Tòa án vẫn phải xác định công sức đóng góp của đương sự trong vụ án thừa kế mặc dù họ không yêu cầu?
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, đương sự không yêu cầu xem xét về công sức đóng góp của họ (vì họ đã có yêu cầu không chia thừa kế cho người khác), thì Tòa án ứng xử sao? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 05/2016/AL về vụ án tranh chấp di sản thừa kế (được ban hành kèm theo Quyết định 220/QĐ-CA năm 2016 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Tại đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) là đã chết. Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thúy Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ ông Trải không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả. Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác. Bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thúy Loan (anh Đức, chị Loan hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ Hưng, cụ Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đào sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà. Bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị có nội dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay ông xin hủy bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin ủy quyền cho bà Thường, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại Canada. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày 14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11-3-2011, ông Trải có Tờ tường trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: - Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà. - Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý. - Bà Nguyễn Thị Xê (là con của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên. - Lời khai của chị Nguyễn Thị Thúy Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy ủy quyền lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp pháp hóa lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề ngày 25-3-2011, sau khi xét xử sơ thẩm). Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản ủy quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên tòa ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp. Nhận định của Tòa án: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng (con ông Trải) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành Phụng năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng quản lý, sử dụng. Năm 2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ Ngự để lại. Các đương sự đều xác định ông Trải định cư tại Mỹ trước ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu Mục a Điểm 2.4 Mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ngự cho các thừa kế là có căn cứ. Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà Tư, nhưng ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Hưng cho anh Đức là chưa đúng. Chị Phượng sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ngự còn sống nhưng ở nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo Điều kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là chưa phù hợp. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự. Nội dung của Án lệ: “Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.” Như vậy, theo nội dung của Án lệ số 05/2016/AL, trong vụ án tranh chấp về di sản thừa kế, nếu có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. Nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Có được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng lúc với đơn khởi kiện?
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là việc phải thực hiện cấp bách trong trường hợp cá nhân, doanh nghiệp xảy ra sự cố mà không thể chờ kết quả giải quyết của vụ kiện, qua đó nhằm giảm thiệt hại về người và của xuống mức thấp nhất. Vậy đương sự có được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng thời điểm khi gửi đơn yêu cầu khởi kiện đến tòa án để được giải quyết kịp thời? 1. Trường hợp nào được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời? Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau: (1) Đối tượng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng khẩn cấp tạm thời Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời khi: - Nhằm tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, nếu chậm trễ sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của đương sự. - Để thu thập, bảo vệ chứng cứ của vụ án đang do Tòa án thụ lý, giải quyết trong trường hợp đương sự cản trở việc thu thập chứng cứ hoặc chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được. - Để bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết. - Để bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án, tức là làm cho chắc chắn các căn cứ để giải quyết vụ án, các điều kiện để khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án. (2) Đối với vụ án có áp dụng khẩn cấp tạm thời Đối với vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải theo dõi, xem xét về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng khi có một trong các căn cứ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e khoản 1 Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. (3) Vụ việc dân sự sẽ không áp dụng khẩn cấp tạm thời Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết việc dân sự quy định tại Phần thứ sáu Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. (4) Áp dụng khẩn cấp tạm thời đối với bản án của TAND nước ngoài Trường hợp xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài mà người yêu cầu có đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì TAND đang thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 438 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để giải quyết. 2. Có giải quyết áp dụng khẩn cấp tạm thời khi gửi đơn kiện? Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì đương sự có thể căn cứ vào Điều 3 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP quy định như sau: Khi có một trong các căn cứ sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: - Do tình thế khẩn cấp, tức là cần được giải quyết ngay, không chậm trễ. - Cần bảo vệ ngay chứng cứ trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được. - Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra. Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án theo quy định tại các điều 35, 36, 37, 38, 39 và 40 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trường hợp đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác thì Tòa án đã nhận đơn khởi kiện chuyển ngay hồ sơ khởi kiện và đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp đơn khởi kiện đã có các nội dung để xác định việc thụ lý và giải quyết vụ án là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhận đơn nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác. Thì Tòa án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay theo quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và hướng dẫn tại Điều 11 Nghị quyết Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP. Việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 193 và Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Như vậy, Tòa án sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu đương sự gửi đơn kiện có yêu cầu thuộc các trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra.
