Đánh bài ăn tiền ngày Tết bị xử lý như thế nào?
Đánh bài ăn tiền ngày Tết bị xử lý vi phạm hành chính như thế nào? Khi nào đánh bài ăn tiền sẽ bị xử lý hình sự và khung hình phạt như thế nào? 1. Đánh bài ăn tiền ngày Tết bị xử lý vi phạm hành chính như thế nào? Tại Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đánh bạc trái phép như sau: - Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề. - Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật; + Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; + Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác. - Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; + Bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng; + Giúp sức, che giấu việc đánh bạc trái phép; + Bảo vệ các điểm đánh bạc trái phép; + Chủ sở hữu, người quản lý máy trò chơi điện tử, chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh trò chơi điện tử hoặc các cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động đánh bạc ở cơ sở do mình quản lý. - Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây: + Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép; + Dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc; + Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; + Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây: + Làm chủ lô, đề; + Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; + Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; + Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền. - Hình thức xử phạt bổ sung: + Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi mua các số lô, số đề; đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật; đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác; nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng; dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc; đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép; làm chủ lô, đề; tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền. + Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi chủ sở hữu, người quản lý máy trò chơi điện tử, chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh trò chơi điện tử hoặc các cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động đánh bạc ở cơ sở do mình quản lý.; + Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính nêu trên. - Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm đối với hành vi mua các số lô, số đề; đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật; đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác; nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng; dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc; đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép; làm chủ lô, đề; tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền. Theo đó, nếu đánh bài ăn tiền vào ngày Tết có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định trên. 2. Khi nào đánh bài ăn tiền sẽ bị xử lý hình sự và khung hình phạt như thế nào? Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) về tội đánh bạc như sau: - Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: + Có tính chất chuyên nghiệp; + Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; + Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; + Tái phạm nguy hiểm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Theo đó, người đánh bài ăn tiền có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đó là đánh bạc trái phép (dưới bất kỳ hình thức nào) theo quy quy định như trên. Như vậy, hành vi đánh bài ăn tiền ngày Tết có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào mức độ và hành vi của người vi phạm.
Cảnh sát trật tự được phạt người điều khiển xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ hay không?
Cho anh hỏi phương tiện lĩnh vực giao thông đường bộ bao gồm những loại nào? Cảnh sát trật tự được xử phạt phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ hay không? 1. Lĩnh vực giao thông đường bộ bao gồm những loại phương tiện gì? Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định các phương tiện lĩnh vực giao thông đường bộ bao gồm: - Máy kéo là loại xe gồm phần đầu máy tự di chuyển, được lái bằng càng hoặc vô lăng và rơ moóc được kéo theo (có thể tháo rời với phần đầu kéo); - Các loại xe tương tự xe ô tô là loại phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ có từ hai trục, bốn bánh xe trở lên, có phần động cơ và thùng hàng (nếu có) lắp trên cùng một xát xi (kể cả loại xe 4 bánh chạy bằng năng lượng điện); - Các loại xe tương tự xe mô tô là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh, có dung tích làm việc của động cơ từ 50 cm3 trở lên, có vận tốc thiết kế lớn nhất lớn hơn 50 km/h, có khối lượng bản thân không lớn hơn 400 kg; - Xe máy điện là xe gắn máy được dẫn động bằng động cơ điện có công suất lớn nhất không lớn hơn 4 kW, có vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h; - Các loại xe tương tự xe gắn máy là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h, trừ các xe quy định tại điểm e khoản này; - Xe đạp máy là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được (kể cả xe đạp điện). 2. Cảnh sát trật tự được phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ trong trường hợp nào? Tại Khoản 3 Điều 74 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Điểm b Khoản 26 Điều 2 Nghị định 123/2021/NĐ-CP có quy định về phân định thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt thì cảnh sát trật tự có quyền xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ như sau: - Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Khi đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy không đặt ngay báo hiệu nguy hiểm theo quy định, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 6 Điều này và trường hợp đỗ xe tại vị trí quy định được phép đỗ xe; + Bấm còi trong đô thị và khu đông dân cư trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định. - Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường rộng; dừng xe, đỗ xe không sát mép đường phía bên phải theo chiều đi ở nơi đường có lề đường hẹp hoặc không có lề đường; dừng xe, đỗ xe ngược với chiều lưu thông của làn đường; dừng xe, đỗ xe trên dải phân cách cố định ở giữa hai phần đường xe chạy; đỗ xe trên dốc không chèn bánh; mở cửa xe, để cửa xe mở không bảo đảm an toàn; + Dừng xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 m; dừng xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; dừng xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; rời vị trí lái, tắt máy khi dừng xe; dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở những đoạn có bố trí nơi dừng xe, đỗ xe; dừng xe, đỗ xe trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường; dừng xe nơi có biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm i khoản 4, điểm d khoản 7 Điều 5; - Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định; + Không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 49 Nghị định 100/2019/NĐ-CP; + Dừng xe, đỗ xe tại vị trí: nơi đường bộ giao nhau hoặc trong phạm vi 05 m tính từ mép đường giao nhau; điểm dừng đón, trả khách của xe buýt; trước cổng hoặc trong phạm vi 05 m hai bên cổng trụ sở cơ quan, tổ chức có bố trí đường cho xe ô tô ra vào; nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe; che khuất biển báo hiệu đường bộ; nơi mở dải phân cách giữa; + Đỗ xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 m; đỗ xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; đỗ xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật; đỗ xe nơi có biển “Cấm đỗ xe” hoặc biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm i khoản 4, điểm b khoản 6 Điều 5; + Quay đầu xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; quay đầu xe tại nơi đường hẹp, đường dốc, đoạn đường cong tầm nhìn bị che khuất, nơi có biển báo hiệu có nội dung cấm quay đầu đối với loại phương tiện đang điều khiển; điều khiển xe rẽ trái tại nơi có biển báo hiệu có nội dung cấm rẽ trái đối với loại phương tiện đang điều khiển; điều khiển xe rẽ phải tại nơi có biển báo hiệu có nội dung cấm rẽ phải đối với loại phương tiện đang điều khiển; + Chạy trong hầm đường bộ không sử dụng đèn chiếu sáng gần; + Điều khiển xe chạy dưới tốc độ tối thiểu trên những đoạn đường bộ có quy định tốc độ tối thiểu cho phép. - Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Đi vào khu vực cấm, đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang điều khiển, trừ các hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 5, điểm a khoản 8 Điều này và các trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; + Dừng xe, đỗ xe tại vị trí: Bên trái đường một chiều hoặc bên trái (theo hướng lưu thông) của đường đôi; trên đoạn đường cong hoặc gần đầu dốc nơi tầm nhìn bị che khuất; trên cầu, gầm cầu vượt, song song với một xe khác đang dừng, đỗ, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm d khoản 7 Điều 5; + Dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe trái quy định gây ùn tắc giao thông; + Xe không được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu tiên; + Không thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn theo quy định khi xe ô tô bị hư hỏng ngay tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; + Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn; + Lùi xe, quay đầu xe trong hầm đường bộ; dừng xe, đỗ xe, vượt xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định. - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; + Đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường có biển “Cấm đi ngược chiều”, trừ các hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 8 Điều này và các trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; - Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Không nhường đường hoặc gây cản trở xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ; + Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Điều khiển xe lạng lách, đánh võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ; dùng chân điều khiển vô lăng xe khi xe đang chạy trên đường; - Phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở. - Phạt tiền từ 18.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 7 Điều này mà không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ hoặc gây tai nạn giao thông. - Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; + Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ; + Điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy; + Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về chất ma túy của người thi hành công vụ. Như vậy, cảnh sát trật tự được xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ theo quy định như trên.
