TANDTC giải đáp một số vướng mắc trong xét xử về hình sự thuộc lĩnh vực Hôn nhân & Gia đình
Ngày 10/9/2024, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành Công văn 163/TANDTC-PC để giải đáp một số vướng mắc trong xét xử hình sự, tố tụng hình sự, trong đó có một số giải đáp liên quan đến lĩnh vực Hôn nhân & Gia đình. (1) Giải đáp về quy định “Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” Theo khoản 1 Điều 182 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định như sau: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: - Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; - Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.” Theo khoản 3 Mục I Công văn 163/TANDTC-PC của TANDTC, quy định về việc “Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” được giải đáp như sau: Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) được hiểu là người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ mà dẫn đến hậu quả quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên ly hôn. Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Do đó, nếu có bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do một người làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn thì người đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. (2) Con đuổi cha, mẹ ra khỏi nhà có áp dụng quy định về tội xâm phạm chỗ ở của người khác không? Theo khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: - Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; - Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; - Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; - Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. Theo đó, thắc mắc được đặt ra là: Một người có một trong các hành vi trên trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự; và trường hợp con ở cùng nhà với cha mẹ (nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ) mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trên không? Theo khoản 7 Mục I Công văn 163/TANDTC-PC, TANDTC giải đáp như sau: Điều 158 của Bộ Luật Hình sự 2015 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) không quy định xâm phạm chỗ ở của người khác trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, người nào thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Trường hợp con ở chung với cha mẹ mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, thì hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ” theo quy định tại Điều 185 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Như vậy, khi con đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, mặc dù nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ, thì hành vi này cũng không chỉ đơn thuần là xâm phạm chỗ ở mà còn thể hiện sự ngược đãi. Do đó, hành vi này sẽ bị xử lý theo Điều 185 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về Tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ. Xem thêm tại Công văn 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 của TANDTC.
Phạt đến 40 triệu nếu tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ?
Khi đòi nợ, không ít trường hợp chủ nợ tự ý xông thẳng vào nhà con nợ, lớn tiếng, chửi bới yêu cầu con nợ trả nợ. Vậy hành vi tự ý xông thẳng vào nhà con nợ để đòi nợ có vi phạm và bị xử phạt hay không? 1. Tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ thì có thể bị phạt bao nhiêu tiền? Theo Hiến pháp 2013 thì mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Cho nên việc chủ nợ tự ý vào nhà con nợ để đòi nợ khi không được cho phép có thể được xem là xâm phạm chỗ ở của họ và đây là hành vi trái pháp luật (pháp luật không cho phép). Căn cứ theo điểm d khoản 5 Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định: “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: … c) Hoạt động dịch vụ bảo vệ có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nhằm mục đích đe dọa, cản trở, gây khó khăn cho hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; d) Sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng các biện pháp khác mà pháp luật không cho phép để tiến hành đòi nợ; …” Theo đó, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng khi sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng các biện pháp khác mà pháp luật không cho phép để tiến hành đòi nợ. Hành vi tự ý xông thẳng vào nhà người khác để đòi nợ như phân tích ở trên có thể được xem là đã sử dụng biện pháp khác mà pháp luật không cho phép để đòi nợ. Cho nên việc tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. 2. Tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ có thể bị phạt tù không? Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 31 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau: "1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm." Theo đó, người nào xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Những trường hợp, tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ có thể được xem là xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác theo như quy định trên. Người tự ý xông vào nhà người khác có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc thuộc những trường hợp khác quy định tại khoản 2 Điều này thì có thể bị phạt tù đến 5 năm. Người phạm tội là người có chức vụ còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tự ý xông vào nhà người khác nhằm mục đích đòi nợ tiền bị phạt bao nhiêu năm tù?
Hiện nay, xuất hiện nhiều trường hợp các cá nhân tự ý xông vào nhà con nợ gây áp lực nhằm mục đích đòi tiền, các đối tượng này rất manh động, chây ỳ. Mặc dù chủ nhà đã thương lượng nhưng các đối tượng này vẫn không rời khỏi nhà. Vậy, hành vi tự ý xông vào nhà người khác nhằm mục đích đòi nợ tiền bị phạt bao nhiêu năm tù? Tại Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 31 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau: 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Theo đó, người nào có hành vi tự ý xông vào nhà người khác nhằm mục đích đòi nợ tiền thì có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm. Mức phạt tù cụ thể phụ thuộc vào mức độ thực hiện hành vi và quyết định của Tòa án.
Tự ý vào nhà của người khác mà không xin phép xử lý thế nào?
Căn cứ theo khoản 9 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Như vậy, trong trường hợp tự ý vào nhà người khác không xin phép thì có thể sẽ bị xử lý đối với hành vi xâm nhập chỗ ở bất hợp pháp. Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xâm phạm chỗ ở của người khác có quy định về hành vi Tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp. Người thực hiện hành vi nêu trên bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Trường hợp phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội hai lần trở lên; làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì bị phạt tù 1-5 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định 1-5 năm. Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể hành vi xâm phạm chỗ ở người khác thì bị xử phạt hành chính như thế nào cả, cho nên việc xem xét có xử lý hình sự hay không còn phải phụ thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan công an. Trong trường hợp này, có thể trình báo với cơ quan công an để được hướng dẫn giải quyết.