Bàn về việc thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Thay đổi yêu cầu khởi kiện - Minh họa Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là quyền của nguyên đơn, thể hiện quyền tự định đoạt của họ trong tố tụng dân sự. Bài viết này phân tích những vấn đề còn vướng mắc thông qua một vụ việc cụ thể mà nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm; từ đó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện luật. Trong thực tế giải quyết vụ án dân sự, trước hoặc sau phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thậm chí tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn có thể thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện. Nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu được thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm thì việc xem xét yêu cầu thay đổi, bổ sung này có phần khó khăn hơn bởi thời điểm này, vụ án đã bước vào “giai đoạn sau” của trình tự tố tụng, công tác chuẩn bị đã “sẵn sàng” để giải quyết toàn diện các yêu cầu của đương sự. Chính vì vậy, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cần được xem xét cẩn trọng để vừa đảm bảo giải quyết được toàn diện, triệt để vấn đề tranh chấp, vừa đảm bảo đúng pháp luật và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo pháp luật hiện hành Thay đổi, bổ sung yêu khởi kiện là một quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự, thể hiện quyền quyết định và tự định đoạt của họ (Điều 5, khoản 2 Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS). Nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là việc nguyên đơn đưa ra một yêu cầu khởi kiện khác với yêu cầu ban đầu của họ để Tòa án xem xét, giải quyết trong cùng vụ án. Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có thể được thực hiện ngay cả tại phiên tòa sơ thẩm nếu đáp ứng được điều kiện luật định. Theo đó, tại phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phiên tòa hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện hay không (khoản 1 Điều 243 BLTTDS). Nếu nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện thì Hội đồng xét xử sẽ xem xét yêu cầu này. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu (khoản 1 Điều 244 BLTTDS) được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn (mục 7 phần IV Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 và mục 7 phần II Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TAND tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ). Như vậy, điều kiện để việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận tại phiên tòa sơ thẩm là “không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu” thể hiện trong đơn khởi kiện (hoặc đơn khởi kiện bổ sung) của nguyên đơn. Thế nhưng, tiêu chí để xác định thế nào là “không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu” chưa được hướng dẫn cụ thể nên hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như: (1) Không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới (Cuốn Bình luận Khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, do PGS. TS. Trần Anh Tuấn chủ biên), hay (2) Không làm tăng thêm giá trị tranh chấp trong cùng quan hệ pháp luật tranh chấp mà Tòa án đang xem xét giải quyết (Bài viết của tác giả Dương Tấn Thanh: “Bàn về phạm vi khởi kiện và quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự theo BLTTDS năm 2015” đăng trên Tạp chí Tòa án tại địa chỉ: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ban-ve-pham-vi-khoi-kien-va-quyen-thay-doi-bo-sung-yeu-cau-cua-duong-su-theo-blttds-nam-2015 ). Thực tế, một số bản án sơ thẩm đã bị Tòa án cấp trên hủy bản án với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện của nguyên đơn; hoặc Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự. Thực tiễn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn qua một vụ việc cụ thể Công ty A vay tiền của Ngân hàng B bằng Hợp đồng tín dụng 01 và được đảm bảo bằng Hợp đồng thế chấp 02 (thế chấp toàn bộ 72 quyền sử dụng đất (“”) có thu tiền sử dụng đất, trong đó có QSD đất E) và Hợp đồng thế chấp 03 (thế chấp toàn bộ QSD đất không thu tiền sử dụng đất). Sau đó, do Công ty A không thanh toán được khoản nợ đến hạn nên Ngân hàng B đã tiến hành thủ tục để bán đấu giá tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ thông qua Công ty bán đấu giá C. Thế nhưng, cho rằng quá trình bán đấu giá tài sản xảy ra các sai phạm nên Công ty A đã khởi kiện Công ty bán đấu giá C. Ban đầu, Công ty A yêu cầu tòa án (1) tuyên hủy kết quả bán đấu giá tài sản; (2) tuyên Công ty A được trả nợ cho Ngân hàng B theo Hợp đồng tín dụng 01 và Ngân hàng B trả lại các tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp 02 (công nhận toàn bộ hiệu lực của Hợp đồng thế chấp 02); và (3) tuyên Hợp đồng thế chấp 03 (thế chấp toàn bộ QSD đất không thu tiền sử dụng đất) bị vô hiệu. Sau đó, Công ty A phát hiện, Ngân hàng B chỉ đăng ký thế chấp với 71 QSD đất còn QSD đất E không đăng ký giao dịch bảo đảm. Do đó, tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty A đã bổ sung yêu cầu khởi kiện tuyên Hợp đồng thế chấp 02 vô hiệu một phần (tức có hiệu lực với 71 QSD đất có thu tiền sử dụng đất, vô hiệu đối với 01 QSD đất - QSD đất E). Vậy việc Công ty A thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện như trên có vượt quá phạm khởi kiện ban đầu không? Vấn đề này còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm 1: Việc Ngân hàng B không đăng ký giao dịch bảo đảm là vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thế chấp nên Hợp đồng thế chấp số 02 không thể có hiệu lực toàn bộ. Việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của nguyên đơn theo Hợp đồng tín dụng 01 tất yếu phải xem xét hiệu lực của Hợp đồng thế chấp 02. Thế nên, yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn không làm thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp (Điều 188 BLTTDS) nên không xác định là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu. Quan điểm 2: Yêu cầu của nguyên đơn là yêu cầu bổ sung vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu theo khoản 1 Điều 244 BLTTDS nên không thể xem xét. Quan điểm 3: Hợp đồng thế chấp 02 là một bộ phận không tách rời của Hợp đồng tín dụng 01. Tòa án đã thụ lý yêu cầu tranh chấp Hợp đồng tín dụng 01, yêu cầu hủy kết quả đấu giá tài sản thế chấp. Do đó, việc Công ty A bổ sung yêu cầu tuyên bố vô hiệu một phần Hợp đồng thế chấp 02 là cùng trong một quan hệ cho vay và phát mãi tài sản thế chấp của các bên. Xem xét yêu cầu bổ sung này Tòa án không phải xác minh, thu thập chứng cứ mới, không phải tiến hành lại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu theo khoản 1 Điều 244 BLTTDS. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ 3, vì: Theo Điều 188 BLTTDS, phạm vi khởi kiện được hiểu chính là (các) quan hệ pháp luật có tranh chấp. Phạm vi khởi kiện ban đầu chính là quan hệ pháp luật có tranh chấp ban đầu. Vụ án chỉ có thể giải quyết toàn diện, triệt để nếu chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hơn thế nữa, việc chấp nhận yêu cầu này thì tòa án không phải xác minh, thu thập chứng cứ mới, không phải tiến hành lại phiên họp kiểm tra, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, theo tác giả, trong vụ án này, nếu nguyên đơn thay đổi cách sử dụng từ ngữ trong việc đưa yêu cầu thì có thể tránh những quan điểm khác nhau trong xử lý vụ án nêu trên. Cụ thể: Tại phiên tòa, Công ty A nên thể hiện yêu cầu này như sau: Tuyên Công ty A được trả nợ cho Ngân hàng B theo Hợp đồng tín dụng 01 và Ngân hàng B trả lại các tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp 02, công nhận một phần hiệu lực của Hợp đồng thế chấp 02 (thay vì yêu cầu tuyên Hợp đồng thế chấp 02 vô hiệu một phần). Khi đó, yêu cầu này vẫn thuộc trường hợp xem xét hiệu lực của quan hệ pháp luật thế chấp tài sản (không phát sinh thêm quan hệ pháp luật cần giải quyết). Sự điều chỉnh này giúp việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đưa ra nằm trong “vùng an toàn” là “giảm bớt yêu cầu” thì chắc chắn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn. Một số kiến nghị Tác giả cho rằng, việc xác định thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu hay không cần được hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng pháp luật thống nhất, tránh những hậu quả pháp lý về sau. Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng được điều chỉnh trong pháp luật trọng tài thương mại nhưng theo hướng hoàn toàn khác tố tụng dân sự. Theo đó, trong quá trình tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài có quyền không chấp nhận các sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn kiện lại nếu thấy rằng (1) việc đó có thể bị lạm dụng nhằm gây khó khăn, trì hoãn việc ra phán quyết trọng tài, hoặc (2) vượt quá phạm vi của thỏa thuận trọng tài áp dụng cho vụ tranh chấp (khoản 2 Điều 37 Luật Trọng tài thương mại 2010). Quy định này phù hợp với tính chất của loại tranh chấp mà trong tài thương mại giải quyết là các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và có thể tham khảo trong hoàn thiện các quy định về tố tụng dân sự. Theo tác giả, quy định về cách xác định “không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu” cần được bổ sung trong BLTTDS hoặc quy định trong văn bản hướng dẫn (là văn bản quy phạm pháp luật, thay vì công văn giải đáp nghiệp vụ) theo hướng như sau: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm được xác định là không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nếu việc chấp nhận thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: 1. Không cần phải thu thập bổ sung chứng cứ và không cần phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. 