Sử dụng bằng lái xe giả bị phạt bao nhiêu tiền và có bị xử lý hình sự hay không?
Bạn của Anh có sử dụng bằng lái xe giả. Hôm trước anh ấy đi xe máy thì bị CSGT kiểm tra và phát hiện bằng giả nên bị phạt 1,5 triệu đồng. Anh không biết phạt như vậy có đúng không và anh ấy có bị vướng gì về trách nhiệm hình sự hay không? 1. Sử dụng bằng lái xe máy, xe ô tô giả bị phạt vi phạm hành chính không? Tại Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP có quy định mức xử phạt do sử dụng giấy phép lái xe ô tô, xe máy giả như sau: - Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện hành vi vi phạm sau đây: + Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa; … - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe mô tô ba bánh thực hiện hành vi vi phạm sau đây: … + Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa; … - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm hành vi sau đây: + Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc sử dụng Giấy phép lái xe bị tẩy xóa. - Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: + Thực hiện hành vi quy định nêu trên còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Theo đó, khi sử dụng giấy phép lái xe giả, người sử dụng sẽ bị xử phạt theo các mức như trên. 2. Sử dụng bằng lái xe giả có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Người có hành vi làm bằng lái xe giả có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) với hình phạt như sau: - Phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm đối với người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: + Có tổ chức. + Phạm tội 02 lần trở lên. + Sử dụng giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. + Thu lợi bất chính từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. + Tái phạm nguy hiểm - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: + Sử dụng giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. + Thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Theo đó, người làm giả giấy phép lái xe có thể chịu trách nhiệm hình sự như trên. Như vậy, trường hợp của bạn Anh bị phạt 1,5 triệu đồng là hợp lý. Ngoài ra, anh ấy còn bị tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Đối với vấn đề về hình sự, người có hành vi làm giấy phép lái xe giả và người sử dụng giấy phép lái xe giả có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định. Nếu bạn của anh có hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả thì anh ấy vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đất trồng cây lâu năm là gì? Xây nhà trên đất trồng cây lâu năm được không?
Hiện nay ở chỗ anh ở có nhiều người xây nhà trên đất trồng cây lâu năm. Anh thắc mắc việc làm này có đúng quy định về đất đai không em? Có bị xử phạt gì không? 1. Đất trồng cây lâu năm là gì? Căn cứ vào phụ lục số 01 ban hành kèm theo Thông tư 27/2018/TT-BTNMT quy định về thống kê, kiểm kê đất đai thì đất trồng cây lâu năm là đất sử dụng vào mục đích trồng các loại cây được trồng một lần, sinh trưởng và cho thu hoạch trong nhiều năm, gồm: - Cây công nghiệp lâu năm: Là cây lâu năm cho sản phẩm dùng làm nguyên liệu để sản xuất công nghiệp hoặc phải qua chế biến mới sử dụng được như cây cao su, ca cao, cà phê, chè, điều, hồ tiêu, dừa… - Cây ăn quả lâu năm: Là cây lâu năm cho sản phẩm là quả để ăn tươi hoặc kết hợp chế biến như cây bưởi, cam, chôm chôm, mận, mơ, măng cụt, nhãn, sầu riêng, vải, xoài… - Cây dược liệu lâu năm là cây lâu năm cho sản phẩm làm dược liệu như hồi, quế, đỗ trọng, long não, sâm… - Các loại cây lâu năm khác là các loại cây lâu năm để lấy gỗ, làm bóng mát, tạo cảnh quan (như cây xoan, bạch đàn, xà cừ, keo, hoa sữa, bụt mọc, lộc vừng,...); kể cả trường hợp trồng hỗn hợp nhiều loại cây lâu năm khác nhau hoặc có xen lẫn cây lâu năm và cây hàng năm. 2. Xây nhà trên đất trồng cây lâu năm có được không? Tại Điều 6 Luật Đất đai 2013 có quy định về nguyên tắc sử dụng đất như sau: - Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất. - Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. - Người sử dụng đất thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Theo đó, đất phải được sử dụng đúng mục đích. Do đó, đất trồng cây lâu năm chỉ được sử dụng để trồng các loại cây nêu ở mục 1, không được dùng để trồng lúa. 3. Xây nhà trên đất trồng cây lâu năm có bị xử phạt không? Hành vi xây dựng nhà ở trên đất trồng cây lâu năm mà không xin phép chuyển mục đích sử dụng đất thì tùy theo quy mô, diện tích đất vi phạm mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 11 Nghị định 91/2019/NĐ-CP như sau: - Chuyển đất trồng cây lâu năm sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: + Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép dưới 0,02 héc ta; + Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,02 héc ta đến dưới 0,05 héc ta; + Phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; + Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; + Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; + Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 01 héc ta đến dưới 03 héc ta; + Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 03 héc ta trở lên. - Chuyển đất trồng cây lâu năm sang đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì hình thức và mức xử phạt bằng 02 lần mức phạt quy định trên. - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm; + Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm; số lợi bất hợp pháp được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị định 91/2019/NĐ-CP. Như vậy, hành vi xây nhà trái phép trên đất trồng cây lâu năm là hành vi vi phạm pháp luật về đất đai, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính như trên.
Phó chánh thanh tra có được xử phạt?
Theo quy định: Người được giao nhiệm vụ đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử phạt, thì có thẩm quyền xử phạt và được giao quyền xử phạt như cấp trưởng". Sở tôi không có Chánh thanh tra, Tôi là Phó Chánh thanh tra phụ trách thanh tra. Vậy tôi có thẩm quyền xử phạt hành chính như thẩm quyền của Chánh thanh tra không?