2 điểm gây tranh cãi trong Vụ ông Nguyễn Hải Nam
2 điểm gây tranh cãi trong vụ ông Nguyễn Hải Nam Những ngày gần đây, vụ xét xử nguyên Phó Chánh án TAND quận 4 Nguyễn Hải Nam gây nhiều sự chú ý của dư luận. DanLuat xin phân tích hai điểm gây tranh cãi chính trong vụ án này để bạn đọc tiện theo dõi, bàn luận! Tóm tắt nội dung vụ án: Bà Thảo và bà Chi tranh chấp một hợp đồng mua bán nhà và chưa giải quyết xong, bà Thảo đang ở căn nhà số 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà Chi ủy quyền cho ông Tùng giải quyết tranh chấp, tuy nhiên vào ngày 19.9.2019 ông Tùng, ông Nam (bạn ông Tùng) cùng một số người đến căn nhà trên dùng vũ lực đuổi những người đang sống trong nhà ra ngoài, chiếm giữ căn nhà. Tranh cãi thứ nhất: Cơ quan điều tra không có thẩm quyền điều tra ông Nam Khi tiến hành điều tra, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 đã tiến hành điều tra ông, tuy nhiên ông cho rằng họ không có thẩm quyền, bởi lẽ: Cơ quan điều tra Công an cấp huyện có thẩm quyền điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 21 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015) Ở điểm này, ông Nam còn dựa vào căn cứ tại Khoản 2 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, theo đó Tòa án Nhân dân cấp tỉnh và và Tòa quân sự cấp quân khu có thẩm quyền giải quyết những vụ án sau: “a) Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.” Ông cho rằng thời điểm bị điều tra, mình đang là Thẩm phán, chính vì vậy thẩm quyền xét xử ông phải thuộc về Tòa án cấp Tỉnh (tức Tòa án Tp. HCM) và thẩm quyền điều tra cũng thuộc về Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Tp. HCM (Điều 20 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015). Tuy nhiên, luận điểm của ông bị bác bỏ, bởi lẽ Cơ quan CSĐT Công an Q.1 đã có văn bản gửi TAND TP.HCM, đề nghị TAND TP.HCM sao y việc bổ nhiệm chức danh thẩm phán, sau khi xác định ông này là Thẩm phán, họ chuyển hồ sơ lên cơ quan có thẩm quyền, là Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM. Tranh cãi thứ hai: Ông Nam không phạm tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” Theo các cáo buộc, ông Nam và ông Tùng phạm tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác”. Tội này được quy định tại các Điều 158 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như sau: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.” Tuy đã có những hình ảnh, video chứng minh hai ông đã thực hiện các hành vi chửi bởi, dùng vũ lực để đuổi những người đang sống trong nhà ra, tuy nhiên họ lập luận như sau: (1) Chủ sử dụng sở hữu hợp pháp đất và công trình là bà Chi không bàn giao công trình mà chỉ cho phép bà Thảo tham gia giám sát xây dựng. (2) Sau khi phát sinh tranh chấp, bà Thảo đã từ bỏ giao dịch bằng việc khởi kiện đòi trả lại tiền cọc. (3) Bà Thảo là người chiếm giữ trái phép công trình khi bà Chi đi vắng. Chồng bà Chi đã có đơn tố giác hành vi này vào ngày 9/9/2018 và yêu cầu trục xuất bà Thảo ra khỏi công trình nhưng công an không thực hiện. (4) Công trình chưa hoàn thành, bị xử phạt hành chính, buộc tháo dỡ nên không phải là nơi để ở mà là công trình xây dựng. (5) Công trình không được cơ quan chức năng cho phép để ở, thậm chí khi vào ở, bà Thảo tùng bị công an phường xử phạt hành chính về hành vi “cư trú trái phép”. Đáp lại những lập luận trên, Viện kiểm sát chỉ cho rằng “không quan tâm ai là chủ sở hữu công trình 29, không quan tâm các quyết định hành chính có trước 19/9/2019”, bà Thảo mua và được bà Chi bàn giao công trình để quản lý, thi công theo mục đích sử dụng của bà. Mặc dù công trình chưa được hoàn công nhưng bà Thảo đã hoàn thiện và sinh sống tại đây. Đồng thời, VKS cho rằng CQĐT đã xác minh hàng xóm, tổ dân phố và công an phường; đều xác nhận bà Thảo có sinh sống tại công trình từ tháng 3/2019 đến ngày xảy ra vụ việc. “Từ đó, công trình là chỗ ở của bà Thảo”. Theo bạn đọc, lập luận của Viện kiểm sát hay lập luận phía các bị cáo và các luật sư thuyết phục hơn?
Vào nhà người khác có bị xem là xâm phạm chỗ ở bất hợp pháp không?
Khoản 9 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định: Chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. => Như vậy, việc việc tự ý vào nhà, vườn người khác khi không được đồng ý được xem là hành vi xâm phạm chỗ ở người khác. Tùy trường hợp mà hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu TNHS. Xử phạt hành chính: Hiện nay không có quy định cụ thể về hành vi xâm phạm chỗ ở người khác sẽ bị phạt hành chính, theo đó hành vi xâm phạm chỗ ở có thể bị xử phạt từ 2 đến 3 triệu đồng theo Khoản 4h Điều 13 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình: Thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, trường hợp xâm phạm trái phép chỗ ở để gây thiệt hại đến tài sản của người khác thì có thể bị xử phạt theo Điều 15 Nghị định này. Xử lý Hình sự: Điều 158 Bộ luật hình sự 2015 , sửa đổi 2017 quy định: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.”
cho mình hỏi là có một nhóm người xâm nhập nhà mình bất hợp pháp và đập phá làm hư hại tài sản của gia đình. tìm hiểu nguyên nhân thì có đứa em đã tới đập phá nhà một người trong nhóm đó nhưng chỉ làm vỡ vài tấm gương và chỉ ảnh hưởng ở ngoài mà không xâm nhập bất hợp pháp. bây giờ mình muốn kiện nhóm người đó ra tòa với tội xâm nhập bất hợp pháp có được không a.? và nếu thắng kiện thì họ đi tù bao lâu ạ.
Cách xử lý khi có người tự ý xâm phạm chỗ ở bất hợp pháp và gây thương tích
Bài viết tham khảo: >>> 5 hướng dẫn mới về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015; >>> Tổng hợp văn bản hướng dẫn Bộ luật tố tụng hình sự 2015; >>> Trình tự giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ khoản 9 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định “Chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật” Theo Hiến pháp 2013 quy định: “1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. 2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. 