2. Không làm xuất hiện người tham gia tố tụng mới. 3. Không nhằm gây khó khăn hoặc trì hoãn việc giải quyết vụ án.” Một vấn đề pháp lý khác được đặt ra là nếu chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu này của nguyên đơn thì nguyên đơn có phải làm đơn khởi kiện bổ sung và đóng tạm ứng án phí hay không? Theo mục 7 phần II Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 thì nguyên đơn không phải làm lại đơn khởi kiện và không phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu này chỉ cần ghi vào biên bản phiên tòa. Nếu Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu đó thì phải ghi rõ trong bản án. Theo tác giả, hướng dẫn trên là phù hợp nhưng chưa có cơ sở pháp lý được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Bởi lẽ, khoản 1 Điều 146 và khoản 3 Điều 195 BLTTDS đều quy định nguyên đơn trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Do đó, để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật thì cần bổ sung quy định của khoản 1 Điều 146 BLTTDS 2015 và khoản 3 Điều 195 BLTTDS như sau: Khoản 1 Điều 146 BLTTDS: “1. Nguyên đơn…, trừ trường hợp được miễn không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật này”. Khoản 3 Điều 195 BLTTDS: “3. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật này”. Bên cạnh đó, để hạn chế trường hợp việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa và dẫn đến những khó khăn trong việc giải quyết vụ án thì trong quá trình tiến hành tố tụng (trước khi mở phiên tòa sơ thẩm), Thẩm phán cần giải thích để nguyên đơn (1) có thể hiểu và thực hiện quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình trước phiên tòa sơ thẩm và (2) hiểu rõ quy định của pháp luật cũng như hậu quả pháp lý nếu nguyên đơn thực hiện quyền này tại phiên tòa sơ thẩm. Vũ Thị Bích Hải - Đinh Thu Thủy Nguồn: Kiemsat.vn
Thời điểm nào nguyên đơn được quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện?
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc rất quan trọng được áp dụng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 với nội dung như sau: Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự…. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Và nguyên tắc trên cũng được ghi nhận tại điều khoản về quyền và nghĩa vụ của đương sự, quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Song, vấn đề đặt ra là có phải đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hay không? Vấn đề trên đã được giải đáp tại phần IV.7 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án các địa phương, theo đó, Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn như sau: 7. Đề nghị hướng dẫn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa như thế nào? Trường hợp nào thì Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó? Việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa trong trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn có yêu cầu phản tố? Theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 3 Điều 200, khoản 2 Điều 210, Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: - Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. - Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Theo quy định trên, thời điểm thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chia thành 02 thời điểm: - Trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sẽ được chấp nhận. Trong đó, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là một thủ tục tố tụng hoàn toàn mới so với quy định tố tụng trước đây. Phiên họp này được tiến hành với mục đích xác định rõ các nội dung có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án như thế nào, với các nội dung về: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự; những vấn đề các bên đương sự thống nhất được; những vấn đề các bên đương sự chưa thống nhất được và yêu cầu Tòa án giải quyết; các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;… - Từ thời điểm Tòa án mở phiên họp trở đi: Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ được chấp nhận nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
Nguyên đơn có quyền thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện không?
Trong quá trình tòa tạm hoãn xét xử Nguyên đơn có quyền thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện không?
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Thị Thuý Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành Khang. Khái quát nội dung của án lệ: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Khoản 1 Điều 5 và Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004; Từ khóa của án lệ: “Yêu cầu khởi kiện”; “Yêu cầu phản tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế”. NỘI DUNG VỤ ÁN Tại đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) là đã chết. Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thuý Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ ông Trải không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả. Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác. Bị đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thuý Loan (anh Đức, chị Loan hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ Hưng, cụ Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đào sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà. Bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị có nội dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay ông xin huỷ bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin uỷ quyền cho bà Thưởng, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại Canada. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày 14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11-3-2011, ông Trải có Tờ tường trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: - Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà. - Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý. - Bà Nguyễn Thị Xê (là con của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên. - Lời khai của chị Nguyễn Thị Thuý Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy uỷ quyền lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp pháp hoá lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề ngày 25-3-2011, sau khi xét xử sơ thẩm). Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản uỷ quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên toà ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: - Xác định nhà đất tại 263 Trần Bình Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 10.655.687.000: 6 =1.775.947.800 đồng. - Buộc mẹ con chị Phượng và bà Đào giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà Xuân. Bà Thưởng, bà Xuân có trách nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà họ được hưởng. - Ghi nhận việc ông Nguyễn Chí Trải cho con là anh Nguyễn Chí Đức được nhận kỷ phần thừa kế của ông. Ngày 30-11-2009, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ Hưng, cụ Ngự chết đã quá 10 năm nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn. Ngày 15-3-2011, chị Phượng có đơn kháng cáo bổ sung nội dung: - Cha chị là ông Trải không đồng ý chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này. Các đồng thừa kế không có văn bản xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa chia. Cha mẹ chị và các con trong đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà này, đã bảo quản, giữ gìn căn nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra khỏi nhà là không thấu tình đạt lý. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Ngày 16-6-2011, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định số 158/2014/KN-DS ngày 06-5-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng (con ông Trải) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành Phụng năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng quản lý, sử dụng. Năm 2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ Ngự để lại. Các đương sự đều xác định ông Trải định cư tại Mỹ trước ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu mục a điểm 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ngự cho các thừa kế là có căn cứ. Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà Tư, nhưng ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Hưng cho anh Đức là chưa đúng. Chị Phượng sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ngự còn sống nhưng ở nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo điều kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là chưa phù hợp. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011; QUYẾT ĐỊNH Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.”.
