03 trường hợp đương sự không phải chứng minh trong tố tụng hành chính
Việc xác định nghĩa vụ chứng minh đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, có 3 trường hợp đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ này (1) Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính Theo Điều 78 Luật Tố tụng hành chính 2015 được bổ sung bởi khoản 7 Điều 2 Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi 2019, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính được quy định như sau: - Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; trường hợp không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do. - Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước hoặc có hành vi hành chính. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo quy định trên, người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính. Các chứng cứ, chứng minh bao gồm các loại giấy tờ như quyết định kỷ luật, quyết định xử lý hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại,...trường hợp người khởi kiện không cung cấp được chứng cứ, chứng minh thì phải nêu rõ lý do. (2) Được phép lấy chứng cứ từ những nguồn nào? Chứng cứ được thu thập từ 10 nguồn sau đây: 1- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử. 2- Vật chứng. 3- Lời khai của đương sự. 4- Lời khai của người làm chứng. 5- Kết luận giám định. 6- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ. 7- Kết quả định giá, thẩm định giá tài sản. 8- Văn bản xác nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập. 9- Văn bản công chứng, chứng thực. 10- Các nguồn khác theo quy định của pháp luật. (căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Tố tụng hành chính 2015) (3) 03 trường hợp đương sự không phải chứng minh trong tố tụng hành chính Căn cứ theo quy định tại Điều 79 Luật Tố tụng hành chính 2015, đương sự không có nghĩa vụ phải chứng minh 03 tình tiết, sự kiện sau đây: 1. Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận: Đây là những thông tin phổ biến, hiển nhiên, được đại đa số mọi người biết đến và không cần phải chứng minh thêm. Ví dụ: thủ đô của Việt Nam là Hà Nội, ngày 1 tháng 1 là Tết Dương lịch. 2. Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Những nội dung đã được Tòa án khẳng định trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật không cần phải chứng minh lại. 3. Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp: Các thông tin được ghi trong văn bản đã được công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật có giá trị chứng minh cao và đương sự không cần phải cung cấp thêm bằng chứng khác. Ngoài ra, trường hợp một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản đó không phải chứng minh. Bên cạnh đó, đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận hoặc không phản đối của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện. Như vậy, khi gặp trường hợp có 03 tình tiết, sự kiện nêu trên hoặc khi một bên đương sự và người đại diện của đương sự đó thừa nhận hoặc không phản đối với tình tiết, sự kiện tài liệu, văn bản mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự kia không phải chứng minh nữa. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, việc xác định đương sự có nghĩa vụ chứng minh hay không thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong trường hợp có nghi ngờ về tính xác thực của thông tin, văn bản, chứng cứ của đương sự đưa ra, dù thuộc tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, Tòa án vẫn có thể yêu cầu đương sự hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thêm bằng chứng.
Thông tư 02/2023/TT-TANDTC: Hướng dẫn giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng
Ngày 24/8/2023 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư 02/2023/TT-TANDTC hướng dẫn thi hành Điều 55 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017. Cụ thể, hướng dẫn thi hành Điều 55 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 về giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án như sau: (1) 05 đối tượng áp dụng quy định giải quyết yêu cầu bồi thường Tại Điều 2 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC quy định đối tượng áp dụng giải quyết yêu cầu bồi thường trong tố tụng hình sự, tố tụng hành chính bao gồm: - Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự, vụ án hành chính giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. - Người bị thiệt hại; người thừa kế của người bị thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết; tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của tổ chức bị thiệt hại đã chấm dứt tồn tại; người đại diện theo pháp luật của người bị thiệt hại thuộc trường hợp phải có người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. - Cá nhân, pháp nhân được người quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC ủy quyền thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. - Người thi hành công vụ, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có liên quan. (2) Giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi bồi thường của Nhà nước Yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính như sau: - Người quy định tại Điều 5 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự hướng dẫn tại khoản 1 Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Yêu cầu bồi thường phải được đưa ra trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. - Người quy định tại Điều 5 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Yêu cầu bồi thường phải được đưa ra trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại. - Yêu cầu bồi thường quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC phải được thể hiện bằng văn bản hoặc lời khai, trình bày và được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên họp, biên bản làm việc khác. - Vụ án hình sự, vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì được xem xét, giải quyết trong cùng vụ án, trừ trường hợp quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, khoản 2 Điều 7 Luật Tố tụng hành chính 2015 và hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC. Trường hợp người yêu cầu bồi thường đưa ra yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sau thời điểm hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC thì Tòa án không giải quyết mà giải thích, hướng dẫn cho họ về quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 sau khi họ nhận được bản án, quyết định của Tòa án. (3) Xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại Theo Điều 5 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC quy định xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như sau: - Tòa án được hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. - Khi tiến hành nghị án, Hội đồng xét xử phải thảo luận, xác định hành vi của người thi hành công vụ có trái pháp luật, có gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hay không. Nội dung này phải được ghi vào biên bản nghị án. - Trường hợp xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Hội đồng xét xử xác định thiệt hại được bồi thường; xem xét, quyết định các vấn đề về bồi thường thiệt hại trong bản án, quyết định. - Trường hợp xác định hành vi của người thi hành công vụ không trái pháp luật hoặc không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận yêu cầu bồi thường trong bản án, quyết định. (4) Xác định thiệt hại được bồi thường theo yêu cầu - Ngay sau khi nhận được yêu cầu bồi thường, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phải thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan, xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác tài liệu, chứng cứ đã thu thập để xác định thiệt hại nhanh chóng, theo đúng quy định của pháp luật. - Việc xác định thiệt hại được bồi thường thực hiện theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Xem thêm Thông tư 02/2023/TT-TANDTC có hiệu lực từ ngày 20/10/2023.
Rút kinh nghiệm về việc khiếu kiện UBND cấp GCNQSDĐ không đúng đối tượng
Ngày 13/6/2023 VKSND Tối cao đã có Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSNDTC nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai "giữa người khởi kiện và người bị kiện là Chủ tịch UBND huyện B, tỉnh Đ của TAND cấp cao tại ĐN tại Bản án hành chính phúc thẩm 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Tóm tắt nội dung vụ án Gia đình ông Phạm Văn T2 và bà Trần Thị B trú tại tỉnh H có các người con gồm các ông, bà Phạm Văn L, Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và ông Phạm Văn H2 (ông L và ông H2 đã chết). Năm 1980 ông T2, bà B cùng gia đình chuyển vào sinh sống lại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đ, khai hoang và nhận chuyển nhượng của người dân được 6.160 m2 đất bao gồm các thửa đất số 360, 361, 355a, 359, 378a liền kề nhau thuộc tờ bản đồ số 37 thuộc xã E, huyện B để trồng cà phê, tiêu, lúa và liên tục sử dụng từ năm 1980 đến năm 1999. Năm 1997, ông Phạm Văn L đã kê khai đứng tên toàn bộ diện tích đất nêu trên của ông T2, bà B. Năm 1998, bà B chết; năm 1999, ông T2 chết không để lại di chúc. Khi biết đất của ông T2, bà B đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ ông Phạm Văn L nên ngày 21/10/2014 và ngày 18, 25/7/2016, ông Phạm Văn C đại diện cho các con, cháu của ông T2, bà B có đơn khiếu nại về việc UBND huyện B, tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ trái pháp luật. Đề nghị UBND huyện B thu hồi 02 GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 cấp ngày 30/11/2005 cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V do cấp không đúng đối tượng sử dụng đất, không đủ điều kiện được cấp. Ngày 08/9/2017, Chủ tịch UBND huyện B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND: + Bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C. + Giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ do UBND huyện B cấp ngày 31/5/2005 cho chủ sử dụng đất hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V, trú tại thôn H, xã E cụ thể: GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662. + Hộ gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn. hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ đảm bảo theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật hiện hành. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên, ngày 15/9/2017 đại diện của con, cháu ông T2, bà B đà nộp đơn khởi kiện đề nghị TAND tỉnh Đ hủy quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện B và trả lại quyền sử dụng đất của ông T2, bà B cho những người thừa kế hợp pháp. 2. Quá trình khởi kiện ra Tòa án (1) Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Đ Không chấp nhận đơn khởi kiện của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q. Phạm Thị H1 và Phạm Văn P về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4524/QĐ-UBND ngày 08/9/2017 của UBND huyện B về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Văn c trú tại Buôn N, xã E, huyện B, tỉnh Đ. Ngày 28/5/2018, những người khởi kiện có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. (2) Bản án Hành chính phúc thẩm TAND cấp cao tại ĐN Bác kháng cáo của người khởi kiện là các ông, bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn P, Phạm Văn T1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm. - Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 07/11/2018 ông Phạm Văn C đại diện cho những người khởi kiện có đơn đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thấm nêu trên. - Ngày 01/10/2021, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TAND cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. (3) Giám đốc thẩm của TAND tối cao Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN và Ban án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - UBND huyện B, tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AC 975854, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411361 H, thửa đất số 361 tờ bản đồ số 37; GCNQSDĐ số AC 975661, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411360 H, thửa đất số 387a, tờ bản đồ số 37 cho hộ gia đình ông L, bà V dựa trên trích Biên bản họp gia đình ngày 09/10/1999 là không đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003, quy định về giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất. - Để giải quyết đơn khiếu nại của ông Phạm Văn C UBND huyện B đã quyết định thành lập Đoàn xác minh số 4182; ngày 09/3/2017, Đoàn xác minh số 4182 ban hành Báo cáo số 06/BC-ĐXM về Kết quả kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C trú tại Buôn N, xã E, huyện B đã kết luận: "Việc ông Phạm Văn C cho rằng UBND huyện B cấp GCNQSDĐ cho ông L, bà V (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) trong khi ông L, bà V không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ là đúng. UBND huyện B cấp GCNQSDĐ (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) cho ông L, bà V là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bà H1 (người không ký trong trích Biên bàn ngày 09/10/1990) và bà (là người bị giả mạo chữ ký trong trích Biên bản) theo quy định của pháp luật. Báo cáo số 06 của Đoàn xác minh kiến nghị: UBND huyện B chấp nhận một phần nội dung khiếu nại của ông C. Giao cho phòng Tài nguyên và trường huyện tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi: GCNQSDĐ được UBND huyện B cấp ngày 30/11/2005 cho ông L, bà V (thửa đất số 361,387a tờ bản đồ số 37) đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Quyết định giải quyết khiếu nại số 4524 của Chủ tịch UBND huyện B bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn c là không đúng như đã phân tích ở trên. Bên cạnh đó Quyết định số 4524 còn giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện B tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662 cấp ngày 31/5/2005 đã cấp cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V nhưng lại hướng dẫn gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn, hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ là không phù hợp. Và mâu thuẫn với nội dung Báo cáo số 06/BC-ĐXM ngày 09/3/2017 của Đoàn xác minh số 4182 sau khi đã xác minh thực tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và Phạm Văn P. -Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST của Tòa án nhân dân Tỉnh Đ và Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT của TAND cấp cao tại ĐN, tuyên xử: Không chấp nhận đơn khởi kiện và bác kháng cáo của ông Phạm Văn C (đại diện cho những người khởi kiện) là không phù hợp với những tình tiết, tài liệu, chứng cứ khách quan của vụ án, áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không đúng quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và Luật Đất đai năm 2003. - Quyết định giám đốc thẩm số 10/2022/HC-GĐT ngày 25/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TTAND Cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. VKSND tỉnh Đ và VKSND cấp cao tại ĐN đều không phát hiện được vi phạm về đánh giá chứng cứ của Tòa án, có quan điểm giải quyết bác yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của của những người khởi kiện bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn Ph, Phạm Văn T1 là không chính xác cần phải rút kinh nghiệm. Xem chi tiết Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Hướng xử lý khi người dân bị chậm cấp sổ đỏ để được cấp nhanh
Khi đủ điều kiện được cấp sổ đỏ theo quy định của luật đất đai hiện hành thì người dân được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), tuy nhiên không ít trường hợp người dân gặp tình trạng bị chậm cấp sổ đỏ. Theo đó, việc chậm làm sổ đỏ sẽ dẫn tới nhiều vấn đề trong việc sử dụng đất. Sau đây là hướng xử lý để được cấp nhanh sổ đỏ cho người dân. 1. Thời hạn cấp sổ đỏ cho người có đất là bao lâu? Căn cứ Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 01/2017/NĐ-CP) quy định thời gian thực hiện cấp Giấy chứng nhận QSDĐ về đất đai hiện nay như sau: - Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày. - Đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, công trình xây dựng của tổ chức đầu tư xây dựng là không quá 15 ngày. - Đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi thay đổi tài sản gắn liền với đất là không quá 15 ngày. Do đó, thời gian giải quyết thủ tục cấp sổ đỏ lần đầu không quá 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; không quá 40 ngày đối với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2. Kiến nghị về việc chậm cấp sổ đỏ khi quá thời hạn theo quy định Căn cứ khoản 8 Điều 19 Nghị định 61/2018/NĐ-CP có quy định trường hợp người có đất không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ thì phải có thông báo lại cho người dân. Trong trường hợp quá thời hạn mà cơ quan hành chính không có thông báo lại nêu rõ lý do chậm cấp thì người dân có thể khiếu nại hoặc khởi kiện hoặc chỉ đơn giản là hỏi, kiến nghị về việc chậm cấp. Để thực hiện đúng quy định của pháp luật khi hỏi, kiến nghị về việc chậm cấp cần yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trả lời rõ bằng văn bản thay vì chỉ trả lời bằng lời nói, vì lý do sau: (1) Trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do là thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời vô hình chung tạo nên sự ràng buộc, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan đó. (2) Văn bản trả lời là một trong những tài liệu, nguồn chứng cứ nếu muốn khiếu nại, khởi kiện. Cũng cần lưu ý rằng nếu cơ quan có thẩm quyền hoặc cá nhân trong cơ quan đó không trả lời bằng văn bản thì hành vi “không thực hiện” đó cũng chính là một trong những đối tượng bị khiếu nại, khởi kiện hành chính. 3. Thực hiện nộp đơn khiếu nại đối với việc chậm cấp sổ đỏ Căn cứ Điều 27 Luật Khiếu nại 2011 thì cá nhân, hộ gia đình có khiếu nại trong việc chậm cấp làm sổ đỏ quá thời hạn quy định nhưng không nhận được thông báo lý giải của cơ quan có thẩm quyền thì làm khiếu nại gửi đến cơ quan sau để thụ lý giải quyết: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 11 Luật Khiếu nại 2011, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết. Đồng thời, có thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do. Về thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu được quy định cụ thể tại Điều 28 Luật Khiếu nại 2011 như sau: Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. 4. Khởi kiện đến Tòa án về việc chậm cấp sổ đỏ Về thời hiệu khởi kiện đối việc chậm cấp làm sổ đỏ được gửi đến Tòa án là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015. Qua thời gian trên mà người bị ảnh hưởng quyền lợi không thực hiện gửi đơn kiện đến Tòa án mà không có lý do chính đáng hoặc không thuộc trường hợp bất khả kháng thì Tòa không chấp nhận. Người dân có thể gửi đơn khiếu kiện đến Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với việc chậm làm sổ đỏ thuộc thẩm quyền cấp huyện theo Điều 31 Luật Tố tụng hành chính 2015 như sau: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện. Trường hợp đơn người dân gửi đơn kiện đến Tòa án cấp tỉnh để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó. Mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Cần Hướng dẫn xác định loại đất đang sử dụng
Gia đình tôi có thửa đất trên bản đồ địa chính năm 1995 và sổ mục kê đất năm 1999 có ký hiệu là T ( đất để ở) nhưng gia đình tôi chưa có nhu cầu xây nhà nên chỉ trồng cây trên đất. Nay UBND xã bảo gia đình tôi chưa sử dụng vào mục đích để ở nên xác định thửa đất của gia đình tôi là đất vườn. Xin hỏi việc UBND xã xác định thửa đất của gia đình tôi là đất vườn như vậy có đúng không?
Hướng dẫn một số thắc mắc liên quan đến lĩnh vực tố tụng hành chính
Ngày 27/12/2022 Hội đồng Thẩm phán TANDTC có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Theo đó, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc giải quyết các vụ án hành chính trong công tác xét xử như sau: 1. Trả hồ sơ chuyển đổi QSDĐ không có lý do Tình huống đặt ra: Ông Trần Văn H nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại UBND xã B theo đúng quy định, nhưng bà Nguyễn Thị N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đăng ký di biến động đất đai. Đã nhận hồ sơ đất nhưng trả lại hồ sơ cho ông H và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Không đồng ý với việc trả lại hồ sơ này, ông H có quyền khởi kiện không? Nếu có thì đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là gì? TANDTC giải đáp thắc mắc: Theo đó, tại đoạn 2 khoản 2 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 quy định: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ tại UBND cấp xã thì UBND cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, UBND cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”. Như vậy, theo quy định nêu trên thì trong trường hợp này ông H có quyền khởi kiện do UBND xã B không làm đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai. Đồng thời tại khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 như sau: Việc trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện như sau: - Kết quả giải quyết thủ tục hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong thời hạn không quá 03 ngày từ ngày có kết quả. - Trường hợp trao Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện sau khi nộp chứng từ hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định. Trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính. - Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính về đất đai thuộc chức năng, nhiệm vụ của UBND xã B. Việc bà N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đã trả lại hồ sơ mà không nêu rõ lý do là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Đây là hành vi hành chính của UBND xã B mà không phải là hành vi hành chính của bà N. Đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là hành vi hành chính của UBND xã B. 2. Thẩm quyền thụ lý của Tòa án đối với vụ kiện dự án quốc phòng Tình huống đặt ra: Người khởi kiện khởi kiện quyết định thu hồi đất liên quan đến dự án quốc phòng thì Tòa án có được thụ lý không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015thì khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án cần phải xem xét đánh giá tài liệu chứng cứ để xác định việc thu hồi đất của dự án đó có thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng hay không. Nếu không thuộc lĩnh vực trên thì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. 3. Có áp dụng khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 giải quyết vụ án hành chính Tình huống đặt ra: Đối với khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Vậy Tòa án có áp dụng quy định này của Bộ luật Dân sự 2015 khi giải quyết các vụ án hành chính hay không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: ... Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết. Ngoài ra, điểm g khoản 1 Điều 143 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết . Như vậy, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015 khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà không đưa ra điều kiện đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Do đó, trong tố tụng hành chính Tòa án không áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 149 của Bộ luật Dân sự 2015 để xác định có áp dụng thời hiệu hay không. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022.
