“Mạnh tay” trong ngăn chặn tẩu tán tài sản của người phải thi hành án
(PLVN) -Ngày 01/5/2020, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ có hiệu lực thi hành và việc áp dụng văn bản dưới luật này vào thực tiễn đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc trước đây không giải quyết được, dẫn đến án tồn động, kéo dài. Trong nhiều điểm mới có quy định tại Điều 24, khoản 1 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ. Điều khoản đã được sửa đổi góp phần cho các cơ quan tiến hành tố tụng được mạnh tay hơn, dễ áp dụng để bảo vệ được các quyền và nghĩa vụ của nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan một cách hợp pháp, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản của người phải thi hành án nhằm trốn trách nghĩa vụ thi hành án dân sự. Liên quan đến điểm mới sửa đổi, bổ sung này thực tế gặp phải trường hợp mà lâu nay có nhiều quan điểm trái chiều nhau giữa các cơ quan nhà nước với ngân hàng, tổ chức tín dụng... làm cho chấp hành viên gặp nhiều khó khăn không thể xử lý án kịp thời được. Chấp hành viên gặp khó trong xử lý tài sản Đơn cử một trường hợp tranh chấp dân sự theo Quyết định số: 09/2015/QDDS ngày 20 tháng 04 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh P, giữa vợ chồng ông Nguyễn H, bà Phan Thị S với Vợ chồng ông Tô Văn N, bà Nguyễn Thị B. Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thì ông H, bà S làm đơn yêu cầu thi hành án nhiều lần theo từng thời gian trả dần và Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, đã thụ lý và ra các Quyết định thi hành án. Về khoản phải thi hành: Vợ chồng ông Tô Văn N, bà Nguyễn Thị B, có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông Nguyễn H, bà Phan Thị S với tổng số tiền 150.000.000đ và lãi chậm thi hành án. Quá trình thi hành án dân sự, xác minh điều kiện thi hành án về tài sản của vợ chồng ông N, bà B được biết tài sản đã thế chấp tại Ngân hàng TMCP KL, sau thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Vợ chồng ông N, bà B không dùng số tiền vay được để thi hành án và không tự nguyện thi hành mà còn có hành vi chây ỳ, trốn tránh, xem thường pháp luật không thực hiện nghĩa vụ dân sự theo án tuyên. Do đó, sau một thời gian vận động, thuyết phục và cho thi hành án dần theo yêu cầu của các bên đương sự đến thời điểm không thực hiện nghĩa vụ cam kết nữa và đồng ý kê biên, xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án. Ngày 29/6/2017, Chi cục thi hành án dân sự huyện X, đã tiến hành cưỡng chế kê biên tài sản nhà và đất của vợ chồng ông N, bà B. Tài sản kê biên gồm: 01 ngôi nhà cấp 4 và diện tích đất tại thửa 619, tờ bản đồ 39, tọa lạc tại huyện X. Được UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AD 158081 ngày 29/01/2009 cho vợ chồng ông Tô Văn N, bà Nguyễn Thị B đứng tên chủ sở hữu. Trong quá trình kê biên, có đại diện Ngân hàng TMCP KL chứng kiến việc kê biên, ký tên vào biên bản kê biên đầy đủ. Đối chiếu với quy định pháp luật, Chi cục nhận thấy việc cưỡng chế, kê biên nhà và đất của vợ chông ông Tô Văn N, Nguyễn Thị B là đúng theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự. Hợp đồng thế chấp tài sản đã kê biên nêu trên với Ngân hàng TMCP KL, sau Quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật, thì vẫn tiến hành kê biên, xử lý theo quy định tại Khoản 1, Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Tại thời điểm kê biên có sự chứng kiến của Ngân hàng, các bên đương sự và người có quyền và nghĩa vụ liên quan không có tranh chấp. Sau khi kê biên Chấp hành viên có đề nghị các bên đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quyền tranh chấp theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự. Nhưng các bên không yêu cầu khởi kiện, chấp hành viên tiếp tục các quy trình xử lý, hợp đồng thẩm định giá, bán đấu giá theo quy định… Nâng tính khả thi của bản án Trong quá trình bán đấu giá, Ngân hàng TMCP KL, yêu cầu dừng việc bán đấu giá khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện X thụ lý giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản kê biên nêu trên và nhiều quan điểm không đồng nhất với cơ quan thi hành án bởi cho rằng Ngân hàng cho vay hợp pháp, khi xử lý tài sản phải ưu tiên thanh toán cho Ngân hàng. Có quan điểm của người được thi hành án cho rằng tài sản đó thế chấp sau khi có bản án, quyết định của Tòa án nên không thể ưu tiên theo quy định… Những khó khăn đó của Chấp hành viên đã được giải thoát phần nào khi (Điều 24, khoản 1 Nghị định 62/2015/NĐ-CP) được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ. Điều luật đã quy định: “Trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó. Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau: Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định…..” Như vậy với các quy định này, những hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án dân sự sẽ bị ngăn chặn, góp phần làm cho bản án có hiệu lực, khả thi hơn trong thực tiễn.