Những sai lầm khi bỏ xử phạt xe “không chính chủ”
Theo Nghị định 71 xe “không chính chủ” sẽ bị phạt từ 0.8 – 1.2 triệu đồng đối với chủ xe mô tô, 6 – 10 triệu đồng đối với ô tô. Đồng thời tại Thông tư 11 của Bộ Công an có hướng dẫn cụ thể: Xe đang lưu thông trên đường, không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi “không chính chủ”. Chỉ xử phạt khi thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự nếu phát hiện phương tiện là “không chính chủ”. Quy định trên là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, vừa qua tại Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt nhiều ý kiến đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”. Thật khó lý giải tại sao có đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”, nhưng nếu đề xuất này được chấp nhận sẽ gây ra nhiều hậu quả khó lường. Một là, Ngân sách thất thu: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì các giao dịch mua bán, tặng cho… không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định nhằm né tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ tăng cao. Hai là, Phát sinh nhiều tranh chấp dân sự: khi giao dịch thực tế được thực hiện (trao xe – nhận tiền đã hoàn tất) nhưng các bên không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định pháp luật sẽ rất dễ dẫn đến các tranh chấp dân sự nếu một bên có các hành vi “lật lọng”, không thiện chí trong giao dịch. Ba là, Khó khăn trong việc xác định thủ phạm gây tai nạn: cơ quan công an rất khó khăn trong việc tìm ra người gây tai nạn giao thông rồi bỏ trốn vì phương tiện đã qua rất nhiều đời chủ. Bốn là, Tội phạm gia tăng: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì tội phạm sẽ dùng những phương tiện đã qua nhiều đời chủ để thực hiện hành vi phạm tội, trong trường hợp cần thiết chúng sẵn sàng bỏ lại phương tiện để chạy trốn mà không lo lắng sẽ bị truy ra thông tin.
Từ 1/7/2013 có thể phạt xe không chính chủ lên tới 8 triệu đồng
Dự thảo Nghị định về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt được Bộ GT-VT vừa đưa ra lấy ý kiến người dân trước khi trình Chính Phủ, quy định mức xử phạt năng với hành vi không sang tên xe theo quy định. Chủ xe máy sẽ bị phạt từ 100 - 400 nghìn đồng; chủ ô tô sẽ bị phạt từ 2-8 triệu đồng nếu không làm thủ tục sang tên đổi chủ sau khi được mua bán tặng cho hoặc không nộp phí sử dụng đường bộ. Tại điểm b, điểm c khoản 1; điểm h, điểm i khoản 4 Điều 30 của Dự thảo Nghị định: Phạt tiền từ 100 nghìn đồng đến 200 nghìn đồng đối với cá nhân là chủ xe mô-tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự mô-tô, từ 200 nghìn đồng đến 400 nghìn đồng đối với tổ chức là chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự mô-tô; Phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 4 triệu đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô, từ 4 triệu đồng đến 8 triệu đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây: - Không làm thủ tục chuyển đổi lại Giấy đăng ký xe theo quy định sau khi đã mua, được cho, được tặng, được thừa kế tài sản là phương tiện; - Không mua hoặc nộp phí cho phương tiện khi tham gia giao thông theo quy định. Dự thảo Nghị định gồm 5 Chương và 79 Điều, quy định về hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, giao thông đường sắt; thẩm quyền, thủ tục xử phạt… Nghị định này sẽ thay thế cho các Nghị định:34/2010/NĐ-CP ngày 2/4/2010, Nghị định số71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012, Nghị định số44/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 và Nghị định số156/2007/NĐ-CP ngày 19/10/ 2007. Theo Dân Trí Tham khảo nội dung Dự thảo Nghị định trong file đính kèm.
Sẽ xử phạt người đội Mũ Bảo Hiểm "rởm" từ 15/4
Chiến dịch truyền thông về việc phân biệt được đâu là MBH đạt chuẩn và không đạt chuẩn; từ đó thay đổi hành vi, thói quen sẽ được thực hiện rộng khắp từ 15/3 đến 15/4/2013. Từ ngày 15/4, các lực lượng chức năng sẽ xử phạt nghiêm những cơ sở sản xuất, kinh doanh MBH rởm và cả người sử dụng MBH rởm. Kết hợp với đó là các biện pháp hỗ trợ người dân đổi MBH rởm lấy MBH đạt chuẩn như đã làm ở Đà Nẵng. Bên cạnh đó, vận động các nhà sản xuất MBH chân chính sản xuất ra nhiều loại MBH phù hợp các lứa tuổi, mẫu mã phong phú hơn để người dân lựa chọn. Bước đầu sẽ thực hiện tại các thành phố lớn, sau đó rút kinh nghiệm và thực hiện trên toàn quốc. Đây là nội dung tại cuộc họp vào ngày 27/2 của Ủy ban ATGT Quốc gia với Cục QLTT (Bộ Công thương). Con số thống kê có khoảng 90% người tham gia giao thông thực hiện việc đội MBH khi đi trên đường nhưng trong đó chỉ có 70% MBH rởm là rất đáng lo ngại và coi như số người chấp hành nghiêm quy định MBH chỉ mới đạt được 20%. Hiện nay đa số MBH được bày bán trên lề đường với giá chỉ từ 35.000 trở lên và không hề có tem kiểm định chất lượng theo Quyết định 04/2008/QĐ-BKHCN ban hành và thực hiện "Quy chuẫn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy" do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành. Tham khảo GTVT
CSGT đánh người sẽ xử phạt như thế nào?
