Sẽ công khai danh tính, địa chỉ người bán hàng online lừa dối khách hàng
Trong thời đại công nghệ số hiện nay, mua sắm trực tuyến đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, sẽ công khai danh tính, địa chỉ của người bán hàng online nếu lừa dối khách hàng. Bên cạnh những tiện ích, việc mua hàng online cũng gặp nhiều rủi ro về chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Chính vì vậy, Nghị định 55/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vừa được Chính phủ chính thức ban hành đã thêm điều luật về công khai danh tính khi người bán hàng lừa dối khách hàng. (1) Từ ngày 01/07/2024 sẽ công khai danh tính người bán hàng online nếu lừa dối khách hàng Cụ thể khoản 1 Điều 24 Nghị định 55/2024/NĐ-CP quy định về công khai, gỡ bỏ thông tin cảnh báo người tiêu dùng trong giao dịch trên không gian mạng như sau: Danh sách tổ chức, cá nhân kinh doanh trên không gian mạng có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở, đăng tải trên cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các nội dung sẽ công khai công bố theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 55/2024/NĐ-CP bao gồm: - Tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân kinh doanh trên không gian mạng có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng - Hành vi, địa bàn vi phạm - Cơ quan ban hành, số, ngày, tháng, năm quyết định xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thời hạn công bố tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm là 30 ngày kể từ ngày công bố. Hết thời hạn nêu trên, cơ quan đăng tải thông tin sẽ dừng hoặc gỡ bỏ thông tin về tổ chức, cá nhân kinh doanh trên không gian mạng có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Như vậy, khi người bán hàng có hành vi lừa dối khách hàng thì sẽ bị công khai danh tính, địa chỉ trên phương tiện thông tin đại chúng và trên cổng thông tin điện tử. (2) Lừa dối khách hàng trong mua, bán hàng hoá sẽ bị xử phạt thế nào? Tùy theo tính chất và mức độ mà hành vi lừa dối khách hàng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử phạt hành chính: Theo điểm b khoản 1 Điều 61 Nghị định 98/2020/NĐ-CP, phạt tiền từ 500 nghìn - 1 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ giao dịch có giá trị dưới 5 triệu đồng: - Không đền bù, trả lại tiền hoặc đổi lại hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng, người tiêu dùng do nhầm lẫn. - Đánh tráo, gian lận hàng hóa, dịch vụ khi giao hàng, cung ứng dịch vụ cho khách hàng, người tiêu dùng. - Không đền bù, trả lại tiền hoặc đổi lại hàng hóa, dịch vụ bị đánh tráo, gian lận cho khách hàng, người tiêu dùng. - Tự ý bớt lại bao bì, phụ tùng, linh kiện thay thế, hàng khuyến mại, tài liệu kỹ thuật và hướng dẫn sử dụng kèm theo khi bán hàng, cung cấp dịch vụ. - Thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự. Mức phạt cao nhất đối với hành vi lừa dối khách hàng trong mua bán hàng hóa có thể bị phạt lên đến 20 triệu đồng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ giao dịch có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, người vi phạm bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm theo khoản 8 Điều 61 Nghị định 98/2020/NĐ-CP. Truy cứu trách nhiệm hình sự: Hành vi lừa dối khách hàng trong mua, bán hàng hóa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 về tội lừa dối khách hàng như sau: Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: - Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm - Thu lợi bất chính từ 05 - 50 triệu đồng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100 - 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 - 05 năm: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; dùng thủ đoạn xảo quyệt; thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 - 100 triệu, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01- 05 năm. Như vậy, đối với hành vi lừa dối khách hàng, mức xử phạt hành chính cao nhất lên đến 20 triệu đồng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ giao dịch có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên. Tóm lại, người bán hàng có hành vi lừa dối khách hàng thì sẽ bị công khai danh tính, địa chỉ trên phương tiện thông tin đại chúng và trên cổng thông tin điện tử. Thời gian công công bố người bán hàng vi phạm là 30 ngày, hết thời hạn này cơ quan đăng tải thông tin sẽ dừng hoặc gỡ bỏ thông tin về người bán hàng trên không gian mạng. Ngoài ra, tùy theo tính chất và mức độ mà hành vi lừa dối khách hàng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nghị định 55/2024/NĐ-CP có hiệu lực vào ngày 01/7/2024.
Đề xuất áp dụng bảo hiểm bắt buộc với Grab, Shipper, bán hàng online...
Tại Hội nghị Đại biểu Quốc Hội (ĐBQH) chuyên trách lần 5, các đại biểu đề nghị bỏ quy định về mức lương hưu thấp nhất trong dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội; quy định lộ trình cụ thể áp dụng bảo hiểm bắt buộc đối với Grab, Shipper, bán hàng online,... cân nhắc thông qua luật này sau khi cải cách tiền lương. (1) Mức trợ cấp hưu trí xã hội chưa đảm bảo nguyên tắc an sinh xã hội Hội nghị ĐBQH chuyên trách lần thứ 5 thảo luận về một số nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) trong đó có vấn đề điều chỉnh lương hưu, trợ cấp khi thực hiện cải cách tiền lương. Cụ thể, về vấn đề trợ cấp hưu trí, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang cho rằng, mức trợ cấp hưu trí xã hội chưa đảm bảo nguyên tắc an sinh xã hội vì chỉ là trợ cấp cho người cao tuổi chuyển sang từ luật người cao tuổi, sẽ không đảm bảo mức sống tối thiểu hoặc gần tiệm cận mức sống tối thiểu của nhóm người cao tuổi này. Do đó, đại biểu cho rằng nếu chỉ thay đổi về hình thức mà không có thay đổi căn bản về chính sách thì đây cũng là một vấn đề cần phải cân nhắc kỹ lưỡng. Theo đại biểu, ít nhất mức hưu trí xã hội cũng phải cao hơn so với mức trợ cấp xã hội… Đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Chính phủ cần xem xét kỹ, đánh giá báo cáo rõ ràng hơn để Quốc hội xem xét quyết định. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc Hội Trần Thanh Mẫn điều hành nội dung thảo luận (2) Có lộ trình cụ thể áp dụng bảo hiểm bắt buộc đối với Grap, Shipper, bán hàng online,... Về bảo hiểm xã hội bắt buộc: Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh cho rằng, dự thảo Luật quy định giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các đối tượng khác, thu nhập ổn định thường xuyên là không phù hợp, vì đây là thẩm quyền quản lý nhà nước của Chính phủ. Trên thực tế, các đối tượng có thu nhập ổn định như lao động công nghệ (Grap, Shipper, bán hàng online...), số lượng lao động lớn, thu nhập ổn định, thậm trí còn cao hơn cả nhóm lao động phổ thông làm việc trong doanh nghiệp. Tuy nhiên đến nay Chính phủ vẫn chưa có giải pháp kịp thời để đưa đối tượng này tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc… Do đó, đề nghị quy định ngay trong dự thảo luật giao Chính phủ quy định chi tiết, có lộ trình cụ thể áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với một số nhóm lao đông công nghệ (Grap; Shipper…) vào năm 2026. (3) Bỏ lương cơ sở thì tính tiền lương hưu thấp nhất như thế nào? Liên quan đến việc quy định mức lương hưu thấp nhất, đại biểu Ma Thị Thúy băn khoăn, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định mức lương hưu thấp nhất bằng mức lương cơ sở. Dự thảo luật mới bỏ quy định này thì tính mức mức lương hưu thấp nhất ra sao? Có đảm bảo cuộc sống của người lao động về hưu không? Theo đại biểu Ma Thị Thúy: "Nếu như chúng ta chỉ tính tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội mà không trú trọng tới chất lượng an sinh như vậy không thể bền vững. Như các đối tượng người hoạt không chuyên trách, hay chủ hộ kinh doanh cá thể khi đến tuổi nghỉ hưu thì lương thấp phải điều chỉnh cao mà không đủ tiền từ Quỹ. Đây là vấn đề rất quan trọng vì nó bảo vệ mức sàn an sinh tối thiểu… Do vậy đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Chính phủ cân nhắc khi bỏ quy định về mức lương hưu thấp nhất được quy định tại khoản 5 Điều 56 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Tuyên Quang Ma Thị Thúy (4) Đề nghị thông qua Luật Bảo hiểm xã hội sau khi cải cách tiền lương Vấn đề liên quan đến chi phí quản lý Bảo hiểm Xã hội, đại biểu đề nghị cần có sự kiểm soát chi, nhất là đối với định mức chi cho các hoạt động trung tâm dịch vụ việc làm, chi cho cơ sở vật chất, cho hoạt động Bảo hiểm Xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho các tổ chức ngoài ngành Bảo hiểm xã hội. Vì đây không phải là tiền ngân sách, không có cơ quan nào kiểm soát, cần quy định rõ trong Luật vấn đề này, tránh bị lạm dụng. Về thời điểm thông qua dự thảo luật, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Tuyên Quang đề nghị Quốc hội xem xét, cân nhắc thông qua sau khi cải cách tiền lương. Theo đại biểu, cải cách tiền lương là một chính sách lớn, khó và phức tạp, tác động mạnh tới nhiều lĩnh vực, nhóm lao động khác nhau trên toàn xã hội. Do đó cần có thời gian triển khai cải cách tiền lương để điều chỉnh, xử lý các vấn để phát sinh (nếu có) cho phù hợp với thực tiễn, tránh tình trạng Luật vừa thông qua lại phải rà soát, sửa đổi. Do vậy, đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Quốc hội chưa thông qua tại kỳ họp thứ 7, xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 8 (thời điểm tháng 10-11 năm 2024). (Theo xaydungchinhsach.chinhphu.vn)