3. Việc khám xét chỗ ở do luật định”. Được cụ thể hóa tại Bộ luật Dân sự 2015 quy đinh tại Điều 38 về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình như sau: 1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. ….. Như vậy, việc tự ý vào nhà người khác khi không có sự đồng ý được xem là hành vi xâm phạm chỗ ở người khác. Tùy trường hợp mà hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó ngoài việc xâm phạm, bạn còn đánh người gây thương tích thì tùy vào mức độ thì đây sẽ là tình tiết tăng nặng để khi xác định mức hình phạt cho bạn. Khi bạn gặp trường hợp này thì cách xử lý như sau: - Khi có người xâm phạm chỗ ở và đánh bạn thì trước tiên bạn có quyền sử dụng biện pháp phòng vệ để bảo vệ bạn và gia đình. Theo quy định về "Phòng vệ chính đáng" tại Bộ luật Dân sự 2015 như sau: “1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.” Trường hợp này vì có người tự ý xông vào nhà và đánh bạn, thì bạn có quyền sử dụng mọi biện pháp né tránh, che chắn để phòng vệ. - Sau đó, bạn có thể hô hào tìm người trợ giúp lúc cần thiết và tìm cách báo công an xã, phường nơi bạn cư trú để can thiệp giải quyết. Lưu ý: Khi Công an đến xử lý sẽ lập biên bản xử lý vụ việc và giao lại cho các bên mỗi người một bản. Việc xử lý sẽ căn cứ vào tình hình thực tế tranh chấp, mức thiệt hại giữa hai bên gây ra và người vi phạm sẽ phải thực hiện nghĩa vụ hành chính theo quy định tại Điều 5 về Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Bên cạnh đó, nếu có thiệt hại xảy ra, mức bồi thường thiệt hại sẽ do hai bên tự thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được sẽ gửi đơn lên tòa án giải quyết. Trường hợp: người xâm phạm chỗ ở, gây thương tích nặng nề cho gia đình bạn và bạn không đồng ý với hướng giải quyết của công an an xã, phường nơi bạn cư trú. Bạn có quyền gửi đơn tố cáo đến tòa án nhân dân cấp huyện nơi bạn cư trú để được giải quyết. Bạn sẽ cung cấp kèm đơn tố cáo các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm của người đó và tòa sẽ căn cứ và ra quyết định khởi tố. Theo quy định thì người vi phạm trong trường hợp này sẽ bị truy tố một trong hai tội tại Bộ luật hình sự như sau: “Tội xâm phạm chỗ ở của người khác (Theo quy đinh Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015) và Tội cố ý gây thương tích (quy đinh tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015)”. Theo nguyên tắc định hình khung hình phạt trong bộ luật hình sự nếu hành vi của bạn có yêu tố câu thành hai hay nhiều tội thì sẽ được xác định truy tố theo tội chính và tội nhẹ hơn sẽ được xem là tình tiết tăng nặng tăng thêm khung hình phạt đối với bạn. Thời hạn: Sau 8 ngày tòa án sẽ phải ra quyết định Thụ lý, bổ sung chứng cứ hoặc không thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết; Tham khảo chi tiết: Quy trình giải quyết vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Bạn cần lưu ý khi sử dụng biện pháp phòng vệ chính đáng: bạn phải dùng mọi biện pháp để hạn chế dùng vũ lực gây ảnh hưởng đến người khác, vì có thể bạn sẽ rơi vào trường hợp vượt quá mức phòng vệ chính đáng gây thương tích cho người khác bạn vẫn bị truy cứu tùy vào mức thiệt hại bạn gây ra. - Từ 0 – dưới 11% thì bị phạt hành chính từ 2.000.000 đ – 3.000.000 đ theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP . - các khoản khác bạn phải bồi thường cho người bị hại tùy vào mức thiệt hại bạn gây ra (như: chi phí chữa trị,…). - Nếu thiệt hại trên 11 % và có hành vi cấu thành tội gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác bạn có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Trên đây là những hướng dẫn cho bạn về cách xử lý khi có người xâm phạm chỗ ở của bạn cách bất hợp pháp, có cố yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích. Do đó, trong những lúc nóng giận do bức xúc hay bất kì lý do gì bạn cũng cần phải tỉnh táo. Tránh vì xung đột nhất thời mà hối hận cả đời. Mình hi vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.
Hướng dẫn cách xử lý đúng luật khi trộm cướp ghé thăm gia đình bạn
Hiện nay có nhiều trường hợp chủ nhà phòng vệ khi có người đột nhập trái phép vào nhà của mình nhưng lại phải bồi thường và đi tù ( Ông Phương chém chết trộm phạt 9 năm tù năm 2018 do tòa Hà Nội xử; Anh Hiếu bị tuyên 1 năm tù treo, anh Dũng bị tuyên 1 năm tù giam do đánh trộm thương tích 15% năm 2017 do tòa Bà Rịa Vũng Tàu xử, Ông Ánh bị tuyên 12 tháng tù treo, bồi thường 73 triệu vì đâm trộm gà tổn thương 73% năm 2017 do tòa Tây Ninh xử). Tuy nhiên có thể khẳng định là tòa án xử không sai vì tất cả đều làm đúng luật và căn cứ pháp lý là phòng vệ chính đáng theo Điều 22 Bộ Luật hình sự 2015. Tuy nhiên, hầu như mọi người đều phải công nhận một vấn đề rằng hậu quả pháp lý mà hai bên phải gánh chịu là hoàn toàn không phù hợp: Người bị thiệt hại do bị xâm phạm chỗ ở, bị đe dọa xâm phạm hay thậm chí là xâm phạm tài sản, sức khỏe, tinh thần, tính mạng,….thực hiện hành vi tự vệ thì phải bồi thường thiệt hại, phải đi tù. Đến đây chúng ta cần phải xem xét một chút về lịch sử loài người và lịch sử về lãnh thổ. Con người cũng như các loài động vật khác, giữa các cá thể cùng loài luôn tồn tại mối quan hệ cạnh tranh để sinh tồn và phát triển. Bởi lẽ, nguồn thức ăn, lãnh thổ, bạn tình,… là có hạn và ai chiếm được phần tốt sẽ có ưu thế phát triển và có nhiều cơ hội phát triển hơn. Từ đó mà hình thành tập tính bảo vệ lãnh thổ. Theo tiến trình phát triển của xã hội, lãnh thổ của một người dần thay đổi và chia thành nhiều cấp bậc tương ứng với xã hội đó. Tuy nhiên, lãnh thổ cơ bản nhất, là tiền đề cho những phạm vi khác lớn hơn (làng, xã, huyện, tỉnh, đất nước) chính là nhà. Nhà bao gồm tài sản, sinh mạng của những người trong gia đình, là công sức làm việc nhiều năm trời của nhiều thế hệ. Do đó, đối với nhiều người, tâm lý bảo vệ sự bất khả xâm phạm đó được đặt lên hàng đầu. Xét đến tính đặc biệt như vậy, có lẽ pháp luật cần phải quy phạm pháp luật riêng tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi, xem xét đến mức độ thiệt hại, và trên hết bảo đảm tính răn đe mạnh mẽ đến những người đang có ý định tương tự, bảo đảm trật tự xã hội. Tuy nhiên, nói thì nói vậy nhưng luật hiện nay chỉ có quy định về Phòng vệ chính đáng, do đó trong thời gian này, các bạn có thể tham khảo một số ý kiến của mình để xử lý tình huống cho văn minh lịch sự nhé: Cách 1: Phòng cháy hơn chữa cháy. Mua nhà chung cư để có người bảo vệ 24/24, thuê bảo vệ (hơi tốn kém nhưng chất lượng bảo đảm), mua nhà gần đồn công an để được trông coi 24/24 ( hơi khó), thuộc diện VIP (very important person) của chính phủ, đảng, hoặc làm các ông trùm bà trùm. Cách 2: Quân tử động khẩu không động thủ. Khi phảt hiện trộm vào nhà, bạn phải chủ động mời ra gặp mặt, khuyên bảo, mời ăn cơm, nói điều hay lẽ phải, khuyên răn các bạn trộm quay đầu là bờ, giúp các bạn một chút tài chính và hướng dẫn họ cách làm giàu, như vậy cuộc sống sẽ đẹp hơn. (lưu ý: tỷ lệ thành công thấp vì tâm lý của kẻ trộm là bí mật, nhanh chóng, hiệu quả nên bị phát hiện có thể gây hoảng sợ và mất kiểm soát) Cách 3: Im hơi lặng tiếng, chỉ đường hươu chạy Khi phát hiện trộm vào nhà, bạn chủ động bình tĩnh giữ im lặng, trộm muốn làm gì thì làm, lấy gì thì lấy, có thể chủ động mở cửa, tạo điều kiện,.. sau rồi báo công an cũng chưa muộn. (Tỷ lệ thành công: Cao nhất, tuy nhiên hậu quả nặng nề là công an ít khi giải quyết mấy vụ nhỏ nhặt này, hơn nữa nếu bị trộm phát hiện có khả năng bị chuyển hóa tội phạm, (chuyển thành cuớp, hiếp, giết), là hành vi dung dưỡng tội phạm, gây hậu quả xấu cho xã hội) Cách 5: Đánh trộm Đánh nhẹ dưới 10% thì chỉ phải bồi thường thuốc men, đánh dùng dao thì không chém vào mấy chỗ nguy hiểm như đầu, cổ không thì phải tội giết người, tốt nhất là phải làm một khóa võ thuật rèn luyện sức khỏe đồng thời bảo vệ bảo thân. Cách cuối cùng: Đừng có nhà, vậy là an toàn.