Làm thế nào để phán quyết của Tòa án được thực thi trên thực tế?
Có thể nói, đối với các tranh chấp dân sự khi lựa chọn con đường khởi kiện ra Tòa án thì mục đích cuối cùng của các đương sự không chỉ là nhận được bản án (hay quyết định) của Tòa mà quan trọng hơn đó là việc phán quyết này phải được thực thi trên thực tế. Hiện nay, hành lang pháp lý trong tố tụng dân sự tồn tại nhiều điều khoản quy định về nghĩa vụ cũng như trách nhiệm chấp hành bản án (hay quyết định) của các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan. Trước hết, một trong những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đó là: “Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án” với nội dung cụ thể như sau: Điều 19. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án 1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. 2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án và cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó. ... Mặt khác, Luật thi hành án dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2014 đã cụ thể hóa các hành vi nào được xem là vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và nguyên tắc xử lý vi phạm lần lượt tại Điều 162 và Điều 165: Điều 162. Hành vi vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự 1. Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng. 2. Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay. 3. Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định. 4. Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án. 5. Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản. 6. Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng. 7. Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 8. Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 9. Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 10. Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Điều 165. Xử lý vi phạm 1. Người phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định; không tự nguyện thi hành các quyết định về thi hành án thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện các quyết định về thi hành án thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường; nếu là cá nhân thì còn có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 3. Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc Chấp hành viên thi hành án trái pháp luật; phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại vật chứng, tài sản tạm giữ, tài sản bị kê biên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. 4. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc ra quyết định về thi hành án trái pháp luật; Chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật; vi phạm quy chế đạo đức của Chấp hành viên thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật tố tụng dân sự quy định đối với những phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành. Xong, trong quá trình thi hành án không loại trừ trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức không tôn trọng và không tự nguyện chấp hành dẫn đến việc phán quyết của Tòa bị vô hiệu hóa trên thực tế, hay nói cách khác nó chỉ có giá trị trên giấy. Vì thế, để phán quyết của Tòa được thực thi, cũng là để đảm bảo quyền lợi của các cá nhân, tổ chức là đối tượng của phán quyết, pháp luật về thi hành án dân sự đã đưa ra chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi không chấp hành bản án, quyết định. Theo đó, trách nhiệm pháp lý mà các cá nhân, tổ chức có thể phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm gồm: (1) trách nhiệm hành chính hoặc (2) trách nhiệm hình sự. >>>TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH Các hình thức xử phạt hành chính có thể được áp dụng bao gồm: (1) cảnh cáo hoặc (2) phạt tiền với mức phạt từ 500.000 đồng lên tới 40.000.000 đồng tùy thuộc vào loại hành vi và mức độ nghiêm trọng của hành vi theo quy định tại Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi bởi Nghị định 67/2015): Điều 52. Hành vi vi phạm quy định trong hoạt động thi hành án dân sự 1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng. 