Dám làm dám chịu là gì? Phạm tội giết người nhưng tự thú thì có được giảm án?
Khi nói đến tinh thần trách nhiệm thì ông bà ta thường có câu: "Dám làm dám chịu". Vậy câu thành ngữ này có ý nghĩa gì? Dám làm dám chịu nghĩa là gì? "Dám làm dám chịu" là một thành ngữ xưa được ông bà ta hay dùng, câu thành ngữ này khuyên chúng ta phải tự biết chịu trách nhiệm với việc làm của bản thân dù kết quả nó có như mong đợi hay không như mong đợi của chúng ta. Đây là một câu thành ngữ hết sức bình thường, không mang ẩn ý như những thành ngữ, tục ngữ khác như nó thể hiện rõ được tính trách nhiệm của cá nhân. Việc mình là thì mình phải chịu trách nhiệm cho kết quả có được do việc của mình thực hiện dù nó có theo đúng hay không đúng ý muốn của mình. Người tự thú và người đầu thú sau khi phạm tội giết người có giống nhau hay không? “Tự thú” là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. "Đầu thú" là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Như vậy, người tự thú và người đầu thú sau khi phạm tội giết người là 2 người thuộc 2 trường hợp hoàn toàn khác khau. Người tự thú hành vi phạm tội giết người của mình là người tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền khi hành vi phạm tội vẫn chưa được phát hiện. Đối với tự thú thì người phạm tội giết người chỉ đến khai báo với cơ quan có thẩm quyền khi hành vi phạm tội của mình đã được cơ quan nhà nước hoặc người khác phát hiện. Hành vi tự thú sau khi phạm tội giết người thể hiện tính trách nhiệm của người phạm tội dù là cố ý hay vô ý làm chết người - "Dám làm, dám chịu". Người phạm tội giết người nhưng tự thú thì có được giảm án không? Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 người phạm tội giết người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: - Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: + Giết 02 người trở lên; + Giết người dưới 16 tuổi; + Giết phụ nữ mà biết là có thai; + Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; + Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; + Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; + Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; + Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; + Thực hiện tội phạm một cách man rợ; + Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; + Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; + Thuê giết người hoặc giết người thuê; + Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; + Vì động cơ đê hèn. - Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định trên thì bị phạt tù từ 07-15 năm. - Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01-05 năm. - Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01-05 năm. Trường hợp người phạm tội giết người ra tự thú với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì căn cứ theo điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 đây sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội. Bên cạnh đó, nếu người phạm tội giết người đáp ứng được các điều kiện được quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 (được bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, được sửa đổi bởi điểm a khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. Cụ thể gồm các điều kiện sau: - Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; + Khi có quyết định đại xá. - Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; + Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; + Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. - Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Tóm lại "Dám làm dám chịu" là câu thành ngữ thể hiện tính trách nhiệm của cá nhân đối với những việc mình đã làm. Trường hợp cá nhân vì lý do vô tình hay cố ý làm chết người thì cần phải tự thú với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để chịu trách nhiệm về hành vi mình gây ra và nhận được sự khoan hồng của pháp luật.