Trộm nhầm tiền giả: Ai phải chịu trách nhiệm hình sự?
>>> Phân biệt tội phạm và phạm tội Khoảng 24g ngày 01/10/2018, thấy Nguyễn Văn A đang đi bộ trên đường Nguyên Hồng, Hà Nội có nhiều biểu hiện nghi ngờ nên tổ tuần tra Công an phường Y đã yêu cầu A dừng lại để kiểm tra giấy tờ tùy thân. Thấy vậy, A liền bỏ chạy, chạy được khoảng 300m thì bị bắt giữ. Tại cơ quan điều tra, A khai nhận: Khoảng trước đó khoảng 4 giờ, A có đột nhập vào một gia đình trên đường Nguyên Hồng để trộm cắp tài sản. Sau khi đột nhập được vào nhà, A mở tủ đồ, các tủ quần áo và phát hiện có một bọc tiền giấu trong tủ quần áo trên tầng 2, A liền lấy tiền và ra khỏi nhà đó. Khi đang đi thì bị phát hiện, bắt giữ. Bọc tiền mà A chiếm đoạt được, sau khi xác minh thì phát hiện toàn bộ số tiền đó gồm 100 tờ mệnh giá 200.000 đồng nhưng tất cả đều là tiền giả. Một câu hỏi đặt ra là ai sẽ chịu trách nhiệm hình sự trong việc này là NẠN NHÂN hay KẺ TRỘM? 1. Kẻ trộm Các quan điểm đưa ra về tội danh mà Nguyễn Văn A có thể phải chịu là một trong những tội sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tiền mà cơ quan Công an thu giữ được từ A là tiền giả. Do đó, A phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển lưu hành tiền giả theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS). Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Trong trường hợp này A phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS 2015 mới chính xác. Quan điểm thứ ba cho rằng: Trong trường hợp này phải kết tội A về tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo quy định tại Điều 158 BLHS 2015. Căn cứ vào tình tiết vụ việc và lời khai của Nguyễn Văn A, bản thân tác giả không đồng tình với tất cả các ý kiến nêu trên. Xin được nêu ý kiến để làm rõ quan điểm - Thứ nhất về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả + Về yếu tố lỗi thì chủ thể phải biết đó là tiền giả + Khi xác định một người có phạm tội này hay không bắt buộc phải chứng minh được họ khi thực hiện hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả với lỗi cố ý, tức là họ phải nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. + Trong trường hợp này A không biết đó là tiền giả. Và A cũng không mong muốn số tiền trong tay của mình là giả. --> Do đó không thể truy tố A với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả theo Điều 207, BLHS. - Thứ hai về tội trộm cắp tài sản Tại Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Xét về khách thể của tội trộm cắp tài sản, thì đó phải là tài sản thì mới có thể định tội một người vào tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên ở đây về giá trị của tài sản, thì số tiền mà A lấy trộm nó hoàn toàn không thể là tài sản được và nó cũng chẳng quy đổi ra bằng tiền để xét coi nó đáng giá bao nhiêu được. --> Bằng chứng mà ta có được ở đây là không thể đủ để chúng ta kết tội A là trộm cắp sản theo Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. - Thứ ba về tội xâm phạm chỗ ở của người khác Điều 158, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: …. d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.”. Xét về mặt khách quan thì A có hành vi xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác quy định tại Điểm d khoản 1 Điều 158 BLHS 2015. Mặc dù A có hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác nhưng không gây ra hậu quả làm cho người khác bị mất chỗ ở, bị ảnh hưởng đến cuộc sống, đến sinh hoạt bình thường của họ và các thành viên trong gia đình họ hoặc gây ra những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại. Đồng thời hành vi của A trong tình huống cũng không nhằm mục đích chiếm chỗ ở của người đó --> Không thể khép A vào tội xâm phạm trái phép chỗ ở người khác theo Điều 158, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Căn cứ vào Điều 13, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về suy đoán vô tội Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Như vậy, trong trường hợp này theo ý kiến của tác giả A sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự 2. Nạn nhân Tưởng là nạn nhân nhưng không ngờ cuối cùng lại là tội phạm Căn cứ theo lời khai của A, qua quá trình điều tra nếu Công an xác định được ngôi nhà mà A đã lẻn vào để lấy số tiền trên thì chủ nhân căn nhà có thể sẽ có tội: Điều 207. BLHS 2015: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Không biết hiện tại ở nhà nạn nhân có còn tiền giả hay không, nhưng với số tiền 20 triệu đồng bị A lấy và chứng minh được chính xác rằng A lấy số tiền đó từ căn nhà này thì có thể khiến cho nạn nhân bị truy tố về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả. Kết luận của tác giả 1. A không phải chịu trách nhiệm hình sự 2. Nạn nhân có thể sẽ bị khởi tố về tội tàng trữ tiền giả và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trên đây là toàn bộ ý của tác giả về vụ việc, bạn đọc có ý kiến xin mời bình luận để vấn đề càng được đi sâu và làm rõ.