Vào ngày 28/12/2012 trên đường chở vợ đi đăng ký hết hôn để chuẩn bị tổ chức đám cưới vào ngày 02/01/2013, anh Nguyễn Văn Tài vì quên đem nón bảo hiểm cho vợ mình là chị Tống Thị Sen nên đã bị Cảnh sát giao thông thổi lại, nhưng vì muốn né tránh CS nên anh cũng đã cho xe chạy vượt lên và né trạm nơi Đội tuần tra đang đứng. Theo lời của anh Tài: “Khi tôi đi đến gần qua đội CSGT, một chiến sĩ chạy từ bên trái đường sang không ra bất cứ hiệu lệnh gì mà vung gậy vụt thẳng vào sau gáy vợ tôi. Cú vụt khiến vợ tôi choáng váng. Tôi hoảng sợ vòng một tay ra phía sau giữ vợ. Nhưng vợ tôi ngất lịm, toàn thân mềm oặt ngã sấp mặt xuống đường. Còn tôi mất đà cũng ngã xe luôn” "Nhóm CSGT có cả người ra gậy vụt vợ tôi cũng chạy lại xem rồi quay lại xe ngay như không hề liên quan đến sự việc. Họ có xe ô tô ở đó nhưng cũng không đưa vợ tôi đi cấp cứu dù tôi đã khẩn nài. Đến khi có mấy anh cán bộ điện lực tỉnh Bắc Giang đi xe qua mới đưa giúp vợ tôi vào bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang” Chị Sen được chuẩn đoán là chấn thương sọ não và có nguy cơ sảy thai cao.đi Theo gia đình cho biết thì hai người dự định tổ chức đám cưới vào ngày 2/1/2013 nhưng đến giờ chị Sen vẫn phải nằm trong bệnh viện để theo dõi tình hình sức khỏe. Tuy nhiên theo ông Nguyễn Văn Sơn - Trưởng Công an huyện Yên Dũng (Bắc Giang) qua xác định bước đầu không có chuyện CSGT dùng gậy vụt người đi đường như đơn phản ánh của phía gia đình anh Tài mà do 2 vợ chồng anh Nguyễn Văn Tài và chị Tống Thị Sen thấy lực lượng CSGT làm nhiệm vụ, hoảng hốt nên... tự ngã. Và vẫn còn nhiều sự việc nghị vấn vẫn chưa được làm rõ xung quanh vụ việc này, nhất là chưa có lời khai của nhân chứng xác nhận như thế nào. Nếu có thật sự chuyện CSGT đánh người dẫn đến việc gây thương tích như trên thì sẽ xét vào tội gì? Những trường hợp gây chết người, Quốc Hội sửa đổi Điều 97 Bộ luật hình sự? Điều 107. Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ 1. Người nào trong khi thi hành công vụ dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ? Mấy ngày nay người dân "ồn ào" thậm chí bức xúc với quy định tăng mức xử phạt tiền đối với người vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với phương tiện giao thông cá nhân theo quy định tại Điều 33 Nghị định 34/2010/NĐ-CP. Theo đó, theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP thì mức phạt tiền đối với trường hợp không chuyển quyền sở hữu phương tiện xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; đối với xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô là từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Theo khoản 2 Điều 439 Bộ luật Dân sự thì “Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Đồng thời, theo 36/2010/TT-BCA thì “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua bán, cho, tặng, thừa kế xe, người mua hoặc nhận xe phải đến cơ quan đăng ký xe đang quản lý xe đó làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe.” Như vậy, quy định phải đăng ký xe là cần thiết, pháp luật cần quy định việc đăng ký để xác lập quyền sở hữu, đảm bảo quản lý các phương tiện giao thông, có cơ sở để xác định chủ sở hữu của phương tiện tham gia giao thông trong các trường hợp rủi ro, gây tai nạn ... để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan ... Tuy nhiên, sự phản ứng mạnh mẽ của người dân đối với số tiền phạt được đẩy lên rất cao đối với việc vi phạm vấn đề đăng ký quyền sở hữu xe là có cơ sở, bởi lẽ quy định xử phạt này từ Nghị định34/2010/NĐ-CP đến nay là Nghị định số 71/2012/NĐ-CP nâng số tiền phạt lên thì đều chỉ là việc cố gắng đuổi theo một nếp sống, một thực tiễn đang diễn ra trong xã hội nhưng khó lòng theo kịp. Từ câu chuyện nâng số tiền phạt lên hòng siết chặt công tác quản lý việc đăng ký xe nói riêng trong vấn đề quản lý giao thông sẽ đặt ra những giả thiết của người dân về sự không khả thi của pháp luật. Như việc, cho dù đã có sự chuyển nhượng, tặng cho ... tài sản là các phương tiện nói trên thì khi kiểm tra, xử lý người dân có thể lách luật để chứng minh rằng mình mượn xe của người thân, bạn bè đi thì xử lý thế nào? Còn nếu cứ gọi lại người đi đường để kiểm tra xem có chính chủ hay không để tìm cách xử phạt, thu tiền thì chắc chắn sẽ dẫn đến một vướng mắc liên quan đến thời gian, sự phiền phức cho người dân và cho cả những người thi hành nhiệm vụ tìm người để phạt. Những mâu thuẫn đó dấy lên sự không an tâm của người dân về khả năng áp dụng vào thực tế của các quy định xử lý hành chính đối với sai phạm. Tất nhiên, người dân cũng cần hiểu là Chính phủ ban hành các quy định nói trên để xử lý các trường hợp đã chuyển nhượng phương tiện mà không đăng ký quyền sở hữu theo quy định, chứ không thể nào được phép phạt người dân sử dụng xe không thuộc quyền sở hữu của mình. Mọi hành vi lạm dụng quy định để bắt xe, kiểm tra sự chính chủ hay không của người điều khiển phương tiện giao thông sẽ là hoạt động cản trở giao thông ngược trở lại từ phía chính quyền. Lạm dụng chuyện chính chủ hay không chính chủ của người điều khiển phương tiện là cách sớm nhất và hiệu quả nhất để cấm cản khả năng ra khỏi nhà, hòa vào dòng chảy không ngừng nghỉ của người dân trong một xã hội mà phương tiện giao thông cá nhân là chủ yếu và phổ biến. Ngoài ra, Nghị định71/2012/NĐ-CP được ban hành chỉ cho thấy những điểm mới chủ đạo chỉ là ở mức tiền phạt tiền được tăng lên gấp nhiều lần so với mức phạt cũ. Đánh vào túi tiền của người dân, từ chuyện thu phí vận hành đến chuyện xử lý hành chính các trường hợp vi phạm đang cho thấy khả năng Chính phủ đang đổ lên đầu người dân trách nhiệm cho mọi sự rối rắm của câu chuyện giao thông hiện nay. Dòng chảy tiền từ túi dân sẽ cuồn cuộn hơn chảy vào ngân sách Chính phủ nếu mức phạt được tăng lên, thế nhưng số tiền này lại được đầu tư thiếu hiệu quả, bị cắt xén bởi hiện trạng tham nhũng nhiều, bị uổng phí bởi việc quy hoạch ngớ ngẩn và hiện trạng giao thông tồi tệ của nước nhà càng tồi tệ hơn ... Đó đâu phải là giải pháp! Cho nên, người dân lại lãnh đủ. Từ chuyện phải bỏ thêm nhiều tiền, đến chuyện phải chịu đựng một hiện trạng giao thông tắc nghẽn ô nhiễm và không an toàn. Phạt, phạt nữa, phạt mãi, phạt nhiều, để làm gì, thưa Chính phủ? Lê Cao
Đánh bài ăn tiền ngày Tết bị xử lý như thế nào?