Bộ Công thương: Bán hàng online không thông báo website TMĐT có thể bị phạt đến 30 triệu đồng
Cá nhân, tổ chức có thể bị phạt tiền lên đến 30 triệu đồng nếu không thông báo website/ứng dụng TMĐT bán hàng, gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thông báo website. Hiện nay, mô hình bán hàng online rất phổ biến, đặc biệt hơn là sau dịch Covid-19, tuy vậy nhưng không ít cá nhân, tổ chức bán hàng online nắm rõ quy định về việc thông báo,đăng ký website TMĐT hoặc ứng dụng TMĐT trên nền tảng di động. Theo thông tin từ Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (iDEA - Bộ Công Thương), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử (TMĐT) trong những năm vừa qua, số lượng website, ứng dụng TMĐT đã được Bộ Công Thương xác nhận thông báo, đăng ký cũng tăng lên đáng kể từ năm 2019 đến 2021. Theo Sách trắng TMĐT mới đây nhất, số website/ứng dụng TMĐT đã được xác nhận thông báo tăng từ 29.370 hồ sơ lên 43.411 hồ sơ, số website/ứng dụng đã được xác nhận đăng ký tăng từ 1.191 lên 1.448 hồ sơ. Bên cạnh đó, chiếm phần lớn vẫn là các website/ứng dụng TMĐT bán hàng chưa đăng ký. Nguyên dẫn đến đến việc chưa đăng ký này, có thể kể đến: - Doanh nghiệp chưa hiểu rõ các quy định, chính sách về TMĐT - Chưa được tư vấn tìm hiểu các thủ tục đăng ký, khai báo rõ ràng Tuy nhiên, việc thông báo và đăng ký website, ứng dụng TMĐT bán hàng với Bộ Công Thương là yêu cầu bắt buộc đã được quy định tại văn bản pháp luật. Do vậy, DN cần tuân thủ đúng để tránh phải chịu phạt không đáng có. Pháp luật quy định như thế nào về việc thông báo, đăng ký website/ứng dụng TMĐT? Căn cứ tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 62 Nghị định 98/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 33 Điều 3 Nghị định 17/2022/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động như sau: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: - Không thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định trước khi bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ đến người tiêu dùng; - Không thông báo sửa đổi, bổ sung khi có sự thay đổi thông tin liên quan đến website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử đã đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng; - Giả mạo thông tin thông báo trên website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: - Không đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không làm thủ tục chuyển nhượng hoặc không tiến hành đăng ký lại với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đúng với hồ sơ đăng ký; - Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; - Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; - Sử dụng biểu tượng đã đăng ký để gắn lên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử khi chưa được xác nhận đăng ký của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký. Như vậy, khi bán hàng online nhưng không đăng ký sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 30.000.000 đồng.
Bán hàng online không đăng ký có bị xử phạt không?
Tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 62 Nghị định 98/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 33 Điều 3 Nghị định 17/2022/NĐ-CP quy định ành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động như sau: 3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Không thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định trước khi bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ đến người tiêu dùng; b) Không thông báo sửa đổi, bổ sung khi có sự thay đổi thông tin liên quan đến website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử đã đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; c) Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng; d) Giả mạo thông tin thông báo trên website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng. 4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Không đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; b) Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không làm thủ tục chuyển nhượng hoặc không tiến hành đăng ký lại với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; c) Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đúng với hồ sơ đăng ký; d) Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; đ) Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; e) Sử dụng biểu tượng đã đăng ký để gắn lên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử khi chưa được xác nhận đăng ký của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định; g) Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký. Như vậy, khi bán hàng online nhưng không đăng ký sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 30.000.000 đồng.
Bán hàng online có phải đóng thuế thu nhập cá nhân?
Hiện nay, mua hàng tại nhà, công ty thông qua một chiếc điện thoại, ipad hay 1 chiếc laptop đã là 1 chuyện quá đỗi bình thường, nhất là trong thời đại công nghệ 4.0. Theo quy luật cung cầu, việc người mua thông qua dịch vụ này càng nhiều sẽ dẫn đến người bán hàng cũng sẽ ngày càng đông, các trang thương mại điện tử cũng được thành lập và phát triển mạnh mẽ như Shopee, Tiki,... Và như vậy, có ai nghĩ đến việc người bán online như vậy có phải đóng thuế TNCN không khi mà việc bán hàng, chốt đơn điện tử chưa được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Theo Thông tư 40/2021/TT-BTC về hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, Nhà nước chủ yếu chia đối tượng bán hàng online theo 02 phương thức khai, nộp thuế thu nhập cá nhân, thuế giá giá trị gia tăng đó là phương pháp khoán và phương pháp khai, nộp thuế thay cho cá nhân. * Đối với phương pháp khoán: Theo khoản 1 điều 7 Thông tư 40/2021/TT-BTC có quy định rằng: “Điều 7. Phương pháp tính thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán 1. Phương pháp khoán được áp dụng đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thuộc trường hợp nộp thuế theo phương pháp kê khai và không thuộc trường hợp nộp thuế theo từng lần phát sinh theo hướng dẫn tại Điều 5, Điều 6 Thông tư này.” Như vậy, trên thực tế trường hợp này chủ yếu là dành cho các hộ, cá nhân bán hàng online (không qua sàn giao dịch thương mại điện tử) sẽ thực hiện phương thức này để có thể đơn giản hóa thủ tục, dễ thực hiện mà không cần kế toán, không tốn nhiều thời gian kê khai và ít chịu rủi ro về phạt chậm nộp hồ sơ, sổ sách, chứng từ kế toán. * Đối với phương phương pháp khai, nộp thuế thay cho cá nhân: Khoản 2 điều 1 Thông tư 100/2021/TT-BTC sửa đổi bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 8 Thông tư 40/2021/TT-BTC như sau: “đ) Tổ chức bao gồm cả chủ sở hữu Sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân trên cơ sở ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự;” Dựa vào nội dung trên, có thế thấy cá nhân bán hàng online có thể thực hiện phương pháp khai, nộp thuế này thường là những cá nhân bán hàng qua các sàn giao dịch điện tử như Shopee, Lazada, Tiki,... Và theo đó, tổ chức thực hiện khai thuế, nộp thuế theo tháng hoặc quý theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Do đó, các hộ, cá nhân bán hàng online qua các sàn giao dịch thương mại điện tử có thể ủy quyền cho chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện từ để thực hiện các thủ tục khai, nộp thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế theo đúng quy định pháp luật. Ngoài ra, theo khoản 2 Thông tư 40/2021/TT-BTC có quy định: “Điều 4. Nguyên tắc tính thuế … 2. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì thuộc trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định.” Như vậy, có thể nói đơn giản lại là chỉ hộ, cá nhân bán hàng online có doanh thu từ 100 triệu đồng trở lên (theo năm dương lịch) sẽ phải nộp thuế Giá trị gia tăng, thuế TNCN. Trên đây là một số ý kiến của tôi về vấn đề này. Nếu có gì không đúng mong các bạn góp ý để mình có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này. Mình xin cảm ơn vì đã dành thời gian đọc bài viết này.