TANDTC giải đáp một số vướng mắc trong xét xử về hình sự thuộc lĩnh vực Hôn nhân & Gia đình
Ngày 10/9/2024, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành Công văn 163/TANDTC-PC để giải đáp một số vướng mắc trong xét xử hình sự, tố tụng hình sự, trong đó có một số giải đáp liên quan đến lĩnh vực Hôn nhân & Gia đình. (1) Giải đáp về quy định “Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” Theo khoản 1 Điều 182 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng được quy định như sau: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: - Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; - Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.” Theo khoản 3 Mục I Công văn 163/TANDTC-PC của TANDTC, quy định về việc “Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” được giải đáp như sau: Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) được hiểu là người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ mà dẫn đến hậu quả quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên ly hôn. Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Do đó, nếu có bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do một người làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn thì người đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. (2) Con đuổi cha, mẹ ra khỏi nhà có áp dụng quy định về tội xâm phạm chỗ ở của người khác không? Theo khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: - Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; - Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; - Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; - Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. Theo đó, thắc mắc được đặt ra là: Một người có một trong các hành vi trên trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự; và trường hợp con ở cùng nhà với cha mẹ (nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ) mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trên không? Theo khoản 7 Mục I Công văn 163/TANDTC-PC, TANDTC giải đáp như sau: Điều 158 của Bộ Luật Hình sự 2015 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) không quy định xâm phạm chỗ ở của người khác trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, người nào thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Trường hợp con ở chung với cha mẹ mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, thì hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ” theo quy định tại Điều 185 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Như vậy, khi con đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, mặc dù nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ, thì hành vi này cũng không chỉ đơn thuần là xâm phạm chỗ ở mà còn thể hiện sự ngược đãi. Do đó, hành vi này sẽ bị xử lý theo Điều 185 Bộ Luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về Tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ. Xem thêm tại Công văn 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 của TANDTC.
Phạt đến 40 triệu nếu tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ?
Khi đòi nợ, không ít trường hợp chủ nợ tự ý xông thẳng vào nhà con nợ, lớn tiếng, chửi bới yêu cầu con nợ trả nợ. Vậy hành vi tự ý xông thẳng vào nhà con nợ để đòi nợ có vi phạm và bị xử phạt hay không? 1. Tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ thì có thể bị phạt bao nhiêu tiền? Theo Hiến pháp 2013 thì mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Cho nên việc chủ nợ tự ý vào nhà con nợ để đòi nợ khi không được cho phép có thể được xem là xâm phạm chỗ ở của họ và đây là hành vi trái pháp luật (pháp luật không cho phép). Căn cứ theo điểm d khoản 5 Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định: “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: … c) Hoạt động dịch vụ bảo vệ có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực nhằm mục đích đe dọa, cản trở, gây khó khăn cho hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; d) Sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng các biện pháp khác mà pháp luật không cho phép để tiến hành đòi nợ; …” Theo đó, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng khi sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng các biện pháp khác mà pháp luật không cho phép để tiến hành đòi nợ. Hành vi tự ý xông thẳng vào nhà người khác để đòi nợ như phân tích ở trên có thể được xem là đã sử dụng biện pháp khác mà pháp luật không cho phép để đòi nợ. Cho nên việc tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng. 2. Tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ có thể bị phạt tù không? Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 31 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định về Tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau: "1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm." Theo đó, người nào xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Những trường hợp, tự ý xông vào nhà người khác để đòi nợ có thể được xem là xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác theo như quy định trên. Người tự ý xông vào nhà người khác có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Trong trường hợp phạm tội có tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc thuộc những trường hợp khác quy định tại khoản 2 Điều này thì có thể bị phạt tù đến 5 năm. Người phạm tội là người có chức vụ còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tự ý xông vào nhà người khác nhằm mục đích đòi nợ tiền bị phạt bao nhiêu năm tù?
Hiện nay, xuất hiện nhiều trường hợp các cá nhân tự ý xông vào nhà con nợ gây áp lực nhằm mục đích đòi tiền, các đối tượng này rất manh động, chây ỳ. Mặc dù chủ nhà đã thương lượng nhưng các đối tượng này vẫn không rời khỏi nhà. Vậy, hành vi tự ý xông vào nhà người khác nhằm mục đích đòi nợ tiền bị phạt bao nhiêu năm tù? Tại Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 31 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau: 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Theo đó, người nào có hành vi tự ý xông vào nhà người khác nhằm mục đích đòi nợ tiền thì có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm. Mức phạt tù cụ thể phụ thuộc vào mức độ thực hiện hành vi và quyết định của Tòa án.
Tự ý vào nhà của người khác mà không xin phép xử lý thế nào?
Căn cứ theo khoản 9 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Như vậy, trong trường hợp tự ý vào nhà người khác không xin phép thì có thể sẽ bị xử lý đối với hành vi xâm nhập chỗ ở bất hợp pháp. Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xâm phạm chỗ ở của người khác có quy định về hành vi Tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp. Người thực hiện hành vi nêu trên bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Trường hợp phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội hai lần trở lên; làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì bị phạt tù 1-5 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định 1-5 năm. Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể hành vi xâm phạm chỗ ở người khác thì bị xử phạt hành chính như thế nào cả, cho nên việc xem xét có xử lý hình sự hay không còn phải phụ thuộc vào kết quả điều tra của cơ quan công an. Trong trường hợp này, có thể trình báo với cơ quan công an để được hướng dẫn giải quyết.