Đánh bài ăn tiền ngày Tết bị xử lý vi phạm hành chính như thế nào? Khi nào đánh bài ăn tiền sẽ bị xử lý hình sự và khung hình phạt như thế nào? 1. Đánh bài ăn tiền ngày Tết bị xử lý vi phạm hành chính như thế nào? Tại Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP có quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đánh bạc trái phép như sau: - Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề. - Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật; + Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; + Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác. - Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: + Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; + Bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng; + Giúp sức, che giấu việc đánh bạc trái phép; + Bảo vệ các điểm đánh bạc trái phép; + Chủ sở hữu, người quản lý máy trò chơi điện tử, chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh trò chơi điện tử hoặc các cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động đánh bạc ở cơ sở do mình quản lý. - Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây: + Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép; + Dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc; + Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; + Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây: + Làm chủ lô, đề; + Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; + Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; + Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền. - Hình thức xử phạt bổ sung: + Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi mua các số lô, số đề; đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật; đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác; nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng; dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc; đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép; làm chủ lô, đề; tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền. + Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi chủ sở hữu, người quản lý máy trò chơi điện tử, chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh trò chơi điện tử hoặc các cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác thiếu trách nhiệm để xảy ra hoạt động đánh bạc ở cơ sở do mình quản lý.; + Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính nêu trên. - Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm đối với hành vi mua các số lô, số đề; đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật; đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác; nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; bán số lô, số đề, bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề, giao lại cho người khác để hưởng hoa hồng; dùng nhà, chỗ ở, phương tiện, địa điểm khác của mình hoặc do mình quản lý để chứa chấp việc đánh bạc; đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép; làm chủ lô, đề; tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền. Theo đó, nếu đánh bài ăn tiền vào ngày Tết có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định trên. 2. Khi nào đánh bài ăn tiền sẽ bị xử lý hình sự và khung hình phạt như thế nào? Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) về tội đánh bạc như sau: - Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: + Có tính chất chuyên nghiệp; + Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; + Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; + Tái phạm nguy hiểm. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Theo đó, người đánh bài ăn tiền có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đó là đánh bạc trái phép (dưới bất kỳ hình thức nào) theo quy quy định như trên. Như vậy, hành vi đánh bài ăn tiền ngày Tết có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào mức độ và hành vi của người vi phạm.
Cảnh sát trật tự được phạt người điều khiển xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ hay không?
Cho anh hỏi phương tiện lĩnh vực giao thông đường bộ bao gồm những loại nào? Cảnh sát trật tự được xử phạt phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ hay không? 1. Lĩnh vực giao thông đường bộ bao gồm những loại phương tiện gì? Tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định các phương tiện lĩnh vực giao thông đường bộ bao gồm: - Máy kéo là loại xe gồm phần đầu máy tự di chuyển, được lái bằng càng hoặc vô lăng và rơ moóc được kéo theo (có thể tháo rời với phần đầu kéo); - Các loại xe tương tự xe ô tô là loại phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ có từ hai trục, bốn bánh xe trở lên, có phần động cơ và thùng hàng (nếu có) lắp trên cùng một xát xi (kể cả loại xe 4 bánh chạy bằng năng lượng điện); - Các loại xe tương tự xe mô tô là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh, có dung tích làm việc của động cơ từ 50 cm3 trở lên, có vận tốc thiết kế lớn nhất lớn hơn 50 km/h, có khối lượng bản thân không lớn hơn 400 kg; - Xe máy điện là xe gắn máy được dẫn động bằng động cơ điện có công suất lớn nhất không lớn hơn 4 kW, có vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h; - Các loại xe tương tự xe gắn máy là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h, trừ các xe quy định tại điểm e khoản này; - Xe đạp máy là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được (kể cả xe đạp điện). 2. Cảnh sát trật tự được phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ trong trường hợp nào? Tại Khoản 3 Điều 74 Nghị định 100/2019/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Điểm b Khoản 26 Điều 2 Nghị định 123/2021/NĐ-CP có quy định về phân định thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt thì cảnh sát trật tự có quyền xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ như sau: - Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Khi đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy không đặt ngay báo hiệu nguy hiểm theo quy định, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 6 Điều này và trường hợp đỗ xe tại vị trí quy định được phép đỗ xe; + Bấm còi trong đô thị và khu đông dân cư trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định. - Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường rộng; dừng xe, đỗ xe không sát mép đường phía bên phải theo chiều đi ở nơi đường có lề đường hẹp hoặc không có lề đường; dừng xe, đỗ xe ngược với chiều lưu thông của làn đường; dừng xe, đỗ xe trên dải phân cách cố định ở giữa hai phần đường xe chạy; đỗ xe trên dốc không chèn bánh; mở cửa xe, để cửa xe mở không bảo đảm an toàn; + Dừng xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 m; dừng xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; dừng xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; rời vị trí lái, tắt máy khi dừng xe; dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở những đoạn có bố trí nơi dừng xe, đỗ xe; dừng xe, đỗ xe trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường; dừng xe nơi có biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm i khoản 4, điểm d khoản 7 Điều 5; - Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định; + Không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 49 Nghị định 100/2019/NĐ-CP; + Dừng xe, đỗ xe tại vị trí: nơi đường bộ giao nhau hoặc trong phạm vi 05 m tính từ mép đường giao nhau; điểm dừng đón, trả khách của xe buýt; trước cổng hoặc trong phạm vi 05 m hai bên cổng trụ sở cơ quan, tổ chức có bố trí đường cho xe ô tô ra vào; nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe; che khuất biển báo hiệu đường bộ; nơi mở dải phân cách giữa; + Đỗ xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 m; đỗ xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; đỗ xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật; đỗ xe nơi có biển “Cấm đỗ xe” hoặc biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm i khoản 4, điểm b khoản 6 Điều 5; + Quay đầu xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; quay đầu xe tại nơi đường hẹp, đường dốc, đoạn đường cong tầm nhìn bị che khuất, nơi có biển báo hiệu có nội dung cấm quay đầu đối với loại phương tiện đang điều khiển; điều khiển xe rẽ trái tại nơi có biển báo hiệu có nội dung cấm rẽ trái đối với loại phương tiện đang điều khiển; điều khiển xe rẽ phải tại nơi có biển báo hiệu có nội dung cấm rẽ phải đối với loại phương tiện đang điều khiển; + Chạy trong hầm đường bộ không sử dụng đèn chiếu sáng gần; + Điều khiển xe chạy dưới tốc độ tối thiểu trên những đoạn đường bộ có quy định tốc độ tối thiểu cho phép. - Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Đi vào khu vực cấm, đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi vào đối với loại phương tiện đang điều khiển, trừ các hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 5, điểm a khoản 8 Điều này và các trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; + Dừng xe, đỗ xe tại vị trí: Bên trái đường một chiều hoặc bên trái (theo hướng lưu thông) của đường đôi; trên đoạn đường cong hoặc gần đầu dốc nơi tầm nhìn bị che khuất; trên cầu, gầm cầu vượt, song song với một xe khác đang dừng, đỗ, trừ hành vi vi phạm quy định tại điểm d khoản 7 Điều 5; + Dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe trái quy định gây ùn tắc giao thông; + Xe không được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu tiên; + Không thực hiện biện pháp bảo đảm an toàn theo quy định khi xe ô tô bị hư hỏng ngay tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; + Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn; + Lùi xe, quay đầu xe trong hầm đường bộ; dừng xe, đỗ xe, vượt xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định. - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; + Đi ngược chiều của đường một chiều, đi ngược chiều trên đường có biển “Cấm đi ngược chiều”, trừ các hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 8 Điều này và các trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; - Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Không nhường đường hoặc gây cản trở xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ; + Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở. - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Điều khiển xe lạng lách, đánh võng; chạy quá tốc độ đuổi nhau trên đường bộ; dùng chân điều khiển vô lăng xe khi xe đang chạy trên đường; - Phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở. - Phạt tiền từ 18.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 7 Điều này mà không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của người thi hành công vụ hoặc gây tai nạn giao thông. - Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: + Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; + Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ; + Điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy; + Không chấp hành yêu cầu kiểm tra về chất ma túy của người thi hành công vụ. Như vậy, cảnh sát trật tự được xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ theo quy định như trên.