Nghĩa vụ nộp thuế khi bán hàng Online hiện nay
Hiện nay với việc công nghệ ngày càng phát triển, các hình thức bán hàng online cũng trở nên nhộn nhịp từ những năm về đây, với lợi nhuận cực cao.Tuy nhiên, mặc dù không cần đăng ký kinh doanh nhưng trong quá trình bán hàng online vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thuế,tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo tính chân thực, minh bạch theo Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định. Về nghĩa vụ thuế, theo Điều 1 Thông tư số 92/2015/TT-BTC, người nộp thuế là cá nhân cư trú bao gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. về hình thức kinh doanh nên dù kinh doanh trực tiếp hay kinh doanh qua mạng mà có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm đều phải kê khai và nộp thuế theo quy định của pháp luật, nhưng không bao gồm cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống. Lệ phí môn bài: Theo Nghị định 139/2016/NĐ- CP quy định, cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên sẽ áp dụng mức lệ phí môn bài từ 300.000 đồng đến một triệu đồng. Cụ thể: - Doanh thu trên 100 đến 300 triệu đồng, mức phí 300.000 đồng. - Doanh thu trên 300 đến 500 triệu đồng, mức phí 500.000 đồng. - Doanh thu trên 500 triệu đồng, mức phí 1.000.000 đồng. Thuế thu nhập cá nhân Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền người có lương hoặc có các nguồn thu khác phải trích nộp một phần vào ngân sách nhà nước. Người hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập sẽ phải nộp thuế này, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007. Nếu doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên, người bán hàng phải nộp thuế với mức 0,5%. Thuế này được tính theo tháng, có thể kê khai theo tháng hoặc quý nhưng quyết toán theo năm. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế gián thu, được cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng sẽ trả thuế VAT khi sử dụng sản phẩm nhưng người bán hàng sẽ trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. Đa phần hàng hóa, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng đều chịu thuế VAT, trừ các sản phẩm là giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn cho gia súc, muối,... Người kinh doanh online phải nộp thuế VAT bằng 1% doanh thu khi đạt trên 100 triệu đồng/năm. Chính vì như vậy, đối với các chủ kinh doanh Online hiện nay, với mức doanh thu thuộc vào các trường hợp trên đều phải kê khai và nộp thuế theo đúng nghĩa vụ của pháp luật hiện hành.
Bán hàng online có cần đăng ký?
Khi kinh doanh, bán hàng qua mạng với quy mô nhỏ lẻ, theo hình thức tự phát thì hầu như cá nhân/chủ shop bán hàng online đều không thực hiện đăng ký kinh doanh. Theo Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ-CP những trường hợp cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, công việc không có địa điểm cố định,… thì không phải đăng ký kinh doanh. Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy định: Cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là "thương nhân" theo quy định của Luật Thương mại. Đó là cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau: buôn bán rong; buôn bán vặt (những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định); buôn chuyến (mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ); các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác... Theo Điều 13 Thông tư 47/2014/TT-BCT, đối tượng cần đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử gồm: thương nhân hoặc tổ chức có website thương mại điện tử trên đó cung cấp ít nhất một trong các dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử, khuyến mại trực tuyến hoặc đấu giá trực tuyến. Như vậy, theo quy định pháp luật trên, bản thân người bán hàng online đơn thuần không phải đăng ký giấy phép kinh doanh. Mà trách nhiệm đăng ký thuộc về doanh nghiệp vận hành website/ mạng xã hội có chuyên mục mua bán. Tùy vào website người bán tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ của mình, ví dụ như Shopee, Tiki, Lazada, Facebook, Instagram,… Như vậy, kinh doanh, bán hàng qua mạng với quy mô nhỏ lẻ, theo hình thức tự phát sẽ không phải đăng ký kinh doanh, đăng ký website hay xin giấy phép của cơ quan nào. Tuy nhiên, phải tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, không được mua bán hàng giả, hàng nhái, xâm hại đến quyền lợi của người tiêu dùng. Mặc dù không cần đăng ký kinh doanh nhưng trong quá trình bán hàng online vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thuế; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ; đảm bảo tính chân thực, minh bạch theo Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định. Về nghĩa vụ thuế, theo Điều 1 Thông tư số 92/2015/TT-BTC, người nộp thuế là cá nhân cư trú bao gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. về hình thức kinh doanh nên dù kinh doanh trực tiếp hay kinh doanh qua mạng mà có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm đều phải kê khai và nộp thuế theo quy định của pháp luật, nhưng không bao gồm cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống. Lệ phí môn bài: Theo Nghị định 139/2016/NĐ- CP quy định, cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên sẽ áp dụng mức lệ phí môn bài từ 300.000 đồng đến một triệu đồng. Cụ thể: - Doanh thu trên 100 đến 300 triệu đồng, mức phí 300.000 đồng. - Doanh thu trên 300 đến 500 triệu đồng, mức phí 500.000 đồng. - Doanh thu trên 500 triệu đồng, mức phí 1.000.000 đồng. Thuế thu nhập cá nhân Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền người có lương hoặc có các nguồn thu khác phải trích nộp một phần vào ngân sách nhà nước. Người hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập sẽ phải nộp thuế này, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007. Nếu doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên, người bán hàng phải nộp thuế với mức 0,5%. Thuế này được tính theo tháng, có thể kê khai theo tháng hoặc quý nhưng quyết toán theo năm. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế gián thu, được cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng sẽ trả thuế VAT khi sử dụng sản phẩm nhưng người bán hàng sẽ trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. Đa phần hàng hóa, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng đều chịu thuế VAT, trừ các sản phẩm là giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn cho gia súc, muối,... Người kinh doanh online phải nộp thuế VAT bằng 1% doanh thu khi đạt trên 100 triệu đồng/năm.
Bán hàng online có đăng ký kinh doanh không?
Hiện nay em có đang kinh doanh mặt hàng áo thể thao, áo thun và nhận in ấn theo yêu cầu. Nhưng chưa mở tiệm mà làm tại nhà và kinh doanh online. Vậy em có cần đăng ký gì không ạ? Nếu có thì hồ sơ, thủ tục và chi phí như thế nào ạ?
Bán hàng online cho doanh nghiệp mỹ phẩm cần đăng ký giấy tờ gì?
Cho e hỏi: e đang bán hàng online cho 1 doanh nghiệp mỹ phẩm, và hướng chiếc khấu theo đúng quy định công ty đưa ra, vậy e có đăng ký giấy tờ gì không ạ?