2 điểm gây tranh cãi trong Vụ ông Nguyễn Hải Nam
2 điểm gây tranh cãi trong vụ ông Nguyễn Hải Nam Những ngày gần đây, vụ xét xử nguyên Phó Chánh án TAND quận 4 Nguyễn Hải Nam gây nhiều sự chú ý của dư luận. DanLuat xin phân tích hai điểm gây tranh cãi chính trong vụ án này để bạn đọc tiện theo dõi, bàn luận! Tóm tắt nội dung vụ án: Bà Thảo và bà Chi tranh chấp một hợp đồng mua bán nhà và chưa giải quyết xong, bà Thảo đang ở căn nhà số 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà Chi ủy quyền cho ông Tùng giải quyết tranh chấp, tuy nhiên vào ngày 19.9.2019 ông Tùng, ông Nam (bạn ông Tùng) cùng một số người đến căn nhà trên dùng vũ lực đuổi những người đang sống trong nhà ra ngoài, chiếm giữ căn nhà. Tranh cãi thứ nhất: Cơ quan điều tra không có thẩm quyền điều tra ông Nam Khi tiến hành điều tra, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 đã tiến hành điều tra ông, tuy nhiên ông cho rằng họ không có thẩm quyền, bởi lẽ: Cơ quan điều tra Công an cấp huyện có thẩm quyền điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 21 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015) Ở điểm này, ông Nam còn dựa vào căn cứ tại Khoản 2 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, theo đó Tòa án Nhân dân cấp tỉnh và và Tòa quân sự cấp quân khu có thẩm quyền giải quyết những vụ án sau: “a) Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.” Ông cho rằng thời điểm bị điều tra, mình đang là Thẩm phán, chính vì vậy thẩm quyền xét xử ông phải thuộc về Tòa án cấp Tỉnh (tức Tòa án Tp. HCM) và thẩm quyền điều tra cũng thuộc về Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Tp. HCM (Điều 20 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015). Tuy nhiên, luận điểm của ông bị bác bỏ, bởi lẽ Cơ quan CSĐT Công an Q.1 đã có văn bản gửi TAND TP.HCM, đề nghị TAND TP.HCM sao y việc bổ nhiệm chức danh thẩm phán, sau khi xác định ông này là Thẩm phán, họ chuyển hồ sơ lên cơ quan có thẩm quyền, là Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM. Tranh cãi thứ hai: Ông Nam không phạm tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác” Theo các cáo buộc, ông Nam và ông Tùng phạm tội “Xâm phạm chỗ ở của người khác”. Tội này được quy định tại các Điều 158 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như sau: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác; b) Đuổi trái pháp luật người khác ra khỏi chỗ ở của họ; c) Chiếm giữ chỗ ở hoặc cản trở trái pháp luật người đang ở hoặc người đang quản lý hợp pháp vào chỗ ở của họ; d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.” Tuy đã có những hình ảnh, video chứng minh hai ông đã thực hiện các hành vi chửi bởi, dùng vũ lực để đuổi những người đang sống trong nhà ra, tuy nhiên họ lập luận như sau: (1) Chủ sử dụng sở hữu hợp pháp đất và công trình là bà Chi không bàn giao công trình mà chỉ cho phép bà Thảo tham gia giám sát xây dựng. (2) Sau khi phát sinh tranh chấp, bà Thảo đã từ bỏ giao dịch bằng việc khởi kiện đòi trả lại tiền cọc. (3) Bà Thảo là người chiếm giữ trái phép công trình khi bà Chi đi vắng. Chồng bà Chi đã có đơn tố giác hành vi này vào ngày 9/9/2018 và yêu cầu trục xuất bà Thảo ra khỏi công trình nhưng công an không thực hiện. (4) Công trình chưa hoàn thành, bị xử phạt hành chính, buộc tháo dỡ nên không phải là nơi để ở mà là công trình xây dựng. (5) Công trình không được cơ quan chức năng cho phép để ở, thậm chí khi vào ở, bà Thảo tùng bị công an phường xử phạt hành chính về hành vi “cư trú trái phép”. Đáp lại những lập luận trên, Viện kiểm sát chỉ cho rằng “không quan tâm ai là chủ sở hữu công trình 29, không quan tâm các quyết định hành chính có trước 19/9/2019”, bà Thảo mua và được bà Chi bàn giao công trình để quản lý, thi công theo mục đích sử dụng của bà. Mặc dù công trình chưa được hoàn công nhưng bà Thảo đã hoàn thiện và sinh sống tại đây. Đồng thời, VKS cho rằng CQĐT đã xác minh hàng xóm, tổ dân phố và công an phường; đều xác nhận bà Thảo có sinh sống tại công trình từ tháng 3/2019 đến ngày xảy ra vụ việc. “Từ đó, công trình là chỗ ở của bà Thảo”. Theo bạn đọc, lập luận của Viện kiểm sát hay lập luận phía các bị cáo và các luật sư thuyết phục hơn?
Vào nhà người khác có bị xem là xâm phạm chỗ ở bất hợp pháp không?
Khoản 9 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định: Chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. => Như vậy, việc việc tự ý vào nhà, vườn người khác khi không được đồng ý được xem là hành vi xâm phạm chỗ ở người khác. Tùy trường hợp mà hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu TNHS. Xử phạt hành chính: Hiện nay không có quy định cụ thể về hành vi xâm phạm chỗ ở người khác sẽ bị phạt hành chính, theo đó hành vi xâm phạm chỗ ở có thể bị xử phạt từ 2 đến 3 triệu đồng theo Khoản 4h Điều 13 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình: Thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, trường hợp xâm phạm trái phép chỗ ở để gây thiệt hại đến tài sản của người khác thì có thể bị xử phạt theo Điều 15 Nghị định này. Xử lý Hình sự: Điều 158 Bộ luật hình sự 2015 , sửa đổi 2017 quy định: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.”
cho mình hỏi là có một nhóm người xâm nhập nhà mình bất hợp pháp và đập phá làm hư hại tài sản của gia đình. tìm hiểu nguyên nhân thì có đứa em đã tới đập phá nhà một người trong nhóm đó nhưng chỉ làm vỡ vài tấm gương và chỉ ảnh hưởng ở ngoài mà không xâm nhập bất hợp pháp. bây giờ mình muốn kiện nhóm người đó ra tòa với tội xâm nhập bất hợp pháp có được không a.? và nếu thắng kiện thì họ đi tù bao lâu ạ.
