tịch Việt Nam; chưng minh nhân dân số 022254857 cấp ngày 24/3/1995 tại thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ thường trú tại số 5/41A Nơ Trang Long, phường 7 quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ) Thay thế 1. Ông Lui Lik Chee 2. Bà Kwan Po Ping Làm thành viên Hội đồng quản trị của Công ty Liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn”. Sau khi nhận được Giấy xác nhận nói trên ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping không đồng ý do Giấy xác nhận đã đương nhiên chấm dứt tư cách thành viên Hội đồng quản trị Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn của ông, bà và như vậy cũng mặc nhiên làm chấm dứt các quyền lợi của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping trong khi không có thông qua các hình thức, trình tự , thủ tục đã được quy định trong Điều lệ liên doanh, theo pháp luật về đầu tư . Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping cho rằng Giấy xác nhận của Sở Kế họach và Đầu tư đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình nên đã thực hiện quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật đối với hành vi trên của Sở Kế họach và Đầu tư. Theo người khởi kiện trình bày, từ khi nộp đơn khiếu nại đã quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật nhưng Sở Kế họach và Đầu tư không giải quyết đơn khiếu nại theo quy định tại điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo. Do đó ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã gửi đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu hủy Giấy xác nhận 7726/SKHĐT – DN ngày 30/11/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh Ngày 28/02/2008 ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping nộp đơn khiếu kiện với nội dung “ khiếu kiện Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế họach và Đầu tư “ . Đơn khiếu kiện có nội dung như sau: */. Ngày 25/12/2007, ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping lại tiếp tục nhận được Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN về việc xác nhận Hội đồng quản trị và Ban điều hành của Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn . Giấy có nội dung như sau : Xác nhận: Hội đồng quản trị: 1. Chủ tịch : Ông Dương Ngọc Cứ 2. Phó chủ tịch : Ông Lui Kwong Wah 3. Ủy viên : Ông Phạm Văn Khước 4. Ủy viên : Bà Thái Thị Cẩm Tú 5. Ủy viên : Ông Nguyễn Sơn Trà Ban Điều hành: 1. Tổng Giám đốc : Ông Lui Kwong Wah 2. Phó Tổng Giám đốc : Ông Trần Mỹ Đãi Giấy xác nhận này thay thế các Giấy xác nhận số 1732/GXN-KHĐT ngày 08/5/2003 và số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 của Sở Kế họach và Đầu tư và có Giá trị pháp lý để Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn thuận tiện trong quan hệ giao dịch với các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý của Nhà nước Việt Nam. Không đồng ý với nội dung của Giấy xác nhận 8206 (nói trên) nên ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã tiếp tục làm đơn khiếu nại; Tuy nhiên cũng như lần khiếu nại trước ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping cũng không được Sở Kế họach và Đầu tư giải quyết đơn khiếu nại theo quy định của luật Khiếu nại, Tố cáo. Do đó ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã gửi đơn khiếu kiện đến Tòa án yêu cầu hủy Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh. Tại phiên Tòa hôm nay ông Lui Lik Chee vắng mặt , tuy nhiên theo đơn xin vắng mặt của ông Chee , ông giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện, bà Kwan Po Ping giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện. Bà Kwan Po Ping trình bày tuy rằng Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ban hành ngày 21/12/2007 có nội dung thay thế Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT- DN ngày 30/11/2007 tuy nhiên do người bị kiện trình bày căn cứ vào Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2006 đã xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị bên nước ngoài của ông Nguyễn Sơn Trà và bà Thái Thị Cẩm Tú do đó các cuộc họp của Hội đồng quản trị được hai thành viên này tham gia ngày 03/ 12/2007, ngày 18/12/2007 (các cuộc họp làm căn cứ để Sở ban hành Giấy xác nhận 8206 ngày 21/12/2007) là có căn cứ đúng thành phần. Do đó giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện đối với Giấy xác nhận 7726 mặc dù Giấy xác nhận này đã được Giấy xác nhận 8206 thay thế. Ngày 12/02/2008 người khởi kiện nộp đơn bổ sung yêu cầu Tòa triệu tập cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và chấp hành viên thuộc cơ quan Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc đã phát hành văn bản số 849/THA ngày 16/11/2006 ( do người bị kiện đã xác định trong các văn bản tại hồ sơ và tại phiên tòa công văn 849 là 1 trong những căn cứ có tính quyết định để Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành hai Giấy xác nhận). Người khởi kiện cho rằng công văn số 849/THA nói trên đã ban hành hoàn toàn trái với nội dung Quyết định 20/06 ngày 30/12/2006 của Hội đồng trọng tài quốc tế Việt Nam và đã vượt thẩm quyền theo pháp lệnh thi hành án, văn bản này đã làm thiệt hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện tuy nhiên bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee xác định trong phạm vi vụ kiện này chưa có yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với hành vi hành chính của Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong việc ban hành hai Giấy xác nhận nói trên , đồng thời chưa có yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với việc chấp hành viên đã ban hành văn bản 849/THA ngày 16/11/2006. 1.2 Căn cứ pháp lý : Người khởi kiện và luật sư trình bày căn cứ pháp lý để yêu cầu hủy hai giấy xác nhận trên như sau: */. Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành vi phạm cả về hình thức lẫn nội dung. Theo luật sư: Về thẩm quyền ban hành: Căn cứ vào luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư và cả văn bản số9087/BKH-KCN-KCX ngày 07/12/2006 của Bộ kế họach và Đầu tư không có nội dung nào quy định Sở kế họach và đầu tư có thẩm quyền ban hành Giấy xác nhận để thay thế tư cách thành viên của công ty. Trong văn bản của Bộ kế họach và đầu tư khi trả lời một số câu hỏi liên quan đến luật Đầu tư và luật Doanh nghiệp đã xác định rỏ “ luật doanh nghiệp và luật đầu tư không có quy định tuy nhiên trong những trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của doanh nghiệp về việc xác định tư cách chủ chốt của doanh nghiệp để thực hiện các công việc như : khắc dấu, thuê nhà.... thì Sở xác nhận”, do đó việc xác nhận của Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh là vi phạm về thẩm quyền ban hành. *./ Về nội dung: Các căn cứ được Sở kế họach và đầu tư viện dẫn làm cơ sở pháp lý cho việc ban hành thì những căn cứ này là trái pháp luật – cụ thể như sau: a) Đối với Quyết định Trọng tài vụ kiện số 20/06 ngày 30/12/2006 của Trọng Tài Việt Nam là vi phạm pháp luật do: - Thỏa thuận trọng tài đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật, vi phạm khoản 2, 3, 4 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vì: - Ngay từ khi thành lập Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn, Công ty Madarin HongKong đã ngưng họat động từ trước đó 330 ngày (điều này đã được ông Lui Kwong Wah thừa nhận trong đơn kiện), như vậy ông Lui Kwong Wah không còn đủ tư cách để khởi kiện theo tài phán Trọng tài; - Thực tế việc góp vốn của bên nước ngoài tại Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn ( công ty Madarin HongKong) gồm có 05 người theo biên bản xác nhận góp vốn của công ty Madarin HongKọng tại Công ty liên doanh, biên bản có chữ ký của ông Lui Kwong Wah ngày 14/02/2000; cả 05 người góp vốn đều không có ủy quyền cho ông Lui Kwong Wah kiện, thay thế các thành viên Hội đồng quản trị tham gia tố tụng trọng tài; - Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tố tụng trọng tài khi không mời ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping tham gia tố tụng trọng tài với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Không gửi quyết định trọng tài cho ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping; - Bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee là những người tham gia góp vốn vào công ty liên doanh do đó bà Po Ping và ông Lik Chee không chấp nhận việc ông Lui Kwong Wah tự nhận mình là chủ sổ hữu duy nhất của công ty Madarin HongKong do đó ông Lui Kwong Wah không có quyền tự ý đơn phương thay thế hai thành viên hội đồng quản trị bên nước ngoài trong công ty liên doanh. Hiện nay bà Po Ping và ông Lui Lik Chee đã có đơn gửi đến các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam để yêu cầu xem xét, hiện nay Bộ Kế họach và Đầu tư đã có văn bản gửi cho Bộ Tư pháp, Tòa án Tối cao và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam để xem xét. Đồng thời hiện nay vụ án bà Po Ping và ông Lui Lik Chee khởi kiện ông Lui Kwong Wah về việc tranh chấp tiền vay, tiền góp vốn tại Công ty liên doanh Nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn đã được Tòa án Tối cao Đặc khu hành chính HồngKong thụ lý giải quyết (lý do chưa giải quyết được vì triệu tập nhiều lần nhưng ông Lui Kwong Wah vắng mặt) b) Văn bản số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh, được Sở Kế hoạch và đầu tư cho rằng căn cứ để Sở ban hành hai Giấy xác nhận là trái với pháp lệnh thi hành án dân sự do nội dung của Văn bản này không đúng (vượt), không có trong nội dung của Quyết định Trọng tài vụ kiện 20/06 ngày 30/12/2006 và công văn này ban hành không có căn cứ khi Hội đồng quản trị Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn chưa tiến hành các cuôc họp theo đúng trình tự, thủ tục đã được quy định theo Điều 8 của Điều lệ liên doanh. c) Việc Sở Kế hoạch và Đầu tư căn cứ vào Văn bản đề nghị số 63/07 ngày 03/12/2007 và hồ sơ đính kèm nộp ngày 05/12/2007, ngày 10/12/2007 ngày 21/12/2007 của Công ty Liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn là những văn bản bất hợp pháp do công ty Madarin Hong Kong đã chấm dứt tồn tại từ ngày 02/7/1991 thì không thể nào có văn bản đề nghị số 10/07 ngày 05/11/2007 và hồ sơ đính kèm nộp ngày 07/11/2007 của công ty Madarin; còn công ty Madarin Hong Kong do ông Lui Kwong Wah mới đăng ký lại vào năm 2007 thì đăng ký sau ngày phát hành những văn bản này, đồng thời đây không phải là công ty Madarin HongKong tham gia giải quyết theo tố tụng trọng tài. Từ những căn cứ trên ông Lui Lik Chee và bà Kwong Po Ping và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện yêu cầu Tòa hủy hai Giấy xác nhận Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã xác nhận. Về phía người bị kiện - Ông Hà Hữu Trí đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên hai Giấy xác nhận đã ban hành mà phía người khởi kiện đã khởi kiện. Về căn cứ pháp lý để ban hành hai Giấy xác nhận này, đã được Sở xác định theo văn bản 1996/SKHĐT-DN ngày 08/4/2008 gửi cho Tòa án thành phố Hồ Chí Minh do đó tại phiên Tòa, đại diện người bị kiện chỉ trình bày bổ sung 1 số ý kiến như sau: - Sở Kế họach và đầu tư thừa nhận khi nhận được đơn khiếu nại của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping về hai Giấy xác nhận do Sở ban hành nhưng Sở chậm giải quyết đơn khiếu nại theo quy định của luật Khiếu nại và Tố cáo là thiếu sót, thiếu sót này do nguyên nhân khách quan vì công việc nhiều, biên chế giải quyết công việc thì ít, thời gian giải quyết khiếu nại lại nhanh. Tuy không ban hành văn bản giải quyết khiếu nại cho ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping, nhưng khi nhận được đơn khiếu nại Sở đã có làm việc, tiếp xúc với người khiếu nại để nghe ý kiến của người khiếu nại đồng thời Sở cũng tạo điều kiện trao đổi thông tin, cung cấp cho người khiếu nại những vấn đề có liên quan trong việc ban hành hai Giấy xác nhận; - Hai Giấy xác nhận được Sở ban hành chỉ có ý nghĩa xác nhận thành phần cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp theo đề nghị của doanh nghiệp. Giấy xác nhận số 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 đã xác định tất cả thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành Công ty liên doanh do đó có nội dung thay thế Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận số 1732/GXN-KHĐT ngày 08/5/2003, Giấy xác nhận 7726 chỉ có nội dung thay thế hai thành viên của HĐQT ( không thay đổi tất cả thành viên theo Giấy xác nhận 1732) do đó chỉ có thành viên nào được ghi trong Giấy xác nhận 7726 mới bị thay đổi, các thành viên còn lại của Giấy xác nhận 1732 thì vẫn giữ nguyên, không thay đổi do đó Giấy xác nhận 7726 không nhất thiết phải ghi “ Giấy này thay thế Giấy 1732 ngày 08/5/2003. Việc luật sư lập luận cho rằng Giấy xác nhận 7726 không ghi Giấy này thay thế Giấy xác nhận 1732 như vậy Giấy xác nhận 1732 vẫn còn hiệu lực tồn tại và như vậy tư cách của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping vẫn còn tồn tại là không đúng. - Khi Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 là căn cứ vào văn bản số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh. Theo Sở thì văn bản này là điều kiện đủ để ban hành Giấy xác nhận. Khi ban hành Sở chỉ căn cứ vào nội dung của công văn 849 để thực hiện – Sở không yêu cầu hồ sơ xác nhận phải có biên bản Hội đồng quản trị Công ty liên doanh ăn uống Sài Gòn theo như trình tự, thủ tục đã được quy định tại Điều 8 của Điều lệ liên doanh vì Sở nghĩ rằng yêu cầu cũng không thể thực hiện được do ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping là hai người bị thay thế sẽ không hợp tác thực hiện, thực tế trước khi ban hành Giấy xác nhận, qua công tác quản lý thì Sở cũng đã có nhiều thông tin về sự mâu thuẫn, tranh chấp về vốn, địa vị pháp lý của Bên nước ngoài trong Công ty liên doanh. - Căn cứ pháp lý để Sở ban hành Giấy xác nhận 8206 được căn cứ vào các biên bản Hội đồng quản trị công ty liên doanh đã họp ngày 03/12/2007, ngày 18/12/2007 và đã có nội dung thống nhất 100% thay đổi hai thành viên Hội đồng quản trị, thay đổi Tổng Giám đốc. Đại diện người bị kiện giải thích rằng do Giấy xác nhận 7726 ngày 30/11/2007 đã xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị của ông Nguyễn Sơn Trà và bà Thái Thị Cẩm Tú do đó sự tham gia của ông Trà, bà Tú với tư cách thành viên Hội đồng quản trị theo biên bản họp ngày 03/12/2008 và 18/12/2008 là phù hợp với quy định tại Điều 8 Điều lệ liên doanh về trình tự, thủ tục. - Do ông Lui Kwong Wah có nộp cho Sở kế họach và đầu tư tờ cam kết tuyên thệ của ông có chứng nhận của Tòa án Tối cao Hong Kong để xác định ông là chủ sở hữu duy nhất của Công ty Madarin HongKong – do đó Sở mới chấp nhận đề nghị của ông Wah để ban hành Giấy xác nhận. -Các quyết định số 1787/2007/QĐST-KDTM ngày 25/9/2007 và số 970/2007/QĐST-KIDM ngày 13/6/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định số137/2007/QĐPT-KDTM ngày 26/12/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh;. Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan trình bày : Đại diện Công ty Liên doanh Nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn và đại diện Công ty 990 ( ông Trần Mỹ Đãi) trình bày như sau : - Công ty liên doanh (bên Việt Nam) chỉ chấp nhận việc thay đổi thành viên của Hội đồng quản trị bên nước ngoài khi việc thay đổi được thực hiện đúng trình tự, thủ tục do pháp luật và điều lệ liên doanh đã quy định theo nguyên tắc: “ là người của bên nào thì bên đó có quyền thay đổi; nếu có lý do chính đáng; không làm ảnh hưởng đến họat động của công ty”. Việc Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành hai Giấy xác nhận (nói trên ) là không có căn cứ do: - Việc thay thế không được tiến hành đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật và điều lệ liên doanh quy định, cụ thể theo điều 8 Điều lệ liên doanh thì việc thay thế thành viên Hội đồng quản trị (ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping) phải được 2/3 thành viên Hội đồng quản trị chấp nhận, thay thế Tổng Giám đốc phải 100% thành viên Hội đồng quản trị chấp nhận. Tại biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 10/7/2007, chỉ có ý kiến cá nhân của ông Lui Kwong Wah, các thành viên khác không có ý kiến – Ngoài cuộc họp này, Hội đồng quản trị không có cuộc họp nào khác do đó việc Sở ban hành Giấy xác nhận 7726 là không có căn cứ đúng trình tự, thủ tục đã được Điều lệ liên doanh (vẫn còn hiệu lực thực hiện) quy định – do đó Giấy xác nhận 7726 ban hành trái pháp luật. (Không thể chấp nhận lý giải của Người bị kiện là bỏ qua yếu tố này vì không thể nào tiến hành họp được theo Điều 8 Điều lệ liên doanh vì người khởi kiện chắc chắn không đồng ý); - Việc đề nghị thay đổi của bên nước ngoài là không thể thực hiện được do không thỏa mãn điều kiện “không làm ảnh hưởng đến họat động công ty”. Trước khi Sở ban hành Giấy xác nhận, Sở Kế họach và đầu tư đã có rất nhiều thông tin để có căn cứ xác định rằng “Bên nước ngoài đang có mâu thuẫn gay gắt, nghiêm trọng trong nội bộ về vấn đề vốn góp, địa vị pháp lý trong công ty” do đó khi mâu thuẩn này chưa được giải quyết thì không nên thay đổi mà duy trì hiện trạng và giải quyết dứt điểm mâu thuẫn. Sau khi Sở ban hành Giấy xác nhận, lợi dụng việc này bên nước ngoài đã bán toàn bộ tài sản, không thanh tóan lương, các quyền lợi cho những người trong công ty ...công ty không họat động được do không có dấu ... Chính việc Sở ban hành Giấy xác nhận đã làm cho mâu thuẫn thêm gay gắt, kéo theo những tổn thất thiệt hại của 1 bên liên doanh là Việt Nam, tuy nhiên trong vụ kiện này với tư cách đại diện cho công ty 990 và 1 bên liên doanh, ông Đãi xác định có khả năng sẽ khởi kiện đối với những quyền lợi bị thiệt hại trong vụ kiện khác. - Các biên bản họp ngày 03/12/2007 và 18/12/2007 có sự tham gia của ông Nguyễn Sơn Trà và bà Thái Thị Cẩm Tú, theo ông Đãi không có giá trị thực hiện vì Điều 8 Điều lệ liên doanh “thành phần HĐQT tham gia cuộc họp” là thành viên của Hội đồng quản trị đương nhiệm (trước khi thay đổi). Ông Đãi trình bày các cuộc họp này không có giá trị thực hiện vì khi họp không có sự thống nhất, tự nguyện mà do áp lực của bên nước ngoài. - Ông Đãi xác định căn cứ vào các tài liệu về việc góp vốn của bà PoPing có chứng kiến của Công ty liên doanh, các phiếu thu tiền góp vốn được thể hiện trong hồsơ, dấu của công ty liên doanh, chữ ký của ông Chủ tịch Hội đồng quản trị, người lập phiếu thu là hòan tòan đúng. - Công ty Madarin HongKong đã ngưng họat động trước ngày chính thức ký hợp đồng liên doanh nên không có quyền áp đặt thay người; Công ty 99 xác định ông Lui Kwong Wah không phải là chủ sở hữu duy nhất của công ty Madarin HongKong vì việc ông Lui Kwong Wah chuyển nhượng vốn cho bà Kwan Po Ping có sự xác nhận cửa công ty 990, đồng thời việc ông Lui Kwong Wah cho rằng ông là chủ sở hữu duy nhất là trái với các tài liệu do chính ông đã xác lập (văn bản ngày 09/9/1995 và biên bản xác nhận góp vốn lập ngày 14/02/2000 gồm có 05 thành viên); - Ông Đãi trình bày thêm quyết định hòa giỉai thành trọng tài không rỏ ràng nhưng Sở kế họach đầu tư không yêu cầu những người tham gia tố tụng trọng tài hay cơ quan trọng tài giải thích lại lấy làm căn cứ là thiếu cơ sở, trong quyết định này không xác định thay đổi thành viên Hội đồng quản trị là ai ? cũng không có nội dung thay đổi Tổng Giám đốc do đó việc Sở kế họach đầu tư và chấp hành viên ban hành công văn 849 cho rằng căn cứ Quyết định hòa giải thành trọng tài để ban hành Giấy xác nhận là chủ quan, duy ý chí, áp đặt và trái với quyết định trọng tài. Từ những nội dung trên với tư cách đại diện cho Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn và Công ty 990, ông Trần Mỹ Đãi yêu cầu Tòa hủy hai giấy xác nhận của Sở kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành. Khôi phục lại tình trạng ban đầu của Công ty liên doanh. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lui Kwong Wah trình bày: Giấy xác nhận của Sở kế họach và đầu tư ban hành là có căn cứ đúng pháp luật – đề nghị giữ nguyên. Những căn cứ đó như sau: - Ông Lui Kwong Wah là chủ sở hữu duy nhất của Công ty Madarin Hong Kong, theo cam kết tuyên thệ của ông Wah được Tòa án tối cao Hong Kong xác nhận đúng theo pháp luật quốc tế do đó ông Lui Kwong Wah là chủ sở hữu tài sản duy nhất, thì ông Wah có quyền chỉ định thay đổi thành viên Hội đồng quản trị của bên nước ngoài, điều này không trái với pháp luật quốc tế; - Bà Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee không có đóng góp vốn vào công ty Madarin Hong Kong nên không có tư cách gì trong công ty này. Khi ông Lui Kwong Wah ký tên xác nhận phần vốn của công ty Madarin HongKong trong Công ty Food Center or Sai Gon gồm có 05 người, trong đó có phần vốn góp của bà Po Ping và ông Lui Lik Chee theo văn bản lập ngày 14/02/2000 là do ông Wah bị áp lực của bà Ping. Do đó nay ông Wah đã có thư công bố hủy bỏ việc xác nhận góp vốn này. Đối với văn bản do ông Wah lập ngày 09/9/1995 xác định ông và bà Kwan Po Ping là đồng sở hữu trong Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn là do ông Wah nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng, còn trong thực tế bà Po Ping không đóng góp tiền vốn gì cả. Việc ông Wah là chủ sơ hữu duy nhất nên khi bà Po Ping, ông Lui Lik Chee tham gia Hội đồng quản trị là do ông Wah chỉ định cho đủ số lượng người, ông Chee và bà Po Ping không tham gia với tư cách thành viên góp vốn vì các tài liệu hợp đồng khi thành lập liên doanh, ngay từ đầu chỉ có 1 mình ông Wah đứng ra giao dịch với bên Việt Nam, không có sự tham gia nào của bà Po Ping và ông Chee; - Theo pháp luật quốc tế thì Công ty Madarin Hong Kong có thể ngưng hoạt động trong nước để tham gia đầu tư ở nước ngoài, do đó viêc công ty Madarin Hong Kong, ngưng họat động từ năm 1992 không có nghĩa là công ty phá sản hay giải thể, do đó tư cách của công ty Madarin Hong Kong vẫn còn tồn tại. - Hợp đồng chuyển nhượng vốn, tuy được công ty liên doanh thừa nhận và ông Lui Kwong Wah cũng thừa nhận là có thực nhưng không có giá trị vì hợp đồng không có ghi ngày tháng, không có ghi số tiền vốn chuyển nhượng, hợp đồng này chỉ làm trên danh nghĩa mà thôi. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên Tòa có ý kến về vụ kiện như sau: Đơn khởi kiện của ông Lui Lik Chee và bà Po Ping làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định của pháp luật . Tòa án thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết là đúng theo thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 12, khoản 6 Điều 11, Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. Về nội dung khởi kiện, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Về thẩm quyền tuy pháp luật không có quy định tuy nhiên căn cứ vào ý kiến của Bộ Kế họach và Đầu tư tại công văn số 9087/BKH-KCN&KCX ngày 07/12/2006 thì việc ban hành Giấy xác nhận của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh là đúng thẩm quyền; Về nội dung: Xét việc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và công văn số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh xác nhận ông Nguyễn Sơn Trà, bà Thái Thị Cẩm Tú là thành viên Hội đồng quản trị (bên nước ngoài) thay thế cho ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping tuy ông Trà, bà Tú không tham gia góp vốn vào bên nước ngoài nhưng do ông Lui Kwong Wah là chủ sở hữu duy nhất (bên nước ngoài) nên việc chỉ định thay thế là không trái với Điều 22 Điều lệ liên doanh. Tuy công ty Madarin Hong Kong không còn họat động từ năm 1991 – 1992 tại Hong Kong nhưng thực tế vẫn họat động tại Việt Nam với 1 thành viên chủ sở hữu duy nhất là ông Lui Kwong Wah. Năm 2007 công ty Madarin Hong Kong do ông Wah làm chủ đã đăng ký họat động lại, được Nhà nước chấp nhận do đó ông Wah có quyền chỉ định thay người. Đối với giấy xác nhận 8206 – Căn cứ vào các biên bản họp Hội đồng quản trị Công ty liên doanh ngày 03/12/2007 và 18/12/2007 với thành viên Hội đồng quản trị 05 người (Việt Nam hai người – bên nước ngoài ba người gồm ông Wah, bà Tú, ông Trà là người mới được thay đổi theo Giấy xác nhận 7726 ngày 30/11/2007) các biên bản thể hiện có sự thống nhất 100% trong Hội đồng quản trị, do đó việc Sở căn cứ vào các biên bản này để ban hành Giấy xác nhận 8206 là phù hợp với Điều lệ liên doanh. Từ những ý kiến trên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện về việc Hủy hai Giấy xác nhận do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành. Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên Tòa; Sau khi nghe các bên đương sự và luật sư trình bày các ý kiến tranh luận; Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án; XÉT THẤY Xét thấy tại phiên Tòa, ông Lui Lik Chee, người khởi kiện đã được Tòa triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt. Bà Kwan Po Ping là mẹ của ông Lui Lik Chee và đồng là người khởi kiện trình bày do ông Lui Lik Chee có công việc nên không thể đến tham gia phiên Tòa theo triệu tập, bà Kwan Po Ping, đề nghị Tòa tiến hành xét xử vắng mặt ông Lui Lik Chee theo đơn của ông Lui Lik Chee. Xét thấy ông Lui Lik Chee đã có các bản khai, trình bày đầy đủ về các yêu cầu khởi kiện của mình. Việc vắng mặt của ông Lui Lik Chee không làm ảnh hưởng đến việc xem xét yêu cầu khởi kiện của ông, các đương sự khác trong vụ kiện không có ý kiến gì về sự vắng mặt của ông Lui Lik Chee do đó căn cứ điểm a khoản 5 Điều 43 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006) Tòa tiến hành xét xử vắng mặt ông Lui Lik Chee là có căn cứ đúng pháp luật. Xét tại phiên Tòa bà Kwan Po Ping, quốc tịch Trung quốc có nhờ ông Lương Quan Thạch làm người phiên dịch cho bà, việc ông Thạch tham gia phiên Tòa với tư cách là người phiên dịch cho bà Po Ping các đương sự khác trong vụ kiện không có ý kiến. Căn cứ Điều 7 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (2006) có quy địnhtiếng nói, chữ viết dùng trong qúa trình giải quyết vụ án hành chính là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình và căn cứ khoản 1, 2 Điều 26 Pháp lệnh. Tòa chấp nhận tư cách tham gia tố tụng của ông Lương Quan Thạch là phù hợp với quy định của pháp lệnh. Xét thấy Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành có nội dung “quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến họat động kinh doanh, tài chính của thương nhân, hai Giấy xác nhận (nói trên ) được xác định là hành vi hành chính lần đầu , là lọai quyết định, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính được quy định tại khoản 6 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006. Xét 02 Giấy xác nhận nói trên, ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã thực hiện quyền khiếu nại theo quy định tại Điều 31 luật Khiếu nại, Tố cáo tuy nhiên Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết đơn khiếu nại theo quy định tại Điều 36 luật Khiếu nại, Tố cáo; Căn cứ vào biên nhận nhận “đơn khiếu nại” của Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Lui Lik Che và bà Kwan Po Ping. Tại phiên Tòa , đại diện người bị kiện xác định việc không giải quyết khiếu nại là có thực. Do đó căn cứ điểm a khoản 1 điều 2, khoản 6 Điều 11 , điểm c khoản 2 Điều 12 và điểm a khoản 2 điều 30 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã sửa đổi, bổ sung năm 2006) đơn khiếu kiện vụ án hành chính của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping đã làm trong thời hạn, đúng trình tự, thủ tục, và đúng thẩm quyền đã pháp luật được quy định. Xét tại phiên Tòa người khởi kiện và người bị kiện đều xác định tại Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007, có nội dung thay thế Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007. Qua thừa nhận của hai bên đã thể hiện Giấy xác nhận 7726 vào thời điểm ngày 21/12/2007 không còn hiệu lực tồn tại do đã bị thay thế. Tuy nhiên tại phiên Tòa, sau khi được giải thích, bà Kwan Po Ping vẫn giữ nguyên khởi kiện yêu cầu Tòa hủy Giấy xác nhận số 7726. Đồng thời đại diện của người bị kiện xác định, thừa nhận từ Giấy xác nhận 7726 là căn cứ tiếp theo để người bị kiện ban hành Giấy xác nhận 8206. Do đó căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b mục 6 của Nghị quyết04/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25/12/1998 và ngày 05/42006 Tòa tiếp tục giải quyết các yêu cầu khởi kiện theo thủ tục chung. Xét tại phiên Tòa và theo đơn ngày 12/02/2008 người khởi kiện nộp đơn bổ sung yêu cầu Tòa triệu tập cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và chấp hành viên thuộc cơ quan Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc đã phát hành văn bản số 849/THA ngày 16/11/2006 tuy nhiên tại phiên Tòa bà Kwan Po Ping xác định trong vụ kiện này bà không có yêu cầu bồi thường thiệt hại dân sự do công văn số 849/THA gây ra cho bà. Do đó trong phạm vi xem xét yêu cầu khởi kiện của Kwan Po Ping và ông Lui Lik Chee không cần thiết phải triệu tập, tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh và chấp hành viên. · Nhận xét của Hội đồng xet xử về thẩm quyền ban hành Giấy xác nhận của Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh: Căn cứ Mục 6 Công văn số 9087/BKH-KCN&KCX ngày 07/12/2006 của Bộ Kế họach và Đầu tư có nội dung như sau: “Pháp luật về Đầu tư và Pháp luật về doanh nghiệp không quy định doanh nghiệp phải đăng ký nhân sự chủ chốt. Tuy nhiên do các pháp luật khác yêu cầu phải có xác nhận thì mới làm các thủ tục liên quan như khắc dấu, làm visa… Nếu nhà đầu tư có nhu cầu thì Sở Kế họach và Đầu tư hoặc Ban quản lý Khu công nghiệp cần xác nhận cho nhà đầu tư” do vậy việc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành hai Giấy xác nhận (nói trên) là đúng thẩm quyền đã được quy định; - Nhận xét của Hội đồng xét xử về các căn cứ pháp lý được người bị kiện áp dụng để ban hành hai Giấy xác nhận bị khiếu kiện: a) Xét tại phiên Tòa đại diện của người bị kiện cho rằng 1 trong các căn cứ pháp lý để Sở ban