Giết người rồi đầu thú bị xử lý ra sao? Phân biệt đầu thú và tự thú
Mới đây, hàng loạt các diễn đàn đã đăng tin vụ việc tội phạm giết người rồi chở thi thể đi đầu thú sau khi được gia đình vận động. Phần vì lo sợ vì hành vi phạm tội ngày càng dã man, trắng trợn, phần vì không nắm rõ luật định. Theo đó người dân thắc mắc Liệu giết người rồi đầu thú thì bị xử lý như thế nào, có được giảm nhẹ hình phạt hay không? Đầu thú và tự thú khác nhau như thế nào? Bài viết sau đây sẽ cung cấp một số thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề người dân đang lo lắng, quan tâm. Tự thú là gì? Đầu thú là gì? Căn cứ điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ luật Hình sự 2015 giải thích “Tự thú” là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Theo đó, tự thú là hành vi một người tự khai báo với cơ quan, tổ chức về việc phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc bị phát hiện. Khác với tự thú, đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Như vậy, có thể thấy, hành vi tự thú là sự tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình khi hành vi phạm tội vẫn chưa được phát hiện. Ngược lại, đầu thú là hành vi tự nguyên trình diện, khai báo với cơ quan có thẩm quyền khi đã có người phát hiện. Tội giết người bị xử lý như thế nào? Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng của con người. Hành vi này sẽ bị khép vào tội giết người được quy định tại điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó, tội giết người bị xử phạt như sau: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên; - Giết người dưới 16 tuổi; - Giết phụ nữ mà biết là có thai; - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; - Thực hiện tội phạm một cách man rợ; - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; - Thuê giết người hoặc giết người thuê; - Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; - Vì động cơ đê hèn. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định trên thì bị phạt tù từ 07-15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01-05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01-05 năm. Theo đó, hành vi phạm tội giết người có thể bị phạt tù từ 07-15 năm, nếu trường hợp phạm tội thuộc khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 thì mức phạt cao nhất có thể là tù chung thân hoặc tử hình. Người phạm tội giết người đầu thú hay tự thú thì mới được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Căn cứ vào điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định một trong các tình tiết được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có tình tiết “Người phạm tội tự thú”. Theo đó, người phạm tội tự thú thì sẽ đương nhiên được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định trên. Đối với hành vi đầu thú cũng được nêu rõ trong khoản 2 Điều 51 BLHS 2015: Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặ tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Như vây, có thể nói rằng, khi phạm tội giết người thì việc người phạm tội tự thú sẽ đương nhiên được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên với việc đầu thú thì người phạm tội có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không phải tùy thuộc vào quyết định của Tòa án. Phạm tội giết người mà tự thú thì có được miễn trách nhiệm hình sự không? Căn cứ vào Điều 29 BLHS 2015 được bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định như sau: Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự: Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: - Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Khi có quyết định đại xá. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; - Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Theo đó thì người phạm tội tự thú sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi đáp ứng điều kiện theo quy định nêu trên. Nếu không đáp ứng điều kiện nêu trên thì tự thú chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo căn cứ tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
"Tự thú" và "đầu thú" theo Bộ luật TTHS 2015
Nhiều quy định đổi mới được ra đời với Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, trong đó, những nội dung về tinh thần nâng cao việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hướng tới sự nhận đạo hơn đối với người phạm tội được chú trọng. Lần đầu tiên quy định cụ thể về hành vi “đầu thú” và “tự thú” được đưa vào bộ luật này. Xét về mặt bản chất, hành vi “Đầu thú” và “tự thú” là hai trường hợp khác nhau, được luật quy định khác nhau nên dựa vào đó có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc xem xét áp dụng nhiều chế định liên quan về việc đánh giá khung hình phạt trong thực tế xét xử. Do đó việc hiểu đúng và áp dụng chính xác để đảm bảo nguyên tắc và quyền lợi cho bị can, bị cáo là điều vô cùng cần thiết. Theo quy định tại Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “h. Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. i. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.” Mặc dù Bộ luật hình sự 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã bị tạm dừng hiệu lực đã tạm dừng hiệu lực thi hành nhưng theo tinh thần Nghị quyết 109/2015/QH13, Nghị quyết 144/2016/QH13, thì vẫn phải áp dụng những quy định có lợi của hai bộ luật này đối với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án. Trong thực tế tại hai bộ luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể về việc “đầu thú” và “tự thú” mà phải dựa theo hướng dẫn của Công văn 81/2002/TANDTC: ““Tự thú” là tự mình nhận tội và khai báo hành vi phạm tội của mình trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện. “Đầu thú” là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để được cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật… Nếu người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 đối với người phạm tội. Nếu có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.” Hiện nay có 02 quan đểm về vấn đề này như sau: 1. Có quan điểm cho rằng cần phải theo hướng dẫn tại Công văn 81/2002/TANDTC mà tiến hành khi giải quyết vấn đề. Và theo tinh thần của công văn này thì hành vi “tự thú” và “đầu thú chỉ có một điểm khác nhau là việc “đã có ai biết đến hành vi phạm tội của mình hay chưa. Có thể hiểu rằng, nếu người thực hiện hành vi phạm tội chưa bị bất kì ai phát hiện và họ tự giác trình diện và khai nhận toàn bộ hành vi của mình thì sẽ được xem là “tự thú”. Và những trường hợp đến cơ quan có thẩm quyền trình diện khi phạm tội chỉ được xem là “đầu thú”. Hướng dẫn này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015. 2. Ngoài ra còn có một quan điểm khác cho rằng cần phải linh hoạt hơn khi áp dụng hướng dẫn tại Công văn 81/2002/TANDTC. Vì có nhiều ý kiến cho rằng nếu cứ áp dụng như vậy sẽ có một số trường hợp bất cập cụ thể như sau: Thứ nhất, Công văn 81/2002/TANDTC quy định đồng thời hai điều kiện “có người đã biết mình phạm tội” và “biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện” để đánh giá là người phạm tội “đầu thú”. Nếu áp dụng như vậy, sẽ có một trường hợp bất cập. Giả sử người thực hiện tội phạm đã bị ngươi khác phát hiện ra hành vi của mình, tuy nhiên người đó có đủ thời gian và điều kiện để trốn tránh nhưng lại không bỏ trốn và đến cơ quan chức năng trình diện, khai báo thì sẽ áp dụng như thế nào? Ta có thể thấy, người thực hiện hành vi tội phạm biết bản thân đã bị phát hiện, đương nhiên sẽ không được xem là “tự thú” nếu ra trình diện, nhưng xét theo hướng dẫn thì trường hợp đó cũng không được xem là “đầu thú” vì người này hoàn toàn có thể lẩn trốn đối với hành vi của mình Thứ hai, trong thực tế cho thấy việc “bị phát hiện” đôi khi nằm ngoài ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi tội phạm. Có thể họ không biết rằng mình đã bị phát hiện, mặc dù có đủ điều kiện để bỏ trốn nhưng đã ra cơ quan chức năng trình báo, khai nhận hành vi của mình. Xét về mặt bản chất, mức độ ăn năn hối cải trong trường hợp này không khác gì là “tự thú” . Tuy nhiên trong thực tế, hành vi của họ đã bị phát hiện (mà họ không biết) thì cũng không được xem tà “tự thú”. Thứ ba, có nhiều quan điểm cho rằng nên quy định như thế nào là “phát hiện hành vi phạm tội” và “ai là người phát hiện” để xem xét áp dụng tình tiết “tự thú”, “đầu thú” cho phu hợp với thực tiễn. Nhiều người cho rằng “phát hiện được người phạm tội” chỉ cần là “nhìn thấy người khác thực hiện hành vi phạm tội” lại có quan điểm khác cho rằng” phải biết rõ lai lịch, địa chỉ của người phạm tội mới được xem là “phát hiện”. Và “ai là người phát hiện”, theo quan điểm thứ nhất, “người phát hiện” có thể là bất kì ai nhưng theo quan điểm khác thì pháp luật chỉ quy định là “người phát hiện” chứ không phải “người biết sự việc” nên cần loại trừ đồng phạm hoặc những đối tượng khác cùng tham gia vụ án. Ý nghĩa lớn nhất của việc quy định phân biệt tình tiết “đầu thú”, “tự thú” là để đánh giá mức độ hành vi, ý thức tự nguyện người phạm tội và mức độ ăn năn hối cải khi sự việc đã xảy ra, dựa vào đó để xem xét áp dụng những quy định, tinh tiết giảm nhẹ cho phù hợp. Chính vì vậy, để có thể xem xét dấu hiệu để phân biệt hai hành vi “tự thú” và “đầu thú”, phải đánh giá được người thực hiện hành vi phạm tội có trể bỏ trốn được hay không. Khi người thực hiện hành vi phạm tội bị xác định danh tính rõ rang bởi người khác (không phải là đồng phạm, bị can trong cùng vụ án), và họ không trể bỏ trốn được nên ra trình diện, khai báo thì xem là “đầu thú”. Còn nếu như trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội không bị xác định rõ danh tính, lai lịch, họ có thể trốn thoát tuy nhiên lại ra trình diện khai báo thì phải xem là tự thú để khuyến khích tinh thần tự giác và ăn năn hối cải này của người phạm tội Hiện thời chưa có hướng dẫn chính thức theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 201 thì nên áp dụng quy định và hướng cẫn của Công văn 81/2002/TANDTC một cách “linh hoạt” và phù hợp. Việc vận dụng linh hoạt những quy định này để không trái những nguyên tắc cơ bản của quy định hiện hành mà vẫn có lợi cho người phạm tội sẽ góp phần đạt được mục đích cuối cùng là cải tạo, giáo dục, cho họ có thêm cơ hội hoàn lương. Theo Đồng Thị Lan Anh VKSDN quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Tưởng dễ mà khó - Tự thú và Đầu thú