Tòa án vẫn phải xác định công sức đóng góp của đương sự trong vụ án thừa kế mặc dù họ không yêu cầu?
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, đương sự không yêu cầu xem xét về công sức đóng góp của họ (vì họ đã có yêu cầu không chia thừa kế cho người khác), thì Tòa án ứng xử sao? Tìm hiểu nội dung của Án lệ số 05/2016/AL về vụ án tranh chấp di sản thừa kế (được ban hành kèm theo Quyết định 220/QĐ-CA năm 2016 công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Tại đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) là đã chết. Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thúy Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ ông Trải không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả. Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác. Bị đơn là chị Nguyễn Thị Thúy Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thúy Loan (anh Đức, chị Loan hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ Hưng, cụ Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đào sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà. Bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị có nội dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay ông xin hủy bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin ủy quyền cho bà Thường, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại Canada. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày 14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11-3-2011, ông Trải có Tờ tường trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: - Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà. - Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý. - Bà Nguyễn Thị Xê (là con của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên. - Lời khai của chị Nguyễn Thị Thúy Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy ủy quyền lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp pháp hóa lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề ngày 25-3-2011, sau khi xét xử sơ thẩm). Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản ủy quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên tòa ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp. Nhận định của Tòa án: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng (con ông Trải) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành Phụng năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng quản lý, sử dụng. Năm 2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ Ngự để lại. Các đương sự đều xác định ông Trải định cư tại Mỹ trước ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu Mục a Điểm 2.4 Mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ngự cho các thừa kế là có căn cứ. Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà Tư, nhưng ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Hưng cho anh Đức là chưa đúng. Chị Phượng sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ngự còn sống nhưng ở nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo Điều kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là chưa phù hợp. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự. Nội dung của Án lệ: “Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.” Như vậy, theo nội dung của Án lệ số 05/2016/AL, trong vụ án tranh chấp về di sản thừa kế, nếu có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế. Nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức.
Có được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng lúc với đơn khởi kiện?
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là việc phải thực hiện cấp bách trong trường hợp cá nhân, doanh nghiệp xảy ra sự cố mà không thể chờ kết quả giải quyết của vụ kiện, qua đó nhằm giảm thiệt hại về người và của xuống mức thấp nhất. Vậy đương sự có được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng thời điểm khi gửi đơn yêu cầu khởi kiện đến tòa án để được giải quyết kịp thời? 1. Trường hợp nào được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời? Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1 Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau: (1) Đối tượng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng khẩn cấp tạm thời Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời khi: - Nhằm tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, nếu chậm trễ sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của đương sự. - Để thu thập, bảo vệ chứng cứ của vụ án đang do Tòa án thụ lý, giải quyết trong trường hợp đương sự cản trở việc thu thập chứng cứ hoặc chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được. - Để bảo toàn tình trạng hiện có, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, tức là bảo toàn mối quan hệ, đối tượng có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được Tòa án giải quyết. - Để bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án, tức là làm cho chắc chắn các căn cứ để giải quyết vụ án, các điều kiện để khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành thì có đầy đủ điều kiện để thi hành án. (2) Đối với vụ án có áp dụng khẩn cấp tạm thời Đối với vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải theo dõi, xem xét về việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng khi có một trong các căn cứ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e khoản 1 Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án mà có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm xem xét, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. (3) Vụ việc dân sự sẽ không áp dụng khẩn cấp tạm thời Tòa án không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết việc dân sự quy định tại Phần thứ sáu Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. (4) Áp dụng khẩn cấp tạm thời đối với bản án của TAND nước ngoài Trường hợp xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài mà người yêu cầu có đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì TAND đang thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 438 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để giải quyết. 2. Có giải quyết áp dụng khẩn cấp tạm thời khi gửi đơn kiện? Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện quy định tại khoản 2 Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì đương sự có thể căn cứ vào Điều 3 Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP quy định như sau: Khi có một trong các căn cứ sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: - Do tình thế khẩn cấp, tức là cần được giải quyết ngay, không chậm trễ. - Cần bảo vệ ngay chứng cứ trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được. - Ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra. Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện và giải quyết vụ án theo quy định tại các điều 35, 36, 37, 38, 39 và 40 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trường hợp đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác thì Tòa án đã nhận đơn khởi kiện chuyển ngay hồ sơ khởi kiện và đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp đơn khởi kiện đã có các nội dung để xác định việc thụ lý và giải quyết vụ án là thuộc thẩm quyền của Tòa án nhận đơn nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác. Thì Tòa án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay theo quy định tại khoản 3 Điều 133 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và hướng dẫn tại Điều 11 Nghị quyết Nghị quyết 02/2020/NQ-HĐTP. Việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và thụ lý vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 193 và Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Như vậy, Tòa án sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu đương sự gửi đơn kiện có yêu cầu thuộc các trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra.