Chủ tịch UBND có nhất thiết phải tham gia tòa hành chính?
Án hành chính là một trong những khiếu kiện cơ bản của thủ tục tố tụng, mặc dù không phổ biến như án dân sự hay hình sự nhưng tòa hành chính lại giải quyết được những tranh chấp phát sinh rất đặc thù. Đó là có sự tham của cá nhân hay đại diện cơ quan nhà nước. Thông thường đối với những vụ án tranh chấp lao động, khiếu nại quyết định kỷ luật hay những vấn đề có liên quan đến một bên là cá nhân, tổ chức thuộc cơ quan nhà nước. Vậy, chủ tịch UBND có nhất thiết phải tham gia tòa hành chính? 1. Tòa hành chính là gì? Tòa hành chính là tòa chuyên trách của TAND có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính theo quy định của pháp luật. Toà chuyên trách hiện nay được thiết lập trong hệ thống từ TAND cấp cao đến TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện. Theo Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính bao gồm các vụ việc sau: - Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống. - Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Khiếu kiện danh sách cử tri. Ngoại trừ các quyết định, hành vi sau đây thì Tòa hành chính sẽ không có thẩm quyền giải quyết: (1) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. (2) Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng. (3) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. 2. Chủ tịch UBND không tham gia tố tụng có phạm luật? Đối thoại trong tố tụng hành chính là một hoạt động tố tụng cần phải có sự góp mặt của nguyên đơn và bị đơn, nhằm giải quyết các vấn đề vướng mắc được phía Tòa án chủ trì tổ chức. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định Luật Tố tụng hành chính 2015. 03 Trường hợp không cần phải đối thoại: Căn cứ Điều 135 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định 03 những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được bao gồm (1) Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. (2) Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng. (3) Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại. Theo quy định này, thì Chủ tịch UBND là đương sự trong vụ khiếu kiện sẽ được miễn tham gia phiên đối thoại nếu rơi vào một trong các trường hợp trên. Qua đó, việc Chủ tịch UBND không có mặt tại phiên đối thoại sẽ không bị xem là vi phạm pháp luật. Một trường hợp khác được quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015 có nêu người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện. Qua đó, không bắt buộc Chủ tịch UBND các cấp phải có mặt trực tiếp tại phiên tòa để tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng mà có thể ủy quyền lại cho Phó Chủ tịch UBND của mình làm đại diện tham gia phiên tòa xét xử. Như vậy, Chủ tịch UBND các cấp là người đại diện pháp luật trong các vụ án hành chính không nhất thiết phải tham gia đối thoại hay trực tiếp có mặt tại phiên tòa xét xử. Mặc dù các quy định trên không có tính bắt buộc tuy nhiên luật vẫn khuyến khích đại diện phía UBND tham gia theo quy định pháp luật nhằm giúp giải quyết vướng mắc cho người dân được thuận lợi hơn.
Rút kinh nghiệm về việc nâng cao kiểm sát sai phạm trong vụ án thu hồi đất đai
Đây là nội dung tại Thông báo 61/TB-VC2-HC ngày 09/8/2022 của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về việc rút kinh nghiệm về khiếu kiện liên quan kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Cụ thể, qua công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thấy cần rút kinh nghiệm đối với vụ án về quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai giữa người khởi kiện bà TTN, người bị kiện UBND Tp. BMT, tỉnh ĐL như sau: 1. Tóm tắt nội dung Bà TTN có diện tích đất là 300m2 trong đó bao gồm đất ở và đất trồng cây lâu năm nhưng hiện đất đang nằm trong quy hoạch thu hồi của nhà nước. Vì vậy, năm 2019 UBND Tp.BMT sau khi đo đạc lần 1 không bồi thường xứng đáng đối với đất của bà TTN cũng không cấp đất tái định cư cho bà TTN, sau khi làm đơn khiếu nại đo đạc lần 2 thì năm 2021 UBND Tp.BMT mới thực hiện lại số tiền bồi thường của bà TTN bị giảm xuống và thực hiện tái định cư. Bà TTN gửi đơn kiện ra Tòa án - Hủy một phần Quyết định về phần diện tích 20,4m2 đất trồng cây lâu năm bị thu hồi. - Thay nội dung giao đất tái định cư thành bồi thường bằng đất ở. - Buộc UBND Tp. BMT bồi thường diện tích đất 69,5m2 còn lại không thu hồi (300m2 - 230,5m2 = 69,5m2). Bản án sơ thẩm Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2022/HC-ST ngày 25/02/2022 của đã quyết định tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Trịnh Thị Ngọc. Bản án phúc thẩm Ngày 8/3/2022, bà Trịnh Thị Ngọc kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị HĐXX phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện. Ngày 30/6/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã quyết định, tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của bà Trịnh Thị Ngọc, quyết định kháng nghị phúc thẩm số 205/QĐ-VKS-HC của Viện trưởng VKSND tỉnh ĐL. 2. Kinh nghiệm rút ra từ vụ án hành chính 2.1 Việc thu hồi đất của UBND Tp.BMT chưa thu hồi hết diện tích đất bà Ngọc đang quản lý sử dụng, thể hiện như sau: Diện tích đất của bà TTN là 308,1m2 trong đó: - Đất nằm trong quy hoạch là 238,6m2. - Đất ở đã được cấp Giấy CNQSDĐ là 218,2m2. - Đất trồng cây lâu năm chưa được cấp Giấy CNQSDĐ là 20,4m2. - Diện tích nằm ngoài ranh giới quy hoạch là 69,5m2 (gồm 8,2m2 đất ở đã được cấp Giấy CNQSDĐ và 61,3m2 không thuộc Giấy CNQSDĐ). Như vậy, diện tích đất ở 8,2m2 đất ở của bà Ngọc đã được cấp Giấy CNQSDĐ tuy không thuộc phạm vi quy hoạch nhưng không đủ điều kiện để UBND tỉnh ĐL thực hiện thu hồi và bồi thường. Các trích lục cho thấy bà TTN quản lý và sử dụng diện tích 308,1m2, sau khi trừ đi phần diện tích nằm trong ranh giới quy hoạch bị thu hồi được bồi thường. Thì diện tích đất của bà TTN đang quan lý sử dụng chưa được cấp Giấy CNQSDĐ vẫn còn. Vì vậy, UBND Tp.BMT cần phải xem xét, giải quyết đối với diện tích này theo quy định tại các Điều 75, 77 và Điều 79 Luật đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 6, Điều 12 Nghị định 47/2014/NĐ- CP và Quyết định 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014 của UBND tỉnh ĐL mới đúng quy định của pháp luật. 2.2 Việc áp giá thu tiền sử dụng đất khi cấp đất tái định cư cho bà Ngọc không cùng thời điểm thu hồi đất của bà Ngọc, thể hiện như sau: UBND Tp. BMT xác định diện tích đất 69,5m2 đất ở còn lại của bà TTN không bị thu hồi là đủ điều kiện xây dựng nhà ở nên không xem xét giao đất tái định cư. Tuy nhiên, sau khi bà Ngọc khiếu nại thì UBND Tp.BMT chi đạo các đơn vị có liên quan thực hiện kiểm tra (lồng ghép bản đè cấp Giấy CNQSDĐ và Trích lục bản đồ địa chính sổ 20322/TL-VPĐKQLDĐ- KTDC ngày 03/12/2019) nên UBND Tp. BMT đã điều chỉnh lại diện tích đất thu hồi theo Trích lục bản đồ địa chính ngày 14/12/2020 của VPĐKDĐ tỉnh ĐL. Như vậy, việc điều chỉnh lại diện tích đất thu hồi của UBND Tp.BMT dẫn đến diện tích đất ở còn lại của bà TTN thuộc thửa đất số 56, tờ bản đồ số 40 không đủ điều kiện để ở nhưng lại không thực hiện giao đất tái định cư là mẫu thuẫn khi đủ điều kiện. 3. Kết luận của TAND cấp cao ĐN Đây là lỗi của UBND Tp.BMT dẫn đến việc bà Ngọc không được bố trí đất tái định cư tại thời điểm thu hồi đất là ngày 26/12/2019. Tức là lần đo đạc đất lần 1, đến năm 2021 UBND Tp.BMT mới cấp đất tái định cư và áp giá thu tiền sử dụng đất theo ngày 20/4/2021 của UBND tỉnh ĐL là không đúng quy định làm thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của bà Ngọc. Kết luận lại bản án phúc thẩm của TAND cấp cao ĐN đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu theo đơn khởi kiện của bà TTN. Qua đó, tuyên dương VKSND tỉnh ĐL đã kịp thời phát hiện vi phạm của cấp sơ thẩm về nội dung, ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án và cần tiếp tục phát huy trong công tác kiểm sát xét xử giải quyết các vụ án tương tự trong thời gian đến. 4. Kinh nghiệm cần rút ra từ VKSND cấp cao Đà Nẵng Thứ nhất, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND các địa phương khu vực Miền Trung - Tây Nguyên để rút kinh nghiệm chung khi kiểm sát giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai từ vụ kiện trên. Thứ hai, chủ động phát hiện những bản án có vi phạm để kịp thời ban hành kháng nghị hoặc thông báo đến VKS cấp trên xem xét kháng nghị, bảo đảm áp dụng pháp luật một cách nghiêm chỉnh, thống nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như VKSND tỉnh ĐL đã thực hiện đối với vụ án nêu trên. Như vậy, qua vụ án trên các VKSND các cấp tại khu vực miền trung nói riêng và các cấp khu vực khác nói chung khi thực hiện kiểm sát liên quan đến các vụ án hành chính cụ thể là lĩnh vực đất đai. Cần lưu ý kiểm định lại toàn bộ vụ án thật kỹ càng nhằm đảm pháp thực hiện pháp luật được đi đúng hướng, bên cạnh đó khi có phát hiện sai phạm thì cần báo cáo, đề nghị kịp thời lên cấp trên giải quyết.