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng; b) Không thông báo cho cơ quan thi hành án khi có thay đổi về địa chỉ và nơi cư trú; c) Không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án. 3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định; b) Trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp có điều kiện thi hành án; c) Không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; d) Cung cấp chứng cứ giả cho cơ quan Thi hành án dân sự. 4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản; b) Phá hủy niêm phong tài sản đã kê biên; c) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc trừ vào thu nhập. 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản; b) Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên; c) Hủy hoại tài sản đã kê biên; d) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; đ) Cố ý không thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhân dân hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay. 6. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc khấu trừ tài khoản, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; b) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án; về việc thu tiền của người phải thi hành án đang giữ. 7. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án theo quyết định của người có thẩm quyền thi hành án. 8. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi đối với hành vi quy định tại Điểm a Khoản 4, Điểm a và Điểm b Khoản 5 Điều này. >>>TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ Theo quy định tại Điều 380 của Bộ luật Hình sự 2015, trường hợp người có điều kiện thi hành án nhưng không chấp hành bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, thì bị phạt tù từ ba tháng đến năm năm (tùy trường hợp) và có thể bị phạt tiền từ 5 đến 50 triệu đồng về Tội không chấp hành án. Tóm lại, pháp luật Việt Nam quy định người thi hành án phải có trách nhiệm chấp hành bản án (hoặc quyết định) có hiệu lực của Tòa án. Trong trường hợp cố ý không chấp hành, người phải thi hành án tùy mức độ và tính chất vi phạm sẽ chịu chế tài tương ứng là cảnh cáo hoặc phạt tiền, thậm chí nghiêm trọng hơn người vi phạm có thể bị phạt tù.
“Mạnh tay” trong ngăn chặn tẩu tán tài sản của người phải thi hành án
(PLVN) -Ngày 01/5/2020, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ có hiệu lực thi hành và việc áp dụng văn bản dưới luật này vào thực tiễn đã góp phần tháo gỡ những vướng mắc trước đây không giải quyết được, dẫn đến án tồn động, kéo dài. Trong nhiều điểm mới có quy định tại Điều 24, khoản 1 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ. Điều khoản đã được sửa đổi góp phần cho các cơ quan tiến hành tố tụng được mạnh tay hơn, dễ áp dụng để bảo vệ được các quyền và nghĩa vụ của nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan một cách hợp pháp, ngăn chặn việc tẩu tán tài sản của người phải thi hành án nhằm trốn trách nghĩa vụ thi hành án dân sự. Liên quan đến điểm mới sửa đổi, bổ sung này thực tế gặp phải trường hợp mà lâu nay có nhiều quan điểm trái chiều nhau giữa các cơ quan nhà nước với ngân hàng, tổ chức tín dụng... làm cho chấp hành viên gặp nhiều khó khăn không thể xử lý án kịp thời được. Chấp hành viên gặp khó trong xử lý tài sản Đơn cử một trường hợp tranh chấp dân sự theo Quyết định số: 09/2015/QDDS ngày 20 tháng 04 năm 2015 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh P, giữa vợ chồng ông Nguyễn H, bà Phan Thị S với Vợ chồng ông Tô Văn N, bà Nguyễn Thị B. Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thì ông H, bà S làm đơn yêu cầu thi hành án nhiều lần theo từng thời gian trả dần và Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, đã thụ lý và ra các Quyết định thi hành án. Về khoản phải thi hành: Vợ chồng ông Tô Văn N, bà Nguyễn Thị B, có nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng ông Nguyễn H, bà Phan Thị S với tổng số tiền 150.000.000đ và lãi chậm thi hành án. Quá trình thi hành án dân sự, xác minh điều kiện thi hành án về tài sản của vợ chồng ông N, bà B được biết tài sản đã thế chấp tại Ngân hàng TMCP KL, sau thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Vợ chồng ông N, bà B không dùng số tiền vay được để thi hành án và không tự nguyện thi hành mà còn có hành vi chây ỳ, trốn tránh, xem thường pháp luật không thực hiện nghĩa vụ dân sự theo án tuyên. Do đó, sau một thời gian vận động, thuyết phục và cho thi hành án dần theo yêu cầu của các bên đương sự đến thời điểm không thực hiện nghĩa vụ cam kết nữa và đồng ý kê biên, xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án. Ngày 29/6/2017, Chi cục thi hành án dân sự huyện X, đã tiến hành cưỡng chế kê biên tài sản nhà và đất của vợ chồng ông N, bà B. Tài sản kê biên gồm: 01 ngôi nhà cấp 4 và diện tích đất tại thửa 619, tờ bản đồ 39, tọa lạc tại huyện X. Được UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AD 158081 ngày 29/01/2009 cho vợ chồng ông Tô Văn N, bà Nguyễn Thị B đứng tên chủ sở hữu. Trong quá trình kê biên, có đại diện Ngân hàng TMCP KL chứng kiến việc kê biên, ký tên vào biên bản kê biên đầy đủ. Đối chiếu với quy định pháp luật, Chi cục nhận thấy việc cưỡng chế, kê biên nhà và đất của vợ chông ông Tô Văn N, Nguyễn Thị B là đúng theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự. Hợp đồng thế chấp tài sản đã kê biên nêu trên với Ngân hàng TMCP KL, sau Quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật, thì vẫn tiến hành kê biên, xử lý theo quy định tại Khoản 1, Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Tại thời điểm kê biên có sự chứng kiến của Ngân hàng, các bên đương sự và người có quyền và nghĩa vụ liên quan không có tranh chấp. Sau khi kê biên Chấp hành viên có đề nghị các bên đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quyền tranh chấp theo quy định tại Điều 75 Luật Thi hành án dân sự. Nhưng các bên không yêu cầu khởi kiện, chấp hành viên tiếp tục các quy trình xử lý, hợp đồng thẩm định giá, bán đấu giá theo quy định… Nâng tính khả thi của bản án Trong quá trình bán đấu giá, Ngân hàng TMCP KL, yêu cầu dừng việc bán đấu giá khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện X thụ lý giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản kê biên nêu trên và nhiều quan điểm không đồng nhất với cơ quan thi hành án bởi cho rằng Ngân hàng cho vay hợp pháp, khi xử lý tài sản phải ưu tiên thanh toán cho Ngân hàng. Có quan điểm của người được thi hành án cho rằng tài sản đó thế chấp sau khi có bản án, quyết định của Tòa án nên không thể ưu tiên theo quy định… Những khó khăn đó của Chấp hành viên đã được giải thoát phần nào khi (Điều 24, khoản 1 Nghị định 62/2015/NĐ-CP) được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ. Điều luật đã quy định: “Trường hợp tài sản đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà phát sinh các giao dịch liên quan đến tài sản đó thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án. Chấp hành viên có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với tài sản đó. Trường hợp có giao dịch về tài sản mà người phải thi hành án không sử dụng toàn bộ khoản tiền thu được từ giao dịch đó để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc có tài sản khác nhưng không đủ để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án thì xử lý như sau: Trường hợp có giao dịch về tài sản nhưng chưa hoàn thành việc chuyển quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo quy định…..” Như vậy với các quy định này, những hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án dân sự sẽ bị ngăn chặn, góp phần làm cho bản án có hiệu lực, khả thi hơn trong thực tiễn.
Làm thế nào để phán quyết của Tòa án được thực thi trên thực tế?