04 điều cần lưu ý khi bán hàng online
Bán hàng online là một hoạt động rất phổ biến hiện nay, đặc biệt là với các “bà mẹ bỉm sữa” muốn kiếm thêm thu nhập. Bán hàng online có thể thực hiện qua nhiều hình thức. Dưới đây là 04 vấn đề cần lưu ý nếu bạn đang bán hàng online 1. Khi nào bán hàng online cần đăng ký kinh doanh? Như đã nói, bán hàng online có thể được thực hiện qua nhiều hình thức, cụ thể: thông qua các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Zalo, thông qua các ứng dụng bán hàng trực truyến như Shopee, Ebay…hoặc được thực hiện dưới hình thức website bán hàng. Nếu bạn đang kinh doanh online thông qua các trang mạng xã hội hoặc những trang bán hàng trực tuyến chuyên dụng thì bạn KHÔNG cần phải đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu bạn đang kinh doanh thông qua việc lập website thì phải đăng ký việc cung cấp dịch vụ thương mại điện tử với Bộ Công thương theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư 47/2014/TT-BCT. 2. Về hồ sơ đăng ký website Theo quy định tại Điều 14 Thông tư 47/2014/TT-BCT thành phần hồ sơ bao gồm: - Đơn đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử - Bản sao từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao xuất trình kèm bản chính để đối chiếu.Quyết định thành lập (đối với tổ chức), Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư (đối với thương nhân). - Đề án cung cấp dịch vụ theo quy định - Quy chế quản lý hoạt động của website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử - Mẫu hợp đồng dịch vụ hoặc thỏa thuận hợp tác giữa thương nhân, tổ chức sở hữu website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử với thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên website đó. - Các điều kiện giao dịch chung áp dụng cho hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên website (nếu có). *Việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử được Bộ Công Thương thực hiện trực tuyến tại Cổng thông tin Quản lý hoạt động thương mại điện tử tại địa chỉ www.online.gov.vn. 3. Có phải nộp thuế không? Hiện nay, theo quy định tại Điều 1 Thông tư 92/2015/TT-BTC, nếu cá nhân kinh doanh thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống thì KHÔNG phải nộp thuế GTGT và thuế TNCN. Trường hợp việc kinh doanh mang lại cho bạn doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì phải phải nộp thuế GTGT và thuế TNCN theo công thức sau đây: Số thuế GTGT phải nộp = Doanh thu tính thuế GTGT x Tỷ lệ thuế GTGT Số thuế TNCN phải nộp = Doanh thu tính thuế TNCN x Tỷ lệ thuế TNCN 4. Trách nhiệm của người bán hàng trên sàn giao dịch điện tử Đây là quy định tại Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về việc quy định trách nhiệm đối với người bán khi bước vào sàn giao dịch điện tử, cụ thể: Cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin quy định, cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử hoặc đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử...
Bán hàng online có cần đăng ký Hộ kinh doanh để được đóng thuế
Chào các luật sư và các bạn danluat, Mình xin hỏi cá nhân bán hàng online có cần đăng ký "Hộ kinh doanh cá thể" để đóng thuế không? Mình đã cố gắng đọc các văn bản hướng dẫn thi hành thu thuế từ thuvienphapluat và xác định được tỉ lệ thuế từ việc bán hàng online là 1.5%(1%GTGT, 0.5%TNCN, mã ngành "phân phối hàng hóa"). Tuy nhiên vẫn chưa hiểu về sự khác nhau giữa "Cá nhân kinh doanh" và "Hộ kinh doanh cá thể" được đề cập trong các văn bản. Ý chính là mình muốn tự giác đi đóng thuế nhưng không muốn phải làm các thủ tục phức tạp như đăng ký kinh doanh, xin giấy phép v.v.. thì có được không? Hy vọng nhận được sự tư vấn từ luật sư và các bạn có kinh nghiệm. Mình xin cảm ơn.
Bán hàng online phải nộp thuế như thế nào?
Mình thành lập công ty, phân phối mỹ phẩm thì có phải nộp thuế, tính thuế thế nào ạ. Mình vẫn mù mờ chỗ khi nào phát sinh nộp thuế, căn cứ dựa trên hóa đơn mua bán sao ạ???. mọi người chỉ giáo.
BÁN HÀNG TRÊN FACEBOOK – DẤU HIỆU CỦA THẤT THU THUẾ?
Cho đến năm 2017, xu hướng bán hàng online trên facebook ngày càng trở nên rầm rộ, hoạt động bán hàng online lại trở nên nhộn nhịp hơn cả thị trường offline. Tuy nhiên vấn đề được đặt ra ở đây là hoạt động bán hàng online qua mạng xã hội ngày càng làm gia tăng tình trạng thất thu thuế. Nguồn ảnh: millionaireweb.it Theo thống kê của Sở Công thương thành phố Hồ Chí Minh thì trong ba năm gần đây, trên địa bàn thành phố đã có hơn 80.000 website kinh doanh thương mại điện tử, trong đó quá nửa số lượng là hoạt động một cách ổn định trong thời gian dài. Tuy nhiên việc thu thuế đối với các website này hay nói cách khác là đối với hoạt động bán hàng online là vô cùng khó khăn và phức tạp. Lý giải cho vấn đề bán hàng rầm rộ nhưng lại cực kỳ khó để kiểm soát và thu thuế là bởi vì những cửa hàng online này thường không dễ dàng để xác định địa điểm đặt website, kinh doanh qua mạng. Chủ thể có thẩm quyền khó mà có thể tiếp xúc để thực hiện việc yêu cầu khai thuế hay thu thuế đối với các “cửa hàng online” này. Đồng thời, người bán hàng online luôn nghĩ rằng việc bán hàng online nhỏ lẻ thì lại hoàn toàn không phải nộp thuế, điều này có đúng? Theo Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử thì các thương nhân, tổ chức, cá nhân sở hữu website thương mại điện tử (TMĐT) hay những người bán hàng qua mạng online vẫn có nghĩa vụ nộp thuế đúng, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Để thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, thì các chủ thể này cần cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin như tên, địa chỉ, số điện thoại của người bán, mã số thuế cá nhân (nếu có) cho chủ sàn giao dịch TMĐT khi đăng ký sử dụng dịch vụ; cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định khi bán hàng hóa; đảm bảo tính chính xác, trung thực về thông tin của hàng hóa, dịch vụ cung cấp hàng hóa trên sàn giao dịch TMĐT; tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mãi, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của mình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ hoạt động thống kê TMĐT… Đồng thời Thông tư 47/2014/TT-BCT cũng có quy định rằng các trang mạng xã hội có hoạt động theo hình thức sàn giao dịch TMĐT phải đăng ký và tuân thủ các quy định liên quan. Điều này nhằm thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho TMĐT phát triển, bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh và lĩnh vực thuế. Để kiểm soát nguồn thu từ các cửa hàng kinh doanh, buôn bán trên mạng xã hội không chỉ riêng Facebook, cách tốt nhất vẫn là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ động liên hệ đến chủ các trang mạng xã hội để yêu cầu phối hợp, giúp đỡ trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh online, giảm dần tình trạng thất thu thuế từ những cửa hàng online này.