hành 2 Giấy xác nhận nói trên chính là do Quyết định công nhận Hòa giải thành của Hội Đồng Trọng Tài vụ kiện 20/06 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đính kèm biên bản hòa giải thành vụ tranh chấp số 20/06 giữa Công ty Madarin Hong Kong và Công ty 990 (điều kiện cần) và công văn số 849/THA ngày 16/11/2007 của Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh về việc thi hành quyết định Trọng tài (điều kiện đủ). Tuy nhiên sau khi Tòa đối chiếu nội dung của công văn 849/THA ngày 16/11/2007 với nội dung của Quyết định hòa giải thành ngày 30/11/2006 (kèm theo biên bản hòa giải thành) thì tại Quyết định hòa giải thành và biên bản hòa giải thành đều không có nội dung “ xác định thay thế thành viên cụ thể nào của Hội đồng quản trị bên nước ngoài và cũng không có nội dung thay thế Tổng Giám đốc Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống khách sạn Sài Gòn” do đó việc Sở kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cho rằng đã căn cứ vào hai văn bản này để ban hành hai Giấy xác nhận là không có cơ sở. b) Ngoài ra đại diện người bị kiện cho rằng do công ty Madarin Hong Kong ( ông Lui Kwong Wah) là chủ sở hữu duy nhất bên nước ngoài ( theo tuyên thệ của ông Wah có chứng nhận của Tòa án tối cao tại Hong Kong và Ma Cao) nên ông Wah có quyền chỉ định thành viên trong Hội đồng quản trị (bên nước ngoài). Xét thấy trình bày này của đại diện người bị kiện là không có cơ sở khi người bị kiện chỉ căn cứ duy nhất vào bản tuyên thệ của ông Wah trong khi qua thừa nhận của đại diện người bị kiện thì trước khi ban hành Giấy xác nhận , người bị kiện đã có nhiều thông tin, nhiều tài liệu về việc cần phải xem xét lại tư cách chủ sở hữu duy nhất của ông Lui Kwong Wah, và những tài liệu này là có cơ sở tin cây do được chính ông Lui Kwong Wah tự mình xác lập , cụ thể như: - Văn bản ông Lui Kwong Wah lập ngày 09/9/1995 để gửi cho Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, giám đốc công ty 990 có nội dung : “ ..Mọi vấn đề pháp lý và thực tế hiển nhiên là bên chủ đầu tư nước ngoài, công ty Madarin Hong Kong là 1 công ty sở hữu duy nhất (sole proprietorship) . Theo luật pháp Hong Kong và theo thiển ý , cũng theo luật pháp Việt nam, tôi và vợ tôi, bà Kwan Po Ping là đồng sở hữu chủ công ty Madarin và hệ qủa tất nhiên là chúng tôi đều là đồng sở hữu trong Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn” “Hợp đồng sang nhượng cổ phần lập ngày 08/4/1995 giữa ông Lui Kwong Wah và bà Kwan Po Ping có sự xác nhận của công ty 990, công ty liên doanh- kèm theo các phiếu thu có nội dung – kể từ ngày 08/4/1995 bà Kwan Po Ping có 31,5% cổ phần trong Công ty liên doanh ( tức 45 % vốn góp của phía nước ngoài ) Ông Lui Kwong Wah phải giúp bà Kwan Po Ping hòan tất thủ tục sang nhượng cổ phần với các cơ quan, chính quyền Việt Nam cho tới khi bà Kwan Po Ping có tên trong Giấy phép đầu tư.” Và tại biên bản xác nhận góp vốn phần của Madarin Hong Kong trong công ty liên doanh Nhà hàng ăn uống Sài Gòn (Food Center or SaiGon) lập ngày 14/02/2000 có chữ ký của 05 thành viên gồm ông Lui Kwong Wah, bà Kwan Po Ping, ông Lui Lik Chee, ông Lai Tai, ông Lee Bing đã xác định số tiền Madarin Hong Kong gốp vốn đầu tư trong Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn tại thành phố Hồ Chí Minh là của 05 thành viên ( có tên kể trên); c) Mặt khác qua thừa nhận của người khởi kiện cũng như của ông Lui Kwong Wah thì hiện nay việc tranh chấp trong nội bộ bên nước ngoài về vốn góp trong công ty Madarin HongKong, về khoản tiền vay mượn giữa ông Lui Kwong Wah và bà Kwan Po Ping và các tranh chấp nội bộ giữa hai bên Tòa án Tối cao đặc khu Hong Kong đang thụ lý thụ lý giải quyết (sau khi Tòa án tại Việt Nam đình chỉ vụ án không giải quyết do không thuộc thẩm quyền) , do đó xét thấy tại phiên Tòa , tuy rằng ông Lui Kwong Wah và đại diện theo ủy quyền của ông Wah có trình bày việc ông Lui Kwong Wah đã có thư công bố ngày 15/12/2005 để hủy bỏ thư công bố ngày 06/9/2001, và các tài liệu trước đây ông xác lập có nội dung xác định tư cách đồng sở hữu của bà Kwan Po Ping, ông Lui Lik Chee..., ông Wah cho rằng các tài liệu nêu trên do ông xác lập không còn hiệu lực trong khi bà Kwan Po Ping, ông Lui Lik Chee không thừa nhận nên thư công bố của ông Lui Kwong Wah chỉ là hành vi đơn phương nên không thể xem thư công bố của ông là có giá trị để từ đó xác định ông là chủ sở hữu duy nhất của Công ty Madarin Hong Kong. d) Xét thấy tại phiên Tòa, ông Lui Kwong Wah và đại diện theo ủy quyền của ông trình bày theo luật pháp quốc tế thì doanh nghiệp có thể ngưng họat động trong nước để đầu tư ra nước ngoài, trình bày này của đại diện ông Wah nhằm xác định công ty Madarin Hong Kong hiện nay vẫn còn tồn tại là không có cơ sở vì không phù hợp với mục A.1 Phần thứ hai – Kết quả thanh tra (trang 3) và mục A. I, II Kết luận (trang 18) của Kết luận thanh tra số 7392/KLĐT-TTr ngày 16/11/2007 của Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh về tình hình họat động kinh doanh của Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn (Đòan thanh tra theo Quyết định số 094/QĐ-SKHĐT ngày 30/5/2007) đồng thời cũng không phù hợp với văn bản của Cục Thuế vụ gửi cho ông Wah ngày 20/02/2004 (được ông Lui Kwong Wah thừa nhận), văn bản có nội dung “do Công ty Madarin (Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số : 0636577-000) vào ngày 02 tháng 7 năm 1991, vì doanh nghiệp này đã ngừng họat động kinh doanh hơn 10 năm. Căn cứ theo Điều 4(4) “Quy định đăng ký kinh doanh” chúng tôi đã xóa bỏ dữ liệu của công ty này trong sổ đăng ký kinh doanh. Vì vậy chúng tôi không thể đáp ứng yêu cầu của ông căn cứ theo Điều 19 “Quy định đăng ký kinh doanh” cấp giấy chứng nhận kiểm tra và phó bản Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp này, hoặc trích lục dữ liệu từ sổ đăng ký”. e) Xét thấy quyết định công nhận hòa giải thành vụ kiện số 20/06 ngày 30/12/2006 của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam công nhận biên bản hòa giải thành lập ngày 30/12/2006 tuy tại Điều 2 không xác định việc thay thế hai thành viên Hội đồng quản trị là thành viên cụ thể nào nhưng Biên bản xác định rỏ việc thay thế hai thành viên Hội đồng quản trị phải được thực hiện theo đúng quy định pháp luật hiện hành, hợp đồng liên doanh và Điều lệ liên doanh Nhà hàng ăn uống Sài gòn, đồng thời tại bản kết luận thanh tra số 7392/KHĐT-TTr ngày 16/11/2007 của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh mục IX (trang 30) cũng thể hiện “Giao Phòng doanh nghiệp nước ngoài hướng dẫn và cấp Giấy xác nhận thay đổi thành viên Hội đồng quản trị trong Công ty liên doanh theo đúng quy định của pháp luật, quyết định của Trọng tài Quốc tế. Căn cứ vào các nội dung đã viện dẫn trên và qua các nhận xét đã được phân tích tại các phần trên. Xét thấy việc Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh ban hành Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007, về trình tự, thủ tục thực hiện là chưa phù hợp với Điều 8 của Điều lệ liên doanh khi tại phiên Tòa các đương sự đồng xác định ngoài biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 10/7/2007 ( với ý kiến của cá nhân ông Lui Kwong Wah) thì không còn biên bản nào khác; đồng thời cũng không phù hợp với Điều 22 của Hợp đồng liên doanh vì tại Điều 22 phải thỏa mãn điều kiện “có lý do chính đáng, không ảnh hưởng đến họat động của công ty”, trong khi đó trước khi ban hành Giấy xác nhận, theo thừa nhận của đại diện người bị kiện cho thấy người bị kiện đã biết rỏ những mâu thuẫn đang tồn tại, đang diễn ra trong nội bộ bên nước ngoài, trong liên doanh và đang ảnh hưởng đến họat động của liên doanh. Đối với Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007. Xét thấy rại phiên Tòa, đại diện người bị kiện cho rằng căn cứ vào Giấy xác nhận tư cách thành viên Hội đồng quản trị (ông Nguyễn Sơn Trà, bà Thái Thị Cẩm Tú) của Giấy xác nhận 7726 ngày 30/11/2006 do đó các cuộc họp của Hội đồng quản trị ngày 03/12/2007, ngày 18/12/2007 ( có sự tham gia của hai thành viên này ) là đúng thành phần. Do đó các biên bản này được Sở Kế họach và đầu tư làm căn cứ để ban hành Giấy xác nhận 8206 ngày 21/12/2007. Xét thấy tại kết luận thanh tra (nêu trên) đã nhận xét giữa Điều 22 Hợp đồng liên doanh và Điều 8 Điều lệ liên doanh có sự mâu thuẫn nhau, và tại Mục 6 Công văn số 9087/BKH-KCN&KCX ngày 07/12/2006 của Bộ Kế họach và Đầu tư khi trả lời về các nội dung có liên quan đến việc thực hiện luật Đầu tư, luật Doanh nghiệp có nội dung : Pháp luật về Đầu tư và Pháp luật về doanh nghiệp không quy định doanh nghiệp phải đăng ký nhân sự chủ chốt. Tuy nhiên do các pháp luật khác yêu cầu phải có xác nhận thì mới làm các thủ tục liên quan như khắc dấu, làm visa… Nếu nhà đầu tư có nhu cầuthì Sở Kế họach và Đầu tư hoặc Ban quản lý Khu công nghiệp cần xác nhận cho nhà đầu tư. Do pháp luật không có quy định, do đó căn cứ vào văn bản của Bộ Kế họach và Đầu tư đã nêu rỏ Sở Kế họach và đầu tư khi xác nhận cho doanh nghiệp ( nhà đầu tư) phải xuất phát từ “ nhu cầu của nhà đầu tư” và Sở “ cần phải xác nhận ”, để nhà đầu tư (doanh nghiệp )làm các thủ tục cần thiết xuất phát từ “ các văn bản pháp luật khác yêu cầu phải có xác nhận như làm vi sa, khắc dấu,... ”, do đó trong trường hợp cụ thể tại Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn khi nội dung Hợp đồng liên doanh, và nội dung của Điều lệ liên doanh có mâu thuẫn với nhau tranh chấp bên nước ngoài về vốn, địa vị pháp lý đang được Tòa án Tối cao tại Hong Kong giải quyết” do vậy việc Sở Kế họach và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy xác nhận là không phù hợp với nội dung văn bản hướng dẫn của Bộ Kế họach và đầu tư. Đối với các cuộc họp được Hội đồng quản trị Công ty liên doanh Nhà hàng ăn uống Sài Gòn tổ chức vào tháng 12 . Hội đồng xét xử nhận xét như sau: */ Biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị Công ty liên doanh ngày 03/12/2007 có nội dung “công bố Giấy xác nhận 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007” ; - Nghị quyết Hội đồng Quản trị Công ty liên doanh nhà hàng ăn uống Sài Gòn ngày 03/12/2007 có nội dung “Tiếp nhận và thực hiện ngay giấy xác nhận 7726 thay đổi thành viên của Hội đồng quản trị của phía nước ngoài” - Công văn số 63/07 ngày 03/12/2007 của Hội đồng Quản trị có nội dung “ Thực hiện việc sắp xếp lại việc thay đổi nhân sự tham gia Hội đồng quản trị của phía nước ngoài theo Giấy xác nhận số 7726 ngày 30/11/2007 của Sở Kế họach và đầu tư....kính đề nghị Giám đốc Sở xác nhận việc bổ nhiệm....” */. 02 Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 17/12/2007 có nội dung “bãi nhiệm chức vụ của ông Lui Lik Chee và bãi nhiệm chức vụ của bà Kwan Po Ping” ( kèm theo hai biên bản là hai nghị quyết); Qua nội dung của các cuộc họp đã được nêu trên, Xét thấy việc Sở Kế họach và đầu tư cho rằng những biên bản, những nghị quyết này là cơ sở pháp lý, thể hiện sự chủ động đề nghị của doanh nghiệp và Giấy xác nhận của Sở Kế họach và đầu tư chỉ có ý nghĩa Nhà nước ghi nhận quyền tự chủ động quyết định của doanh nghiệp, của nhà đầu tư là không phù hợp với diễn biến sự việc, và không đúng với trình tự, thủ tục đã được quy định trong Hợp đồng liên doanh, Điều lệ liên doanh. Từ những nhận xét trên. Xét thấy khiếu kiện của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping yêu cầu hủy hai Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành là có căn cứ được chấp nhận. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm được trả lại là 50.000 đồng (năm mươi ngàn) tiền tạm ứng án phí đã tạm nộp theo hai biên lai thu số 004384, quyển 088 ngày 07/3/2008 của Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh; Bởi các lẽ trên; Căn cứ điều 2, khoản 6 điều 11 , điều 29, điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006; Căn cứ điều 27 và khoản 1 điều 30 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về lệ phí, án phí Tòa án, QUYẾT ĐỊNH: 1. Xử: Chấp nhận đơn khiếu kiện của ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping về việc hủy hai Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh; Hủy hai Giấy xác nhận số 7726/SKHĐT-DN ngày 30/11/2007 và Giấy xác nhận 8206/SKHĐT-DN ngày 21/12/2007 của Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành. 2. Về án phí: Ông Lui Lik Chee và bà Kwan Po Ping không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, được trả lại là 50.000 đồng (năm mươi ngàn) tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm theo biên lai thu tiền số 004384 quyển 088 ngày 07/3/2008 của thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Ông Lui Lik Chee vắng mặt thời hạn kháng cáo của ông Chee là 10 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Thi hành án dân sự; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Trương Quế Phượng
Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai
Số hiệu 176/2009/HCPT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai Ngày ban hành 16/01/2009 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 176/2009/HCPT Ngày: 16/01/2009 V/v: Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Anh. Các thẩm phán: 1/ Bà Trần Thị Lệ Uyên. 2/ Ông Lê Hoàng Tấn. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hợi – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Rân – Kiểm sát viên. Ngày 16 tháng 01 năm 2009 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính đã thụ lý số 56/2008-TLPT-HC ngày 20-10-2008, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chinh về quản lý đất đai” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2008/QĐPT-HC ngày 04/12/2008 giữa: Người khởi kiện: Bà Dương Thị Léo, sinh năm 1973. Trú tại: 64/6 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Có Luật sư Trang Sĩ Xê bảo vệ quyền lợi cho người khởi kiện. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Trụ sở: 01 Lý Nam Đế, Thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Văn Quí, sinh năm 1956. Chức vụ: Chuyên viên Phòng Tài Nguyên và Môi Trường. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: 1/ Ông Nguyễn Hữu Phước, sinh năm 1960 Trú tại: 60/5C ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1957. Trú tại: 48/18 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 2/ Ông Dương Văn Mạo, sinh năm 1955 Trú tại: 64/3B ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 3/ Bà Dương Thị Trang, sinh năm 1964. Trú tại: 64/3D ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 4/ Ông Dương Văn Hoàng, sinh năm 1966 Trú tại: 64/3A ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 5/ Bà Dương Thị Khéo, sinh năm 1971. Trú tại: 64/3 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 6/ Ông Dương Văn Biếc, sinh năm 1979. Trú tại: 64/3 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Mạo, ông Hoàng, bà Khéo, ông Biếc cùng ủy quyền cho bà Dương Thị Léo làm đại diện. Án sơ thẩm do bà Dương Thị Léo kháng cáo. NHẬN THẤY: Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau: Bà Dương Thị Léo và các ông bà Dương Văn Mạo, Dương Thị Trang, Dương Văn Hoàng, Dương Thị Khéo, Dương Văn Biếc là con của bà Nguyễn Thị Gắt đã chết năm 2004 và ông Dương Văn Diện đã chết năm 1989. Ngày 10/11/1992 bà Nguyễn Thị Gắt được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm các thửa 726,741,745,1017,1504,1785,1784 tờ bản đồ số 2 và 4 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Nguồn gốc phần đất trên là do ông Dương Văn Giáo khai hoang từ năm 1930, ông Giáo chết để lại cho ông Dương Văn Diện là cha của bà Léo và vợ là Nguyễn Thị Gắt sử dụng. Năm 1989 ông Diện mất bà Gắt tiếp tục kê khai đăng ký và đến năm 1992 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi cha bà Léo còn sống trên thửa đất 1784 tờ bản đồ số 4 có vài ngôi mộ bằng đá ong, sau khi ông Giáo mất ông Diện có cho một số gia đình chôn cất người thân trong đó có mồ mả ông, bà của ông Nguyễn Hữu Phước hiện nay trên đất có khỏang 70 ngôi mộ. Năm 2006 ông Phước đứng ra tranh chấp cho rằng đất này là đất của gia tộc ông và sau đó khiếu nại ở xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Ngày 24/07/2007 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định 217/QĐ-UBNDvới nội dung thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2 tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn đã cấp cho bà Nguyễn Thị Gắt theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ – quyết định số 50/QĐUB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn với lý do cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trên đất đã có mồ mả. Không đồng ý với quyết định nói trên bà khiếu nại, ngày 16/11/2007 Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn đã ban hành quyết định số 357/QĐ-UBND bác yêu cầu khiếu nại của bà giữ nguyên quyết định 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007. Bà Léo yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn với lý do Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành các quyết định trên vi phạm quy định của Luật Đất đai làm xâm hại đến lợi ích của bà. Đại diện Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn trình bày: Năm 2006 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn nhận đơn khiếu nại của ông Nguyễn Hữu Phước về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Gắt vì trên đất có mồ mả ông bà của ông Phước. Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn nhận thấy thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2là đất thổ mộ. Trước năm 1975 thuộc thửa 123 tờ bản đồ số 5 diện tích 5.184m2 là lọai đất màu và đất chuyên dùng khác, sau 1975 thuộc 2 thừa 1784 và 1785 trong đó thửa 1784 tờ bản đồ số 4 là đất chuyên dùng khác bà Nguyễn Thị Gắt mới đăng ký từ năm 1990. Thực tế thửa 1784 tờ bản đồ số 4 có 70 ngôi mộ các lọai, trong số các ngôi mộ trên đất có những mộ được chôn cất từ lúc ông Giáo còn sống đến khi ông Diện quản lý thì vẫn tiếp tục cho chôn cất tiếp cho đến nay trong đó có cả mộ của họ hàng bà Léo. Theo tài liệu 299/1982 đất do bà Nguyễn Thị Đua đăng ký thửa 1214 diện tích 600m2/5.184m2 tờ bản đồ số 4 lọai đất chuyên dùng khác và đất màu. Theo tài liệu 02/1990 do bà Nguyễn Thị Gắt đăng ký thuộc thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2 loại đất chuyên dùng khác . Ngày 10/11/1992 bà Nguyễn Thị Gắt được Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 24/07/2007 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định số 217/QĐ-UBND với nội dung thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 diện tích 1.188m2 tại xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn đã cấp cho bà Nguyễn Thị Gắt theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ – quyết định số 50/QĐUB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn với lý do cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trên đất đã có mồ mả và giao lại cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết cử người trông nom mồ mả của gia tộc trên thửa đất 1784. Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn vẫn giữ nguyên quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: 1/ Ông Nguyễn Hữu Phước trình bày: Nguồn gốc đất là của gia tộc bà Léo, trên đất có chôn ông, bà và người thân quen tổng cộng có khỏang 60 ngôi mộ. Việc Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định 217/QĐ-UBND với nội dung thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 tại xã Xuân Thới Thượng huyện Hóc Môn là đúng với thực tế. Ông yêu cầu giữ nguyên quyết định nói trên. 2/ Bà Dương Thị Léo đại diện cho ông Dương Văn Mạo, ông Dương Văn Hoàng, bà Dương Thị Khéo, ông Dương Văn Biếc yêu cầu hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. 3/ Bà Dương Thị Trang không có ý kiến về khiếu kiện của bà Léo. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 06/2008/HC-ST ngày của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn đã quyết định: Căn cứ Điều 49 Luật Đất đai 2003. Bác yêu cầu của người khởi kiện bà Dương Thị Léo yêu cầu hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. Chấp nhận yêu cầu của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn và ông Nguyễn Hữu Phước không đồng ý hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 và quyết định số 357/QĐ-UBND ngày 16/11/2007 cuả Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn. Căn cứ Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ quy định về án phí lệ phí Tòa án. An phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng bà Léo phải chịu được khấu trừ vào 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 09654 ngày 31/01/2008 của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 02/10/2008 bà Dương Thị Léo có đơn kháng cáo yêu cầu yêu cầu huỷ quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 cuả Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 18/12/2008. Người khởi kiện bà Dương Thị Léo vẫn giữ nguyên khởi kiện và kháng cáo yêu cầu yêu cầu huỷ quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Đại diện cho bên bị kiện Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn đồng ý rút điểm b Điều 2 của quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007, các phần khác của quyết định yêu cầu giữ nguyên. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Đại diện cho ông Nguyễn Văn Phước cho rằng trên thửa đất 1784 có mộ của bà Nguyễn Thị Yến là em gái ông Phước, và mộ bà cố, ông cố của ông Phứớc là bà Nguyễn Thị Xạ, ông Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Đa nên yêu cầu giữ nguyên án sơ thẩm. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Léo cho rằng Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn thu hồi đất vì trên đất có mồ mả nhưng không xác định thân nhân của những ngôi mộ là ai, các ngôi mộ chiếm diện tích bao nhiêu, quyết định giao cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết cử người trông coi mồ mả nhưng không xác định thân tộc ông Thiết là ai, có bao nhiêu người, cấp sơ thẩm không triệu tập thân nhân của những mộ có trên đất tham gia tố tụng là có thiếu sót nên đề nghị hủy quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Do đại diện Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn rút một phần của quyết định bị khiếu kiện nên phiên tòa tạm dừng chờ Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định mới sửa đổi bổ sung. Ngày 06/01/2009 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định số 17/QĐ-UBND điều chỉnh một phần quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Ngày 14/01/2009 bà Dương Thị Léo rút toàn bộ đơn khởi kiện. Tại phiên Tòa phúc thẩm hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cho rằng việc Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn rút điểm b Điều 2 của quyết định 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007, các phần khác giữ nguyên là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật, bà Dương Thị Léo đã có đơn rút đơn khởi kiện, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 41 và điểm đ khoản 2 Điều 64 đề nghị hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên họp và nghe đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên họp, Hội đồng xét xử nhận định. Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ/10/11/92, quyết định số 50/QĐ-UB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn thì bà Nguyễn Thị Gắt được quyền sử dụng 8.683m2 đất thuộc các thửa 745,741, 726, tờ bản đồ số 2 và thửa 1504, 1017, 1785, 1784 tờ bản đồ số 4 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn, trong đó thửa 1784 tờ bản đồ số 4 có diện tích 1.188m2 thuộc loại đất chuyên dùng khác. Ngày 18/03/2004 bà Nguyễn Thị Gắt chết, bà Dương Thị Léo là con của bà Gắt tiếp tục quản lý sử dụng thửa đất 1784 diện tích 1.188m2 mà trên thửa đất này có khoản 70 ngôi mộ là người trong thân tộc bà Léo. Ngày 24/07/2007 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ra quyết định số 217/QĐ-UBND thu hồi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1784 tờ bản đồ số 4 có diện tích 1.188m2 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00914/QSDĐ/10/11/92, quyết định số 50/QĐ-UB ngày 10/11/1992 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn đã cấp cho bà Nguyễn Thị Gắt với lý do “Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trên đất đã có mồ mả” đồng thời giao cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết cử người trông coi mồ mả. Bà Dương Thị Léo khiếu kiện và kháng cáo cho rằng việc thu hồi và giao đất như quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn nói trên là xâm hại đến lợi ích của bà; Trong quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn xác nhận rằng trên thửa đất 1784 tờ bản đồ số 4 xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn có diện tích 1.188m2 thuộc khu dân cư hiện có khoản 70 ngôi mộ mà thân nhân của những ngôi mộ này là ai, 70 ngôi mộ chiếm bao nhiêu diện tích và nằm ở vị trí nào của thửa 1784 Ủy ban nhân dân huyện không xác định được; Việc Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn giao cho gia tộc ông Nguyễn Văn Thiết quản lý các ngôi mộ trong thửa đất 1784 là chưa chính xác. Đại diện phía ông Phước thì cho rằng trên thửa đất 1784 có một ngôi mộ của em gái ông Phước và 03 ngôi mộ của cụ cố của mẹ ông Phước đồng thời cũng là cụ cố của bà Nguyễn Thị Gắt (mẹ bà Léo). Ngày 06/01/2009 Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ban hành quyết định số17/QĐ-UBND điều chỉnh một phần quyết định số 217/QĐ-UBND ngày 24/07/2007 của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Ngày 14/01/2009 bà Dương Thị Léo có đơn rút đơn khởi kiện. Xét việc rút đơn kiện của bà Dương Thị Léo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 và điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính nên cần phải hủy án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành ngày 01/06/2006. QUYẾT ĐỊNH: Áp dụng Nghị định 70/CP của Chính phủ ngày 12/06/1997 về án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận việc bà Dương Thị Léo rút toàn bộ đơn khởi kiện; Hủy bản án hành chính sơ thẩm số 06/2008/HC-ST ngày 29/09/2008 của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn về việc “Khiếu kiện quyết định hành chinh về quản lý đất đai” giữa người khởi kiện: bà Dương Thị Léo với người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn. Đình chỉ giải quyết vụ án hành chính phúc thẩm đã thụ lý số 56/2008/TLPT-HCngày 20/10/2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. An phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng bà Dương Thị Léo phải chịu được khấu trừ 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 09654 ngày 21/01/2008 của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. An phí hành chính phúc thẩm 50.000 đồng không ai phải chịu, hoàn tạm ứng án phí 50.000 đồng cho bà Léo theo biên lai thu số 05299 ngày 02/10/2008 của cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn; - Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Đinh Thị Ánh
Số hiệu 64/2009/HC-PT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế Ngày ban hành 09/01/2009 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số : 64/2009/HC-PT Ngày: 09/01/2009 NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán: Bà Trương Quế Phượng. Các Thẩm phán : 1. Bà Trần Thị Lệ Uyên 2. Bà Đinh Thị Ánh Thư ký Tòa An ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Tư - Kiểm sát viên. Ngày 02 và ngày 09 tháng 01 năm 2009 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử phúc thẩm công khai đối với vụ án khiếu kiện “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” do Tòa án nhân dân quận 12 đã xét xử sơ thẩm bằng bản án số 05/2008/HCST ngày 15/7/2008 giữa các đương sự: Người khởi kiện: Ông Tôn Thất Lộc, sinh năm 1964 Địa chỉ 68A, tổ 6, khu phố 7, phường Tân Hưng Thuận , quận 12, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Tôn Nữ Thị Trinh, sinh năm 1962. Địa chỉ: 6A, cư xá Bà Điểm, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh; theo văn bản ủy quyền lập ngày 29/01/2008, số chứng thực 16. quyển 1 TP/CC-SCC/HĐGD của Ủy ban nhân dân quận 12 (bút lục 132) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Trần Văn Việt – Thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Người bị kiện: Chi Cục Thuế Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh Trụ sở: 27 Quốc lộ 1A, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền của người bị kịện: 1. Ông Trương Khánh Cường – Đội phó Đội kiểm tra thuế quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Ông Nguyễn Thanh Bé – Chuyên viên Phòng Pháp chế Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh. Ông Cường và ông Bé được Chi Cục trưởng Chi cục Thuế quận 12, ủy quyền theo giấy ủy quyền số 1071/CCT ngày 15/12/2008. (Các đương sự có mặt) ; Nhân chứng: 1. Ông Nguyễn Thành Sơn – Tổ trưởng tổ thú y – trạm Thú y quận 12. Có mặt Địa chỉ: 384/34 KP3, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 2. Ông Nguyễn Huy Hoàng, vắng mặt Địa chỉ: 91A7/5 Phạm Văn Hai, phường 13 quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. 3. Bà Nguyễn Thị Phương Nhi, có mặt Địa chỉ: 20 đường số 2, phường Hiệp Bình Chánh quận Thủ Đức, thành phố Hố Chí Minh. 4. Ông Nguyễn Bá Lực, có mặt Địa chỉ: 453/56KH Lê Văn Sĩ, phường 12, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. 5. Ông Nguyễn Vũ Trường Giang, vắng mặt Địa chỉ: 541/109 Huỳnh Văn Bánh, phường 14 quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ông Phạm Văn Trung, vắng mặt Địa chỉ: C12, Tân Sơn, phường 12 quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. 7. Ông Vũ Đình Trúc, vắng mặt Địa chỉ: Tổ 19, khu phố 1, phường Trung Mỹ Tây, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh 8. Ông Nguyễn Văn Tú, vắng mặt Địa chỉ: 177, khu phố 6, phường Tân Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 9. Bà Nguyễn Thị Hồng, vắng mặt Địa chỉ: 69/5 khu phố 7, phường Tân Thới Nhất, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. 