Có thể nói, đối với các tranh chấp dân sự khi lựa chọn con đường khởi kiện ra Tòa án thì mục đích cuối cùng của các đương sự không chỉ là nhận được bản án (hay quyết định) của Tòa mà quan trọng hơn đó là việc phán quyết này phải được thực thi trên thực tế. Hiện nay, hành lang pháp lý trong tố tụng dân sự tồn tại nhiều điều khoản quy định về nghĩa vụ cũng như trách nhiệm chấp hành bản án (hay quyết định) của các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan. Trước hết, một trong những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đó là: “Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án” với nội dung cụ thể như sau: Điều 19. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án 1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. 2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án và cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó. ... Mặt khác, Luật thi hành án dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2014 đã cụ thể hóa các hành vi nào được xem là vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và nguyên tắc xử lý vi phạm lần lượt tại Điều 162 và Điều 165: Điều 162. Hành vi vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự 1. Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai nhưng không có mặt để thực hiện việc thi hành án mà không có lý do chính đáng. 2. Cố tình không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay. 3. Không thực hiện công việc phải làm hoặc không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định. 4. Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án. 5. Tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản. 6. Không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc cung cấp thông tin, giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án mà không có lý do chính đáng. 7. Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 8. Chống đối, cản trở hay xúi giục người khác chống đối, cản trở; có lời nói, hành động lăng mạ, xúc phạm người thi hành công vụ trong thi hành án; gây rối trật tự nơi thi hành án hoặc có hành vi vi phạm khác gây trở ngại cho hoạt động thi hành án dân sự nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 9. Phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên nhưng chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 10. Không chấp hành quyết định của Chấp hành viên về việc khấu trừ tài khoản, trừ vào thu nhập, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Điều 165. Xử lý vi phạm 1. Người phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định; không tự nguyện thi hành các quyết định về thi hành án thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện các quyết định về thi hành án thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường; nếu là cá nhân thì còn có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 3. Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc Chấp hành viên thi hành án trái pháp luật; phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại vật chứng, tài sản tạm giữ, tài sản bị kê biên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. 4. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc ra quyết định về thi hành án trái pháp luật; Chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật; vi phạm quy chế đạo đức của Chấp hành viên thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Như vậy, pháp luật tố tụng dân sự quy định đối với những phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành. Xong, trong quá trình thi hành án không loại trừ trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức không tôn trọng và không tự nguyện chấp hành dẫn đến việc phán quyết của Tòa bị vô hiệu hóa trên thực tế, hay nói cách khác nó chỉ có giá trị trên giấy. Vì thế, để phán quyết của Tòa được thực thi, cũng là để đảm bảo quyền lợi của các cá nhân, tổ chức là đối tượng của phán quyết, pháp luật về thi hành án dân sự đã đưa ra chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi không chấp hành bản án, quyết định. Theo đó, trách nhiệm pháp lý mà các cá nhân, tổ chức có thể phải gánh chịu khi có hành vi vi phạm gồm: (1) trách nhiệm hành chính hoặc (2) trách nhiệm hình sự. >>>TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH Các hình thức xử phạt hành chính có thể được áp dụng bao gồm: (1) cảnh cáo hoặc (2) phạt tiền với mức phạt từ 500.000 đồng lên tới 40.000.000 đồng tùy thuộc vào loại hành vi và mức độ nghiêm trọng của hành vi theo quy định tại Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi bởi Nghị định 67/2015): Điều 52. Hành vi vi phạm quy định trong hoạt động thi hành án dân sự 1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng. 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng; b) Không thông báo cho cơ quan thi hành án khi có thay đổi về địa chỉ và nơi cư trú; c) Không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án. 3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định; b) Trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp có điều kiện thi hành án; c) Không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; d) Cung cấp chứng cứ giả cho cơ quan Thi hành án dân sự. 4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Làm hư hỏng tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản; b) Phá hủy niêm phong tài sản đã kê biên; c) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc trừ vào thu nhập. 5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Tẩu tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản; b) Sử dụng trái phép, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên; c) Hủy hoại tài sản đã kê biên; d) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; đ) Cố ý không thực hiện quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án nhân dân hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay. 6. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc khấu trừ tài khoản, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án; b) Không chấp hành quyết định của người có thẩm quyền thi hành án về việc thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án; về việc thu tiền của người phải thi hành án đang giữ. 7. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện việc phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án theo quyết định của người có thẩm quyền thi hành án. 8. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi đối với hành vi quy định tại Điểm a Khoản 4, Điểm a và Điểm b Khoản 5 Điều này. >>>TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ Theo quy định tại Điều 380 của Bộ luật Hình sự 2015, trường hợp người có điều kiện thi hành án nhưng không chấp hành bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, thì bị phạt tù từ ba tháng đến năm năm (tùy trường hợp) và có thể bị phạt tiền từ 5 đến 50 triệu đồng về Tội không chấp hành án. Tóm lại, pháp luật Việt Nam quy định người thi hành án phải có trách nhiệm chấp hành bản án (hoặc quyết định) có hiệu lực của Tòa án. Trong trường hợp cố ý không chấp hành, người phải thi hành án tùy mức độ và tính chất vi phạm sẽ chịu chế tài tương ứng là cảnh cáo hoặc phạt tiền, thậm chí nghiêm trọng hơn người vi phạm có thể bị phạt tù.