BÁN HÀNG TRÊN FACEBOOK PHẢI ĐÓNG THUẾ
Ngày 5/12/2014, Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 47/2014/TT-BCT quy định về quản lý website Thương mại điện tử, theo đó nếu các mạng xã hội có thực hiện những hoạt động sau đây thì bắt buộc phải đăng ký dưới hình thức Sàn giao dịch thương mại điện tử: - Cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; - Cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; - Có chuyên mục mua bán trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ; Người bán hàng trên các mạng xã hội này sẽ phải tuân thủ các quy định như đối với người tham gia bán hàng trên Sàn giao dịch thương mại điện tử: - Cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử. - Đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử. - Cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của mình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ hoạt động thống kê thương mại điện tử. - Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều các mạng xã hội đang họat động, trong đó lớn nhất chính là Facebook với trên 20 triệu người sử dụng tại Việt Nam. Vì thế mà đây cũng là một thị trường kinh doanh rất thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp, cá nhân. Hàng trăm ngàn gian hàng mua bán online đã được mở trên facebook từ họat động theo hình thức cá nhân, nhỏ lẻ đến cả tổ chức. Tuy nhiên, có rất nhiều thắc mắc là liệu kinh doanh online trên Facebook có phải đóng thuế. Thông qua quy định trên thì đã rõ là kinh doanh trên Facebook cũng được xem là kinh doanh trên Sàn giao dịch thương mại điện tử và phải tuân thủ các quy định về quảng cáo, khuyến mại, cũng như phải nộp thuế như bình thường. Ngoài ra Thông tư cũng quy định Thương nhân, tổ chức, cá nhân không được sử dụng website thương mại điện tử để kinh doanh các hàng hóa hạn chế kinh doanh sau: a) Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ; b) Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác; c) Rượu các loại; d) Thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến; đ) Các hàng hóa hạn chế kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/1/2015, thay thế Thông tư số 12/2013/TT-BCT
Sẽ công khai danh tính, địa chỉ người bán hàng online lừa dối khách hàng
Trong thời đại công nghệ số hiện nay, mua sắm trực tuyến đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, sẽ công khai danh tính, địa chỉ của người bán hàng online nếu lừa dối khách hàng. Bên cạnh những tiện ích, việc mua hàng online cũng gặp nhiều rủi ro về chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Chính vì vậy, Nghị định 55/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vừa được Chính phủ chính thức ban hành đã thêm điều luật về công khai danh tính khi người bán hàng lừa dối khách hàng. (1) Từ ngày 01/07/2024 sẽ công khai danh tính người bán hàng online nếu lừa dối khách hàng Cụ thể khoản 1 Điều 24 Nghị định 55/2024/NĐ-CP quy định về công khai, gỡ bỏ thông tin cảnh báo người tiêu dùng trong giao dịch trên không gian mạng như sau: Danh sách tổ chức, cá nhân kinh doanh trên không gian mạng có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở, đăng tải trên cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các nội dung sẽ công khai công bố theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 55/2024/NĐ-CP bao gồm: - Tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân kinh doanh trên không gian mạng có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng - Hành vi, địa bàn vi phạm - Cơ quan ban hành, số, ngày, tháng, năm quyết định xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thời hạn công bố tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm là 30 ngày kể từ ngày công bố. Hết thời hạn nêu trên, cơ quan đăng tải thông tin sẽ dừng hoặc gỡ bỏ thông tin về tổ chức, cá nhân kinh doanh trên không gian mạng có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Như vậy, khi người bán hàng có hành vi lừa dối khách hàng thì sẽ bị công khai danh tính, địa chỉ trên phương tiện thông tin đại chúng và trên cổng thông tin điện tử. (2) Lừa dối khách hàng trong mua, bán hàng hoá sẽ bị xử phạt thế nào? Tùy theo tính chất và mức độ mà hành vi lừa dối khách hàng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử phạt hành chính: Theo điểm b khoản 1 Điều 61 Nghị định 98/2020/NĐ-CP, phạt tiền từ 500 nghìn - 1 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ giao dịch có giá trị dưới 5 triệu đồng: - Không đền bù, trả lại tiền hoặc đổi lại hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng, người tiêu dùng do nhầm lẫn. - Đánh tráo, gian lận hàng hóa, dịch vụ khi giao hàng, cung ứng dịch vụ cho khách hàng, người tiêu dùng. - Không đền bù, trả lại tiền hoặc đổi lại hàng hóa, dịch vụ bị đánh tráo, gian lận cho khách hàng, người tiêu dùng. - Tự ý bớt lại bao bì, phụ tùng, linh kiện thay thế, hàng khuyến mại, tài liệu kỹ thuật và hướng dẫn sử dụng kèm theo khi bán hàng, cung cấp dịch vụ. - Thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại, đề nghị giao dịch trực tiếp với đối tượng là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc người mất năng lực hành vi dân sự. Mức phạt cao nhất đối với hành vi lừa dối khách hàng trong mua bán hàng hóa có thể bị phạt lên đến 20 triệu đồng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ giao dịch có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, người vi phạm bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm theo khoản 8 Điều 61 Nghị định 98/2020/NĐ-CP. Truy cứu trách nhiệm hình sự: Hành vi lừa dối khách hàng trong mua, bán hàng hóa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 về tội lừa dối khách hàng như sau: Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: - Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm - Thu lợi bất chính từ 05 - 50 triệu đồng Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100 - 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 - 05 năm: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; dùng thủ đoạn xảo quyệt; thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 - 100 triệu, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01- 05 năm. Như vậy, đối với hành vi lừa dối khách hàng, mức xử phạt hành chính cao nhất lên đến 20 triệu đồng trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ giao dịch có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên. Tóm lại, người bán hàng có hành vi lừa dối khách hàng thì sẽ bị công khai danh tính, địa chỉ trên phương tiện thông tin đại chúng và trên cổng thông tin điện tử. Thời gian công công bố người bán hàng vi phạm là 30 ngày, hết thời hạn này cơ quan đăng tải thông tin sẽ dừng hoặc gỡ bỏ thông tin về người bán hàng trên không gian mạng. Ngoài ra, tùy theo tính chất và mức độ mà hành vi lừa dối khách hàng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nghị định 55/2024/NĐ-CP có hiệu lực vào ngày 01/7/2024.
Đề xuất áp dụng bảo hiểm bắt buộc với Grab, Shipper, bán hàng online...
Tại Hội nghị Đại biểu Quốc Hội (ĐBQH) chuyên trách lần 5, các đại biểu đề nghị bỏ quy định về mức lương hưu thấp nhất trong dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội; quy định lộ trình cụ thể áp dụng bảo hiểm bắt buộc đối với Grab, Shipper, bán hàng online,... cân nhắc thông qua luật này sau khi cải cách tiền lương. (1) Mức trợ cấp hưu trí xã hội chưa đảm bảo nguyên tắc an sinh xã hội Hội nghị ĐBQH chuyên trách lần thứ 5 thảo luận về một số nội dung còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) trong đó có vấn đề điều chỉnh lương hưu, trợ cấp khi thực hiện cải cách tiền lương. Cụ thể, về vấn đề trợ cấp hưu trí, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang cho rằng, mức trợ cấp hưu trí xã hội chưa đảm bảo nguyên tắc an sinh xã hội vì chỉ là trợ cấp cho người cao tuổi chuyển sang từ luật người cao tuổi, sẽ không đảm bảo mức sống tối thiểu hoặc gần tiệm cận mức sống tối thiểu của nhóm người cao tuổi này. Do đó, đại biểu cho rằng nếu chỉ thay đổi về hình thức mà không có thay đổi căn bản về chính sách thì đây cũng là một vấn đề cần phải cân nhắc kỹ lưỡng. Theo đại biểu, ít nhất mức hưu trí xã hội cũng phải cao hơn so với mức trợ cấp xã hội… Đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Chính phủ cần xem xét kỹ, đánh giá báo cáo rõ ràng hơn để Quốc hội xem xét quyết định. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc Hội Trần Thanh Mẫn điều hành nội dung thảo luận (2) Có lộ trình cụ thể áp dụng bảo hiểm bắt buộc đối với Grap, Shipper, bán hàng online,... Về bảo hiểm xã hội bắt buộc: Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh cho rằng, dự thảo Luật quy định giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các đối tượng khác, thu nhập ổn định thường xuyên là không phù hợp, vì đây là thẩm quyền quản lý nhà nước của Chính phủ. Trên thực tế, các đối tượng có thu nhập ổn định như lao động công nghệ (Grap, Shipper, bán hàng online...), số lượng lao động lớn, thu nhập ổn định, thậm trí còn cao hơn cả nhóm lao động phổ thông làm việc trong doanh nghiệp. Tuy nhiên đến nay Chính phủ vẫn chưa có giải pháp kịp thời để đưa đối tượng này tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc… Do đó, đề nghị quy định ngay trong dự thảo luật giao Chính phủ quy định chi tiết, có lộ trình cụ thể áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với một số nhóm lao đông công nghệ (Grap; Shipper…) vào năm 2026. (3) Bỏ lương cơ sở thì tính tiền lương hưu thấp nhất như thế nào? Liên quan đến việc quy định mức lương hưu thấp nhất, đại biểu Ma Thị Thúy băn khoăn, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định mức lương hưu thấp nhất bằng mức lương cơ sở. Dự thảo luật mới bỏ quy định này thì tính mức mức lương hưu thấp nhất ra sao? Có đảm bảo cuộc sống của người lao động về hưu không? Theo đại biểu Ma Thị Thúy: "Nếu như chúng ta chỉ tính tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội mà không trú trọng tới chất