10. Bà Huỳnh Thị Xuân, vắng mặt Địa chỉ: 52/6 ấp Đông Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. An sơ thẩm do ông Tôn Thất Lộc kháng cáo. NHẬN THẤY Theo án sơ thẩm nội dung vụ án như sau: Ngày 17/12/2007, ông Lộc có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân quận 12, yêu cầu Tòa hủy hai quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 và quyết định số 2124/Qđ-XPHC ngày 21/11/2007 của Chi cục Thuế quận 12 ban hành vì cho rằng hai quyết định này trái pháp luật, quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 có nội dung truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp với với ông Lộc, số tiền truy thu tổng cộng là 413.737.537 đồng (bốn trăm mười ba triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm ba mươi bảy đồng). Trong giai đọan Tòa án nhân dân quận 12 thụ lý giải quyết vụ án hành chính số 08/2007/TLST-HC do ông Lộc khởi kiện thì ngày 17/3/2008 Chi cục Thuế quận 12 ban hành quyết định số 2331 sửa đổi điều 1 của quyết định 2124/QĐ-XPHC, bỏ hình phạt chính là chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xử lý hành vi của ông Lộc, thay bằng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra là truy thu thuế ẩn lậu với số tiền đã nêu tại quyết định 2124 là 413.737.537 đồng (bốn trăm mười ba triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm ba mươi bảy đồng), các phần còn lại vẫn giữ nguyên. Ngày 24/3/2008, ông Lộc khiếu nại quyết định 2331/QĐ-CCT ngày 17/3/2008 và Chi cục Thuế quận 12 đã có văn bản số 244/CCT ngày 07/4/2008 từ chối giải quyết khiếu nại của ông Lộc. Ngày 02/5/2008 ông Lộc đã khởi kiện quyết định 2331 tại Tòa án quận 12, được Tòa án quận 12 thụ lý giải quyết theo số thụ lý 05/2008/TLST-HC ngày 02/5/2008. Đồng thời ngày 18/6/2008 ông Lộc cũng có yêu cầu đề nghị Tòa xét hủy quyết định 2331 trong cùng vụ án thụ lý số 08/2007/TLST-HC ngày 17/12/2007 do đó Tòa án quận 12 đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án hành chính số 01/2008/QĐ-TĐCngày 20/6/2008 về việc xét quyết định số 2331 tại vụ án hành chính thụ lý số05/2008/TLST-HC ngày 02/5/2008 và xem xét yêu cầu bổ sung ông Lộc về việc yêu cầu hủy quyết định 2331 trong cùng vụ án thụ lý số 08/2007/TLST-HC ngày 17/12/2007. Chi cục Thuế quận 12 xác định quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007, quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007, quyết định số 2331/QĐ-CCT ngày 17/3/2008 được ban hành là đúng pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 12 đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc, giữ nguyên các quyết định của Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành. Tại bản án hành chính sơ thẩm số: 05/2008/HCST ngày 15 tháng 7 năm 2008 Toà án nhân dân quận 12 đã quyết định: Căn cứ Luật Thuế Giá trị gia tăng; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; Điều 46 luật Khiếu nại, tố cáo; Điều 2, khoản 10 Điều 11, Điều 12 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; Nghị định 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ; Nghị định 98/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007 của Chính phủ; Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính Phủ quy định về án phí, lệ phí tòa án. Xử: 1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc về việc yêu cầu Tòa tuyên hủy các quyết định sau đây của Chi cục Thuế quận 12: - Quyết định 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; - Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007; - Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 2. An phí hành chính sơ thẩm 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng)ông Tôn Thất Lộc phải nộp, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm ông Lộc đã nộp là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số 007643 ngày 17/12/2007 của Thi hành án dân sự quận 12 Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 17/7/2008 ông Tôn Thất Lộc có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; Lý do kháng cáo như sau: - Ông Lộc cho rằng quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 của Chi cục thuế quận 12 truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp , buộc ông phải nộp số tiền tổng cộng 413.737.537 đồng (bốn trăm mười ba triệu, bảy trăm ba mươi bảy ngàn, năm trăm ba mươi bảy đồng) là không đúng do ông không trực tiếp kinh doanh giết mổ heo mà ông chỉ cho thuê mặt bằng để các cá nhân, các hộ tự giết mổ. Số tiền ông cho thuê mặt bằng hàng tháng trước đây là 22.500.000 đồng, sau tăng lên là 24.000.000 đồng. Do đó ông Lộc cho rằng ông không có hành vi kinh doanh như Quyết định nêu nên ông không phải chịu khoản tiền thuế này. - Hàng tháng ông đều nộp đủ khoản tiền thuế cho Nhà nước theo như thông báo của cơ quan Thuế, hình thức nộp thuế của ông là “thuế ổn định” tức là “thuế khóan”; - Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 của Chi cục Thếu quận 12 là quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng không được lập đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định, trước khi ban hành quyết định chi cục Thuế quận 12 không lập biên bản vi phạm hành chính, ngoài ra ông Lộc cho rằng quyết định số 2124 và 2331 do Chi cục Thuế quận 12 ban hành chỉ nhằm mục đích sửa chữa bổ sung cho quyết định 1826. Từ những lý do trên ông Lộc yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông. Tại phiên toà phúc thẩm: Bà Tôn Nữ Thị Trinh đại diện cho ông Tôn Thất Lộc trình bày yêu cầu kháng cáo như sau: 1. Về nội dung kháng cáo - Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc (như đơn kháng cáo) cụ thể như sau: Yêu cầu hủy các quyết định do Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành gồm: - Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; - Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; - Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008. 2. Về căn cứ kháng cáo: Bà Trinh cho rằng ba quyết định nói trên được Chi cục Thuế quận 12 ban hành trái pháp luật do: - Không có biên bản vi phạm hành chính để làm căn cứ ban hành quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; - Ông Tôn Thất Lộc không có hành vi vi phạm như Quyết định số 1826 xác định, ông Lộc không có trực tiếp kinh doanh giết mổ heo nên không có thu nhập từ kinh doanh (ẩn lậu), ông Lộc chỉ cho các cá nhân và các hộ thuê mặt bằng để các cá nhân và các hộ tự giết mổ heo, việc ông Lộc cho thuê có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định thông qua các bản hợp đồng, bản khai của các cá nhân, hộ thuê mặt bằng thừa nhận và qua bản xác nhận của tổ thú y thuộc tram thú y quận 12; - Hàng tháng ông Lộc đều nộp đủ số tiền thuế do cơ quan Thuế thông báo nộp, mức thuế được xác định bằng hình thức thuế “ổn định” “thuế khóan”, mức thuế này do cơ quan thuế xác định từ 3 đến 6 tháng; bà Trinh cho rằng khi bà kê khai thuế bà đều có trình bày cho cán bộ thuế biết rỏ việc ông Lộc không kinh doanh giết mổ heo mà chỉ cho các hộ, các cá nhân thuê lại ô chuồng để thực hiện việc giết mổ ( do trước đây tình hình giết mổ gia súc ở quận 12 còn rời rạc, không quản lý được, nên theo chủ trương chung và được địa phương gợi ý do ông Lộc có mặt bằng nên ông Lộc đã xây dựng thành các ô chuồng để việc giết mổ được tập họp lại, nhà nước sẽ quản lý, kiểm sóat việc giết mổ có hiệu quả hơn), bà Trinh trình bày khi kê khai thuế là do cán bộ thuế hướng dẫn, mức tính thuế được tính “ổn định” trên doanh thu cho thuê ô, chồng, việc Chi cục thuế quận 12 cho rằng ông Lộc có hành vi không kê khai thực tế về họat động của ông Lộc là không đúng, vì việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng tất cả mọi người đều biết, tổ thú ý hàng ngày đều có mặt và quản lý lượng heo giết mổ của các cá nhân, các hộ , bà Trinh cho rằng từ trước đến nay nếu như cán bộ thuế yêu cầu các cá nhân, các hộ phải chịu khoản tiền thuế này thì ông Lộc sẽ thông báo cho các cá nhân này biết để họ thực hiện cũng như từ trước đến nay những cá nhân, hộ giết mổ là người trực tiếp nộp khoản tiền phí, lệ phí cho tổ thú y. Do đó bà Trinh yêu cầu Tòa xem xét việc Chi cục thuế quận 12 buộc ông Lộc phải nộp khoản thuế truy thu là không phù hợp pháp luật. Đại diện của người bị kiện (Chi cục Thuế Quận 12) trình bày: Yêu cầu giữ nguyên án sơ thẩm vì các hành vi của Chi cục Thuế quận 12 đã thực hiện để “áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” đối với trường hợp vi phạm của ông Tôn Thất Lộc là có căn cứ đúng với hành vi vi phạm của ông Lộc, đúng với trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định. Cụ thể đại diện cho người bị kiện xác định: - Các Quyết định số 1826/QĐ-XPHC, Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 do Cục Thuế quận 12 ban hành ngày 23/10/2007 có nội dung truy thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập kinh doanh “ẩn lậu” của ông Tôn Thất Lộc, đây không phải là quyết định hành chính xử phạt vi phạm hành chính do đó theo quy định của pháp luật trong trường hợp này thì Chi cục Thuế quận 12 không phải lập biên bản vi phạm hành chính; - Căn cứ theo luật Thuế Giá trị gia tăng và Thuế thu nhập doanh nghiệp, biểu thuế suất và đối chiếu với số lượng heo được giết mổ do Trạm Thu y quận 12 xác định. Từ đó khoản tiền truy thu thuế chi cục Thuế quận 12 xử lý buộc ông Lộc phải truy nộp là có căn cứ đúng pháp luật; - Đại diện cho người bị kiện trình bày, tuy ông Lộc không thừa nhận ông trực tiếp giết mổ heo, và các cá nhân, các hộ thuê ô chuồng của ông Lộc có lời khai xác định thừa nhận việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng là có thực, và mặc dù số phí, lệ phí giết mổ nộp cho Trạm Thú y quận 12 khi thực hiện việc giết mổ heo có lúc do ông Lộc trực tiếp nộp, có lúc do các cá nhân, các hộ giết mổ trực tiếp nộp và trạm thú y quận 12 đã có văn bản, có lời khai tại Tòa xác định thừa nhận việc nhờ ông Lộc thu dùm khoản tiền này cho trạm thú y tuy nhiên quan hệ này cơ quan thuế không biết do ông Lộc không có thông báo với cơ quan thuế, do đó theo theo giấy phép kinh doanh do ông Lộc đứng tên nên cơ quan thuế xác định ông Lộc có hành vi kinh doanh giết mổ heo nên ông Lộc phải nộp khoản tiền thuế này. - Việc ông Lộc nộp thuế hàng tháng theo hình thức “thuế ổn định” là đúng, mặc dù các văn bản pháp luật do Tổng cục thuế ban hành thì cơ quan thuế có trách nhiệm khảo sát, kiểm tra trước khi ấn định mức thuế “ổn định” , đây là thiếu sót của cơ quan thuế. Tuy nhiên mức kê khai thuế là do ông Lộc tự kê khai – tự chịu trách nhiệm, do đó khi xác định được khoản doanh thu thực tế phát sinh từ họat động kinh doanh giết mổ của ông Lộc có chênh lệch so với khoản doanh thu nhập đã kê khai nộp thuế thì ông Lộc phải chịu trách nhiệm để nộp lại cho đúng theo quy định. Đại diện cho ngưới bị kiện yêu cầu Tòa bác kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc. Kiểm sát viên nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc làm trong thời hạn luật định hợp lệ. Về nội dung kháng cáo của ông Lộc (theo đơn kháng cáo) và qua trình bày tại phiên Tòa phúc thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Xét thấy qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, ông Tôn Thất Lộc đựơc Ủy ban nhân dân quận 12 cấp giấy phép kinh doanh hành nghề “giết mổ gia súc” và cơ sở giết mổ do ông Lộc đăng ký có tên gọi là “cơ sở giết mổ trung tâm”. Ông Lộc khởi kiện và kháng cáo yêu cầu hủy các quyết định do Chi cục Thuế quận 12 ban hành có nội dung buộc ông Lộc phải truy nộp khoản tiền thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh thu “ẩn lậu” là không có căn cứ, việc ông Lộc cho rằng ông không có hành vi giết mổ gia súc và chỉ cho các hộ, các cá nhân thuê mặt bằng, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến như sau: Căn cứ vào các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và qua lời khai của các nhân chứng tại phiên tòa, bản xác nhận và lời khai của đại diện Trạm Thú y quận 12 tại phiên Tòa, có căn cứ xác định việc ông Lộc không thực hiện việc giết mổ heo và cho thuê ô, chuồng là có thực nhưng đây là quan hệ giữa cá nhân ông Lộc và các cá nhân, các hộ thuê, quan hệ này ông Lộc không báo cáo với cơ quan thuế, ông Lộc cho rằng có báo cáo nhưng không có tài liệu nào chứng minh, do gia súc được giết mổ từ cơ sở kinh doanh của ông Lộc, mặc dù Trạm thú y nhờ ông Lộc thu hộ được trạm xác nhận, nhưng ông Lộc là người trực tiếp nộp khoản phí thú y này và do gia súc được giết mổ từ cơ sở kinh doanh của ông Lộc do đó việc Chi cục Thuế quận 12 buộc ông Lộc phải nộp khoản thuế từ doanh thu “ẩn lậu” là cần thiết. Từ những nhận xét trên, án sơ thẩm tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc là có căn cứ, kháng cáo của ông Lộc là không có cơ sở để chấp nhận. Do đó đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị xử theo hướng – Bác kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc – Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm– Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lộc về việc Hủy các quyết định do Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành gồm: Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007; Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết qủa tranh luận , ý kiến phát biểu về vụ án của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên Tòa. Hội đồng xét xử nhận định: 1. Về hình thức đơn kháng cáo: Xét bản án hành chính sơ thẩm số 05/2008/HC-ST được Tòa án nhân dân quận 12 tuyên xử ngày 15/7/2008. Ngày 17/7/2008 ông Tôn Thất Lộc có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của ông Lộc làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 56 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006). 2. Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hiệu khởi kiện: Căn cứ vào đơn khởi kiện vụ án hành chính của ông Tôn Thất Lộc có nội dung “yêu cầu hủy quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 , quyết định 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Cục Thuế quận 12 và Quyết định 2331/QĐ-CCT ngày 17/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12”. Xét : - Quyết định số 1826 là quyết định hành chính xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có nội dung “áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” ; - Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Cục Thuế quận 12 ban hành tại Điều 1 có nội dung “ sửa 1 phần căn cứ được nêu tại Quyết định 1826”; - Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 có nội dung “sửa đổi một số nội dung của Quyết định 1826 và quyết định 2124, nội dung được sửa là Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm pháp luật về thuế gây ra trong trường hợp không áp dụng xử phạt”. Xét 3 Quyết định hành chính của Chi cục Thuế quận 12 nói trên được ban hành vào ba thời điểm khác nhau (ngày 23/10/2007, ngày 21/11/2007 và ngày 17/3/ 2008 ) hai quyết định sau được ban hành sau khi ông Tôn Thất Lộc có đơn khiếu nại, và có nội dung điều chỉnh, sửa chữa bổ sung về phần tiêu đề quyết định, về căn cứ pháp luật được áp dụng , về thay đổi hình thức phạt chính đối với quyết định hành chính lần đầu số 1826/QĐ-XPHC ngày 13/10/2007. Cả ba quyết định này tại phần nội dung quyết định đều thể hiện hình thức “áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” đối với ông Tôn Thất Lộc – do đó các quyết định Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành là lọai việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006; Căn cứ vào Quyết định giải quyết khiếu nại số 2310/QĐ/GQKN/CCT ngày 05/12/2007 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 có nội dung “ không công nhận nội dung đơn khiếu nại ngày 25/10/2007 của ông Tôn Thất Lộc – Giữ nguyên quyết định 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 và quyết định 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Chi cục Thuế quận 12” Quyết định giải quyết khiếu nại đã được Chi cuc trưởng Chi cục Thuế quận 12 ban hành theo trình tự, thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định, đây là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại của ông Tôn Thất Lộc. Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại, ngày 17/12/2007 ông Lộc đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu hủy hai quyết định 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 và quyết định 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2007 của Chi cục Thuế quận 12 đã ban hành là có căn cứ đúng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2, khoản 10 Điều 11, điểm c khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; - Đối với quyết định số 2331/CCT ngày 17/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 ban hành sau khi ông Lộc có đơn khiếu nại đối với quyết định 1816 và 2124 , sau khi nhận được quyết định này , ông Tôn Thất Lộc đã khiếu nại theo quy định của luật Khiếu nại, Tố cáo và do Chi cục Thuế quận 12 đã có văn bản số 244/CCT ngày 07/4/2008 từ chối giải quyết khiếu nại của ông Lộc . Ngày 02/5/2008 ông Lộc đã khởi kiện quyết định 2331 tại Tòa án quận 12 và đã được Tòa án quận 12 chấp nhận thụ lý đơn kiện tuy nhiên do quyết định số 2331 chỉ thay đổi phần “ tiêu đề của quyết định” và phần nội dung quyết định “ không áp dụng hình phạt chính đối với ông Tôn Thất Lộc, chỉ còn nội dung áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế vẫn giữ nguyên do đó căn cứ vào yêu cầu bổ sung của ông Tôn Thất Lộc ngày 18/6/2008 , Tòa án quận 12 đã xem xét cả quyết định số 2331 trong cùng vụ án thụ lý số 08/2007/TLST-HC ngày 17/12/2007 là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.. Từ những nhận xét trên - Xét thấy Tòa án nhân dân quận 12 thụ lý giải quyết đơn kiện của ông Lộc là có căn cứ đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hiệu, trình tự, thủ tục khởi kiện đã được quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; 3.Về nội dung kháng cáo: - Xét Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 của Chi cục Thuế quận 12 ban hành tuy quyết định có viện dẫn pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và có tiêu đề “ Quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về Thuế”, tại phần quyết định có nội dung “ áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế” . Xét tại phiên Tòa, đại diện cho người bị kiện trình bày một trong các căn cứ để Chi cục Thuế quận 12 ban hành quyết định 1826/QĐ-XPHC là biên bản kiểm tra được lập để ghi nhận đối với sai phạm diễn ra tại Trung tâm giết mổ gia súc quận 12 , mặc dù biên bản này ông Lộc không ký tên nhưng đã được Đoàn kiểm tra lập theo đúng trình tự pháp luật quy định, có người chứng kiến ký tên do đó xét việc ông Tôn Thất Lộc khởi kiện và kháng cáo cho rằng Cục Thuế quận 12 ban hành quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2007 trái pháp luật do vi phạm về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi không lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 55 Pháp lệnh là không có căn cứ. - Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 729/TM-DV/HKD do Ủy ban nhân dân quận 12 cấp ngày 21/7/2000 có căn cứ xác định ông Tôn Thất Lộc là người đứng tên đăng ký kinh doanh đối với “ Cơ sở giết mổ gia súc trung tâm” được đặt tại địa chỉ số 241/2 khu phố 2, phường Tân Thới Hiệp, quận 12, ngành nghề kinh doanh theo Giấy chứng nhận là: Giết mổ heo; - Căn cứ vào Quyết định số 1514/QĐ-CCT ngày 19/9/2007 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận 12 về việc kiểm tra tình hình giết mổ gia súc năm 2007 tại Cơ sở giết mổ gia súc trung tâm; và căn cứ vào biên bản xác minh do Chi cục Thuế quận 12 lập ngày 24/9/2007 và ngày 25/9/2007 tại Trạm Thú y quận 12 xác định số lượng heo được giết mổ tại cơ sở gia súc trung tâm như sau: · Từ ngày 01/01/2006 - 31/12/2006 là 178.539 con heo; · Từ ngày 01/01/2007 - 19/ 9/2007 là 183.412 con heo; Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, qua lời khai, trình bày của đại diện ông Tôn Thất Lộc, đại diện của người bị kiện tại phiên Tòa phúc thẩm cho thấy ông Tôn Thất Lộc không có yêu cầu kháng cáo, tranh chấp về số lượng heo đã giết mổ tại Trung tâm giết mổ gia súc quận 12 đã được Chi cục thuế quận 12 xác định. Do đó có căn cứ kết luận xác định số luợng heo đã giết mổ tại cơ sở nói trên là đúng thực tế. Xét qua tranh luận của các đương sự tại phiên Tòa phúc thẩm giữa đại diện cho ông Tôn Thất Lộc (người khởi kiện) và đại diện cho Chi cục Thuế quận 12 (người bị kiện) . Để xem xét yêu cầu kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc cần phải xem xét đánh giá hành vi vi phạm pháp luật về thuế của ông Tôn Thất Lộc đối với “doanh thu thực tế phát sinh từ lượng heo giết mổ ” và nghĩa vụ nộp thuế đối với “ khoản doanh thu này”; Tại phiên Tòa , đại diện ông Tôn Thất Lộc cho rằng việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng để các cá nhân và các hộ thuê tự giết mổ đều được ông Lộc báo cáo với cán bộ phụ trách thuế. Lời khai này của ông Lộc phía người bị kiện không thừa nhận, tuy nhiên sau khi xem xét các tài liệu do ông Lộc xuất trình gồm các bản hợp đồng cho thuê ô, chuồng, lời khai của các cá nhân (thuê ô, chuồng), bản xác nhận của ông Nguyễn Thành Sơn (trạm thú y quận 12 – phụ trách kiểm soát thú y của cơ sở giết mổ gia súc Trung tâm) có cơ sở để xác định việc ông Tôn Thất Lộc cho thuê ô, chuồng và doanh thu thực tế của ông Lộc thu về hàng tháng được phát sinh từ họat động cho thuê ô, chuồng là có thực, việc ông Lộc cho thuê ô, chuồng đã được hình thành và diễn ra 1 thời gian dài kể tư khi bắt đầu kinh doanh vào năm 2000 cho đến khi kiểm tra xử lý năm 2007. Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ cho thấy ông Tôn Thất Lộc không có biểu hiện gian dối khi kê khai đối với khoản doanh thu của ông nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Từ những phân tích trên xét thấy tuy rằng Chi cục thuế quận 12 đã kiểm tra, xác minh và đã chứng minh đúng lượng heo giết mổ tại cơ sở giết mổ Trung tâm do ông Tôn Thất Lộc đứng tên đăng ký kinh doanh tuy nhiên việc Chi cục Thuế quận 12 căn cứ lượng heo giết mổ thực tế để từ đó Chi cục Thuế quận 12 xác định ông Tôn Thất Lộc đã có hành vi kê khai không đúng thu nhập và đã không kê khai khoản “ doanh thu ẩn lậu” là không phù hợp với tài liệu, chứng cứ khách quan đã được thu thập trong hồ sơ, bởi lẽ có căn cứ để xác định tuy lượng heo giết mổ thực tế có chênh lệch so với lượng heo kê khai chịu thuế của ông Lộc, nhưng doanh thu hàng tháng của ông Lộc không phát sinh, không được tăng lên từ lượng heo giết mổ chênh lệch này. Căn cứ Quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/7/2004 của Tổng cục Thuế về việc ban hành quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể (có hiệu lực từ ngày 01/10/2004). Tại phần B, mục I có quy định như sau: I/ Đối với hộ ổn định thuế: a.1 Hướng dẫn hộ kinh doanh kê khai doanh thu kinh doanh, nhận tờ khai. b.1 Điều tra doanh thu thực tế: Đội thuế chọn ra một số hộ kinh doanh đại diện cho các ngành, nghề, quy mô kinh doanh để điều tra điển hình làm căn cứ đánh gía tính chính xác của các tờ khai do hộ kinh doanh tự kê khai và làm căn cứ để hiệp thương với hộ kinh doanh kê khai doanh thu không đúng hoặc ấn định thuế đối với những hộ kinh doanh không kê khai, không nộp tờ khai. Kết quả điều tra doanh thu thực tế phải được lập thành biên bản có ký xác nhận giữa Đòan kiểm tra và chủ hộ kinh doanh. Nếu chủ hộ kinh doanh không ký thì phải có xác nhận của các thành viên Đòan kiểm tra và người chứng kiến (nếu có). Kết quả điều tra doanh thu thực tế phải được phản ảnh theo mẫu 04/HKD. c.1 Dự kiến doanh thu tính thuế của từng hộ kinh doanh: - Căn cứ vào tờ khai doanh thu của hộ kinh doanh, căn cứ vào kết quả điều tra doanh thu thực tế. Đội thuế lập danh sách hộ kinh doanh, dự kiến doanh thu của từng hộ kinh doanh theo mẫu số 05/HKD đưa ra trao đổi thống nhất trong Đội thuế. - Đội thuế phải niêm yết công khai doanh thu dự kiến đã thống nhất của từng hộtại địa điểm thích hợp Trụ sở UBND phường, xã. Trụ sở Đội thuế) và thông báo công khai địa điểm niêm yết để hộ kinh doanh biết và tham gia ý kiến, thời gian niêm yết công khai chậm nhất hết ngày 30 của tháng cuối kỳ ổn định hoặc ngày 25 của tháng bắt đầu kinh doanh. Trong thời gian niêm yết công khai, Đội thuế cử cán bộ tiếp xúc và giải thích những thắc mắc của hộ kinh doanh. Sau khi đã công khai, căn cứ ý kiến đóng góp của đại diện hộ kinh doanh Đội thuế điều chỉnh lại những trường hợp bất hợp lý nếu thấy cần thiết. - Doanh thu dự kiến của từng hộ kinh doanh sau khi điều chỉnh (nếu có) Đội Thuế chuyển Hội Đồng tư vấn Thuế tham gia và có ý kiến xác nhận. Trường hợp Hội đồng tư vấn thuế không thống nhất theo Đội thuế giải trình, nếu Hội đồng tư vấn thuế không chấp thuận thì Đội thuế tập hợp báo cáo lãnh đạo Chi cục Thuế quyết định. - Sau khi thực hiện các bước nêu trên Đội thuế tổng hợp kết quả doanh thu dự kiến báo cáo Chi cục Thuế để làm căn cứ tính thuế. - Trường hợp trong thời gian ổn định thuế nếu có sự biến động tăng hoặc giảm từ 25% về doanh thu kinh doanh so với doanh thu đã khóan ổn định do mở rộng thêm kinh doanh, bổ sung mặt hàng, ngành nghề kinh doanh, hay do giá cả tăng (giảm) đột biến thì Đội thuế yêu cầu hộ kinh doanh kê khai lại doanh thu kinh doanh với cơ quan thuế. Đội thuế căn cứ vào tình hình thực tế họat động kinh doanh và kê khai của hộ để ấn định lại doanh thu tính thuế” Xét tại phiên Tòa đại diện Chi cục Thuế quận 12 đã xác định lọai hình thuế được cơ quan Thuế áp dụng đối với ông Tôn Thất Lộc là “ thuế ổn định 6 tháng”. Xác nhận này của Chi cục Thuế quận 12 phù hợp với lời khai của ông Tôn Thất Lộc và phù hợp với đề xuất của Đội quản lý thuế đã được lãnh đạo Chi cục Thuế quận 12 chấp thuận ( phù hợp với điểm c.1 viện dẫn trên ) Tính đến thời điểm ban hành quyết định 1826 thì lọai hình thuế này vẫn được duy trì, áp dụng và ông Tôn Thất Lộc đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Căn cứ vào quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/7/2004 của Tổng cục Thuế về việc ban hành quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể thì quan hệ xác lập thuế giữa ông Tôn Thất Lộc và cơ quan Thuế được căn cứ theo điểm a, b, c mục I phần B ( trích dẫn trên) . Xét việc người bị kiện cho rằng ông Tôn Thất Lộc đã tự kê khai và phải chịu trách nhiệm về kê khai của mình. Tuy nhiên theo trình bày của Trạm Thú y quận 12 thì “việc giết mổ tại trung tâm đều được Trạm Thú y theo dõi, quản lý hàng ngày từ số lượng heo giết mổ nhập về và lượng heo đưa ra thị trường tiêu thụ” do đó trong trường hợp này quyền và nghĩa vụ của người kê khai và của cơ quan Thuế thực hiện theo theo điểm a, b, c mục I phần B của quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB ngày 26/7/2004 là hòan tòan thuận lợi. Căn cứ Điều 1 luật Thuế thu nhập doanh nghiệp được Quốc Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/6/2003 (được Chủ tịch nước công bố theo Lệnh số 18/2003/L-CTN ngày 26/6/2003) quy định : “ Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp Tổ chức, cá nhân sản xuất , kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (dưới đây gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ đối tượng được quy định tại Điều 2 của luật này”. Từ những nhận xét trên; Xét thấy có căn cứ xác định ông Tôn Thất Lộc không có hành vi “giết mổ”, ông Lộc không có khoản “ thu nhập” từ hành vi này là có thực; Xét tại phiên Tòa , qua trình bày của các hộ, các cá nhân có thuê ô, chuồng của ông Tôn Thất Lộc cũng như của đại diện Tổ thú y quận 12 thì đại diện người bị kiện cho rằng mặc dù ông Lộc cho thuê ô chuồng có thể là thực nhưng do ông Lộc đứng tên đăng ký kinh doanh nên ông phải chịu trách nhiệm , tuy nhiên khi xử lý vụ việc thì Chi cục thuế quận 12 lại buộc ông Lộc phải chịu trách nhiệm về hành vi ông không kê khai đối với khỏan “doanh thu ẩn lậu” là không đúng với tính chất sai phạm, với tài liệu chứng cứ đã phản ánh trong hồ sơ. Việc Chi cục thuế quận 12 ban hành buộc ông Lộc phải nộp bổ sung khoản thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản doanh thu “ ẩn lậu ” là không có căn cứ , kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc là có cơ sở nên được chấp nhận sửa án sơ thẩm; Do kháng cáo được chấp nhận ông Tôn Thất Lộc không phải chịu án phí phúc thẩm, án phí sơ thẩm do người bị kiện chịu; Căn cứ Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính (đã sửa đổi, bổ sung năm 1998, 2006); Căn cứ Điều 27, khoản 2 Điều 30 Nghị định Chính phủ số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí Tòa án; QUYẾT ĐỊNH: 1. Về hình thức: Đơn kháng cáo của của ông Tôn Thất Lộc làm trong thời hạn hợp lệ. 2. Về nội dung: Chấp nhận kháng cáo của ông Tôn Thất Lộc. Sửa phần quyết định của bản án sơ thẩm . Tuyên Xử: Chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của ông Tôn Thất Lộc về việc hủy các Quyết định số 1826/QĐ-XPHC ngày 23/10/2008, Quyết định số 2124/QĐ-XPHC ngày 21/11/2008; Quyết định 2331/CCT ngày 17/3/2008 do Chi Cục Thuế quận 12 ban hành. 3. Về án phí: Ông Tôn Thất Lộc không phải chịu án phí phúc thẩm được trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tạm nộp là 50.000 (năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 008272, quyển 0166 ngày 17/7/2008 của Thi hành án Dân sự quận 12. Chi cục Thuế quận 12 phải chịu án phí sơ thẩm là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Trả lại cho ông Tôn Thất Lộc tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) theo biên lại thu tiền số 007643 ngày 17/12/2007 của Thi hành án Dân sự quận 12. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Tòa án nhân dân quận 12; - Thi hành án dân sự quận 12; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Trương Quế Phượng
Khởi kiện “quyết định hành chính trong việc áp dụng thuế, truy thu thuế..."