Cách xử lý khi có người tự ý xâm phạm chỗ ở bất hợp pháp và gây thương tích
Bài viết tham khảo: >>> 5 hướng dẫn mới về thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015; >>> Tổng hợp văn bản hướng dẫn Bộ luật tố tụng hình sự 2015; >>> Trình tự giải quyết vụ án dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ khoản 9 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định “Chỗ ở là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật” Theo Hiến pháp 2013 quy định: “1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp. 2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. 3. Việc khám xét chỗ ở do luật định”. Được cụ thể hóa tại Bộ luật Dân sự 2015 quy đinh tại Điều 38 về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình như sau: 1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. ….. Như vậy, việc tự ý vào nhà người khác khi không có sự đồng ý được xem là hành vi xâm phạm chỗ ở người khác. Tùy trường hợp mà hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó ngoài việc xâm phạm, bạn còn đánh người gây thương tích thì tùy vào mức độ thì đây sẽ là tình tiết tăng nặng để khi xác định mức hình phạt cho bạn. Khi bạn gặp trường hợp này thì cách xử lý như sau: - Khi có người xâm phạm chỗ ở và đánh bạn thì trước tiên bạn có quyền sử dụng biện pháp phòng vệ để bảo vệ bạn và gia đình. Theo quy định về "Phòng vệ chính đáng" tại Bộ luật Dân sự 2015 như sau: “1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.” Trường hợp này vì có người tự ý xông vào nhà và đánh bạn, thì bạn có quyền sử dụng mọi biện pháp né tránh, che chắn để phòng vệ. - Sau đó, bạn có thể hô hào tìm người trợ giúp lúc cần thiết và tìm cách báo công an xã, phường nơi bạn cư trú để can thiệp giải quyết. Lưu ý: Khi Công an đến xử lý sẽ lập biên bản xử lý vụ việc và giao lại cho các bên mỗi người một bản. Việc xử lý sẽ căn cứ vào tình hình thực tế tranh chấp, mức thiệt hại giữa hai bên gây ra và người vi phạm sẽ phải thực hiện nghĩa vụ hành chính theo quy định tại Điều 5 về Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Bên cạnh đó, nếu có thiệt hại xảy ra, mức bồi thường thiệt hại sẽ do hai bên tự thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được sẽ gửi đơn lên tòa án giải quyết. Trường hợp: người xâm phạm chỗ ở, gây thương tích nặng nề cho gia đình bạn và bạn không đồng ý với hướng giải quyết của công an an xã, phường nơi bạn cư trú. Bạn có quyền gửi đơn tố cáo đến tòa án nhân dân cấp huyện nơi bạn cư trú để được giải quyết. Bạn sẽ cung cấp kèm đơn tố cáo các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm của người đó và tòa sẽ căn cứ và ra quyết định khởi tố. Theo quy định thì người vi phạm trong trường hợp này sẽ bị truy tố một trong hai tội tại Bộ luật hình sự như sau: “Tội xâm phạm chỗ ở của người khác (Theo quy đinh Điều 158 Bộ luật Hình sự 2015) và Tội cố ý gây thương tích (quy đinh tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015)”. Theo nguyên tắc định hình khung hình phạt trong bộ luật hình sự nếu hành vi của bạn có yêu tố câu thành hai hay nhiều tội thì sẽ được xác định truy tố theo tội chính và tội nhẹ hơn sẽ được xem là tình tiết tăng nặng tăng thêm khung hình phạt đối với bạn. Thời hạn: Sau 8 ngày tòa án sẽ phải ra quyết định Thụ lý, bổ sung chứng cứ hoặc không thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết; Tham khảo chi tiết: Quy trình giải quyết vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Bạn cần lưu ý khi sử dụng biện pháp phòng vệ chính đáng: bạn phải dùng mọi biện pháp để hạn chế dùng vũ lực gây ảnh hưởng đến người khác, vì có thể bạn sẽ rơi vào trường hợp vượt quá mức phòng vệ chính đáng gây thương tích cho người khác bạn vẫn bị truy cứu tùy vào mức thiệt hại bạn gây ra. - Từ 0 – dưới 11% thì bị phạt hành chính từ 2.000.000 đ – 3.000.000 đ theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP . - các khoản khác bạn phải bồi thường cho người bị hại tùy vào mức thiệt hại bạn gây ra (như: chi phí chữa trị,…). - Nếu thiệt hại trên 11 % và có hành vi cấu thành tội gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác bạn có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Trên đây là những hướng dẫn cho bạn về cách xử lý khi có người xâm phạm chỗ ở của bạn cách bất hợp pháp, có cố yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích. Do đó, trong những lúc nóng giận do bức xúc hay bất kì lý do gì bạn cũng cần phải tỉnh táo. Tránh vì xung đột nhất thời mà hối hận cả đời. Mình hi vọng bài viết này sẽ giúp ích cho các bạn.
Hướng dẫn cách xử lý đúng luật khi trộm cướp ghé thăm gia đình bạn
Hiện nay có nhiều trường hợp chủ nhà phòng vệ khi có người đột nhập trái phép vào nhà của mình nhưng lại phải bồi thường và đi tù ( Ông Phương chém chết trộm phạt 9 năm tù năm 2018 do tòa Hà Nội xử; Anh Hiếu bị tuyên 1 năm tù treo, anh Dũng bị tuyên 1 năm tù giam do đánh trộm thương tích 15% năm 2017 do tòa Bà Rịa Vũng Tàu xử, Ông Ánh bị tuyên 12 tháng tù treo, bồi thường 73 triệu vì đâm trộm gà tổn thương 73% năm 2017 do tòa Tây Ninh xử). Tuy nhiên có thể khẳng định là tòa án xử không sai vì tất cả đều làm đúng luật và căn cứ pháp lý là phòng vệ chính đáng theo Điều 22 Bộ Luật hình sự 2015. Tuy nhiên, hầu như mọi người đều phải công nhận một vấn đề rằng hậu quả pháp lý mà hai bên phải gánh chịu là hoàn toàn không phù hợp: Người bị thiệt hại do bị xâm phạm chỗ ở, bị đe dọa xâm phạm hay thậm chí là xâm phạm tài sản, sức khỏe, tinh thần, tính mạng,….thực hiện hành vi tự vệ thì phải bồi thường thiệt hại, phải đi tù. Đến đây chúng ta cần phải xem xét một chút về lịch sử loài người và lịch sử về lãnh thổ. Con người cũng như các loài động vật khác, giữa các cá thể cùng loài luôn tồn tại mối quan hệ cạnh tranh để sinh tồn và phát triển. Bởi lẽ, nguồn thức ăn, lãnh thổ, bạn tình,… là có hạn và ai chiếm được phần tốt sẽ có ưu thế phát triển và có nhiều cơ hội phát triển hơn. Từ đó mà hình thành tập tính bảo vệ lãnh thổ. Theo tiến trình phát triển của xã hội, lãnh thổ của một người dần thay đổi và chia thành nhiều cấp bậc tương ứng với xã hội đó. Tuy nhiên, lãnh thổ cơ bản nhất, là tiền đề cho những phạm vi khác lớn hơn (làng, xã, huyện, tỉnh, đất nước) chính là nhà. Nhà bao gồm tài sản, sinh mạng của những người trong gia đình, là công sức làm việc nhiều năm trời của nhiều thế hệ. Do đó, đối với nhiều người, tâm lý bảo vệ sự bất khả xâm phạm đó được đặt lên hàng đầu. Xét đến tính đặc biệt như vậy, có lẽ pháp luật cần phải quy phạm pháp luật riêng tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi, xem xét đến mức độ thiệt hại, và trên hết bảo đảm tính răn đe mạnh mẽ đến những người đang có ý định tương tự, bảo đảm trật tự xã hội. Tuy nhiên, nói thì nói vậy nhưng luật hiện nay chỉ có quy định về Phòng vệ chính đáng, do đó trong thời gian này, các bạn có thể tham khảo một số ý kiến của mình để xử lý tình huống cho văn minh lịch sự nhé: Cách 1: Phòng cháy hơn chữa cháy. Mua nhà chung cư để có người bảo vệ 24/24, thuê bảo vệ (hơi tốn kém nhưng chất lượng bảo đảm), mua nhà gần đồn công an để được trông coi 24/24 ( hơi khó), thuộc diện VIP (very important person) của chính phủ, đảng, hoặc làm các ông trùm bà trùm. Cách 2: Quân tử động khẩu không động thủ. Khi phảt hiện trộm vào nhà, bạn phải chủ động mời ra gặp mặt, khuyên bảo, mời ăn cơm, nói điều hay lẽ phải, khuyên răn các bạn trộm quay đầu là bờ, giúp các bạn một chút tài chính và hướng dẫn họ cách làm giàu, như vậy cuộc sống sẽ đẹp hơn. (lưu ý: tỷ lệ thành công thấp vì tâm lý của kẻ trộm là bí mật, nhanh chóng, hiệu quả nên bị phát hiện có thể gây hoảng sợ và mất kiểm soát) Cách 3: Im hơi lặng tiếng, chỉ đường hươu chạy Khi phát hiện trộm vào nhà, bạn chủ động bình tĩnh giữ im lặng, trộm muốn làm gì thì làm, lấy gì thì lấy, có thể chủ động mở cửa, tạo điều kiện,.. sau rồi báo công an cũng chưa muộn. (Tỷ lệ thành công: Cao nhất, tuy nhiên hậu quả nặng nề là công an ít khi giải quyết mấy vụ nhỏ nhặt này, hơn nữa nếu bị trộm phát hiện có khả năng bị chuyển hóa tội phạm, (chuyển thành cuớp, hiếp, giết), là hành vi dung dưỡng tội phạm, gây hậu quả xấu cho xã hội) Cách 5: Đánh trộm Đánh nhẹ dưới 10% thì chỉ phải bồi thường thuốc men, đánh dùng dao thì không chém vào mấy chỗ nguy hiểm như đầu, cổ không thì phải tội giết người, tốt nhất là phải làm một khóa võ thuật rèn luyện sức khỏe đồng thời bảo vệ bảo thân. Cách cuối cùng: Đừng có nhà, vậy là an toàn.