lượng an sinh như vậy không thể bền vững. Như các đối tượng người hoạt không chuyên trách, hay chủ hộ kinh doanh cá thể khi đến tuổi nghỉ hưu thì lương thấp phải điều chỉnh cao mà không đủ tiền từ Quỹ. Đây là vấn đề rất quan trọng vì nó bảo vệ mức sàn an sinh tối thiểu… Do vậy đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Chính phủ cân nhắc khi bỏ quy định về mức lương hưu thấp nhất được quy định tại khoản 5 Điều 56 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Tuyên Quang Ma Thị Thúy (4) Đề nghị thông qua Luật Bảo hiểm xã hội sau khi cải cách tiền lương Vấn đề liên quan đến chi phí quản lý Bảo hiểm Xã hội, đại biểu đề nghị cần có sự kiểm soát chi, nhất là đối với định mức chi cho các hoạt động trung tâm dịch vụ việc làm, chi cho cơ sở vật chất, cho hoạt động Bảo hiểm Xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho các tổ chức ngoài ngành Bảo hiểm xã hội. Vì đây không phải là tiền ngân sách, không có cơ quan nào kiểm soát, cần quy định rõ trong Luật vấn đề này, tránh bị lạm dụng. Về thời điểm thông qua dự thảo luật, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Tuyên Quang đề nghị Quốc hội xem xét, cân nhắc thông qua sau khi cải cách tiền lương. Theo đại biểu, cải cách tiền lương là một chính sách lớn, khó và phức tạp, tác động mạnh tới nhiều lĩnh vực, nhóm lao động khác nhau trên toàn xã hội. Do đó cần có thời gian triển khai cải cách tiền lương để điều chỉnh, xử lý các vấn để phát sinh (nếu có) cho phù hợp với thực tiễn, tránh tình trạng Luật vừa thông qua lại phải rà soát, sửa đổi. Do vậy, đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị Quốc hội chưa thông qua tại kỳ họp thứ 7, xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 8 (thời điểm tháng 10-11 năm 2024). (Theo xaydungchinhsach.chinhphu.vn)
Bộ Công thương: Bán hàng online không thông báo website TMĐT có thể bị phạt đến 30 triệu đồng
Cá nhân, tổ chức có thể bị phạt tiền lên đến 30 triệu đồng nếu không thông báo website/ứng dụng TMĐT bán hàng, gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thông báo website. Hiện nay, mô hình bán hàng online rất phổ biến, đặc biệt hơn là sau dịch Covid-19, tuy vậy nhưng không ít cá nhân, tổ chức bán hàng online nắm rõ quy định về việc thông báo,đăng ký website TMĐT hoặc ứng dụng TMĐT trên nền tảng di động. Theo thông tin từ Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (iDEA - Bộ Công Thương), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử (TMĐT) trong những năm vừa qua, số lượng website, ứng dụng TMĐT đã được Bộ Công Thương xác nhận thông báo, đăng ký cũng tăng lên đáng kể từ năm 2019 đến 2021. Theo Sách trắng TMĐT mới đây nhất, số website/ứng dụng TMĐT đã được xác nhận thông báo tăng từ 29.370 hồ sơ lên 43.411 hồ sơ, số website/ứng dụng đã được xác nhận đăng ký tăng từ 1.191 lên 1.448 hồ sơ. Bên cạnh đó, chiếm phần lớn vẫn là các website/ứng dụng TMĐT bán hàng chưa đăng ký. Nguyên dẫn đến đến việc chưa đăng ký này, có thể kể đến: - Doanh nghiệp chưa hiểu rõ các quy định, chính sách về TMĐT - Chưa được tư vấn tìm hiểu các thủ tục đăng ký, khai báo rõ ràng Tuy nhiên, việc thông báo và đăng ký website, ứng dụng TMĐT bán hàng với Bộ Công Thương là yêu cầu bắt buộc đã được quy định tại văn bản pháp luật. Do vậy, DN cần tuân thủ đúng để tránh phải chịu phạt không đáng có. Pháp luật quy định như thế nào về việc thông báo, đăng ký website/ứng dụng TMĐT? Căn cứ tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 62 Nghị định 98/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 33 Điều 3 Nghị định 17/2022/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động như sau: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: - Không thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định trước khi bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ đến người tiêu dùng; - Không thông báo sửa đổi, bổ sung khi có sự thay đổi thông tin liên quan đến website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử đã đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng; - Giả mạo thông tin thông báo trên website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: - Không đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không làm thủ tục chuyển nhượng hoặc không tiến hành đăng ký lại với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đúng với hồ sơ đăng ký; - Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; - Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; - Sử dụng biểu tượng đã đăng ký để gắn lên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử khi chưa được xác nhận đăng ký của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định; - Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký. Như vậy, khi bán hàng online nhưng không đăng ký sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 30.000.000 đồng.
Bán hàng online không đăng ký có bị xử phạt không?
Tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 62 Nghị định 98/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 33 Điều 3 Nghị định 17/2022/NĐ-CP quy định ành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động như sau: 3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Không thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định trước khi bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ đến người tiêu dùng; b) Không thông báo sửa đổi, bổ sung khi có sự thay đổi thông tin liên quan đến website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử đã đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; c) Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thông báo website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng; d) Giả mạo thông tin thông báo trên website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng. 4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Không đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; b) Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không làm thủ tục chuyển nhượng hoặc không tiến hành đăng ký lại với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; c) Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đúng với hồ sơ đăng ký; d) Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; đ) Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử; e) Sử dụng biểu tượng đã đăng ký để gắn lên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử khi chưa được xác nhận đăng ký của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định; g) Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký. Như vậy, khi bán hàng online nhưng không đăng ký sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đến 30.000.000 đồng.
Bán hàng online có phải đóng thuế thu nhập cá nhân?
Hiện nay, mua hàng tại nhà, công ty thông qua một chiếc điện thoại, ipad hay 1 chiếc laptop đã là 1 chuyện quá đỗi bình thường, nhất là trong thời đại công nghệ 4.0. Theo quy luật cung cầu, việc người mua thông qua dịch vụ này càng nhiều sẽ dẫn đến người bán hàng cũng sẽ ngày càng đông, các trang thương mại điện tử cũng được thành lập và phát triển mạnh mẽ như Shopee, Tiki,... Và như vậy, có ai nghĩ đến việc người bán online như vậy có phải đóng thuế TNCN không khi mà việc bán hàng, chốt đơn điện tử chưa được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Theo Thông tư 40/2021/TT-BTC về hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, Nhà nước chủ yếu chia đối tượng bán hàng online theo 02 phương thức khai, nộp thuế thu nhập cá nhân, thuế giá giá trị gia tăng đó là phương pháp khoán và phương pháp khai, nộp thuế thay cho cá nhân. * Đối với phương pháp khoán: Theo khoản 1 điều 7 Thông tư 40/2021/TT-BTC có quy định rằng: “Điều 7. Phương pháp tính thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán 1. Phương pháp khoán được áp dụng đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thuộc trường hợp nộp thuế theo phương pháp kê khai và không thuộc trường hợp nộp thuế theo từng lần phát sinh theo hướng dẫn tại Điều 5, Điều 6 Thông tư này.” Như vậy, trên thực tế trường hợp này chủ yếu là dành cho các hộ, cá nhân bán hàng online (không qua sàn giao dịch thương mại điện tử) sẽ thực hiện phương thức này để có thể đơn giản hóa thủ tục, dễ thực hiện mà không cần kế toán, không tốn nhiều thời gian kê khai và ít chịu rủi ro về phạt chậm nộp hồ sơ, sổ sách, chứng từ kế toán. * Đối với phương phương pháp khai, nộp thuế thay cho cá nhân: Khoản 2 điều 1 Thông tư 100/2021/TT-BTC sửa đổi bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 8 Thông tư 40/2021/TT-BTC như sau: “đ) Tổ chức bao gồm cả chủ sở hữu Sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân trên cơ sở ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự;” Dựa vào nội dung trên, có thế thấy cá nhân bán hàng online có thể thực hiện phương pháp khai, nộp thuế này thường là những cá nhân bán hàng qua các sàn giao dịch điện tử như Shopee, Lazada, Tiki,... Và theo đó, tổ chức thực hiện khai thuế, nộp thuế theo tháng hoặc quý theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Do đó, các hộ, cá nhân bán hàng online qua các sàn giao dịch thương mại điện tử có thể ủy quyền cho chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện từ để thực hiện các thủ tục khai, nộp thuế thu nhập cá nhân và thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế theo đúng quy định pháp luật. Ngoài ra, theo khoản 2 Thông tư 40/2021/TT-BTC có quy định: “Điều 4. Nguyên tắc tính thuế … 2. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì thuộc trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định.” Như vậy, có thể nói đơn giản lại là chỉ hộ, cá nhân bán hàng online có doanh thu từ 100 triệu đồng trở lên (theo năm dương lịch) sẽ phải nộp thuế Giá trị gia tăng, thuế TNCN. Trên đây là một số ý kiến của tôi về vấn đề này. Nếu có gì không đúng mong các bạn góp ý để mình có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này. Mình xin cảm ơn vì đã dành thời gian đọc bài viết này.