Chủ tịch có thể ủy quyền phó chủ tịch tham gia tố tụng không?
Theo Luật Tố tụng hành chính 2015: "Điều 60. Người đại diện .. 3. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này." Theo đó, trong tố tụng hành chính thì Chủ tịch chỉ được ủy quyền cho Phó chủ tịch, không được ủy quyền cho luật sư hay ai khác tham gia tố tụng. Còn trong pháp luật tố tụng dân sự thì không có hạn chế này.
Có được ghi hình khi bị xử phạt hành chính về giao thông?
Xử phạt hành chính về giao thông Đây là câu hỏi được rất nhiều người thắc mắc, tuy nhiên để có thể tìm được câu trả lời thích đáng, cần phải xem xét việc quay phim, chụp ảnh người thi hành công vụ dưới nhiều góc độ. Thứ nhất, về quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư Nhiều quan điểm cho rằng việc ghi âm, ghi hình người khác là xâm phạm đời sống riêng tư, và họ có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (theo Điều 21 Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, bản chất của việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính không phải là việc “xâm phạm quyền riêng tư”, bởi lẽ lúc này họ đang thi hành công vụ. Việc ghi âm, ghi hình là để thực hiện quyền giám sát của công dân đối với hoạt động “giám sát” của Nhân dân theo Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp 2013: “2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.” Theo đó, Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó Khoản 5 Điều 3 Luật công an nhân dân 2018 cũng quy định: “Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân…” Thứ hai, về quyền cung cấp chứng cứ khi khiếu nại, tố cáo, khởi kiện Điều 115 Luật tố tụng hành chính 2015 có quy định: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó…” Hiện nay, pháp luật cho phép người dân được trực tiếp khởi kiện vụ án đối với một quyết định hành chính (tức quyết định xử phạt liên quan đến giao thông mà họ đã bị xử phạt) hoặc hành vi hành chính mà mình không đồng ý. Để có thể khởi kiện một vụ án, một trong những quyền cơ bản mà đương sự (tức người bị xử phạt hành chính) Tại Điều 55 của Luật này có quy định: “Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng, bao gồm: … 5. Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; …” Điều này có nghĩa, khi người dân muốn khởi kiện một vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật cho phép họ có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ. Theo nguyên tắc của Tố tụng, một tài liệu, chứng cứ phải được Tòa án chấp thuận thì mới phát sinh tính pháp lý, và để có được sự chấp thuận đó, việc cung cấp đầy đủ băng ghi âm, ghi hình cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh, làm rõ tính hợp pháp là điều hết sức cần thiết. Thứ ba, ghi âm, ghi hình là thực hiện quyền dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông Tại Điều 11 Thông tư 67/2019/TT-BCA có quy định về Hình thức giám sát của nhân dân trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông như sau: “… 5. Thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc quan sát trực tiếp nhưng phải đảm bảo các điều kiện sau: a) Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sỹ khi đang thực thi nhiệm vụ; b) Ngoài khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (đối với nơi có triển khai khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông); c) Tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan.” Theo những phân tích ở trên, chưa có quy định pháp luật nào cấm việc ghi âm, ghi hình quá trình xử phạt hành chính, vậy người dân chỉ cần giải thích được việc ghi âm, ghi hình của mình không ảnh hưởng đến hoạt động của cán bộ, chiến sĩ và cũng không nằm trong những khu vực không cho phép sử dụng các thiết bị ghi âm, ghi hình thì không có căn cứ để cấm hành vi này. Với những căn cứ nêu trên, theo quan điểm của người viết, việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính là hoàn toàn hợp pháp.
Văn bản tố tụng trong Hình sự, Dân sự, Hành chính gồm những gì?
Văn bản tố tụng có thể hiểu là tài liệu, hồ sơ có liên quan đến vụ án, vụ việc, được cơ quan có thẩm quyền cung cấp, sử dụng trong quá trình tố tụng. Để thực hiện nhiệm vụ cấp, tống đạt cũng như sử dụng trong quá trình tố tụng cần xác định cụ thể văn bản tố tụng gồm những gì. Nội dung dưới đây sẽ tổng hợp quy định về văn bản tố tụng trong hình sự, dân sự và hành chính. Trong Hình sự: Điều 132 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định về văn bản tố tụng: 1. Văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác trong hoạt động tố tụng được lập theo mẫu thống nhất. 2. Văn bản tố tụng ghi rõ: a) Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; b) Căn cứ ban hành văn bản tố tụng; c) Nội dung của văn bản tố tụng; d) Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu. Trong Dân sự: Điều 171 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 quy định về các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo gồm: - Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự. - Bản án, quyết định của Tòa án. - Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát; các văn bản của cơ quan thi hành án dân sự. - Các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định. Trong Hành chính: Các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt hoặc thông báo theo Điều 100, Luật tố tụng hành chính 2015 gồm: - Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng hành chính. - Bản án, quyết định của Tòa án. - Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát; văn bản của cơ quan thi hành án dân sự. - Văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định phải cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Nhờ tư vấn giúp về lĩnh vực tố tụng hành chính
Câu hỏi là: Hành vi hành chính bị kiện là gì? Và nó được hiểu như thế nào? Em xin chân thành cảm ơn ạ!
TAND Phú Yên trả đơn khởi kiện của ông Võ An Đôn là sai luật
Hôm nay đọc được một tin khá thú vị liên quan tới việc cựu Luật sư Võ An Đôn khởi kiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Quyết định không chấp thuận nội dung khiếu nại của ông Đông. Về cụ thể diễn biến toàn bộ sự việc thì xin được tóm tắt như sau: - Ngày 26-11-2017, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên ban hành quyết định kỷ luật ông Đôn với hình thức xóa tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư Phú Yên. Không đồng ý với quyết định kỷ luật của Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, ông Đôn khiếu nại. - Ngày 21-5-2018, Liên đoàn Luật sư Việt Nam ban hành quyết định không chấp nhận nội dung khiếu nại, giữ nguyên hình thức kỷ luật đối với ông Đôn. - Ngày 27-5-2018, ông Đôn gởi đơn đến ông Lê Thành Long - bộ trưởng Bộ Tư pháp - khiếu nại các quyết định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. - Ngày 15-11-2018, Bộ Tư pháp có quyết định giải quyết khiếu nại, không chấp nhận nội dung khiếu nại, giữ nguyên hình thức kỷ luật của ông Đôn. Do vậy, ông Đôn làm đơn khởi kiện đến TAND tỉnh Phú Yên, yêu cầu tòa hủy quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ Tư pháp và trả lại quyền hành nghề luật sư cho ông. Theo thông báo trả lại đơn khởi kiện, xét nội dung khiếu nại và các tài liệu, chứng cứ kèm theo của ông Đôn, TAND tỉnh Phú Yên thấy rằng: "Căn cứ Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Luật Tố tụng hành chính, các quyết định giải quyết khiếu nại của ông Đôn là quyết định nội bộ của tổ chức xã hội nghề nghiệp, nên không thuộc đối tượng khởi kiện hành chính". Vì thế, TAND tỉnh Phú Yên trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho ông Đôn. Đến đây mình cùng xem lại một tí ở Luật Tố tụng hành chính 2015. Theo đó, tại Khoản 3 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015 định nghĩa về Quyết định hành chính mang tính nội bộ. Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài sản được giao; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, chính sách, pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức. Khoản 1 Điều này thì định nghĩa về Quyết định hành chính, như sau: Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trong thực tế sự việc của ông Đôn, ta có thể thấy rằng Quyết định xóa tên cũng như Quyết định rút thẻ của Đoàn Luật sư Phú Yên cũng như Liên đoàn Luật sư Việt Nam là 02 quyết định hành chính của tổ chức xã hội nghề nghiệp, được xem là Quyết định hành chính nội bộ giữa tổ chức và thành viên. Tuy nhiên khi ông Đôn khiếu nại 02 quyết định này lên Bộ Tư pháp, Bộ trưởng đã ra quyết định không chấp thuận khiếu nại. Quyết định này do Bộ Trưởng ký với cương vị là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong công tác quản lý hành chính của theo chức năng quản lý hành chính về hoạt động nghề nghiệp luật sư theo quy định của Luật Luật sư. Và theo khoản 1 Điều 3 Luật TTHC thì rõ ràng đây được xem là một quyết định hành chính. Chính vì vậy, có thể thấy rằng Quyết định trả đơn khởi kiện của TAND tỉnh Phú Yên là sai với quy định của pháp luật hiện hành.