Số hiệu 1682/2008/HC-ST Tiêu đề Khởi kiện “quyết định hành chính trong việc áp dụng thuế, truy thu thuế...” Ngày ban hành 06/10/2008 Cấp xét sử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________________ CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________________________________________________________ Bản án số: 1682/2008/HC-ST Ngày : 06/ 10/2008 Thụ lý số: 13/2008/TLST-HC Ngày : 10/7/2008. NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Chủ tọa phiên tòa - Thẩm phán: Bà Trương Quế Phượng Các Hội Thẩm Nhân Dân: 1. Ông Phạm Công Nhân 2. Bà Đặng Kim Dung Thư ký Tòa An ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Thị Hương. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: BàNguyễn Thị Tiểu Hồng - Kiểm sát viên Trong các ngày 29 tháng 9 và 06 tháng 10 năm 2008 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án khởi kiện “quyết định hành chính trong việc áp dụng thuế, truy thu thuế..” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1649/2008/QĐST-HC ngày 12/9/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữa các đương sự: Người khởi kiện: Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học T.H.M.S Địa chỉ: 87 Phù Đổng Thiên Vương, phường 11, quận 5 Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện cho người khởi kiện: Ông Lương Khải Ân, sinh năm 1975, Địa chỉ thường trú 18/5/1 Lê Văn Thọ, phường 11 quận Gò Vấp – theo giấy ủy quyền số 06/2008/GUQ ngày 12/6/2008 của Giám đốc Công ty. Người bị kiện: Cục Kiểm tra sau thông quan–Tổng cục Hải quan Địa chỉ: 92 Võ thị Sáu , quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Văn phòng phía Nam: 15B Thi Sách, phường Bến Nghé, quận 1 thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện:Ông Trần Kế Thắng, chức vụ Phó Trưởng phòng Nghiệp vụ 5, Cục Kiểm tra sau thông quan. Giấy ủy quyền số 193/KTSTQ -KHTH ngày 08/8/2008 của Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan (Các đương sự có mặt). NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2008 người khởi kiện Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật và Tin học T.H.M.S do ông Lương Khải Ân đại diện trình bày yêu cầu và căn cứ pháp lý khởi kiện “ quyết định hành chính số 003ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan, Tổng cục Hải quan” như sau: Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS là đơn vị chuyên họat động sản xuất kinh doanh cân xe tải theo Giấy phép thành lập số 4102003499 do Sở Kế họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/01/2001. Từ năm 2003 cho đến nay Công ty đã nhiều lần nhập khẩu về Việt Nam lô hàng thiết bị thử độ nén bê tông và cân xe tải với mã số thuế hàng hóa nhập khẩu là 9204, thuế suất là 0%, thuế Giá trị gia tăng là 5%. Đến tháng 7/ 2007 Cục Kiểm tra sau thông quan , Tổng cục Hải quan yêu cầu điều chỉnh lại tên hàng hóa nhập khẩu là thiết bị sản xuất cân hoặc phụ tùng cân mã số hàng hóa là 8423 với mức thuế suất từ 15% - 30% và thuế Giá trị gia tăng là 5%. Qua nhiều lần làm việc với Cục Kiểm tra sau thông quan đến ngày 31/3/2008 Cục Kiểm tra sau thông quan có quyết định số 003 với nội dung “truy thu thuế đối với Công ty là 617.537.341 đồng”. Không đồng ý nên Công ty đã khiếu nại theo quy định của pháp luật và ngày 26/5/2008 Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan đã ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 007/QĐ-KTSTQ với nội dung “ Giữ nguyên nội dung của Quyết định số 003 ngày 31/3/2008”. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại do đó Công ty đã khởi kiện ra Tòa –Yêu cầu hủy quyết định số 003/QĐ-KTSTQ và Quyết định 007/QĐ-KTSTQ nói trên vì hai quyết định ban hành không có căn cứ và đã làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của công ty; Ông Lương Khải Ân trình bày các căn cứ khởi kiện như sau: 1. Công ty không có hành vi gian dối khi kê khai mã hàng nhập khẩu, việc kê khai của công ty đã được các chi cục hải quan có thẩm quyền thông quan kiểm tra và cho phép thông quan nay truy thu thuế sẽ gây thiệt hại lớn cho Công ty vì Công ty đã tính chi phí hàng hóa với mức thuế suất được các Chi cục Hải quan chấp thuận khi bán ra thị trường. 2. Theo ông Ân thì sự việc Công ty nhập khẩu các lô hàng đã xảy ra từ năm 2003 đến nay đã 05 năm Cục Kiểm tra sau thông quan mới ra quyết định truy thu thuế là không đúng quy định của pháp luật do tại phần II mục 1 điểm 3 Thông tư số 59/2007/ TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính quy định “Trường hợp phát hiện có sự gian lận, trốn thuế thì phải truy thu tiền thuế trong thời hạn năm năm trở về trước kể từ ngày kiểm tra phát hiện. Ngày kiểm tra phát hiện có sự gian lận, trốn thuế là ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký quyết định truy thu thuế”. Ông Ân cho rằng trong tổng số 25 tờ khai hải quan bị Cục kiểm tra sau thông quan xử lý truy thu thuế có hai tờ khai đã quá thời hiệu 5 năm. 3. Các lô hàng Công ty nhập tại 25 tờ khai Hải quan bị Cục kiểm tra sau thông quan xử lý có nguồn gốc xuất xứ từ nước Hàn quốc (Korea), Trung quốc và Hoa Kỳ là những nước có quan hệ tối huệ quốc với Việt Nam, do đó việc nhập khẩu được tính thuế suất theo mức thuế suất ưu đãi, tuy nhiên theo tính toán của Cục kiểm tra sau thông quan đối với số tiền truy thu tại quyết định 03/QĐ-KTSTQ thì Công ty THMS chưa được xem xét khoản thuế suất ưu đãi này. Tại phiên Tòa công ty THMS cho rằng để hưởng thuế suất ưu đãi, theo quy định của pháp luật, khi làm hồ sơ kê khai hải quan thì công ty phải nộp cho cơ quan hải quan tờ khai xuất xứ hàng hóa (gọi tắt là CO), song đối với 25 tờ khai hải quan bị xử lý công ty không nộp do công ty thấy không cần thiết, không có ý nghĩa vì mức thuế suất = 0%. Tại phiên Tòa đại diện theo ủy quyền của Công ty THMS xác định hiện nay đối với 25 tờ khai hải quan (nói trên), công ty không có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định của pháp luật do đó không thể nộp ngay cho Hội đồng xử án, công ty đề nghị được dừng phiên Tòa trong thời gian 45 ngày để công ty yêu cầu bên bán hàng (Trung quốc, Hàn quốc và Hoa Kỳ) gửi các giấy chứng nhận về. Ngoài ra tại phiên Tòa khi được Hội đồng xét xử hỏi về các giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo hợp đồng đã ký giữa công ty THMS và các công ty bên bán đều có thể hiện nội dung “ bên bán phải gửi bộ hồ sơ cho bên mua gồm nhiều lọai giấy tờ trong đó có Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho công ty THMS – vì sao đến nay vẫn không có - và việc không có gửi về là trái với thỏa thuận vì sao công ty không có ý kiến “ thì người đại diện của công ty THMS cho rằng do công ty THMS thiếu hiểu biết về pháp luật và do các Chi cục Hải quan (khi cho thông quan) và Cục kiểm tra sau thông quan (khi kiểm tra xử lý) không có yêu cầu nên phía công ty không có sự giải trình cũng như chưa yêu cầu công ty bán hàng gửi chứng từ xuất xứ hàng hóa về. Tuy nhiên sau khi Quyết định 003 xử lý, đối chiếu với quy định của mức thuế suất ưu đãi thì công ty nhận thấy nếu công ty được hưởng mức thuế suất ưu đãi thì sẽ giảm từ 30% (thuế suất thông thường) xuống còn 20% (mức thuế suất ưu đãi), khoản chênh lệch này khá lớn, do đó công ty yêu cầu được Hội đồng xét xử chấp thuận cho công ty thời gian để bổ sung chứng cứ này để nếu phải nộp thêm khoản tiền thuế còn thiếu thì cũng chỉ nộp theo mức thuế ưu đãi. 3. Việc truy thu thuế theo Quyết định 03 của Cuc kiểm tra sau thông quan không hợp lý thể hiện như sau: * Trong khi thuế suất nhập khẩu cân nguyên chiếc trên 1000kg là 3% thì thuế suất của thiết bị thử độ nén dùng để sản xuất cân lên đến 30% -> là không phù hợp; * Mức thuế suất hiện hành đối với thiết bị cân là 5% trong khi thuế suất truy thu cao hơn thuế suất hiện hành -> là không phù hợp; * Nhiều doanh nghiệp trước đây nhập hàng tương tự như trên vẫn được áp dụng mức thuế suất 0% trong khi truy thu với công ty là -> không hợp lý; Tại phiên Tòa ông Lương Khải Ân đại diện cho người bị kiện xác định giữ nguyên yêu cầu đã khởi kiện: Yêu cầu hủy quyết định số 003 ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan đã ban hành ban hành. Về phía người bị kiện do Ông Trần Kế Thắng đại diện theo ủy quyền của Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan, Tổng cục Hải quan có ý kiến như sau: Yêu cầu Tòa bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ Thuật & Tin Học THMS, với tư cách đại diện cho người bị kiện vẫn Giữ nguyên quyết định hành chính số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan về việc “truy thu thuế ” đối với Công ty TNHH. THMS do đã áp sai mã số hàng nhập khẩu và giữ nguyên Quyết định 007/QĐ-KTSTQ ngày 26/5/2008 của Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan đã ban hành vì các quyết định này được ban hành là có căn cứ phù hợp pháp luật được chứng minh như sau: 1. Theo quy định tại khoản 3 Điều 110 Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 thì “thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế là 05 năm , quá thời hiệu thì người nộp thuế không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền trốn thuế, số tiền thuế gian lận vào ngân sách Nhà nước “ Các lô hàng nhập khẩu của Công ty THMS tính từ thời điểm nhập khẩu đến thời điểm Cục Kiểm tra sau thông quan có thông báo số 190/KTSTQ-KV5 ngày 07/11/2007 gửi đến Công ty để giải trình về các lô hàng là vẫn còn trong thời hạn 05 năm. Do đó việc Cục Kiểm tra sau thông quan ban hành Quyết định 003 “truy thu thuế” đối với Công ty là hòan tòan đúng quy định của Luật Quản lý thuế. Ông Thắng cho rằng Công ty THMS chứng minh bằng thông tư số 59/2007/TT-BTC để cho rằng có hai tờ khai hải quan bị xử lý trong tổng số 25 tờ khai hải quan là đã quá thời hiệu 5 năm là không đúng, quyết định số 003/QĐ-KTSTQ của Cục kiểm tra sau thông quan, không có hình thức xử phạt mà chỉ truy thu khoản tiền thuế mà công ty nộp chưa đủ do đó nếu cho rằng qúa năm năm thì cũng không vi phạm Điều 110 Luật Quản lý thuế, ngòai ra đại diện của người bị kiện cho rằng hiệu lực pháp luật của Luật Quản lý thuế cao hơn Thông tư số 59/TT-BTC do đó trong trường hợp có sự mâu thuẫn, không rỏ giữa hai văn bản này thì phải áp dụng Luật Quản lý Thuế. 2. Công ty THMS so sánh và nêu sự bất hợp lý trong việc áp dụng thuế suất giữa nhập khẩu nguyên chiếc và nhập khẩu thiết bị , giữa thuế suất được áp dụng “ để truy thu” và thuế suất “ hiện nay” nội dung này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục Kiểm tra sau thông quan vì Cục Kiểm tra sau thông quan chỉ là cơ quan áp dụng các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền ban hành và các văn bản áp dụng vẫn còn hiệu lực để thi hành. 3. Công ty cho rằng hiện nay có những doanh nghiệp họat động tương tự nhưng hàng nhập khẩu vẫn được áp dụng theo mức thuế suất 0%: Điều này Cục Kiểm tra sau thông quan đã tiến hành kiểm tra và đã có xử lý đối với từng trường hợp cụ thể. Công ty THMS không thể so sánh các trường hợp khác để lọai trừ trách nhiệm của mình, vì hành vi không nộp đủ thuế của Công ty THMS là đã vi phạm quy định của pháp luật, phải bị xử lý. 4. Việc Công ty TNHH. THMS cho rằng khi áp mã số hàng hóa đã được các Chi cục Hải quan đồng ý nên mới chấp thuận thông quan. Theo luật Hải quan quy định tại thời điểm làm thủ tục thông quan hàng hóa, cơ quan Hải quan hoặc miễn kiểm tra hàng hóa, hoặc chỉ mới kiểm tra sơ bộ hàng hóa và hồ sơ. Để đảm bảo quản lý Nhà nước đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu thì việc kiểm tra sâu sẽ được tiến hành sau khi thông quan do đó không thể cho rằng hàng hóa đã được thông quan thì đã đảm bảo không có sự vi phạm về pháp luật trong việc kê khai và chịu thuế. Ngoài ra theo trình bày của đại diện người bị kiện việc áp sai mã số hàng hóa còn do lỗi cố ý của Công ty TNHH. THMS, điều này thể hiện khi Công ty nhập khẩu hàng hóa và kê khai thì Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất lập biên bản xử lý và xác định lại mã số hàng hóa nhưng sau đó Công ty vẫn tiếp tục khai mã số sai. 5. Đối với mức thuế suất đã được Cục kiểm tra sau thông quan áp dụng để truy thu khoản tiền thuế còn thiếu của Công ty là hòan tòan đúng với Quyết định và biểu thuế đã được cơ quan có thẩm quyền ban hành tương ứng với từng thời điểm của các tờ khai hải quan do đó quyết định 03/QĐ-KTSTQ truy thu mức thuế suất 30% được căn cứ vào mức thuế suất thông thường = 150% thuế suất ưu đãi ( theo quyết định 1803 thì mức thuế suất của mã hàng 84239029 là 20% x 150% = 30%) , và sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì biểu thuế của Nhà nước chỉ còn phân biệt là thuế ưu đãi đặc biệt và Thuế suất thường = thuế suất ưu đãi do đó theo Quyết định 110 thì mức thuế suất ưu đãi của mã hàng 84239019 = 20% do đó thuế suất thông thường = 20%). Tại phiên Tòa phía công ty THMS yêu cầu dừng phiên tòa 45 ngày để bổ sung Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhằm được xem xét hưởng mức thuế suất ưu đãi. Đại diện của người bị kiện không chấp nhận vì theo quy định của luật Hải quan Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) là 1 lọai chứng từ phải được doanh nghiệp nộp cho cơ quan hải quan ngay khi làm tờ khai hải quan (để được xem xét mức thuế suất ưu đãi), trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn nộp có thể gia hạn tối đa là 60 ngày, Hiện nay các Giấy chứng nhận này nếu được doanh nghiệp nộp cũng không còn giá trị để xem xét. Việc nộp CO là quyền lợi của doanh nghiệp do đó doanh nghiệp phải chủ động và phải thực hiện theo đúng quy định, doanh nghiệp không thể cho rằng do Chi cục Hải quan và cục kiểm tra sau thông quan không yêu cầu để biện luận cho hành vi vi phạm của mình. Ngoài ra đại diện của người bị kiện cho rằng một trong những lý do mà doanh nghiệp không nộp là vì trong giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa có mô tã hàng hóa, loại – do đó để khai mã hàng, mô tả hàng hóa theo ý chí của doanh nghiệp thì doanh nghiệp không nộp CO. Người bị kiện cho rằng điều này thể hiện rỏ vì tại tờ khai Chi cục Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất đã áp lại mã hàng, nhưng công ty đã thừa nhận, đã thực hiện , không khiếu nại và không hề yêu cầu có thời gian để bổ sung chứng nhận xuất xứ hàng hóa (vì theo hợp đồng chứng từ này đã được gửi kèm với hàng hóa khi đến Việt Nam). Ngoài ra tại phiên Tòa, đại diện của người bị kiện trình bày theo quy định tại điều 9 luật Quản lý thuế thì số tiền thuế doanh nghiệp phải nộp được tính trên căn cứ giá hàng hóa về đến Việt Nam ( bao gồm giá trị hàng, phí vận chuyển và phí bảo hiểm nếu có - CIF), do đó việc đại diện của công ty THMS cho rằng tiền thuế được tính trên giá trị hàng hóa nguyên tệ là hiểu chưa đúng và không phù hợp với quy định pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên Tòa có ý kến về vụ kiện như sau: Đơn khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học THMS làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định tại Điều 39 luật Khiếu nại, tố cáo. Tòa án thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết là đúng theo thẩm quyền được quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính. Về nội dung khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học THMS, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau: Quyết định 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục kiểm tra sau thông quan ban hành để truy thu khoản tiền thuế còn thiếu của Công ty THMS là có căn cứ đúng với hành vi vi phạm của Công ty, đúng với các quy định của pháp luật tương ứng như Luật quản lý thuế, luật Hải quan, Quyết định và biểu thuế của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Không có căn cứ để cho rằng hai tờ khai hải quan bị xử lý quá thời hiệu năm năm là trái pháp luật vì trong trường hợp này Cục kiểm tra sau thông quan chỉ xử lý bằng hình thức truy thu khoản tiền thuế mà doanh nghiệp nộp chưa đủ. Từ những quan điểm đã phân tích trên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa xét xử theo hướng: Bác đơn khởi kiện của Công ty TNHH Kỹ thuật & Tin học THMS yêu cầu hủy Quyết định số 003/QĐ-KTSTQ do Cục Kiểm tra sau thông quan ban hành ngày 31/3/2008. XÉT THẤY Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên Tòa; Sau khi nghe các bên đương sự phát biểu ý kiến tranh luận, và nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ kiện; Hội đồng xét xử nhận xét về vụ án như sau: Về tư cách tham gia tố tụng trong vụ án : Trong quá trình giải quyết vụ án Công ty THMS có yêu cầu triệu tập các Chi cục Hải quan có liên quan đến việc đã cho thông quan các lô hàng của Công ty tại 25 tờ khai Hải quan nói trên để làm rỏ trách nhiệm của các chi cục hải quan. Xét thấy theo nội dung đơn khởi kiện của Công ty THMS, phía công ty không có yêu cầu gì về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với hành vi của các chi cục Hải quan đã cho phép Công ty thông quan các lô hàng thuộc 25 tờ khai hải quan nói trên, đại diện công ty THMS cho rằng công ty yêu cầu Tòa triệu tập các chi cục Hải quan chỉ nhằm làm rỏ trách nhiệm và sau đó công ty có thể khởi kiện các chi cục Hải quan bằng 1 vụ án khác . Xét thấy sự tham gia hay không tham gia của các Chi cục Hải quan gồm chi cục Hải quan Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh, chi cục Hải quan CK Cảng Sài Gòn khu vực 1, Chi cục Hải quan sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, chi cục Hải quan Cảng Cát Lái trong vụ án không làm ảnh hưởng đến việc xem xét tính hợp pháp , tính có căn cứ của Quyết định số 03/KTSTQ ngày 31/3/2007 của Cục kiểm tra sau thông quan, do trong vụ án các chi cục Hải quan nói trên không tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan . Do đó không chấp nhận yêu cầu của Công ty THMS hõan phiên Tòa để triệu tập các chi cục Hải quan tham gia tố tụng. 2. Quyết định số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan ban hành có nội dung “truy thu thuế”đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS do đó Quyết định số 003 (nói trên ) được xác định là Quyết định hành chính lần đầu, đây là lọai quyết định thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính quy định tại khoản 10 Điều 11 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006. Quyết định giải quyết khiếu nại số 007/QĐ-KTSTQ do Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan-Tổng Cục Hải quan ban hành ngày 26/5/20008 có nội dung “ bác khiếu nại của Công ty THMS, giữ nguyên quyết định số 003/QĐ-KTSTQ” – Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại , ngày 12/6/2008 Công ty THMS làm đơn khởi kiện; Đơn khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS đã làm trong thời hạn, đúng thủ tục, đúng thẩm quyền đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2, khoản 10 Điều 11 và điểm a khoản 2 Điều 30 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã sửa đổi, bổ sung năm 2006). 