Sử dụng bằng lái xe giả bị phạt bao nhiêu tiền và có bị xử lý hình sự hay không?
Bạn của Anh có sử dụng bằng lái xe giả. Hôm trước anh ấy đi xe máy thì bị CSGT kiểm tra và phát hiện bằng giả nên bị phạt 1,5 triệu đồng. Anh không biết phạt như vậy có đúng không và anh ấy có bị vướng gì về trách nhiệm hình sự hay không? 1. Sử dụng bằng lái xe máy, xe ô tô giả bị phạt vi phạm hành chính không? Tại Điều 21 Nghị định 100/2019/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP có quy định mức xử phạt do sử dụng giấy phép lái xe ô tô, xe máy giả như sau: - Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện hành vi vi phạm sau đây: + Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa; … - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe mô tô ba bánh thực hiện hành vi vi phạm sau đây: … + Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa; … - Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm hành vi sau đây: + Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc sử dụng Giấy phép lái xe bị tẩy xóa. - Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: + Thực hiện hành vi quy định nêu trên còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Theo đó, khi sử dụng giấy phép lái xe giả, người sử dụng sẽ bị xử phạt theo các mức như trên. 2. Sử dụng bằng lái xe giả có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Người có hành vi làm bằng lái xe giả có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) với hình phạt như sau: - Phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm đối với người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức. - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm: + Có tổ chức. + Phạm tội 02 lần trở lên. + Sử dụng giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. + Thu lợi bất chính từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. + Tái phạm nguy hiểm - Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: + Sử dụng giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. + Thu lợi bất chính 50 triệu đồng trở lên. - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Theo đó, người làm giả giấy phép lái xe có thể chịu trách nhiệm hình sự như trên. Như vậy, trường hợp của bạn Anh bị phạt 1,5 triệu đồng là hợp lý. Ngoài ra, anh ấy còn bị tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Đối với vấn đề về hình sự, người có hành vi làm giấy phép lái xe giả và người sử dụng giấy phép lái xe giả có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định. Nếu bạn của anh có hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả thì anh ấy vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đất trồng cây lâu năm là gì? Xây nhà trên đất trồng cây lâu năm được không?
Hiện nay ở chỗ anh ở có nhiều người xây nhà trên đất trồng cây lâu năm. Anh thắc mắc việc làm này có đúng quy định về đất đai không em? Có bị xử phạt gì không? 1. Đất trồng cây lâu năm là gì? Căn cứ vào phụ lục số 01 ban hành kèm theo Thông tư 27/2018/TT-BTNMT quy định về thống kê, kiểm kê đất đai thì đất trồng cây lâu năm là đất sử dụng vào mục đích trồng các loại cây được trồng một lần, sinh trưởng và cho thu hoạch trong nhiều năm, gồm: - Cây công nghiệp lâu năm: Là cây lâu năm cho sản phẩm dùng làm nguyên liệu để sản xuất công nghiệp hoặc phải qua chế biến mới sử dụng được như cây cao su, ca cao, cà phê, chè, điều, hồ tiêu, dừa… - Cây ăn quả lâu năm: Là cây lâu năm cho sản phẩm là quả để ăn tươi hoặc kết hợp chế biến như cây bưởi, cam, chôm chôm, mận, mơ, măng cụt, nhãn, sầu riêng, vải, xoài… - Cây dược liệu lâu năm là cây lâu năm cho sản phẩm làm dược liệu như hồi, quế, đỗ trọng, long não, sâm… - Các loại cây lâu năm khác là các loại cây lâu năm để lấy gỗ, làm bóng mát, tạo cảnh quan (như cây xoan, bạch đàn, xà cừ, keo, hoa sữa, bụt mọc, lộc vừng,...); kể cả trường hợp trồng hỗn hợp nhiều loại cây lâu năm khác nhau hoặc có xen lẫn cây lâu năm và cây hàng năm. 2. Xây nhà trên đất trồng cây lâu năm có được không? Tại Điều 6 Luật Đất đai 2013 có quy định về nguyên tắc sử dụng đất như sau: - Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất. - Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. - Người sử dụng đất thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Theo đó, đất phải được sử dụng đúng mục đích. Do đó, đất trồng cây lâu năm chỉ được sử dụng để trồng các loại cây nêu ở mục 1, không được dùng để trồng lúa. 3. Xây nhà trên đất trồng cây lâu năm có bị xử phạt không? Hành vi xây dựng nhà ở trên đất trồng cây lâu năm mà không xin phép chuyển mục đích sử dụng đất thì tùy theo quy mô, diện tích đất vi phạm mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Khoản 2, 3 Điều 11 Nghị định 91/2019/NĐ-CP như sau: - Chuyển đất trồng cây lâu năm sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: + Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép dưới 0,02 héc ta; + Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,02 héc ta đến dưới 0,05 héc ta; + Phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; + Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; + Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; + Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 01 héc ta đến dưới 03 héc ta; + Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 03 héc ta trở lên. - Chuyển đất trồng cây lâu năm sang đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì hình thức và mức xử phạt bằng 02 lần mức phạt quy định trên. - Biện pháp khắc phục hậu quả: + Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm; + Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm; số lợi bất hợp pháp được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị định 91/2019/NĐ-CP. Như vậy, hành vi xây nhà trái phép trên đất trồng cây lâu năm là hành vi vi phạm pháp luật về đất đai, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính như trên.
Phó chánh thanh tra có được xử phạt?