“Tự thú” và “Đầu thú” là hai chế định có nhiều điểm tương đồng, thậm chí là đối với những sinh viên luật cùng thường hay nhầm lẫn trong việc xác định hai vấn đề này. Tự thú Đầu thú Giống nhau - Đầu thú và tự thú là hành động của người có những hành vi phạm tội tự mình đến trình diện và khai báo tại cơ quan chức năng để được xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. - Mong muốn giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật và chủ động chịu trách nhiệm về hành vi sai phạm của mình. - Hành vi đầu thú và tự thú đều được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khác nhau Định nghĩa Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. Đặc điểm - Hành vi phạm tội chưa bị ai phát giác hoặc đã bị phát giác nhưng chưa xác định được ai là tội phạm. - Đã xác định được ai là người phạm tội. Hành vi tội phạm đã bị phát hiện, nhiều người biết, bị tố cáo và đang bị các cơ quan chức năng điều tra làm rõ, cho dù nghi can có thể chưa chính thức bị khởi tố hình sự. - Việc người phạm tội tự khai ra hành vi phạm tội của mình với nhà chức trách là biểu hiện của sự ăn năn hối cải về việc làm sai trái của mình nên đáng được khoan hồng. - Hành vi đầu thú cho thấy người có hành vi phạm tội có tư tưởng ăn năng, đã nhìn nhận ra lỗi lầm của mình. - Mức độ khoan hồng căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước; căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra; thái độ khai báo; sự góp phần vào việc phát hiện và điều tra tội phạm của người tự thú. Có thể miễn trách nhiệm hình sự Bộ luật hình sự hoặc coi là tình tiết giảm nhẹ. - Nếu có người biết hành vi phạm tội của người phạm tội được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự. - Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát giác, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm. - Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, tức là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu giếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, đồng thời giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc dẫn cơ quan điều tra đi bắt người đồng phạm khác đang bỏ trốn, thu thập các dấu vết của tội phạm, thu hồi vật chứng, tài sản của vụ án... Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được lấy đó làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. - Cùng với việc tự thú người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: Trả lại tài sản đã chiếm đoạt; thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; đòi lại hoặc thu lại những phương tiện, công cụ hoặc các nguồn nguy hiểm mà họ đã giao hoặc đã tạo ra cho người đồng phạm khác hoặc cho những lợi ích khác v.v... Không được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định pháp luật - Khoản 2 Điều 3; - Khoản 2 Điều 25; - Điểm o, khoản 1 Điều 46; BLHS 1999 (sửa đổi 2009); Chưa được quy định trong BLHS 1999 (sửa đổi 2009), bắt đầu được nhắc đến lần đầu trong BLTTHS 2003 và đã được hướng dẫn bởi Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. BLHS 2015 và BLTTHS 2015 đã sửa đổi và quy định chi tiết rõ ràng hơn. Trên đây là một vài điểm mình tổng hợp và so sánh để mọi nguời cùng thảo luận và nghiên cứu. Tuy nhiên, để phân biệt một cách rõ ràng “tự thú” và “đầu thú” và áp dụng trên thực tế vẫn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan. Ví dụ như trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội, nhiều trường hợp người phạm tội không thể nhận biết được việc mình phạm tội đã bị ai phát hiện chưa? Người phạm tội từ ý kiến chủ quan cho rằng chưa ai biết mình phạm tội nhưng thực tế đã có người biết hay đã có người thân thích trong gia đình biết thì xác định như thê nào? Sắp tới BLHS 2015 sắp có hiệu lực, hy vọng chúng ta sẽ có văn bản mới quy định hướng dẫn về 02 chế định này. Nguồn: - Một số ý kiến về hướng dẫn tình tiết “Người phạm tội tự thú” trong Luật hình sự Việt Nam, THÔNG TIN KHOA HỌC, Website Trường đại Học kiểm sát Hà Nội; - Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết “tự thú” và “đầu thú” trong thực tiễn xét xử, Thạc sỹ: Đinh Văn Quế, Website Tòa án nhân dân tối cao.
Dám làm dám chịu là gì? Phạm tội giết người nhưng tự thú thì có được giảm án?