3. Về thẩm quyền ban hành quyết định truy thu thuế số 003/Q-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý Thuế quy định: “Cơ quan quản lý thuế gồm có Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan, Chi cục Hải quan”. Căn cứ Điều 103 Luật Quản lý Thuế và khoản 2 Điều 109 Luật Quản lý Thuế quy định: “ Đối với hành vi quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 103 của Luật này thì thủ trưởng cơ quan quản lý Thuế, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan có thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế”. Khoản 3 điều 32 Luật Hải quan (đã sửa đổi, bổ sung) đã quy định kiểm tra sau thông quan như sau: 3. Trong thời hạn năm 5 kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan. Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được quyền ra quyết định kiểm tra sau thông quan. Trong trường hợp cần thiết, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định kiểm tra sau thông quan. 4. Căn cứ Quyết định kiểm tra sau thông quan, cán bộ hải quan trực tiếp kiểm tra sổ sách, chứng từ kế tóan... 5..... Chính phủ quy định cụ thể về kiểm tra sau thông quan”. Căn cứ Thông tư số 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ Tài Chính hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu: I. Hình thức và phương thức kiểm tra sau thông quan gồm có: “ - Kiểm tra tại trụ sở cơ quan Hải quan theo phương pháp đối chiếu, so sánh giữa nội dung khai tại hồ sơ hải quan với các thông tin nghiệp vụ hải quan và các quy định pháp luật có liên quan - Kiểm tra tại trụ sở đơn vị được kiểm tra....” II. Trình tự và nội dung kiểm tra sau thông quan: Kiểm tra tại trụ sở Hải quan: Kiểm tra hồ sơ hải quan Kết thúc việc kiểm tra Kiểm tra tại trụ sở, đơn vị được kiểm tra Khi tiến hành kiểm tra tại trụ sở đơn vị được kiểm tra, cán bộ kiểm tra sau thông quan thực hiện: Công bố Quyết định kiểm tra sau thông quan Căn cứ vào các quy định đã được viện dẫn trên, xét việc kiểm tra sau thông quan của Cục Kiểm tra sau thông quan đối với trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học là “ kiểm tra sau thông quan – được thực hiện tại trụ sở Hải quan “ do đó không có Quyết định kiểm tra sau thông quan là không trái với quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Hải quan. Từ những nhận xét trên xét thấy Cục Kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan ban hành quyết định số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 để truy thu thuế đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS là đúng thẩm quyền , trình tự đã được pháp luật quy định 4. Quyết định 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục kiểm tra sau thông quan được Hội đồng xử án xem xét với các nội dung sau: : 4.1 Về thời hiệu : * Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 110 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định : “ thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế là 05 năm kể từ ngày có hành vi vi phạm, quá thời hiệu thì đối tượng nộp thuế không bị xử phạt nhưngvẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu ...” * Căn cứ công văn số 190/KTSTQ-NV 5 ngày 07/11/2007 của Cục Kiểm tra sau thông quan thông báo cho Công ty TNHH.THMS đến để giải trình đối với các lô hàng nhập khẩu của Công ty tại 25 tờ khai Hải quan phát sinh từ ngày 22/01/2003 đến ngày 25/9/2007 là còn trong thời hạn 05 năm. Hơn nữa căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 110 thì thời hiệu 5 năm chỉ có ý nghĩa đối với các trường hợp doanh nghiệp bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm , Quyết định 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2007 của Cục kiểm tra sau thông quan chỉ truy thu số tiền thuế doanh nghiệp THMS chưa nộp đủ, do đó không trái với quy định của pháp luật về thời hiệu. 4. 2 về việc áp mã hàng : Công ty trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học T.H.M.S cho rằng Quyết định số 003 vi phạm do đã chủ quan trong việc áp mã hàng hóa từ 9024801000 sang mã số 8423901900: Tại các bản khai Công ty trách nhiệm hữu hạn T.H.M.S trình bày: Công ty được thành lập theo Giấy phép số 4102003499 do Sở Kế Họach và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/01/2001, là đơn vị chuyên họat động sản xuất kinh doanh cân xe tải – lô hàng mà công ty đã nhập khẩu tại 25 tờ khai hải quan mà Cục kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan truy thu thuế theo công ty khai là bộ cảm biến và bộ hiển thị ( thiết bị thử độ nén) – dùng để làm cân xe . Theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ Tài Chánh ban hành , kèm theo biểu thuế thì: Mã hàng 8423 Mô tả hàng hóa: Cân ( trừ các lọai cân đo có độ nhậy 5 cg hoặc nhậy hơn) kể cả máy đếm, máy kiểm tra họat động bằng nguyên lý cân, các lọai quả cân. Mã hàng 84239019 Mô tả hàng hóa : Bộ phận của cân Và Mã hàng 9024 Mô tả hàng hóa: Máy và thiết bị thử độ cứng, độ bền, độ nén, độ đàn hồi hay các tính chất cơ học khác của vật liệu ( ví dụ : kim loai, gỗ, hàng dệt, giấy, plastic) Mã hàng 90248010 Mô tả hàng hóa: họat động bằng điện Từ những nội dung về mã hàng, về mô tả hàng hóa đã được viện dẫn trên, đối chiếu lời khai của đại diện Công ty THMS thì thiết bị công ty nhập về được công ty sử dụng vào mục đích kinh doanh của công ty từ trước đến nay là để sử dụng làm cân xe tải - điều nay là hòan tòan phù hợp với chức năng kinh doanh của công ty khi được cấp phép kinh doanh. Từ những căn cứ này cho thấy việc Cục kiểm tra sau thông quan – Tổng cục Hải quan xác định các lô hàng nhập khẩu Bộ cảm ứng, bộ hiển thị ( thiết bị thử độ nén) do công ty T.H,M.S nhập khẩu thuộc mã hàng 8423, mã hàng hóa 84239019 là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Công ty T.H.M.S cho rằng lô hàng của công ty thuộc mã hàng 9024, mã hàng hóa 90248010 là không có căn cứ, không phù hợp với đặc điểm của màng hàng đã được mô tả hàng hóa và không phù hợp với chức năng kinh doanh của công ty khi đăng ký vì công ty THMS không có chức năng kinh doanh thiết bị ( mà là kinh doanh mua bán cân xe tải). Mặt khác xét thấy việc Cục kiểm tra sau thông quan áp mã hàng hóa lô hàng công ty THMS nhập thuộc mã 84239019 là có căn cứ và đã được chính Công ty THMS thừa nhận thông qua việc Chi cục Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất chỉnh sửa chuyển đổi mã tại lô hàng tờ khai hải quan số 32282 ngày 05/12/2006 và Công ty đã chấp nhận – đã thực hiện việc nộp thuế và không có khiếu nại , ngòai ra sau khi Cục kiểm tra sau thông quan ban hành Quyết định hành chính số 03/ KTSTQ , tại các biên bản làm việc , đối thọai giữa Công ty THMS và Cục kiểm tra sau thông quan ngày 06/12/2007, 19/12/2007, 05/3/2008 phía công ty đều xác định việc “ áp mã hàng hóa của Cục kiểm tra sau thông quan là có căn cứ.” 4.3 Về mức thuế suất áp dụng: Căn cứ Nghị định 94/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định như sau: Điểm a khoản 1 Điều 1 “ thuế suất ưu đãi áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước hoặc khối nước có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam “ Và điểm b) khoản 1 Điều 1 quy định “ thuế suất thông thường được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước không có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất cao hơn 50% so với thuế suất ưu đãi quy định tại điểm a mục 1 của Điều này.....”. Xét thấy tại phiên Tòa phía công ty THMS cho rằng đối với các lô hàng mà công ty đã nhập khẩu tại 25 tờ khai hải quan là thuộc nhóm được hưởng mức thuế suất ưu đãi, do xuất xứ của các lô hàng là của Trung quốc, Hàn Quốc và Hoa Kỳ (là ba nước thuộc các nước có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc, tức nhóm quan hệ được điều chỉnh theo điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị định 94/1998.NĐ-CP ngày 17/11/1998). Do đó người đại diện của Công ty THMS tại phiên tòa có yêu cầu dừng phiên tòa 45 ngày , công ty sẽ yêu cầu công ty bán hàng gửi giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa của các lô hàng thuộc 25 tờ khai hải quan về để xem xét lại cho công ty được hưởng mức thuế suất ưu đãi 20% (theo quyết định 003 thì áp dụng thức suất thường là 30%). Yêu cầu này của phía công ty THMS không được người bị kiện chấp nhận. Xét thấy theo quy định của pháp luật thì để được hưởng mức thuế suất ưu đãi, công ty THMS phải nộp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho cơ quan hải quan (gọi tắt là CO) trong thời hạn quy định cụ thể là phải nộp ngay khi làm thủ tục hải quan để thông quan, trong từng trường hợp cụ thể thì cơ quan Hải quan có thể cho gia hạn nộp là 60 ngày. Xét thời điểm phát sinh của 25 tờ khai hải quan là ngày 22/01/2003 đến ngày 25/9/2007 do đó yêu cầu của đại diện công ty THMS là không có căn cứ phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1, khoản 3, khoản 4, khoản 8 Mục III Thông tư Liên tịch09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 của Bộ Thương Mại và Tổng Cục Hải quan hướng dẫn về việc xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hóa nên không được chấp nhận. Xét việc Cục kiểm tra sau thông quan đã áp dụng mức thuế suất thông thường để tính thuế truy thu đối với công ty THMS là có căn cứ phù hợp với các quy định pháp luật đã được viện dẫn trên. * Căn cứ quy định tại Điều 2 Quyết định số 1803/1998/QĐ-BTC ngày 11/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về việc ban hành Biểu thuế thuế nhập khẩu ưu đãi như sau “Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Quyết định này thay thế cho Biểu thuế thuế nhập khẩu hiện hành, có hiệu lực thi hành và áp dụng cho tất cả các tờ khai hàng hóa nhập khẩu đăng ký với cơ quan Hải quan bắt đầu từ ngày 01/01/1999” – Biểu thuế kèm theo Quyết định: mã hàng 84239010 ...thuế suất 20 và căn cứ Điều 3 Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩư ưu đãi quy định : “ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo quyết định này có hiệu lực thi hành và áp dụng cho tất cả các tờ khai hàng hóa nhập khẩu nộp cho cơ quan Hải quan bắt đầu từ ngày 01/9/2003 thay thế cho Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Quyết định số 1803/1998/QĐ-BTC ngày 11/12/1998...” – Biểu thuế kèm theo quyết định : mã hàng 84239019 ( bộ phận của cân ) – thuế suất 20% và tại Điều 1 Quyết định số 97/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc áp dụng biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi quy định “ Tiếp tục áp dụng mức thuế ......... suất thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Quyết định 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003..... tại Điều 4 quyết định số 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi quy định “ Quyết định này có hiệu lực thi hành và áp dụng cho các tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đăng ký với cơ quan hải quan kể từ ngày 15/9/2006. Hủy bỏ Quyết định số 97/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ tài chính ....” - Biểu thuế ban hành kèm theo quyết định: mã hàng 8423901900 (bộ phận của cân) – thuế suất 20%. Căn cứ vào 25 tờ khai Hải quan (theo liệt kê đính kèm trong hồ sơ), sau đối chiếu với các quy định pháp luật đã được viện dẫn ở phần nhận xét trên gồm (quyết định và biểu thuế kèm theo), đối chiếu thời gian Công ty THMS đã nhập khẩu lô hàng, đối chiếu với số lượng hàng hóa đã nhập khẩu theo tờ khai hải quan, Xét thấy việc Cục kiểm tra sau thông quan buộc công ty THMS truy nộp lại đủ số tiền thuế còn thiếu là 617.537.341 đồng ( gồm Thuế nhập khẩu là 588.130.805 đồng và Thuế VAT là 29.406.536 đồng ) là có căn cứ đúng pháp luật (bản liệt kê chi tiết kèm theo bản án là phụ lục của bản án) Từ những nhận xét trên không chấp nhận đơn khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS yêu cầu Hủy quyết định truy thu thuế số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan . Về án phí hành chính sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 50.000 đồng được cấn trừ vào 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã tạm nộp theo biên lai thu số 005198, quyển 104 ngày 01/7/2008 của Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh (người nộp tiền Lương Khải Ân); Bởi các lẽ trên; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2, khoản 10 điều 11, điều 29, điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2006; Căn cứ khoản 2 Điều 2, Điều 103, khoản 2 Điều 109, khoản 3 Điều 110 Luật Quản lý Thuế Căn cứ Điều 22, khoản 3 Điều 32 luật Hải quan ( đã sửa đổi, bổ sung) và căn cứ điểm a) khoản 1, khoản 3, khoản 4, khoản 8 Mục III Thông tư Liên tịch 09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 của Bộ Thương Mại và Tổng Cục Hải quan hướng dẫn về việc xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hóa. Căn cứ Thông tư 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Căn cứ Quyết định 1803/1998/QĐ-BTC ngày 11/12/1998 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và (biểu thuế kèm theo Quyết định) Căn cứ Quyết định 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và (biểu thuế kèm theo Quyết định) Căn cứ Quyết định số 97/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Căn cứ Quyết định số 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/7/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và (biểu thuế kèm theo) Căn cứ điều 27 và khoản 1 điều 30 Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về lệ phí, án phí Tòa án, TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH QUYẾT ĐỊNH: 1. Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS về việc hủy quyết định hành chính “truy thu thuế ” số 003/QĐ-KTSTQ ngày 31/3/2008 của Cục Kiểm tra sau thông quan. 2. Về án phí: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kỹ thuật & Tin học THMS phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) được cấn trừ vào 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã tạm nộp theo biên lai thu số 005198, quyển 104 ngày 01/7/2008 của Thi hành án Dân sự thành phố Hồ Chí Minh (người nộp tiền Lương Khải Ân); 3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM - Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA - Viện kiểm sát nhân dân Tp; - Thi hành án dân sự; - Các đương sự (để thi hành); - Lưu. Trương Quế Phượng
Hủy hành vi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND thành phố Hạ Long
Số hiệu 02/2012/HC-ST Tiêu đề Hủy hành vi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND thành phố Hạ Long Ngày ban hành 19/11/2012 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính
Số hiệu 01/2012/HC-ST Tiêu đề Yêu cầu hủy quyết định cưỡng chế và lập lại phương án bồi thường GPMB theo đúng quy định của pháp luật Ngày ban hành 17/07/2012 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính
Khởi kiện quyết định hành chính của UBND huyện Yên Hưng
Số hiệu 03/HC-ST Tiêu đề Khởi kiện quyết định hành chính của UBND huyện Yên Hưng Ngày ban hành 06/08/2012 Cấp xét xử Sơ thẩm Lĩnh vực Hành chính
Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng
Số hiệu 1546/2012/HCPT Tiêu đề Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng Ngày ban hành 19/12/2012 Cấp xét xử Phúc thẩm Lĩnh vực Hành chính