Hậu quả của việc đình chỉ vụ án
Đình chỉ vụ án trong dân sự và hành chính gây ra những hậu quả nhất định, hôm nay mình sẽ khái quát một vài hậu quả về pháp lý cũng như đi qua về một vài hậu quả ngoài thực tế để mọi người tham khảo. I. Đình chỉ vụ án dân sự >>>Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Điều 218, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 1. Về quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án - Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. Trừ một số trường hợp sau: + Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; + Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại; + Đã có đủ điều kiện khởi kiện 2. Về án phí 2.1. Sung vào công quỹ khi: + Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; + Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; + Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt 2.2. Trả lại cho đương sự khi: + Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện + Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; + Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; + Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết; + Các trường hợp trả đơn khởi kiện mà Tòa án đã thụ lý 3. Kháng cáo, kháng nghị quyết định đình chỉ Có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. II. Đình chỉ vụ án Hành chính Điều 144, Luật Tố tụng Hành chính 2015 1. Về quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện này không có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp sau: - Lúc đình chỉ là người khởi kiện không có năng lực tố tụng hành chính đầy đủ, sau đó có đầy đủ thì có quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án - Khi vụ án trước đó bị đình chỉnh vì một số điều kiện chưa đáp ứng đầy đủ nhưng sau đó người khởi kiện đáp ứng đầy đủ các điều kiện - Ban đầu người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại nhưng sau đó thay đổi sang thủ tục khởi kiện - Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan - Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút 2. Về án phí Theo Điều 18, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 2.1. Sung vào công quỹ khi: + Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà không được thừa kế + Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; + Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt 2.2. Trả lại cho người đã nộp khi: + Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút; + Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút đơn yêu cầu độc lập; + Người khởi kiện không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ; + Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu; + Thời hiệu khởi kiện đã hết; + Các trường hợp quy định về trả đơn kiện mà Tòa án đã thụ lý. 3. Kháng cáo, kháng nghị quyết định đình chỉ Có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. III. Hậu quả ngoài thực tế Có những bản án đang được thi hành nhưng bỗng dưng bị ngừng lại vì có quyết định đình chỉ vụ án. Việc này gây ra hệ quả không nhỏ cho cả nguyên đơn và bị đơn, Như một số trường hợp đình chỉ vụ án Dân sự: trong việc tranh chấp đất, bản án tuyên bị đơn phải giao miếng đất mình đang sinh sống cho nguyên đơn, sau 2 năm thi hành thì có quyết định hủy bản án. Lúc đó mảnh đất đã được nguyên đơn chuyển nhượng cho nhiều người khác. Vậy trong trường hợp này bị đơn biết phải làm sao để đòi lại miếng đất? Khi đưa ra quyết định đình chỉ vụ án, cơ quan chức năng đã không cân nhắc đến tình trạng thực hiện bản án đến đâu, phần bản án đã giải quyết ra sao, làm cho những người có quyền lợi liên quan trực tiếp gặp nhiều khó khăn.
Giải đáp mới nhất về tố tụng hành chính của TAND Tối cao
Ngày 19/9/2018 vừa qua, TAND Tối cao ra Công văn số 02/GĐ-TANDTC giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính. Cụ thể, một số vướng mắc về tố tụng hành chính được TAND Tối cao giải đáp như sau: Theo công văn hướng dẫn thì cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong vụ án hành chính. Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai là văn bản hành chính, nhưng chưa làm phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Trong vụ án hành chính mà chỉ một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại, còn các đương sự khác không có ý kiến hoặc có yêu cầu đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại theo thủ tục chung. Trường hợp đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp thì Tòa án phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện”. Trong quá trình xét xử, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định tạm ngừng phiên tòa. Trả lời vướng mắc: Trong vụ án hành chính, người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện và chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nên người đại diện theo pháp luật của người bị kiện là chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trường hợp này Tòa án có thể nhập chung hai chủ thể bị kiện thành một chủ thể được không? Tòa tối cao hướng dẫn như sau: Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau và có trách nhiệm riêng đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Do đó, trường hợp này không thể xác định chung tư cách tham gia tố tụng, mà vẫn phải xác định riêng tư cách tham tố tụng của người bị kiện là của Ủy ban nhân dân huyện và chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Ngoài ra, trường hợp một người khởi kiện nhiều quyết định hành chính có liên quan đến nhau trong cùng một vụ án thì tính án phí sơ thẩm là 300.000 đồng. Xem cụ thể cơ sở pháp lý và chi tiết tại Công văn số 02/GĐ-TANDTC
TANDTC trả lời 15 vấn đề về tố tụng hành chính
Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính để đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật. 1. Trong vụ án hành chính, cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không? Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 của Luật Thanh tra thì Thanh tra sở là một trong những cơ quan thanh tra nhà nước. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì “cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an” không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong vụ án hành chính. Do đó, theo các quy định nêu trên thì cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong vụ án hành chính. 2. Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng đăng ký đất đai lập có phải là quyết định hành chính không? Có được coi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không? Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được hiểu như sau: “1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. 2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Theo quy định tại khoản 4 Điều 10 và khoản 1 Điều 12 của Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22-6-2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm lập Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai theo Mẫu số 01/LCHS Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này để chuyển cho cơ quan thuế ra thông báo nộp tiền sử dụng đất. Cơ quan thuế có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ. Trường hợp phát hiện hồ sơ có sai sót hoặc thiếu căn cứ để xác định nghĩa vụ tài chính thì cơ quan thuế đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai xác định hoặc bổ sung thông tin. Căn cứ vào các quy định nêu trên thì Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai là văn bản hành chính, nhưng chưa làm phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. 3. Ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó, người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện ban đầu. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào? Trong trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính để khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung. Trường hợp đương sự không rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 141 của Luật Tố tụng hành chính tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến nhau và có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khoản 1 Điều 34 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết đồng thời hai yêu cầu của đương sự trong cùng một vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định. 4. Trường hợp đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Trường hợp này thụ lý vụ án dân sự hay vụ án hành chính để xem xét giải quyết? Trường hợp người khởi kiện chỉ yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện” theo quy định tại Điều 8 của Luật Tố tụng hành chính. Theo đó thì Tòa án phải xem xét thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. 5. Trong quá trình xét xử vụ án hành chính, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử hay tạm ngừng phiên tòa? Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa khi có căn cứ: "Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng”. Như vậy, trong quá trình xét xử, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính để xem xét, quyết định tạm ngừng phiên tòa. 6. Trong vụ án hành chính, người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nên người đại diện theo pháp luật của người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trường hợp này Tòa án có thể nhập chung hai chủ thể bị kiện thành một chủ thể được không? Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau và có trách nhiệm riêng đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Do đó, trường hợp này không thể xác định chung tư cách tham gia tố tụng, mà vẫn phải xác định riêng tư cách tham tố tụng của người bị kiện là của Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. 7. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử ban hành trong tố tụng hành chính như thế nào? Theo quy định tại Điều 77 của Luật Tố tụng hành chính về giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì: “3. Việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị tại phiên tòa thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng”. Theo quy định nêu trên thì trường hợp khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử sơ thẩm ban hành tại phiên tòa sơ thẩm thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm. Trường hợp khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng. 8. Người khởi kiện yêu cầu hủy quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh. Khi họ khởi kiện thì có phải thông báo quyền của họ được trợ giúp pháp lý như thương binh không? Có được miễn tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án? Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng thì thương binh là người có công với cách mạng. Theo quy định tại Điều 17 của Luật Trợ giúp pháp lý, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì người có công với cách mạng thuộc trường hợp được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng và được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án. Tuy nhiên, tại thời điểm họ nộp đơn khởi kiện thì Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh đang có hiệu lực, nên người khởi kiện không được quyền trợ giúp pháp lý và miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp Tòa án hủy quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh thì việc xử lý tiền tạm ứng án phí được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định hoàn trả lại cho người khởi kiện trong bản án. 9. Một người khởi kiện nhiều quyết định hành chính trong cùng một vụ án thì tính án phí sơ thẩm như thế nào? Pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án chỉ quy định án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành Chính phúc thẩm mà không quy định án phí theo từng yêu cầu khởi kiện. Do đó, nếu người khởi kiện yêu cầu hủy nhiều quyết định hành chính có liên quan đến nhau thì Tòa án giải quyết các yêu cầu này trong cùng một vụ án. Trong trường hợp này, án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính phúc thẩm được xác định là 300.000 đồng. Nếu người khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định hành chính độc lập với nhau thì Tòa án xem xét, thụ lý giải quyết bằng các vụ án hành chính khác nhau. Việc tính án phí hành chính thực hiện theo quy định chung. 10. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định nếu các bên đương sự đối thoại thành về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm. Vậy, tính án phí trong trường hợp này cụ thể như thế nào? Theo quy định tại khoản 4 Điều 32 của Nghị quyết số 326 thì: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành đối thoại nếu các bên đương sự đối thoại thành về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm”. Theo quy định tại mục III Phần A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326 thì án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng. Như vậy, theo các quy định này thì đối với trường hợp đối thoại thành, đình chỉ vụ án thì các bên phải chịu 150.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm. 11. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai, nên các bên tranh chấp không thực hiện được việc khởi kiện tại Tòa án. Vậy, hành vi không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có phải là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính không? Theo quy định tại khoản 3 Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo các quy định nêu trên thì hành vi không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. 12. Việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính được thực hiện như thế nào? Trong vụ án hành chính, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản thì việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện tương tự như việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người khởi kiện, người bị kiện theo quy định tại Điều 59 của Luật Tố tụng hành chính. 13. Trong vụ án hành chính, nếu một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại hay tiếp tục các thủ tục khác để rút ngắn thời gian giải quyết vụ án? Trong vụ án hành chính mà chỉ một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại, còn các đương sự khác không có ý kiến hoặc có yêu cầu đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại theo thủ tục chung. Trường hợp, đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai hoặc không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng thì thuộc trường hợp không tiến hành đối thoại được; trường hợp này Biên bản đối thoại được lập theo quy định tại khoản 1 Điều 139 của Luật Tố tụng hành chính. 14. Đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày 01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử, có phải quay trở lại thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015? Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01-7-2016, nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới xét xử theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng quy định của Luật này để giải quyết. Như vậy, đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày 01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử thì Tòa án vẫn phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. 15. Trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập thì Tòa án có phải ban hành quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút không? Trường hợp này, Tòa án không ban hành quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút mà Hội đồng xét xử nhận định về việc người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập và quyết định đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện, đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập đó trong bản án. Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về tố tụng hành chính để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Xem chi tiết công văn: TẠI ĐÂY
Sắp có văn bản quy định việc tống đạt văn bản ra nước ngoài
Toàn án nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao đang tiến hành xây dựng Dự thảo Thông tư liên tịch quy định về việc phối hợp giữa TAND và cơ quản đại diện Việt Nam tại nước ngoài để thực hiện một số hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính ở nước ngoài. Tại dự thảo lần này, hoạt động tống đạt văn bản cho đương sự là người Việt Nam ở nước ngoài và thông báo giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người nước ngoài được quy định cụ thể. Theo đó, chi phí tống đạt văn bản tố tụng bao gồm: - Chi phí sử dụng dịch vụ chuyển phát bưu phẩm bảo đảm có ký nhận của người nhận để Tòa án gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài cho cơ quan đại diện và để cơ quan đại diện gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở quốc gia tiếp nhận; - Chi phí phải trả cho ngân hàng khi chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của cơ quan đại diện để hoàn trả khoản chi phí mà cơ quan này đã ứng trước để gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở quốc gia tiếp nhận. Hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng bao gồm: - Văn bản đề nghị cơ quan đại diện tống đạt và thông báo kết quả thực hiện tống đạt; - Văn bản tố tụng cần phải tống đạt; - Văn bản yêu cầu đương sự ở nước ngoài gửi lời khai, tài liệu, chứng cứ cho tòa án (nếu có) ; - Văn bản mà đương sự ở trong nước đề nghị tòa án gửi cho đương sự ở nước ngoài (nếu có) Ngoài ra, dự thảo còn quy định nhiều vấn đề khác liên quan đến hoạt động tống đạt.
Tất tần tật những quy định về thời hiệu khởi kiện
1. Những quy định về thời hiệu khởi kiện dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 - Bộ luật dân sự 2015 có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự 2005. Trong đó, những quy định về thời hiệu khởi kiện cũng đã có nhiều thay đổi. Bộ luật dân sự 2015 Bộ luật dân sự 2005 Tranh chấp hợp đồng dân sự 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Yêu cầu bồi thường thiệt hại 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Về thừa kế 10 năm nếu tài sản là động sản/30 năm nếu tài sản là bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế Yêu cầu xác nhận, bãi bỏ quyền thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế - Những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện cũng có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự 2005. Cụ thể như sau: + Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. + Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định khác. + Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. + Trường hợp khác do luật quy định. 2. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp kinh doanh thương mại là 02 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. 3. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính: - Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: + 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; + 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; + Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. - Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: + 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; + 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Căn cứ pháp lý: - Bộ luật dân sự 2015 - Bộ luật dân sự 2005 - Luật thương mại 2005 - Luật tố tụng hành chính 2015
62 biểu mẫu dùng trong tố tụng hành chính từ ngày 24/02/2017
Theo Nghị quyết 02/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính đựơc thông qua ngày 06/01/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 24/02/2017. Theo đó, trước mắt, ban hành 62 biểu mẫu dùng trong tố tụng hành chính, các biểu mẫu khác sẽ được ban hành sau trong thời gian tới. Sau đây là danh sách 62 biểu mẫu: Mẫu số 01-HC Đơn khởi kiện Mẫu số 02-HC Giấy xác nhận nhận đơn khởi kiện Mẫu số 03-HC Thông báo trả lại đơn khởi kiện Mẫu số 04-HC Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí Mẫu số 05-HC Thông báo nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng Mẫu số 06-HC Thông báo về việc thụ lý vụ án Mẫu số 07-HC Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ Mẫu số 08-HC Biên bản đối thoại Mẫu số 09-HC Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ giải quyết vụ án Mẫu số 10-HC Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Thẩm phán); Mẫu số 11-HC Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 12-HC Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hành chính (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 13-HC Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hành chính (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 14-HC Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 15-HC Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 16-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử Mẫu số 17-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn Mẫu số 18-HC Quyết định hoãn phiên toà Mẫu số 19-HC Quyết định tạm ngừng phiên tòa Mẫu số 20-HC Biên bản phiên toà sơ thẩm Mẫu số 21-HC Biên bản nghị án Mẫu số 22-HC Bản án hành chính sơ thẩm Mẫu số 23-HC Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án (quyết định) Mẫu số 24-HC Đơn kháng cáo Mẫu số 25-HC Giấy xác nhận đã nhận đơn kháng cáo Mẫu số 26-HC Thông báo về yêu cầu làm lại hoặc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo Mẫu số 27-HC Thông báo về yêu cầu trình bày lý do kháng cáo quá hạn Mẫu số 28-HC Thông báo trả lại đơn kháng cáo Mẫu số 29-HC Quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá hạn Mẫu số 30-HC Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn Mẫu số 31-HC Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm Mẫu số 32-HC Thông báo về việc kháng cáo Mẫu số 33-HC Thông báo về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo (kháng nghị) Mẫu số 34-HC Thông báo về việc rút kháng cáo (kháng nghị) Mẫu số 35-HC Thông báo về việc thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm Mẫu số 36-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm Mẫu số 37-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (theo thủ tục rút gọn) Mẫu số 38-HC Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 39-HC Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 40-HC Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 41-HC Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 42-HC Quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính Mẫu số 43-HC Quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ (đình chỉ) giải quyết vụ án Mẫu số 44-HC Quyết định hoãn phiên tòa hành chính phúc thẩm Mẫu số 45-HC Biên bản phiên toà phúc thẩm Mẫu số 46-HC Bản án phúc thẩm Mẫu số 47-HC Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm Mẫu số 48-HC Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Mẫu số 49-HC Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và tài liệu Mẫu số 50-HC Giấy xác nhận đã nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Mẫu số 51-HC Thông báo giải quyết đơn đề nghị (thông báo, kiến nghị) xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Mẫu số 52-HC Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Mẫu số 53-HC Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao Mẫu số 54-HC Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Mẫu số 55-HC Quyết định Giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao Mẫu số 56-HC Quyết định buộc thi hành án hành chính Mẫu số 57-HC Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 58-HC Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 59-HC Quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 60-HC Quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 61-HC Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 62-HC Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Hội đồng xét xử) Mời các bạn xem chi tiết Nghị quyết 02/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính tại file đính kèm.