Khi nói đến tinh thần trách nhiệm thì ông bà ta thường có câu: "Dám làm dám chịu". Vậy câu thành ngữ này có ý nghĩa gì? Dám làm dám chịu nghĩa là gì? "Dám làm dám chịu" là một thành ngữ xưa được ông bà ta hay dùng, câu thành ngữ này khuyên chúng ta phải tự biết chịu trách nhiệm với việc làm của bản thân dù kết quả nó có như mong đợi hay không như mong đợi của chúng ta. Đây là một câu thành ngữ hết sức bình thường, không mang ẩn ý như những thành ngữ, tục ngữ khác như nó thể hiện rõ được tính trách nhiệm của cá nhân. Việc mình là thì mình phải chịu trách nhiệm cho kết quả có được do việc của mình thực hiện dù nó có theo đúng hay không đúng ý muốn của mình. Người tự thú và người đầu thú sau khi phạm tội giết người có giống nhau hay không? “Tự thú” là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. "Đầu thú" là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Như vậy, người tự thú và người đầu thú sau khi phạm tội giết người là 2 người thuộc 2 trường hợp hoàn toàn khác khau. Người tự thú hành vi phạm tội giết người của mình là người tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền khi hành vi phạm tội vẫn chưa được phát hiện. Đối với tự thú thì người phạm tội giết người chỉ đến khai báo với cơ quan có thẩm quyền khi hành vi phạm tội của mình đã được cơ quan nhà nước hoặc người khác phát hiện. Hành vi tự thú sau khi phạm tội giết người thể hiện tính trách nhiệm của người phạm tội dù là cố ý hay vô ý làm chết người - "Dám làm, dám chịu". Người phạm tội giết người nhưng tự thú thì có được giảm án không? Theo Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 người phạm tội giết người sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: - Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: + Giết 02 người trở lên; + Giết người dưới 16 tuổi; + Giết phụ nữ mà biết là có thai; + Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; + Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; + Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; + Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; + Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; + Thực hiện tội phạm một cách man rợ; + Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; + Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; + Thuê giết người hoặc giết người thuê; + Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; + Vì động cơ đê hèn. - Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định trên thì bị phạt tù từ 07-15 năm. - Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01-05 năm. - Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01-05 năm. Trường hợp người phạm tội giết người ra tự thú với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì căn cứ theo điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 đây sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy cứu trách nhiệm hình sự với người phạm tội. Bên cạnh đó, nếu người phạm tội giết người đáp ứng được các điều kiện được quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 (được bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, được sửa đổi bởi điểm a khoản 2 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) có thể sẽ được miễn trách nhiệm hình sự. Cụ thể gồm các điều kiện sau: - Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; + Khi có quyết định đại xá. - Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: + Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; + Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; + Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. - Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Tóm lại "Dám làm dám chịu" là câu thành ngữ thể hiện tính trách nhiệm của cá nhân đối với những việc mình đã làm. Trường hợp cá nhân vì lý do vô tình hay cố ý làm chết người thì cần phải tự thú với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, để chịu trách nhiệm về hành vi mình gây ra và nhận được sự khoan hồng của pháp luật.
Giết người rồi đầu thú bị xử lý ra sao? Phân biệt đầu thú và tự thú