Nghĩa vụ nộp thuế khi bán hàng Online hiện nay
Hiện nay với việc công nghệ ngày càng phát triển, các hình thức bán hàng online cũng trở nên nhộn nhịp từ những năm về đây, với lợi nhuận cực cao.Tuy nhiên, mặc dù không cần đăng ký kinh doanh nhưng trong quá trình bán hàng online vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thuế,tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo tính chân thực, minh bạch theo Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định. Về nghĩa vụ thuế, theo Điều 1 Thông tư số 92/2015/TT-BTC, người nộp thuế là cá nhân cư trú bao gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. về hình thức kinh doanh nên dù kinh doanh trực tiếp hay kinh doanh qua mạng mà có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm đều phải kê khai và nộp thuế theo quy định của pháp luật, nhưng không bao gồm cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống. Lệ phí môn bài: Theo Nghị định 139/2016/NĐ- CP quy định, cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên sẽ áp dụng mức lệ phí môn bài từ 300.000 đồng đến một triệu đồng. Cụ thể: - Doanh thu trên 100 đến 300 triệu đồng, mức phí 300.000 đồng. - Doanh thu trên 300 đến 500 triệu đồng, mức phí 500.000 đồng. - Doanh thu trên 500 triệu đồng, mức phí 1.000.000 đồng. Thuế thu nhập cá nhân Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền người có lương hoặc có các nguồn thu khác phải trích nộp một phần vào ngân sách nhà nước. Người hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập sẽ phải nộp thuế này, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007. Nếu doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên, người bán hàng phải nộp thuế với mức 0,5%. Thuế này được tính theo tháng, có thể kê khai theo tháng hoặc quý nhưng quyết toán theo năm. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế gián thu, được cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng sẽ trả thuế VAT khi sử dụng sản phẩm nhưng người bán hàng sẽ trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. Đa phần hàng hóa, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng đều chịu thuế VAT, trừ các sản phẩm là giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn cho gia súc, muối,... Người kinh doanh online phải nộp thuế VAT bằng 1% doanh thu khi đạt trên 100 triệu đồng/năm. Chính vì như vậy, đối với các chủ kinh doanh Online hiện nay, với mức doanh thu thuộc vào các trường hợp trên đều phải kê khai và nộp thuế theo đúng nghĩa vụ của pháp luật hiện hành.
Bán hàng online có cần đăng ký?
Khi kinh doanh, bán hàng qua mạng với quy mô nhỏ lẻ, theo hình thức tự phát thì hầu như cá nhân/chủ shop bán hàng online đều không thực hiện đăng ký kinh doanh. Theo Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ-CP những trường hợp cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, công việc không có địa điểm cố định,… thì không phải đăng ký kinh doanh. Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy định: Cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là "thương nhân" theo quy định của Luật Thương mại. Đó là cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại sau: buôn bán rong; buôn bán vặt (những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định); buôn chuyến (mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ); các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh khác... Theo Điều 13 Thông tư 47/2014/TT-BCT, đối tượng cần đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử gồm: thương nhân hoặc tổ chức có website thương mại điện tử trên đó cung cấp ít nhất một trong các dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử, khuyến mại trực tuyến hoặc đấu giá trực tuyến. Như vậy, theo quy định pháp luật trên, bản thân người bán hàng online đơn thuần không phải đăng ký giấy phép kinh doanh. Mà trách nhiệm đăng ký thuộc về doanh nghiệp vận hành website/ mạng xã hội có chuyên mục mua bán. Tùy vào website người bán tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ của mình, ví dụ như Shopee, Tiki, Lazada, Facebook, Instagram,… Như vậy, kinh doanh, bán hàng qua mạng với quy mô nhỏ lẻ, theo hình thức tự phát sẽ không phải đăng ký kinh doanh, đăng ký website hay xin giấy phép của cơ quan nào. Tuy nhiên, phải tuân thủ các quy định về an toàn thực phẩm, không được mua bán hàng giả, hàng nhái, xâm hại đến quyền lợi của người tiêu dùng. Mặc dù không cần đăng ký kinh doanh nhưng trong quá trình bán hàng online vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thuế; tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ; đảm bảo tính chân thực, minh bạch theo Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định. Về nghĩa vụ thuế, theo Điều 1 Thông tư số 92/2015/TT-BTC, người nộp thuế là cá nhân cư trú bao gồm cá nhân, nhóm cá nhân và hộ gia đình có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. về hình thức kinh doanh nên dù kinh doanh trực tiếp hay kinh doanh qua mạng mà có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm đều phải kê khai và nộp thuế theo quy định của pháp luật, nhưng không bao gồm cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống. Lệ phí môn bài: Theo Nghị định 139/2016/NĐ- CP quy định, cá nhân, hộ kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên sẽ áp dụng mức lệ phí môn bài từ 300.000 đồng đến một triệu đồng. Cụ thể: - Doanh thu trên 100 đến 300 triệu đồng, mức phí 300.000 đồng. - Doanh thu trên 300 đến 500 triệu đồng, mức phí 500.000 đồng. - Doanh thu trên 500 triệu đồng, mức phí 1.000.000 đồng. Thuế thu nhập cá nhân Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền người có lương hoặc có các nguồn thu khác phải trích nộp một phần vào ngân sách nhà nước. Người hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập sẽ phải nộp thuế này, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007. Nếu doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên, người bán hàng phải nộp thuế với mức 0,5%. Thuế này được tính theo tháng, có thể kê khai theo tháng hoặc quý nhưng quyết toán theo năm. Thuế giá trị gia tăng Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế gián thu, được cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Người tiêu dùng sẽ trả thuế VAT khi sử dụng sản phẩm nhưng người bán hàng sẽ trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước. Đa phần hàng hóa, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng đều chịu thuế VAT, trừ các sản phẩm là giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn cho gia súc, muối,... Người kinh doanh online phải nộp thuế VAT bằng 1% doanh thu khi đạt trên 100 triệu đồng/năm.
Bán hàng online có đăng ký kinh doanh không?
Hiện nay em có đang kinh doanh mặt hàng áo thể thao, áo thun và nhận in ấn theo yêu cầu. Nhưng chưa mở tiệm mà làm tại nhà và kinh doanh online. Vậy em có cần đăng ký gì không ạ? Nếu có thì hồ sơ, thủ tục và chi phí như thế nào ạ?
Bán hàng online cho doanh nghiệp mỹ phẩm cần đăng ký giấy tờ gì?
Cho e hỏi: e đang bán hàng online cho 1 doanh nghiệp mỹ phẩm, và hướng chiếc khấu theo đúng quy định công ty đưa ra, vậy e có đăng ký giấy tờ gì không ạ?