45 biểu mẫu mới áp dụng trong tố tụng hành chính tại Tòa án nhân dân
Luật tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Song, tính đến thời điểm hiện nay chỉ có 2 văn bản hướng dẫn Luật này đó là Nghị định 71/2016/NĐ-CP và Nghị quyết 104/2015/QH13. Nhằm hoàn thiện hơn nữa các hướng dẫn để thực thi tốt Luật này, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vừa hoàn tất Dự thảo Nghị quyết ban hành các biểu mẫu áp dụng trong tố tụng hành chính tại TAND gửi các cơ quan để xin đóng góp ý kiến và kết thúc nhận đóng góp trước 30/8/2016. Trong đó, Nghị quyết ban hành kèm theo 45 biểu mẫu mới áp dụng trong tố tụng hành chính tại Tòa án nhân dân gồm: 1. Mẫu số 01 về Đơn khởi kiện 2. Mẫu số 02 về Giấy báo nhận đơn khởi kiện 3. Mẫu số 03 về Thông báo trả lại đơn khởi kiện 4. Mẫu số 04 về Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí 5. Mẫu số 05 về Thông báo về việc thụ lý vụ án 6. Mẫu số 06 về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính 7. Mẫu số 06a về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (tại phiên tòa) 8. Mẫu số 07 về Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính 9. Mẫu số 07a về Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (tại phiên tòa) 10. Mẫu số 08 về Quyết định đưa vụ án ra xét xử 11. Mẫu số 08a về Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn 12. Mẫu số 09 về Quyết định hoãn phiên tòa 13. Mẫu số 10 về Biên bản phiên tòa sơ thẩm 14. Mẫu số 11 về Bản án hành chính sơ thẩm 15. Mẫu số 12 về Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án 16. Mẫu số 13 về Đơn kháng cáo 17. Mẫu số 14 về Giấy báo nhận đơn kháng cáo 18. Mẫu số 15 về Thông báo về yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo 19. Mẫu số 16 về Thông báo về yêu cầu trình bày lý do kháng cáo quá hạn 20. Mẫu số 17 về Thông báo trả lại đơn kháng cáo 21. Mẫu số 18 về Quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn 22. Mẫu số 19 về Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn 23. Mẫu số 20 về Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 24. Mẫu số 21 về Thông báo về việc kháng cáo 25. Mẫu số 22 về Thông báo về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo (kháng nghị) 26. Mẫu số 23 về Thông báo về việc rút kháng cáo, kháng nghị 27. Mẫu số 24 về Thông báo về việc thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm 28. Mẫu số 25 về Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 29. Mẫu số 25a về Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn 30. Mẫu số 26 về Quyết định hoãn phiên tòa hành chính phúc thẩm 31. Mẫu số 27 về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính 32. Mẫu số 27a về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính (tại phiên tòa) 33. Mẫu số 28 về Quyết định đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính 34. Mẫu số 28a về Quyết định đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính (tại phiên tòa) 35. Mẫu số 29 về Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính 36. Mẫu số 30 về Quyết định giải quyết việc kháng cáo (kháng nghị) đối với quyết định tạm đình chỉ (đình chỉ) giải quyết vụ án 37. Mẫu số 31 về Biên bản phiên tòa phúc thẩm 38. Mẫu số 32 về Bản án hành chính phúc thẩm 39. Mẫu số 33 về Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm 40. Mẫu số 34 về Đơn đề nghị xem xét bản án (quyết định) đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm 41. Mẫu số 35 về Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị giám đốc thẩm và tài liệu 42. Mẫu số 36 về Giấy xác nhận đã nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm 43. Mẫu số 37 về Thông báo giải quyết đơn đề nghị (thông báo, kiến nghị) 44. Mẫu số 38 về Quyết định kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm 45. Mẫu số 39 về Quyết định giám đốc thẩm. Mời các bạn xem chi tiết 45 biểu mẫu này tại file đính kèm.
03 trường hợp đương sự không phải chứng minh trong tố tụng hành chính
Việc xác định nghĩa vụ chứng minh đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, có 3 trường hợp đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ này (1) Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính Theo Điều 78 Luật Tố tụng hành chính 2015 được bổ sung bởi khoản 7 Điều 2 Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi 2019, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính được quy định như sau: - Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; trường hợp không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do. - Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước hoặc có hành vi hành chính. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo quy định trên, người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính. Các chứng cứ, chứng minh bao gồm các loại giấy tờ như quyết định kỷ luật, quyết định xử lý hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại,...trường hợp người khởi kiện không cung cấp được chứng cứ, chứng minh thì phải nêu rõ lý do. (2) Được phép lấy chứng cứ từ những nguồn nào? Chứng cứ được thu thập từ 10 nguồn sau đây: 1- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử. 2- Vật chứng. 3- Lời khai của đương sự. 4- Lời khai của người làm chứng. 5- Kết luận giám định. 6- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ. 7- Kết quả định giá, thẩm định giá tài sản. 8- Văn bản xác nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập. 9- Văn bản công chứng, chứng thực. 10- Các nguồn khác theo quy định của pháp luật. (căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Tố tụng hành chính 2015) (3) 03 trường hợp đương sự không phải chứng minh trong tố tụng hành chính Căn cứ theo quy định tại Điều 79 Luật Tố tụng hành chính 2015, đương sự không có nghĩa vụ phải chứng minh 03 tình tiết, sự kiện sau đây: 1. Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận: Đây là những thông tin phổ biến, hiển nhiên, được đại đa số mọi người biết đến và không cần phải chứng minh thêm. Ví dụ: thủ đô của Việt Nam là Hà Nội, ngày 1 tháng 1 là Tết Dương lịch. 2. Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: Những nội dung đã được Tòa án khẳng định trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật không cần phải chứng minh lại. 3. Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp: Các thông tin được ghi trong văn bản đã được công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật có giá trị chứng minh cao và đương sự không cần phải cung cấp thêm bằng chứng khác. Ngoài ra, trường hợp một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản đó không phải chứng minh. Bên cạnh đó, đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận hoặc không phản đối của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi đại diện. Như vậy, khi gặp trường hợp có 03 tình tiết, sự kiện nêu trên hoặc khi một bên đương sự và người đại diện của đương sự đó thừa nhận hoặc không phản đối với tình tiết, sự kiện tài liệu, văn bản mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự kia không phải chứng minh nữa. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, việc xác định đương sự có nghĩa vụ chứng minh hay không thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong trường hợp có nghi ngờ về tính xác thực của thông tin, văn bản, chứng cứ của đương sự đưa ra, dù thuộc tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, Tòa án vẫn có thể yêu cầu đương sự hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thêm bằng chứng.
Thông tư 02/2023/TT-TANDTC: Hướng dẫn giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng
Ngày 24/8/2023 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư 02/2023/TT-TANDTC hướng dẫn thi hành Điều 55 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017. Cụ thể, hướng dẫn thi hành Điều 55 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 về giải quyết yêu cầu bồi thường trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính tại Tòa án như sau: (1) 05 đối tượng áp dụng quy định giải quyết yêu cầu bồi thường Tại Điều 2 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC quy định đối tượng áp dụng giải quyết yêu cầu bồi thường trong tố tụng hình sự, tố tụng hành chính bao gồm: - Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự, vụ án hành chính giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. - Người bị thiệt hại; người thừa kế của người bị thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết; tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của tổ chức bị thiệt hại đã chấm dứt tồn tại; người đại diện theo pháp luật của người bị thiệt hại thuộc trường hợp phải có người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. - Cá nhân, pháp nhân được người quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC ủy quyền thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. - Người thi hành công vụ, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại. - Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có liên quan. (2) Giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi bồi thường của Nhà nước Yêu cầu Tòa án giải quyết bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong quá trình tố tụng hình sự, tố tụng hành chính như sau: - Người quy định tại Điều 5 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự hướng dẫn tại khoản 1 Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Yêu cầu bồi thường phải được đưa ra trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. - Người quy định tại Điều 5 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC giải quyết yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Yêu cầu bồi thường phải được đưa ra trước hoặc tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại. - Yêu cầu bồi thường quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC phải được thể hiện bằng văn bản hoặc lời khai, trình bày và được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên họp, biên bản làm việc khác. - Vụ án hình sự, vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì được xem xét, giải quyết trong cùng vụ án, trừ trường hợp quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, khoản 2 Điều 7 Luật Tố tụng hành chính 2015 và hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC. Trường hợp người yêu cầu bồi thường đưa ra yêu cầu bồi thường thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sau thời điểm hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC thì Tòa án không giải quyết mà giải thích, hướng dẫn cho họ về quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 sau khi họ nhận được bản án, quyết định của Tòa án. (3) Xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại Theo Điều 5 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC quy định xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như sau: - Tòa án được hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-TANDTC có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. - Khi tiến hành nghị án, Hội đồng xét xử phải thảo luận, xác định hành vi của người thi hành công vụ có trái pháp luật, có gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hay không. Nội dung này phải được ghi vào biên bản nghị án. - Trường hợp xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và gây thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Hội đồng xét xử xác định thiệt hại được bồi thường; xem xét, quyết định các vấn đề về bồi thường thiệt hại trong bản án, quyết định. - Trường hợp xác định hành vi của người thi hành công vụ không trái pháp luật hoặc không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận yêu cầu bồi thường trong bản án, quyết định. (4) Xác định thiệt hại được bồi thường theo yêu cầu - Ngay sau khi nhận được yêu cầu bồi thường, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phải thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan, xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác tài liệu, chứng cứ đã thu thập để xác định thiệt hại nhanh chóng, theo đúng quy định của pháp luật. - Việc xác định thiệt hại được bồi thường thực hiện theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Xem thêm Thông tư 02/2023/TT-TANDTC có hiệu lực từ ngày 20/10/2023.