Mới đây, hàng loạt các diễn đàn đã đăng tin vụ việc tội phạm giết người rồi chở thi thể đi đầu thú sau khi được gia đình vận động. Phần vì lo sợ vì hành vi phạm tội ngày càng dã man, trắng trợn, phần vì không nắm rõ luật định. Theo đó người dân thắc mắc Liệu giết người rồi đầu thú thì bị xử lý như thế nào, có được giảm nhẹ hình phạt hay không? Đầu thú và tự thú khác nhau như thế nào? Bài viết sau đây sẽ cung cấp một số thông tin cần thiết liên quan đến vấn đề người dân đang lo lắng, quan tâm. Tự thú là gì? Đầu thú là gì? Căn cứ điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ luật Hình sự 2015 giải thích “Tự thú” là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Theo đó, tự thú là hành vi một người tự khai báo với cơ quan, tổ chức về việc phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc bị phát hiện. Khác với tự thú, đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Như vậy, có thể thấy, hành vi tự thú là sự tự nguyện khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình khi hành vi phạm tội vẫn chưa được phát hiện. Ngược lại, đầu thú là hành vi tự nguyên trình diện, khai báo với cơ quan có thẩm quyền khi đã có người phát hiện. Tội giết người bị xử lý như thế nào? Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Đây là hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến tính mạng của con người. Hành vi này sẽ bị khép vào tội giết người được quy định tại điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó, tội giết người bị xử phạt như sau: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12-20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: - Giết 02 người trở lên; - Giết người dưới 16 tuổi; - Giết phụ nữ mà biết là có thai; - Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; - Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; - Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; - Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; - Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; - Thực hiện tội phạm một cách man rợ; - Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; - Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; - Thuê giết người hoặc giết người thuê; - Có tính chất côn đồ; - Có tổ chức; - Tái phạm nguy hiểm; - Vì động cơ đê hèn. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định trên thì bị phạt tù từ 07-15 năm. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01-05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01-05 năm. Theo đó, hành vi phạm tội giết người có thể bị phạt tù từ 07-15 năm, nếu trường hợp phạm tội thuộc khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 thì mức phạt cao nhất có thể là tù chung thân hoặc tử hình. Người phạm tội giết người đầu thú hay tự thú thì mới được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Căn cứ vào điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định một trong các tình tiết được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có tình tiết “Người phạm tội tự thú”. Theo đó, người phạm tội tự thú thì sẽ đương nhiên được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định trên. Đối với hành vi đầu thú cũng được nêu rõ trong khoản 2 Điều 51 BLHS 2015: Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặ tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Như vây, có thể nói rằng, khi phạm tội giết người thì việc người phạm tội tự thú sẽ đương nhiên được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên với việc đầu thú thì người phạm tội có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không phải tùy thuộc vào quyết định của Tòa án. Phạm tội giết người mà tự thú thì có được miễn trách nhiệm hình sự không? Căn cứ vào Điều 29 BLHS 2015 được bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định như sau: Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự: Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: - Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Khi có quyết định đại xá. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; - Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Theo đó thì người phạm tội tự thú sẽ được miễn trách nhiệm hình sự khi đáp ứng điều kiện theo quy định nêu trên. Nếu không đáp ứng điều kiện nêu trên thì tự thú chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo căn cứ tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
"Tự thú" và "đầu thú" theo Bộ luật TTHS 2015
Nhiều quy định đổi mới được ra đời với Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, trong đó, những nội dung về tinh thần nâng cao việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hướng tới sự nhận đạo hơn đối với người phạm tội được chú trọng. Lần đầu tiên quy định cụ thể về hành vi “đầu thú” và “tự thú” được đưa vào bộ luật này. Xét về mặt bản chất, hành vi “Đầu thú” và “tự thú” là hai trường hợp khác nhau, được luật quy định khác nhau nên dựa vào đó có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc xem xét áp dụng nhiều chế định liên quan về việc đánh giá khung hình phạt trong thực tế xét xử. Do đó việc hiểu đúng và áp dụng chính xác để đảm bảo nguyên tắc và quyền lợi cho bị can, bị cáo là điều vô cùng cần thiết. Theo quy định tại Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “h. Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. i. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.” Mặc dù Bộ luật hình sự 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã bị tạm dừng hiệu lực đã tạm dừng hiệu lực thi hành nhưng theo tinh thần Nghị quyết 109/2015/QH13, Nghị quyết 144/2016/QH13, thì vẫn phải áp dụng những quy định có lợi của hai bộ luật này đối với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án. Trong thực tế tại hai bộ luật hình sự và tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể về việc “đầu thú” và “tự thú” mà phải dựa theo hướng dẫn của Công văn 81/2002/TANDTC: ““Tự thú” là tự mình nhận tội và khai báo hành vi phạm tội của mình trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện. “Đầu thú” là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để được cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật… Nếu người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 đối với người phạm tội. Nếu có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.” Hiện nay có 02 quan đểm về vấn đề này như sau: 1. Có quan điểm cho rằng cần phải theo hướng dẫn tại Công văn 81/2002/TANDTC mà tiến hành khi giải quyết vấn đề. Và theo tinh thần của công văn này thì hành vi “tự thú” và “đầu thú chỉ có một điểm khác nhau là việc “đã có ai biết đến hành vi phạm tội của mình hay chưa. Có thể hiểu rằng, nếu người thực hiện hành vi phạm tội chưa bị bất kì ai phát hiện và họ tự giác trình diện và khai nhận toàn bộ hành vi của mình thì sẽ được xem là “tự thú”. Và những trường hợp đến cơ quan có thẩm quyền trình diện khi phạm tội chỉ được xem là “đầu thú”. Hướng dẫn này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015. 2. Ngoài ra còn có một quan điểm khác cho rằng cần phải linh hoạt hơn khi áp dụng hướng dẫn tại Công văn 81/2002/TANDTC. Vì có nhiều ý kiến cho rằng nếu cứ áp dụng như vậy sẽ có một số trường hợp bất cập cụ thể như sau: Thứ nhất, Công văn 81/2002/TANDTC quy định đồng thời hai điều kiện “có người đã biết mình phạm tội” và “biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện” để đánh giá là người phạm tội “đầu thú”. Nếu áp dụng như vậy, sẽ có một trường hợp bất cập. Giả sử người thực hiện tội phạm đã bị ngươi khác phát hiện ra hành vi của mình, tuy nhiên người đó có đủ thời gian và điều kiện để trốn tránh nhưng lại không bỏ trốn và đến cơ quan chức năng trình diện, khai báo thì sẽ áp dụng như thế nào? Ta có thể thấy, người thực hiện hành vi tội phạm biết bản thân đã bị phát hiện, đương nhiên sẽ không được xem là “tự thú” nếu ra trình diện, nhưng xét theo hướng dẫn thì trường hợp đó cũng không được xem là “đầu thú” vì người này hoàn toàn có thể lẩn trốn đối với hành vi của mình Thứ hai, trong thực tế cho thấy việc “bị phát hiện” đôi khi nằm ngoài ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi tội phạm. Có thể họ không biết rằng mình đã bị phát hiện, mặc dù có đủ điều kiện để bỏ trốn nhưng đã ra cơ quan chức năng trình báo, khai nhận hành vi của mình. Xét về mặt bản chất, mức độ ăn năn hối cải trong trường hợp này không khác gì là “tự thú” . Tuy nhiên trong thực tế, hành vi của họ đã bị phát hiện (mà họ không biết) thì cũng không được xem tà “tự thú”. Thứ ba, có nhiều quan điểm cho rằng nên quy định như thế nào là “phát hiện hành vi phạm tội” và “ai là người phát hiện” để xem xét áp dụng tình tiết “tự thú”, “đầu thú” cho phu hợp với thực tiễn. Nhiều người cho rằng “phát hiện được người phạm tội” chỉ cần là “nhìn thấy người khác thực hiện hành vi phạm tội” lại có quan điểm khác cho rằng” phải biết rõ lai lịch, địa chỉ của người phạm tội mới được xem là “phát hiện”. Và “ai là người phát hiện”, theo quan điểm thứ nhất, “người phát hiện” có thể là bất kì ai nhưng theo quan điểm khác thì pháp luật chỉ quy định là “người phát hiện” chứ không phải “người biết sự việc” nên cần loại trừ đồng phạm hoặc những đối tượng khác cùng tham gia vụ án. Ý nghĩa lớn nhất của việc quy định phân biệt tình tiết “đầu thú”, “tự thú” là để đánh giá mức độ hành vi, ý thức tự nguyện người phạm tội và mức độ ăn năn hối cải khi sự việc đã xảy ra, dựa vào đó để xem xét áp dụng những quy định, tinh tiết giảm nhẹ cho phù hợp. Chính vì vậy, để có thể xem xét dấu hiệu để phân biệt hai hành vi “tự thú” và “đầu thú”, phải đánh giá được người thực hiện hành vi phạm tội có trể bỏ trốn được hay không. Khi người thực hiện hành vi phạm tội bị xác định danh tính rõ rang bởi người khác (không phải là đồng phạm, bị can trong cùng vụ án), và họ không trể bỏ trốn được nên ra trình diện, khai báo thì xem là “đầu thú”. Còn nếu như trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội không bị xác định rõ danh tính, lai lịch, họ có thể trốn thoát tuy nhiên lại ra trình diện khai báo thì phải xem là tự thú để khuyến khích tinh thần tự giác và ăn năn hối cải này của người phạm tội Hiện thời chưa có hướng dẫn chính thức theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 201 thì nên áp dụng quy định và hướng cẫn của Công văn 81/2002/TANDTC một cách “linh hoạt” và phù hợp. Việc vận dụng linh hoạt những quy định này để không trái những nguyên tắc cơ bản của quy định hiện hành mà vẫn có lợi cho người phạm tội sẽ góp phần đạt được mục đích cuối cùng là cải tạo, giáo dục, cho họ có thêm cơ hội hoàn lương. Theo Đồng Thị Lan Anh VKSDN quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Tưởng dễ mà khó - Tự thú và Đầu thú