Bàn về việc thay đổi và bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Thay đổi yêu cầu khởi kiện - Minh họa Thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là quyền của nguyên đơn, thể hiện quyền tự định đoạt của họ trong tố tụng dân sự. Bài viết này phân tích những vấn đề còn vướng mắc thông qua một vụ việc cụ thể mà nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm; từ đó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện luật. Trong thực tế giải quyết vụ án dân sự, trước hoặc sau phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thậm chí tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn có thể thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện. Nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu được thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm thì việc xem xét yêu cầu thay đổi, bổ sung này có phần khó khăn hơn bởi thời điểm này, vụ án đã bước vào “giai đoạn sau” của trình tự tố tụng, công tác chuẩn bị đã “sẵn sàng” để giải quyết toàn diện các yêu cầu của đương sự. Chính vì vậy, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cần được xem xét cẩn trọng để vừa đảm bảo giải quyết được toàn diện, triệt để vấn đề tranh chấp, vừa đảm bảo đúng pháp luật và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo pháp luật hiện hành Thay đổi, bổ sung yêu khởi kiện là một quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự, thể hiện quyền quyết định và tự định đoạt của họ (Điều 5, khoản 2 Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS). Nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là việc nguyên đơn đưa ra một yêu cầu khởi kiện khác với yêu cầu ban đầu của họ để Tòa án xem xét, giải quyết trong cùng vụ án. Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có thể được thực hiện ngay cả tại phiên tòa sơ thẩm nếu đáp ứng được điều kiện luật định. Theo đó, tại phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phiên tòa hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện hay không (khoản 1 Điều 243 BLTTDS). Nếu nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện thì Hội đồng xét xử sẽ xem xét yêu cầu này. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu (khoản 1 Điều 244 BLTTDS) được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn (mục 7 phần IV Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 và mục 7 phần II Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TAND tối cao về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ). Như vậy, điều kiện để việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận tại phiên tòa sơ thẩm là “không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu” thể hiện trong đơn khởi kiện (hoặc đơn khởi kiện bổ sung) của nguyên đơn. Thế nhưng, tiêu chí để xác định thế nào là “không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu” chưa được hướng dẫn cụ thể nên hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như: (1) Không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới (Cuốn Bình luận Khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, do PGS. TS. Trần Anh Tuấn chủ biên), hay (2) Không làm tăng thêm giá trị tranh chấp trong cùng quan hệ pháp luật tranh chấp mà Tòa án đang xem xét giải quyết (Bài viết của tác giả Dương Tấn Thanh: “Bàn về phạm vi khởi kiện và quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự theo BLTTDS năm 2015” đăng trên Tạp chí Tòa án tại địa chỉ: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ban-ve-pham-vi-khoi-kien-va-quyen-thay-doi-bo-sung-yeu-cau-cua-duong-su-theo-blttds-nam-2015 ). Thực tế, một số bản án sơ thẩm đã bị Tòa án cấp trên hủy bản án với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện của nguyên đơn; hoặc Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự. Thực tiễn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn qua một vụ việc cụ thể Công ty A vay tiền của Ngân hàng B bằng Hợp đồng tín dụng 01 và được đảm bảo bằng Hợp đồng thế chấp 02 (thế chấp toàn bộ 72 quyền sử dụng đất (“”) có thu tiền sử dụng đất, trong đó có QSD đất E) và Hợp đồng thế chấp 03 (thế chấp toàn bộ QSD đất không thu tiền sử dụng đất). Sau đó, do Công ty A không thanh toán được khoản nợ đến hạn nên Ngân hàng B đã tiến hành thủ tục để bán đấu giá tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ thông qua Công ty bán đấu giá C. Thế nhưng, cho rằng quá trình bán đấu giá tài sản xảy ra các sai phạm nên Công ty A đã khởi kiện Công ty bán đấu giá C. Ban đầu, Công ty A yêu cầu tòa án (1) tuyên hủy kết quả bán đấu giá tài sản; (2) tuyên Công ty A được trả nợ cho Ngân hàng B theo Hợp đồng tín dụng 01 và Ngân hàng B trả lại các tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp 02 (công nhận toàn bộ hiệu lực của Hợp đồng thế chấp 02); và (3) tuyên Hợp đồng thế chấp 03 (thế chấp toàn bộ QSD đất không thu tiền sử dụng đất) bị vô hiệu. Sau đó, Công ty A phát hiện, Ngân hàng B chỉ đăng ký thế chấp với 71 QSD đất còn QSD đất E không đăng ký giao dịch bảo đảm. Do đó, tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty A đã bổ sung yêu cầu khởi kiện tuyên Hợp đồng thế chấp 02 vô hiệu một phần (tức có hiệu lực với 71 QSD đất có thu tiền sử dụng đất, vô hiệu đối với 01 QSD đất - QSD đất E). Vậy việc Công ty A thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện như trên có vượt quá phạm khởi kiện ban đầu không? Vấn đề này còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm 1: Việc Ngân hàng B không đăng ký giao dịch bảo đảm là vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thế chấp nên Hợp đồng thế chấp số 02 không thể có hiệu lực toàn bộ. Việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của nguyên đơn theo Hợp đồng tín dụng 01 tất yếu phải xem xét hiệu lực của Hợp đồng thế chấp 02. Thế nên, yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn không làm thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp (Điều 188 BLTTDS) nên không xác định là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu. Quan điểm 2: Yêu cầu của nguyên đơn là yêu cầu bổ sung vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu theo khoản 1 Điều 244 BLTTDS nên không thể xem xét. Quan điểm 3: Hợp đồng thế chấp 02 là một bộ phận không tách rời của Hợp đồng tín dụng 01. Tòa án đã thụ lý yêu cầu tranh chấp Hợp đồng tín dụng 01, yêu cầu hủy kết quả đấu giá tài sản thế chấp. Do đó, việc Công ty A bổ sung yêu cầu tuyên bố vô hiệu một phần Hợp đồng thế chấp 02 là cùng trong một quan hệ cho vay và phát mãi tài sản thế chấp của các bên. Xem xét yêu cầu bổ sung này Tòa án không phải xác minh, thu thập chứng cứ mới, không phải tiến hành lại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu theo khoản 1 Điều 244 BLTTDS. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ 3, vì: Theo Điều 188 BLTTDS, phạm vi khởi kiện được hiểu chính là (các) quan hệ pháp luật có tranh chấp. Phạm vi khởi kiện ban đầu chính là quan hệ pháp luật có tranh chấp ban đầu. Vụ án chỉ có thể giải quyết toàn diện, triệt để nếu chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hơn thế nữa, việc chấp nhận yêu cầu này thì tòa án không phải xác minh, thu thập chứng cứ mới, không phải tiến hành lại phiên họp kiểm tra, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, theo tác giả, trong vụ án này, nếu nguyên đơn thay đổi cách sử dụng từ ngữ trong việc đưa yêu cầu thì có thể tránh những quan điểm khác nhau trong xử lý vụ án nêu trên. Cụ thể: Tại phiên tòa, Công ty A nên thể hiện yêu cầu này như sau: Tuyên Công ty A được trả nợ cho Ngân hàng B theo Hợp đồng tín dụng 01 và Ngân hàng B trả lại các tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp 02, công nhận một phần hiệu lực của Hợp đồng thế chấp 02 (thay vì yêu cầu tuyên Hợp đồng thế chấp 02 vô hiệu một phần). Khi đó, yêu cầu này vẫn thuộc trường hợp xem xét hiệu lực của quan hệ pháp luật thế chấp tài sản (không phát sinh thêm quan hệ pháp luật cần giải quyết). Sự điều chỉnh này giúp việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện đưa ra nằm trong “vùng an toàn” là “giảm bớt yêu cầu” thì chắc chắn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn. Một số kiến nghị Tác giả cho rằng, việc xác định thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu hay không cần được hướng dẫn cụ thể để có thể áp dụng pháp luật thống nhất, tránh những hậu quả pháp lý về sau. Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng được điều chỉnh trong pháp luật trọng tài thương mại nhưng theo hướng hoàn toàn khác tố tụng dân sự. Theo đó, trong quá trình tố tụng trọng tài, Hội đồng trọng tài có quyền không chấp nhận các sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn kiện lại nếu thấy rằng (1) việc đó có thể bị lạm dụng nhằm gây khó khăn, trì hoãn việc ra phán quyết trọng tài, hoặc (2) vượt quá phạm vi của thỏa thuận trọng tài áp dụng cho vụ tranh chấp (khoản 2 Điều 37 Luật Trọng tài thương mại 2010). Quy định này phù hợp với tính chất của loại tranh chấp mà trong tài thương mại giải quyết là các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và có thể tham khảo trong hoàn thiện các quy định về tố tụng dân sự. Theo tác giả, quy định về cách xác định “không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu” cần được bổ sung trong BLTTDS hoặc quy định trong văn bản hướng dẫn (là văn bản quy phạm pháp luật, thay vì công văn giải đáp nghiệp vụ) theo hướng như sau: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm được xác định là không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nếu việc chấp nhận thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: 1. Không cần phải thu thập bổ sung chứng cứ và không cần phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. 2. Không làm xuất hiện người tham gia tố tụng mới. 3. Không nhằm gây khó khăn hoặc trì hoãn việc giải quyết vụ án.” Một vấn đề pháp lý khác được đặt ra là nếu chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu này của nguyên đơn thì nguyên đơn có phải làm đơn khởi kiện bổ sung và đóng tạm ứng án phí hay không? Theo mục 7 phần II Công văn 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 thì nguyên đơn không phải làm lại đơn khởi kiện và không phải nộp tiền tạm ứng án phí đối với phần yêu cầu thay đổi, bổ sung đó. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu này chỉ cần ghi vào biên bản phiên tòa. Nếu Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu đó thì phải ghi rõ trong bản án. Theo tác giả, hướng dẫn trên là phù hợp nhưng chưa có cơ sở pháp lý được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Bởi lẽ, khoản 1 Điều 146 và khoản 3 Điều 195 BLTTDS đều quy định nguyên đơn trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Do đó, để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật thì cần bổ sung quy định của khoản 1 Điều 146 BLTTDS 2015 và khoản 3 Điều 195 BLTTDS như sau: Khoản 1 Điều 146 BLTTDS: “1. Nguyên đơn…, trừ trường hợp được miễn không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật này”. Khoản 3 Điều 195 BLTTDS: “3. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật này”. Bên cạnh đó, để hạn chế trường hợp việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa và dẫn đến những khó khăn trong việc giải quyết vụ án thì trong quá trình tiến hành tố tụng (trước khi mở phiên tòa sơ thẩm), Thẩm phán cần giải thích để nguyên đơn (1) có thể hiểu và thực hiện quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình trước phiên tòa sơ thẩm và (2) hiểu rõ quy định của pháp luật cũng như hậu quả pháp lý nếu nguyên đơn thực hiện quyền này tại phiên tòa sơ thẩm. Vũ Thị Bích Hải - Đinh Thu Thủy Nguồn: Kiemsat.vn
Thời điểm nào nguyên đơn được quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện?
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc rất quan trọng được áp dụng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 với nội dung như sau: Điều 5. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự…. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Và nguyên tắc trên cũng được ghi nhận tại điều khoản về quyền và nghĩa vụ của đương sự, quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Song, vấn đề đặt ra là có phải đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hay không? Vấn đề trên đã được giải đáp tại phần IV.7 Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án các địa phương, theo đó, Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn như sau: 7. Đề nghị hướng dẫn việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện trước khi mở phiên tòa như thế nào? Trường hợp nào thì Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó? Việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa trong trường hợp nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện và bị đơn có yêu cầu phản tố? Theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 3 Điều 200, khoản 2 Điều 210, Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì: - Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. - Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc đương sự thay đổi yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Theo quy định trên, thời điểm thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chia thành 02 thời điểm: - Trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sẽ được chấp nhận. Trong đó, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là một thủ tục tố tụng hoàn toàn mới so với quy định tố tụng trước đây. Phiên họp này được tiến hành với mục đích xác định rõ các nội dung có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định Tòa án sẽ tiếp tục giải quyết vụ án như thế nào, với các nội dung về: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của các đương sự; những vấn đề các bên đương sự thống nhất được; những vấn đề các bên đương sự chưa thống nhất được và yêu cầu Tòa án giải quyết; các tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;… - Từ thời điểm Tòa án mở phiên họp trở đi: Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chỉ được chấp nhận nếu việc thay đổi yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
Nguyên đơn có quyền thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện không?