Theo quy định: Người được giao nhiệm vụ đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử phạt, thì có thẩm quyền xử phạt và được giao quyền xử phạt như cấp trưởng". Sở tôi không có Chánh thanh tra, Tôi là Phó Chánh thanh tra phụ trách thanh tra. Vậy tôi có thẩm quyền xử phạt hành chính như thẩm quyền của Chánh thanh tra không?
Những sai lầm khi bỏ xử phạt xe “không chính chủ”
Theo Nghị định 71 xe “không chính chủ” sẽ bị phạt từ 0.8 – 1.2 triệu đồng đối với chủ xe mô tô, 6 – 10 triệu đồng đối với ô tô. Đồng thời tại Thông tư 11 của Bộ Công an có hướng dẫn cụ thể: Xe đang lưu thông trên đường, không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi “không chính chủ”. Chỉ xử phạt khi thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự nếu phát hiện phương tiện là “không chính chủ”. Quy định trên là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, vừa qua tại Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt nhiều ý kiến đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”. Thật khó lý giải tại sao có đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”, nhưng nếu đề xuất này được chấp nhận sẽ gây ra nhiều hậu quả khó lường. Một là, Ngân sách thất thu: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì các giao dịch mua bán, tặng cho… không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định nhằm né tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ tăng cao. Hai là, Phát sinh nhiều tranh chấp dân sự: khi giao dịch thực tế được thực hiện (trao xe – nhận tiền đã hoàn tất) nhưng các bên không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định pháp luật sẽ rất dễ dẫn đến các tranh chấp dân sự nếu một bên có các hành vi “lật lọng”, không thiện chí trong giao dịch. Ba là, Khó khăn trong việc xác định thủ phạm gây tai nạn: cơ quan công an rất khó khăn trong việc tìm ra người gây tai nạn giao thông rồi bỏ trốn vì phương tiện đã qua rất nhiều đời chủ. Bốn là, Tội phạm gia tăng: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì tội phạm sẽ dùng những phương tiện đã qua nhiều đời chủ để thực hiện hành vi phạm tội, trong trường hợp cần thiết chúng sẵn sàng bỏ lại phương tiện để chạy trốn mà không lo lắng sẽ bị truy ra thông tin.
Từ 1/7/2013 có thể phạt xe không chính chủ lên tới 8 triệu đồng
Dự thảo Nghị định về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt được Bộ GT-VT vừa đưa ra lấy ý kiến người dân trước khi trình Chính Phủ, quy định mức xử phạt năng với hành vi không sang tên xe theo quy định. Chủ xe máy sẽ bị phạt từ 100 - 400 nghìn đồng; chủ ô tô sẽ bị phạt từ 2-8 triệu đồng nếu không làm thủ tục sang tên đổi chủ sau khi được mua bán tặng cho hoặc không nộp phí sử dụng đường bộ. Tại điểm b, điểm c khoản 1; điểm h, điểm i khoản 4 Điều 30 của Dự thảo Nghị định: Phạt tiền từ 100 nghìn đồng đến 200 nghìn đồng đối với cá nhân là chủ xe mô-tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự mô-tô, từ 200 nghìn đồng đến 400 nghìn đồng đối với tổ chức là chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự mô-tô; Phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 4 triệu đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô, từ 4 triệu đồng đến 8 triệu đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây: - Không làm thủ tục chuyển đổi lại Giấy đăng ký xe theo quy định sau khi đã mua, được cho, được tặng, được thừa kế tài sản là phương tiện; - Không mua hoặc nộp phí cho phương tiện khi tham gia giao thông theo quy định. Dự thảo Nghị định gồm 5 Chương và 79 Điều, quy định về hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, giao thông đường sắt; thẩm quyền, thủ tục xử phạt… Nghị định này sẽ thay thế cho các Nghị định:34/2010/NĐ-CP ngày 2/4/2010, Nghị định số71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012, Nghị định số44/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 và Nghị định số156/2007/NĐ-CP ngày 19/10/ 2007. Theo Dân Trí Tham khảo nội dung Dự thảo Nghị định trong file đính kèm.
Sẽ xử phạt người đội Mũ Bảo Hiểm "rởm" từ 15/4
Chiến dịch truyền thông về việc phân biệt được đâu là MBH đạt chuẩn và không đạt chuẩn; từ đó thay đổi hành vi, thói quen sẽ được thực hiện rộng khắp từ 15/3 đến 15/4/2013. Từ ngày 15/4, các lực lượng chức năng sẽ xử phạt nghiêm những cơ sở sản xuất, kinh doanh MBH rởm và cả người sử dụng MBH rởm. Kết hợp với đó là các biện pháp hỗ trợ người dân đổi MBH rởm lấy MBH đạt chuẩn như đã làm ở Đà Nẵng. Bên cạnh đó, vận động các nhà sản xuất MBH chân chính sản xuất ra nhiều loại MBH phù hợp các lứa tuổi, mẫu mã phong phú hơn để người dân lựa chọn. Bước đầu sẽ thực hiện tại các thành phố lớn, sau đó rút kinh nghiệm và thực hiện trên toàn quốc. Đây là nội dung tại cuộc họp vào ngày 27/2 của Ủy ban ATGT Quốc gia với Cục QLTT (Bộ Công thương). Con số thống kê có khoảng 90% người tham gia giao thông thực hiện việc đội MBH khi đi trên đường nhưng trong đó chỉ có 70% MBH rởm là rất đáng lo ngại và coi như số người chấp hành nghiêm quy định MBH chỉ mới đạt được 20%. Hiện nay đa số MBH được bày bán trên lề đường với giá chỉ từ 35.000 trở lên và không hề có tem kiểm định chất lượng theo Quyết định 04/2008/QĐ-BKHCN ban hành và thực hiện "Quy chuẫn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy" do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành. Tham khảo GTVT
CSGT đánh người sẽ xử phạt như thế nào?