“Tự thú” và “Đầu thú” là hai chế định có nhiều điểm tương đồng, thậm chí là đối với những sinh viên luật cùng thường hay nhầm lẫn trong việc xác định hai vấn đề này. Tự thú Đầu thú Giống nhau - Đầu thú và tự thú là hành động của người có những hành vi phạm tội tự mình đến trình diện và khai báo tại cơ quan chức năng để được xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. - Mong muốn giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật và chủ động chịu trách nhiệm về hành vi sai phạm của mình. - Hành vi đầu thú và tự thú đều được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khác nhau Định nghĩa Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. Đặc điểm - Hành vi phạm tội chưa bị ai phát giác hoặc đã bị phát giác nhưng chưa xác định được ai là tội phạm. - Đã xác định được ai là người phạm tội. Hành vi tội phạm đã bị phát hiện, nhiều người biết, bị tố cáo và đang bị các cơ quan chức năng điều tra làm rõ, cho dù nghi can có thể chưa chính thức bị khởi tố hình sự. - Việc người phạm tội tự khai ra hành vi phạm tội của mình với nhà chức trách là biểu hiện của sự ăn năn hối cải về việc làm sai trái của mình nên đáng được khoan hồng. - Hành vi đầu thú cho thấy người có hành vi phạm tội có tư tưởng ăn năng, đã nhìn nhận ra lỗi lầm của mình. - Mức độ khoan hồng căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước; căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra; thái độ khai báo; sự góp phần vào việc phát hiện và điều tra tội phạm của người tự thú. Có thể miễn trách nhiệm hình sự Bộ luật hình sự hoặc coi là tình tiết giảm nhẹ. - Nếu có người biết hành vi phạm tội của người phạm tội được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự. - Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát giác, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm. - Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, tức là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu giếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, đồng thời giúp cơ quan điều tra phát hiện tội phạm như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc dẫn cơ quan điều tra đi bắt người đồng phạm khác đang bỏ trốn, thu thập các dấu vết của tội phạm, thu hồi vật chứng, tài sản của vụ án... Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được lấy đó làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. - Cùng với việc tự thú người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: Trả lại tài sản đã chiếm đoạt; thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; đòi lại hoặc thu lại những phương tiện, công cụ hoặc các nguồn nguy hiểm mà họ đã giao hoặc đã tạo ra cho người đồng phạm khác hoặc cho những lợi ích khác v.v... Không được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định pháp luật - Khoản 2 Điều 3; - Khoản 2 Điều 25; - Điểm o, khoản 1 Điều 46; BLHS 1999 (sửa đổi 2009); Chưa được quy định trong BLHS 1999 (sửa đổi 2009), bắt đầu được nhắc đến lần đầu trong BLTTHS 2003 và đã được hướng dẫn bởi Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. BLHS 2015 và BLTTHS 2015 đã sửa đổi và quy định chi tiết rõ ràng hơn. Trên đây là một vài điểm mình tổng hợp và so sánh để mọi nguời cùng thảo luận và nghiên cứu. Tuy nhiên, để phân biệt một cách rõ ràng “tự thú” và “đầu thú” và áp dụng trên thực tế vẫn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan. Ví dụ như trường hợp khi thực hiện hành vi phạm tội, nhiều trường hợp người phạm tội không thể nhận biết được việc mình phạm tội đã bị ai phát hiện chưa? Người phạm tội từ ý kiến chủ quan cho rằng chưa ai biết mình phạm tội nhưng thực tế đã có người biết hay đã có người thân thích trong gia đình biết thì xác định như thê nào? Sắp tới BLHS 2015 sắp có hiệu lực, hy vọng chúng ta sẽ có văn bản mới quy định hướng dẫn về 02 chế định này. Nguồn: - Một số ý kiến về hướng dẫn tình tiết “Người phạm tội tự thú” trong Luật hình sự Việt Nam, THÔNG TIN KHOA HỌC, Website Trường đại Học kiểm sát Hà Nội; - Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết “tự thú” và “đầu thú” trong thực tiễn xét xử, Thạc sỹ: Đinh Văn Quế, Website Tòa án nhân dân tối cao.