04 điều cần lưu ý khi bán hàng online
Bán hàng online là một hoạt động rất phổ biến hiện nay, đặc biệt là với các “bà mẹ bỉm sữa” muốn kiếm thêm thu nhập. Bán hàng online có thể thực hiện qua nhiều hình thức. Dưới đây là 04 vấn đề cần lưu ý nếu bạn đang bán hàng online 1. Khi nào bán hàng online cần đăng ký kinh doanh? Như đã nói, bán hàng online có thể được thực hiện qua nhiều hình thức, cụ thể: thông qua các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Zalo, thông qua các ứng dụng bán hàng trực truyến như Shopee, Ebay…hoặc được thực hiện dưới hình thức website bán hàng. Nếu bạn đang kinh doanh online thông qua các trang mạng xã hội hoặc những trang bán hàng trực tuyến chuyên dụng thì bạn KHÔNG cần phải đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu bạn đang kinh doanh thông qua việc lập website thì phải đăng ký việc cung cấp dịch vụ thương mại điện tử với Bộ Công thương theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư 47/2014/TT-BCT. 2. Về hồ sơ đăng ký website Theo quy định tại Điều 14 Thông tư 47/2014/TT-BCT thành phần hồ sơ bao gồm: - Đơn đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử - Bản sao từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực hoặc bản sao xuất trình kèm bản chính để đối chiếu.Quyết định thành lập (đối với tổ chức), Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư (đối với thương nhân). - Đề án cung cấp dịch vụ theo quy định - Quy chế quản lý hoạt động của website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử - Mẫu hợp đồng dịch vụ hoặc thỏa thuận hợp tác giữa thương nhân, tổ chức sở hữu website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử với thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên website đó. - Các điều kiện giao dịch chung áp dụng cho hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên website (nếu có). *Việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử được Bộ Công Thương thực hiện trực tuyến tại Cổng thông tin Quản lý hoạt động thương mại điện tử tại địa chỉ www.online.gov.vn. 3. Có phải nộp thuế không? Hiện nay, theo quy định tại Điều 1 Thông tư 92/2015/TT-BTC, nếu cá nhân kinh doanh thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống thì KHÔNG phải nộp thuế GTGT và thuế TNCN. Trường hợp việc kinh doanh mang lại cho bạn doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở lên thì phải phải nộp thuế GTGT và thuế TNCN theo công thức sau đây: Số thuế GTGT phải nộp = Doanh thu tính thuế GTGT x Tỷ lệ thuế GTGT Số thuế TNCN phải nộp = Doanh thu tính thuế TNCN x Tỷ lệ thuế TNCN 4. Trách nhiệm của người bán hàng trên sàn giao dịch điện tử Đây là quy định tại Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về việc quy định trách nhiệm đối với người bán khi bước vào sàn giao dịch điện tử, cụ thể: Cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin quy định, cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử hoặc đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử...
Bán hàng online có cần đăng ký Hộ kinh doanh để được đóng thuế
Chào các luật sư và các bạn danluat, Mình xin hỏi cá nhân bán hàng online có cần đăng ký "Hộ kinh doanh cá thể" để đóng thuế không? Mình đã cố gắng đọc các văn bản hướng dẫn thi hành thu thuế từ thuvienphapluat và xác định được tỉ lệ thuế từ việc bán hàng online là 1.5%(1%GTGT, 0.5%TNCN, mã ngành "phân phối hàng hóa"). Tuy nhiên vẫn chưa hiểu về sự khác nhau giữa "Cá nhân kinh doanh" và "Hộ kinh doanh cá thể" được đề cập trong các văn bản. Ý chính là mình muốn tự giác đi đóng thuế nhưng không muốn phải làm các thủ tục phức tạp như đăng ký kinh doanh, xin giấy phép v.v.. thì có được không? Hy vọng nhận được sự tư vấn từ luật sư và các bạn có kinh nghiệm. Mình xin cảm ơn.
Bán hàng online phải nộp thuế như thế nào?
Mình thành lập công ty, phân phối mỹ phẩm thì có phải nộp thuế, tính thuế thế nào ạ. Mình vẫn mù mờ chỗ khi nào phát sinh nộp thuế, căn cứ dựa trên hóa đơn mua bán sao ạ???. mọi người chỉ giáo.
BÁN HÀNG TRÊN FACEBOOK – DẤU HIỆU CỦA THẤT THU THUẾ?
Cho đến năm 2017, xu hướng bán hàng online trên facebook ngày càng trở nên rầm rộ, hoạt động bán hàng online lại trở nên nhộn nhịp hơn cả thị trường offline. Tuy nhiên vấn đề được đặt ra ở đây là hoạt động bán hàng online qua mạng xã hội ngày càng làm gia tăng tình trạng thất thu thuế. Nguồn ảnh: millionaireweb.it Theo thống kê của Sở Công thương thành phố Hồ Chí Minh thì trong ba năm gần đây, trên địa bàn thành phố đã có hơn 80.000 website kinh doanh thương mại điện tử, trong đó quá nửa số lượng là hoạt động một cách ổn định trong thời gian dài. Tuy nhiên việc thu thuế đối với các website này hay nói cách khác là đối với hoạt động bán hàng online là vô cùng khó khăn và phức tạp. Lý giải cho vấn đề bán hàng rầm rộ nhưng lại cực kỳ khó để kiểm soát và thu thuế là bởi vì những cửa hàng online này thường không dễ dàng để xác định địa điểm đặt website, kinh doanh qua mạng. Chủ thể có thẩm quyền khó mà có thể tiếp xúc để thực hiện việc yêu cầu khai thuế hay thu thuế đối với các “cửa hàng online” này. Đồng thời, người bán hàng online luôn nghĩ rằng việc bán hàng online nhỏ lẻ thì lại hoàn toàn không phải nộp thuế, điều này có đúng? Theo Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử thì các thương nhân, tổ chức, cá nhân sở hữu website thương mại điện tử (TMĐT) hay những người bán hàng qua mạng online vẫn có nghĩa vụ nộp thuế đúng, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Để thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, thì các chủ thể này cần cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin như tên, địa chỉ, số điện thoại của người bán, mã số thuế cá nhân (nếu có) cho chủ sàn giao dịch TMĐT khi đăng ký sử dụng dịch vụ; cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định khi bán hàng hóa; đảm bảo tính chính xác, trung thực về thông tin của hàng hóa, dịch vụ cung cấp hàng hóa trên sàn giao dịch TMĐT; tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mãi, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của mình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ hoạt động thống kê TMĐT… Đồng thời Thông tư 47/2014/TT-BCT cũng có quy định rằng các trang mạng xã hội có hoạt động theo hình thức sàn giao dịch TMĐT phải đăng ký và tuân thủ các quy định liên quan. Điều này nhằm thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho TMĐT phát triển, bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh và lĩnh vực thuế. Để kiểm soát nguồn thu từ các cửa hàng kinh doanh, buôn bán trên mạng xã hội không chỉ riêng Facebook, cách tốt nhất vẫn là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ động liên hệ đến chủ các trang mạng xã hội để yêu cầu phối hợp, giúp đỡ trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh online, giảm dần tình trạng thất thu thuế từ những cửa hàng online này.
BÁN HÀNG TRÊN FACEBOOK PHẢI ĐÓNG THUẾ
Ngày 5/12/2014, Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 47/2014/TT-BCT quy định về quản lý website Thương mại điện tử, theo đó nếu các mạng xã hội có thực hiện những hoạt động sau đây thì bắt buộc phải đăng ký dưới hình thức Sàn giao dịch thương mại điện tử: - Cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; - Cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; - Có chuyên mục mua bán trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ; Người bán hàng trên các mạng xã hội này sẽ phải tuân thủ các quy định như đối với người tham gia bán hàng trên Sàn giao dịch thương mại điện tử: - Cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử. - Đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử. - Cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của mình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ hoạt động thống kê thương mại điện tử. - Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử. - Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều các mạng xã hội đang họat động, trong đó lớn nhất chính là Facebook với trên 20 triệu người sử dụng tại Việt Nam. Vì thế mà đây cũng là một thị trường kinh doanh rất thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp, cá nhân. Hàng trăm ngàn gian hàng mua bán online đã được mở trên facebook từ họat động theo hình thức cá nhân, nhỏ lẻ đến cả tổ chức. Tuy nhiên, có rất nhiều thắc mắc là liệu kinh doanh online trên Facebook có phải đóng thuế. Thông qua quy định trên thì đã rõ là kinh doanh trên Facebook cũng được xem là kinh doanh trên Sàn giao dịch thương mại điện tử và phải tuân thủ các quy định về quảng cáo, khuyến mại, cũng như phải nộp thuế như bình thường. Ngoài ra Thông tư cũng quy định Thương nhân, tổ chức, cá nhân không được sử dụng website thương mại điện tử để kinh doanh các hàng hóa hạn chế kinh doanh sau: a) Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ; b) Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác; c) Rượu các loại; d) Thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến; đ) Các hàng hóa hạn chế kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/1/2015, thay thế Thông tư số 12/2013/TT-BCT