Vào ngày 28/12/2012 trên đường chở vợ đi đăng ký hết hôn để chuẩn bị tổ chức đám cưới vào ngày 02/01/2013, anh Nguyễn Văn Tài vì quên đem nón bảo hiểm cho vợ mình là chị Tống Thị Sen nên đã bị Cảnh sát giao thông thổi lại, nhưng vì muốn né tránh CS nên anh cũng đã cho xe chạy vượt lên và né trạm nơi Đội tuần tra đang đứng. Theo lời của anh Tài: “Khi tôi đi đến gần qua đội CSGT, một chiến sĩ chạy từ bên trái đường sang không ra bất cứ hiệu lệnh gì mà vung gậy vụt thẳng vào sau gáy vợ tôi. Cú vụt khiến vợ tôi choáng váng. Tôi hoảng sợ vòng một tay ra phía sau giữ vợ. Nhưng vợ tôi ngất lịm, toàn thân mềm oặt ngã sấp mặt xuống đường. Còn tôi mất đà cũng ngã xe luôn” "Nhóm CSGT có cả người ra gậy vụt vợ tôi cũng chạy lại xem rồi quay lại xe ngay như không hề liên quan đến sự việc. Họ có xe ô tô ở đó nhưng cũng không đưa vợ tôi đi cấp cứu dù tôi đã khẩn nài. Đến khi có mấy anh cán bộ điện lực tỉnh Bắc Giang đi xe qua mới đưa giúp vợ tôi vào bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang” Chị Sen được chuẩn đoán là chấn thương sọ não và có nguy cơ sảy thai cao.đi Theo gia đình cho biết thì hai người dự định tổ chức đám cưới vào ngày 2/1/2013 nhưng đến giờ chị Sen vẫn phải nằm trong bệnh viện để theo dõi tình hình sức khỏe. Tuy nhiên theo ông Nguyễn Văn Sơn - Trưởng Công an huyện Yên Dũng (Bắc Giang) qua xác định bước đầu không có chuyện CSGT dùng gậy vụt người đi đường như đơn phản ánh của phía gia đình anh Tài mà do 2 vợ chồng anh Nguyễn Văn Tài và chị Tống Thị Sen thấy lực lượng CSGT làm nhiệm vụ, hoảng hốt nên... tự ngã. Và vẫn còn nhiều sự việc nghị vấn vẫn chưa được làm rõ xung quanh vụ việc này, nhất là chưa có lời khai của nhân chứng xác nhận như thế nào. Nếu có thật sự chuyện CSGT đánh người dẫn đến việc gây thương tích như trên thì sẽ xét vào tội gì? Những trường hợp gây chết người, Quốc Hội sửa đổi Điều 97 Bộ luật hình sự? Điều 107. Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ 1. Người nào trong khi thi hành công vụ dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ? Mấy ngày nay người dân "ồn ào" thậm chí bức xúc với quy định tăng mức xử phạt tiền đối với người vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với phương tiện giao thông cá nhân theo quy định tại Điều 33 Nghị định 34/2010/NĐ-CP. Theo đó, theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP thì mức phạt tiền đối với trường hợp không chuyển quyền sở hữu phương tiện xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; đối với xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô là từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Theo khoản 2 Điều 439 Bộ luật Dân sự thì “Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Đồng thời, theo 36/2010/TT-BCA thì “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua bán, cho, tặng, thừa kế xe, người mua hoặc nhận xe phải đến cơ quan đăng ký xe đang quản lý xe đó làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe.” Như vậy, quy định phải đăng ký xe là cần thiết, pháp luật cần quy định việc đăng ký để xác lập quyền sở hữu, đảm bảo quản lý các phương tiện giao thông, có cơ sở để xác định chủ sở hữu của phương tiện tham gia giao thông trong các trường hợp rủi ro, gây tai nạn ... để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan ... Tuy nhiên, sự phản ứng mạnh mẽ của người dân đối với số tiền phạt được đẩy lên rất cao đối với việc vi phạm vấn đề đăng ký quyền sở hữu xe là có cơ sở, bởi lẽ quy định xử phạt này từ Nghị định34/2010/NĐ-CP đến nay là Nghị định số 71/2012/NĐ-CP nâng số tiền phạt lên thì đều chỉ là việc cố gắng đuổi theo một nếp sống, một thực tiễn đang diễn ra trong xã hội nhưng khó lòng theo kịp. Từ câu chuyện nâng số tiền phạt lên hòng siết chặt công tác quản lý việc đăng ký xe nói riêng trong vấn đề quản lý giao thông sẽ đặt ra những giả thiết của người dân về sự không khả thi của pháp luật. Như việc, cho dù đã có sự chuyển nhượng, tặng cho ... tài sản là các phương tiện nói trên thì khi kiểm tra, xử lý người dân có thể lách luật để chứng minh rằng mình mượn xe của người thân, bạn bè đi thì xử lý thế nào? Còn nếu cứ gọi lại người đi đường để kiểm tra xem có chính chủ hay không để tìm cách xử phạt, thu tiền thì chắc chắn sẽ dẫn đến một vướng mắc liên quan đến thời gian, sự phiền phức cho người dân và cho cả những người thi hành nhiệm vụ tìm người để phạt. Những mâu thuẫn đó dấy lên sự không an tâm của người dân về khả năng áp dụng vào thực tế của các quy định xử lý hành chính đối với sai phạm. Tất nhiên, người dân cũng cần hiểu là Chính phủ ban hành các quy định nói trên để xử lý các trường hợp đã chuyển nhượng phương tiện mà không đăng ký quyền sở hữu theo quy định, chứ không thể nào được phép phạt người dân sử dụng xe không thuộc quyền sở hữu của mình. Mọi hành vi lạm dụng quy định để bắt xe, kiểm tra sự chính chủ hay không của người điều khiển phương tiện giao thông sẽ là hoạt động cản trở giao thông ngược trở lại từ phía chính quyền. Lạm dụng chuyện chính chủ hay không chính chủ của người điều khiển phương tiện là cách sớm nhất và hiệu quả nhất để cấm cản khả năng ra khỏi nhà, hòa vào dòng chảy không ngừng nghỉ của người dân trong một xã hội mà phương tiện giao thông cá nhân là chủ yếu và phổ biến. Ngoài ra, Nghị định71/2012/NĐ-CP được ban hành chỉ cho thấy những điểm mới chủ đạo chỉ là ở mức tiền phạt tiền được tăng lên gấp nhiều lần so với mức phạt cũ. Đánh vào túi tiền của người dân, từ chuyện thu phí vận hành đến chuyện xử lý hành chính các trường hợp vi phạm đang cho thấy khả năng Chính phủ đang đổ lên đầu người dân trách nhiệm cho mọi sự rối rắm của câu chuyện giao thông hiện nay. Dòng chảy tiền từ túi dân sẽ cuồn cuộn hơn chảy vào ngân sách Chính phủ nếu mức phạt được tăng lên, thế nhưng số tiền này lại được đầu tư thiếu hiệu quả, bị cắt xén bởi hiện trạng tham nhũng nhiều, bị uổng phí bởi việc quy hoạch ngớ ngẩn và hiện trạng giao thông tồi tệ của nước nhà càng tồi tệ hơn ... Đó đâu phải là giải pháp! Cho nên, người dân lại lãnh đủ. Từ chuyện phải bỏ thêm nhiều tiền, đến chuyện phải chịu đựng một hiện trạng giao thông tắc nghẽn ô nhiễm và không an toàn. Phạt, phạt nữa, phạt mãi, phạt nhiều, để làm gì, thưa Chính phủ? Lê Cao