Trộm nhầm tiền giả: Ai phải chịu trách nhiệm hình sự?
>>> Phân biệt tội phạm và phạm tội Khoảng 24g ngày 01/10/2018, thấy Nguyễn Văn A đang đi bộ trên đường Nguyên Hồng, Hà Nội có nhiều biểu hiện nghi ngờ nên tổ tuần tra Công an phường Y đã yêu cầu A dừng lại để kiểm tra giấy tờ tùy thân. Thấy vậy, A liền bỏ chạy, chạy được khoảng 300m thì bị bắt giữ. Tại cơ quan điều tra, A khai nhận: Khoảng trước đó khoảng 4 giờ, A có đột nhập vào một gia đình trên đường Nguyên Hồng để trộm cắp tài sản. Sau khi đột nhập được vào nhà, A mở tủ đồ, các tủ quần áo và phát hiện có một bọc tiền giấu trong tủ quần áo trên tầng 2, A liền lấy tiền và ra khỏi nhà đó. Khi đang đi thì bị phát hiện, bắt giữ. Bọc tiền mà A chiếm đoạt được, sau khi xác minh thì phát hiện toàn bộ số tiền đó gồm 100 tờ mệnh giá 200.000 đồng nhưng tất cả đều là tiền giả. Một câu hỏi đặt ra là ai sẽ chịu trách nhiệm hình sự trong việc này là NẠN NHÂN hay KẺ TRỘM? 1. Kẻ trộm Các quan điểm đưa ra về tội danh mà Nguyễn Văn A có thể phải chịu là một trong những tội sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tiền mà cơ quan Công an thu giữ được từ A là tiền giả. Do đó, A phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển lưu hành tiền giả theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS). Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Trong trường hợp này A phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS 2015 mới chính xác. Quan điểm thứ ba cho rằng: Trong trường hợp này phải kết tội A về tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo quy định tại Điều 158 BLHS 2015. Căn cứ vào tình tiết vụ việc và lời khai của Nguyễn Văn A, bản thân tác giả không đồng tình với tất cả các ý kiến nêu trên. Xin được nêu ý kiến để làm rõ quan điểm - Thứ nhất về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả + Về yếu tố lỗi thì chủ thể phải biết đó là tiền giả + Khi xác định một người có phạm tội này hay không bắt buộc phải chứng minh được họ khi thực hiện hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả với lỗi cố ý, tức là họ phải nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. + Trong trường hợp này A không biết đó là tiền giả. Và A cũng không mong muốn số tiền trong tay của mình là giả. --> Do đó không thể truy tố A với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả theo Điều 207, BLHS. - Thứ hai về tội trộm cắp tài sản Tại Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. Xét về khách thể của tội trộm cắp tài sản, thì đó phải là tài sản thì mới có thể định tội một người vào tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên ở đây về giá trị của tài sản, thì số tiền mà A lấy trộm nó hoàn toàn không thể là tài sản được và nó cũng chẳng quy đổi ra bằng tiền để xét coi nó đáng giá bao nhiêu được. --> Bằng chứng mà ta có được ở đây là không thể đủ để chúng ta kết tội A là trộm cắp sản theo Điều 173, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. - Thứ ba về tội xâm phạm chỗ ở của người khác Điều 158, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm: …. d) Xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác.”. Xét về mặt khách quan thì A có hành vi xâm nhập trái pháp luật chỗ ở của người khác quy định tại Điểm d khoản 1 Điều 158 BLHS 2015. Mặc dù A có hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác nhưng không gây ra hậu quả làm cho người khác bị mất chỗ ở, bị ảnh hưởng đến cuộc sống, đến sinh hoạt bình thường của họ và các thành viên trong gia đình họ hoặc gây ra những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại. Đồng thời hành vi của A trong tình huống cũng không nhằm mục đích chiếm chỗ ở của người đó --> Không thể khép A vào tội xâm phạm trái phép chỗ ở người khác theo Điều 158, Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Căn cứ vào Điều 13, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về suy đoán vô tội Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Như vậy, trong trường hợp này theo ý kiến của tác giả A sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự 2. Nạn nhân Tưởng là nạn nhân nhưng không ngờ cuối cùng lại là tội phạm Căn cứ theo lời khai của A, qua quá trình điều tra nếu Công an xác định được ngôi nhà mà A đã lẻn vào để lấy số tiền trên thì chủ nhân căn nhà có thể sẽ có tội: Điều 207. BLHS 2015: Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Không biết hiện tại ở nhà nạn nhân có còn tiền giả hay không, nhưng với số tiền 20 triệu đồng bị A lấy và chứng minh được chính xác rằng A lấy số tiền đó từ căn nhà này thì có thể khiến cho nạn nhân bị truy tố về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả. Kết luận của tác giả 1. A không phải chịu trách nhiệm hình sự 2. Nạn nhân có thể sẽ bị khởi tố về tội tàng trữ tiền giả và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trên đây là toàn bộ ý của tác giả về vụ việc, bạn đọc có ý kiến xin mời bình luận để vấn đề càng được đi sâu và làm rõ.