Trong quá trình tòa tạm hoãn xét xử Nguyên đơn có quyền thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện không?
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09-10-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị Xê, Nguyễn Chí Đạt (Danforth Chi Nguyen), Nguyễn Thuần Lý, Nguyễn Thị Trinh, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Thị Thuý Loan, Phạm Thị Liên, Phạm Thị Vui, Trần Đức Thuận, Trần Thành Khang. Khái quát nội dung của án lệ: Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, có đương sự thuộc diện được hưởng một phần di sản thừa kế và có công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế nhưng không đồng ý việc chia thừa kế (vì cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế), không có yêu cầu cụ thể về việc xem xét công sức đóng góp của họ vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế; nếu Tòa án quyết định việc chia thừa kế cho các thừa kế thì phải xem xét về công sức đóng góp của họ vì yêu cầu không chia thừa kế đối với di sản thừa kế lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: Khoản 1 Điều 5 và Điều 218 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004; Từ khóa của án lệ: “Yêu cầu khởi kiện”; “Yêu cầu phản tố”; “Công sức đóng góp vào việc quản lý, tôn tạo di sản thừa kế”. NỘI DUNG VỤ ÁN Tại đơn khởi kiện ngày 18-7-2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân trình bày: Cha mẹ các bà là cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con là bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Ông Trai có vợ là bà Ông Thị Mạnh và có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966) và anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Tại Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố ông Trai, bà Mạnh, anh Thuần Huy, chị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) là đã chết. Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng đất của ông Đào Thành Phụng năm 1953, đến năm 1966 thì hai cụ xây dựng nhà ở như hiện nay. Nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, chỉ mới kê khai năm 1999. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc, căn nhà hiện nay do chị Nguyễn Thị Thuý Phượng là con ông Nguyễn Chí Trải đang quản lý. Quá trình quản lý, chị Phượng cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần căn nhà để làm lò bánh mì. Khi chị Phượng ở đây có sửa chữa nhà nhưng không đáng kể. Vợ chồng ông Trải không có đóng góp gì vào việc xây dựng và sửa chữa vì ông Trải đi cải tạo, còn bà Tư vợ ông Trải không có nghề nghiệp, con còn bé không có thu nhập để có tiền đóng góp. Nếu chị Phượng có chứng cứ chứng minh chi phí sửa chữa và yêu cầu thì các bà sẽ trả. Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế căn nhà này theo quy định của pháp luật và xin được nhận nhà, hoàn lại bằng tiền cho các thừa kế khác. Chị Phượng không thuộc diện thừa kế nên phải trả lại nhà, không đồng ý hỗ trợ chị Phượng đi nơi khác. Bị đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng trình bày: Chị thống nhất về quan hệ gia đình. Cha chị là ông Nguyễn Chí Trải, mẹ chị là bà Nguyễn Thị Tư có 03 người con gồm chị, anh Nguyễn Chí Đức, chị Nguyễn Thị Thuý Loan (anh Đức, chị Loan hiện sống ở Canada). Căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng là của ông bà nội chị mua từ năm 1953, khi đó là nhà ngói, vách ván. Năm 1955, cha chị kết hôn với mẹ chị và cha mẹ chị ở tại căn nhà này. Năm 1978 cha chị xuất cảnh sang Mỹ, mẹ chị chết năm 1980. Chị sống tại căn nhà này từ nhỏ đến nay, đã sửa chữa nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Chị có phần thừa kế của cha chị vì năm 2006 cha chị đã lập tờ cho đứt chị tài sản thừa kế ở Việt Nam nên chị được phần thừa kế mà cha chị được hưởng của cụ Hưng, cụ Ngự. Chị không đồng ý yêu cầu của các nguyên đơn, vì thời hiệu chia thừa kế đã hết, hiện tại chị và 02 con của chị đang sống tại căn nhà này. Chị có cho bà Nguyễn Thị Bích Đào thuê một phần nhà làm lò bánh mì, chị và bà Đào sẽ tự giải quyết với nhau về việc thuê nhà. Bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải trình bày: Tại văn bản ngày 14-10-2009, ông Trải có đơn đề nghị có nội dung ngày 25-4-2006 ông có giấy cho đứt tài sản thừa kế của ông cho chị Phượng được hưởng phần tài sản thừa kế mà ông được hưởng của cha mẹ tại Việt Nam, nay ông xin huỷ bỏ văn bản trên và bằng văn bản này ông xin uỷ quyền cho bà Thưởng, bà Xuân thay mặt ông tại Tòa án, khi Tòa xét xử xong phần tài sản thừa kế của ông xin được trao hết cho con trai ông là anh Nguyễn Chí Đức hiện cư trú tại Canada. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22-4-2010, ông Trải có Đơn tường trình nội dung ông không đồng ý chia thừa kế nhà 263 Trần Bình Trọng mà giao cho chị Phượng tiếp tục trông nom để ở, ông và vợ ông đã có công sức đóng góp tiền của vào căn nhà này. Nhưng đến ngày 14-7-2010, ông Trải lại có văn bản có nội dung ông cho con trai là anh Nguyễn Chí Đức phần tài sản ông được nhận thừa kế của cha mẹ. Ngày 11-3-2011, ông Trải có Tờ tường trình nội dung ông đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ông không kháng cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: - Bà Nguyễn Thị Trinh (là con cụ Hưng, cụ Ngự) trình bày: Bà thống nhất như trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và nguồn gốc tài sản. Năm 1966 nhà bị hư dột, cha mẹ bà có sửa lại nhà có sự đóng góp của các con trong đó có bà nhưng bà không yêu cầu phần bà đã đóng góp. Việc chị Phượng cho rằng cha mẹ chị và chị có đóng góp trong việc sửa chữa nhà là không đúng. Bà đề nghị kỷ phần thừa kế của bà giao cho bà Xuân, bà Thưởng quản lý; đề nghị bà Đào, chị Phượng trả lại nhà. - Anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Thuần Lý trình bày: Cha mẹ các anh là ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh cùng 03 người em của các anh đều đã chết trên biển khi vượt biên vào năm 1982. Các anh đồng ý với ý kiến của nguyên đơn về việc chia thừa kế, xin được hưởng thừa kế tài sản của cụ Hưng, cụ Ngự và giao cho bà Thưởng, bà Xuân quản lý. - Bà Nguyễn Thị Xê (là con của cụ Hưng, cụ Ngự) thống nhất với trình bày của các nguyên đơn về quan hệ gia đình và yêu cầu của các nguyên đơn, kỷ phần thừa kế bà được hưởng cho 02 con của bà là Phạm Thị Vui và Phạm Thị Liên. - Lời khai của chị Nguyễn Thị Thuý Loan, anh Nguyễn Chí Đức theo giấy uỷ quyền lập ngày 21-5-2007 (đã được hợp pháp hoá lãnh sự) thì chị Loan, anh Đức ủy quyền cho chị Phượng quyết định mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp hay phân chia tài sản và nhà đất bên Việt Nam (Giấy ủy quyền này do chị Phượng xuất trình theo đơn của chị Phượng đề ngày 25-3-2011, sau khi xét xử sơ thẩm). Chị Loan có đơn (kèm theo văn bản uỷ quyền) có nội dung xin vắng mặt phiên toà ngày 13-8-2009. Về tài sản tranh chấp cha mẹ chị có tiền đóng góp, còn các cô chú khác không đóng góp gì. Sau năm 1975, mọi người đi hết, chỉ còn mình chị Phượng ở với ông bà, đề nghị Tòa cho chị Phượng ở lại nhà đất tranh chấp. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: - Xác định nhà đất tại 263 Trần Bình Trọng là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Hưng, cụ Lê Thị Ngự; mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 10.655.687.000: 6 =1.775.947.800 đồng. - Buộc mẹ con chị Phượng và bà Đào giao lại nhà đất tranh chấp cho bà Thưởng, bà Xuân. Bà Thưởng, bà Xuân có trách nhiệm trả cho các thừa kế khác bằng tiền mà họ được hưởng. - Ghi nhận việc ông Nguyễn Chí Trải cho con là anh Nguyễn Chí Đức được nhận kỷ phần thừa kế của ông. Ngày 30-11-2009, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn kháng cáo có nội dung cho rằng cụ Hưng, cụ Ngự chết đã quá 10 năm nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn. Ngày 15-3-2011, chị Phượng có đơn kháng cáo bổ sung nội dung: - Cha chị là ông Trải không đồng ý chia và đồng ý cho chị quản lý căn nhà này. Các đồng thừa kế không có văn bản xác nhận nhà tranh chấp là tài sản chung chưa chia. Cha mẹ chị và các con trong đó có chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà này, đã bảo quản, giữ gìn căn nhà nhưng nay lại buộc mẹ con chị phải ra khỏi nhà là không thấu tình đạt lý. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Ngày 16-6-2011, chị Nguyễn Thị Thuý Phượng có đơn đề nghị giám đốc thẩm Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định số 158/2014/KN-DS ngày 06-5-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992) có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Vợ chồng ông Nguyễn Chí Trai, bà Ông Thị Mạnh có 05 người con là anh Nguyễn Thuần Lý, anh Nguyễn Thuần Huy, chị Nguyễn Thị Quới Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1966), anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968). Ông Trai, bà Mạnh, anh Huy, chị Đường, anh Nguyễn Chí Đạt (sinh năm 1968) bị tuyên bố chết ngày 31-3-2008 theo Quyết định số 413/2008 ngày 31-3-2008 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ Hưng, cụ Ngự chết đều không để lại di chúc. Các con của hai cụ và chị Phượng (con ông Trải) đều thừa nhận căn nhà số 263 đường Trần Bình Trọng, Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh do cụ Hưng, cụ Ngự nhận chuyển nhượng của ông Đào Thành Phụng năm 1953 là tài sản của hai cụ tạo lập, hiện tại đang do chị Phượng quản lý, sử dụng. Năm 2008, bà Xuân, bà Thưởng khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hưng, cụ Ngự để lại. Các đương sự đều xác định ông Trải định cư tại Mỹ trước ngày 01-7-1991. Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xác định thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hưng vẫn còn là có cơ sở. Đối với di sản của cụ Ngự thì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nhưng ông Trải và các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận di sản của cụ Ngự là tài sản chung của các thừa kế chưa chia và đều nhất trí chia đều cho các thừa kế. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ tiểu mục a điểm 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để chia phần di sản của cụ Ngự cho các thừa kế là có căn cứ. Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Như vậy, chị Phượng được hưởng một phần tài sản của mẹ là bà Tư, nhưng ông Trải đã định đoạt toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Hưng cho anh Đức là chưa đúng. Chị Phượng sinh năm 1953 và các đương sự xác định chị Phượng ở tại nhà của ông, bà từ nhỏ đến nay. Từ năm 1982, chị Phượng đã là chủ hộ khẩu tại nhà đất này, cụ Ngự còn sống nhưng ở nơi khác, bà Thưởng chuyển hộ khẩu về tại đây từ năm 1979 nhưng không ở đây, nên chị Phượng đã trực tiếp quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Các đương sự khác đều có nơi ở ổn định nơi khác. Khi chia thừa kế và tài sản chung, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét tạo điều kiện cho chị Phượng có chỗ ở mà buộc chị Phượng phải giao lại nhà cho các nguyên đơn trong đó có phần quyền tài sản chị Phượng được hưởng thừa kế của mẹ là bà Tư là chưa phù hợp. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự. Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 1, 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011; QUYẾT ĐỊNH Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 116/2011/DS-PT ngày 10-5-2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 3363/2009/DSST ngày 18-11-2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là chị Nguyễn Thị Thuý Phượng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm 1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó có chị Phượng. Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.”.