Rút kinh nghiệm về việc khiếu kiện UBND cấp GCNQSDĐ không đúng đối tượng
Ngày 13/6/2023 VKSND Tối cao đã có Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSNDTC nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai "giữa người khởi kiện và người bị kiện là Chủ tịch UBND huyện B, tỉnh Đ của TAND cấp cao tại ĐN tại Bản án hành chính phúc thẩm 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Tóm tắt nội dung vụ án Gia đình ông Phạm Văn T2 và bà Trần Thị B trú tại tỉnh H có các người con gồm các ông, bà Phạm Văn L, Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và ông Phạm Văn H2 (ông L và ông H2 đã chết). Năm 1980 ông T2, bà B cùng gia đình chuyển vào sinh sống lại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đ, khai hoang và nhận chuyển nhượng của người dân được 6.160 m2 đất bao gồm các thửa đất số 360, 361, 355a, 359, 378a liền kề nhau thuộc tờ bản đồ số 37 thuộc xã E, huyện B để trồng cà phê, tiêu, lúa và liên tục sử dụng từ năm 1980 đến năm 1999. Năm 1997, ông Phạm Văn L đã kê khai đứng tên toàn bộ diện tích đất nêu trên của ông T2, bà B. Năm 1998, bà B chết; năm 1999, ông T2 chết không để lại di chúc. Khi biết đất của ông T2, bà B đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ ông Phạm Văn L nên ngày 21/10/2014 và ngày 18, 25/7/2016, ông Phạm Văn C đại diện cho các con, cháu của ông T2, bà B có đơn khiếu nại về việc UBND huyện B, tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ trái pháp luật. Đề nghị UBND huyện B thu hồi 02 GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 cấp ngày 30/11/2005 cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V do cấp không đúng đối tượng sử dụng đất, không đủ điều kiện được cấp. Ngày 08/9/2017, Chủ tịch UBND huyện B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND: + Bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C. + Giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ do UBND huyện B cấp ngày 31/5/2005 cho chủ sử dụng đất hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V, trú tại thôn H, xã E cụ thể: GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662. + Hộ gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn. hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ đảm bảo theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật hiện hành. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên, ngày 15/9/2017 đại diện của con, cháu ông T2, bà B đà nộp đơn khởi kiện đề nghị TAND tỉnh Đ hủy quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện B và trả lại quyền sử dụng đất của ông T2, bà B cho những người thừa kế hợp pháp. 2. Quá trình khởi kiện ra Tòa án (1) Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Đ Không chấp nhận đơn khởi kiện của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q. Phạm Thị H1 và Phạm Văn P về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4524/QĐ-UBND ngày 08/9/2017 của UBND huyện B về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Văn c trú tại Buôn N, xã E, huyện B, tỉnh Đ. Ngày 28/5/2018, những người khởi kiện có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. (2) Bản án Hành chính phúc thẩm TAND cấp cao tại ĐN Bác kháng cáo của người khởi kiện là các ông, bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn P, Phạm Văn T1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm. - Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 07/11/2018 ông Phạm Văn C đại diện cho những người khởi kiện có đơn đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thấm nêu trên. - Ngày 01/10/2021, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TAND cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. (3) Giám đốc thẩm của TAND tối cao Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN và Ban án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - UBND huyện B, tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AC 975854, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411361 H, thửa đất số 361 tờ bản đồ số 37; GCNQSDĐ số AC 975661, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411360 H, thửa đất số 387a, tờ bản đồ số 37 cho hộ gia đình ông L, bà V dựa trên trích Biên bản họp gia đình ngày 09/10/1999 là không đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003, quy định về giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất. - Để giải quyết đơn khiếu nại của ông Phạm Văn C UBND huyện B đã quyết định thành lập Đoàn xác minh số 4182; ngày 09/3/2017, Đoàn xác minh số 4182 ban hành Báo cáo số 06/BC-ĐXM về Kết quả kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C trú tại Buôn N, xã E, huyện B đã kết luận: "Việc ông Phạm Văn C cho rằng UBND huyện B cấp GCNQSDĐ cho ông L, bà V (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) trong khi ông L, bà V không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ là đúng. UBND huyện B cấp GCNQSDĐ (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) cho ông L, bà V là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bà H1 (người không ký trong trích Biên bàn ngày 09/10/1990) và bà (là người bị giả mạo chữ ký trong trích Biên bản) theo quy định của pháp luật. Báo cáo số 06 của Đoàn xác minh kiến nghị: UBND huyện B chấp nhận một phần nội dung khiếu nại của ông C. Giao cho phòng Tài nguyên và trường huyện tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi: GCNQSDĐ được UBND huyện B cấp ngày 30/11/2005 cho ông L, bà V (thửa đất số 361,387a tờ bản đồ số 37) đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Quyết định giải quyết khiếu nại số 4524 của Chủ tịch UBND huyện B bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn c là không đúng như đã phân tích ở trên. Bên cạnh đó Quyết định số 4524 còn giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện B tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662 cấp ngày 31/5/2005 đã cấp cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V nhưng lại hướng dẫn gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn, hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ là không phù hợp. Và mâu thuẫn với nội dung Báo cáo số 06/BC-ĐXM ngày 09/3/2017 của Đoàn xác minh số 4182 sau khi đã xác minh thực tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và Phạm Văn P. -Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST của Tòa án nhân dân Tỉnh Đ và Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT của TAND cấp cao tại ĐN, tuyên xử: Không chấp nhận đơn khởi kiện và bác kháng cáo của ông Phạm Văn C (đại diện cho những người khởi kiện) là không phù hợp với những tình tiết, tài liệu, chứng cứ khách quan của vụ án, áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không đúng quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và Luật Đất đai năm 2003. - Quyết định giám đốc thẩm số 10/2022/HC-GĐT ngày 25/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TTAND Cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. VKSND tỉnh Đ và VKSND cấp cao tại ĐN đều không phát hiện được vi phạm về đánh giá chứng cứ của Tòa án, có quan điểm giải quyết bác yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của của những người khởi kiện bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn Ph, Phạm Văn T1 là không chính xác cần phải rút kinh nghiệm. Xem chi tiết Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Hướng xử lý khi người dân bị chậm cấp sổ đỏ để được cấp nhanh
Khi đủ điều kiện được cấp sổ đỏ theo quy định của luật đất đai hiện hành thì người dân được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), tuy nhiên không ít trường hợp người dân gặp tình trạng bị chậm cấp sổ đỏ. Theo đó, việc chậm làm sổ đỏ sẽ dẫn tới nhiều vấn đề trong việc sử dụng đất. Sau đây là hướng xử lý để được cấp nhanh sổ đỏ cho người dân. 1. Thời hạn cấp sổ đỏ cho người có đất là bao lâu? Căn cứ Điều 61 Nghị định 43/2014/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 01/2017/NĐ-CP) quy định thời gian thực hiện cấp Giấy chứng nhận QSDĐ về đất đai hiện nay như sau: - Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày. - Đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, công trình xây dựng của tổ chức đầu tư xây dựng là không quá 15 ngày. - Đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi thay đổi tài sản gắn liền với đất là không quá 15 ngày. Do đó, thời gian giải quyết thủ tục cấp sổ đỏ lần đầu không quá 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; không quá 40 ngày đối với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2. Kiến nghị về việc chậm cấp sổ đỏ khi quá thời hạn theo quy định Căn cứ khoản 8 Điều 19 Nghị định 61/2018/NĐ-CP có quy định trường hợp người có đất không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ thì phải có thông báo lại cho người dân. Trong trường hợp quá thời hạn mà cơ quan hành chính không có thông báo lại nêu rõ lý do chậm cấp thì người dân có thể khiếu nại hoặc khởi kiện hoặc chỉ đơn giản là hỏi, kiến nghị về việc chậm cấp. Để thực hiện đúng quy định của pháp luật khi hỏi, kiến nghị về việc chậm cấp cần yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trả lời rõ bằng văn bản thay vì chỉ trả lời bằng lời nói, vì lý do sau: (1) Trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do là thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời vô hình chung tạo nên sự ràng buộc, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan đó. (2) Văn bản trả lời là một trong những tài liệu, nguồn chứng cứ nếu muốn khiếu nại, khởi kiện. Cũng cần lưu ý rằng nếu cơ quan có thẩm quyền hoặc cá nhân trong cơ quan đó không trả lời bằng văn bản thì hành vi “không thực hiện” đó cũng chính là một trong những đối tượng bị khiếu nại, khởi kiện hành chính. 3. Thực hiện nộp đơn khiếu nại đối với việc chậm cấp sổ đỏ Căn cứ Điều 27 Luật Khiếu nại 2011 thì cá nhân, hộ gia đình có khiếu nại trong việc chậm cấp làm sổ đỏ quá thời hạn quy định nhưng không nhận được thông báo lý giải của cơ quan có thẩm quyền thì làm khiếu nại gửi đến cơ quan sau để thụ lý giải quyết: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 11 Luật Khiếu nại 2011, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết. Đồng thời, có thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do. Về thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu được quy định cụ thể tại Điều 28 Luật Khiếu nại 2011 như sau: Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. 4. Khởi kiện đến Tòa án về việc chậm cấp sổ đỏ Về thời hiệu khởi kiện đối việc chậm cấp làm sổ đỏ được gửi đến Tòa án là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015. Qua thời gian trên mà người bị ảnh hưởng quyền lợi không thực hiện gửi đơn kiện đến Tòa án mà không có lý do chính đáng hoặc không thuộc trường hợp bất khả kháng thì Tòa không chấp nhận. Người dân có thể gửi đơn khiếu kiện đến Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với việc chậm làm sổ đỏ thuộc thẩm quyền cấp huyện theo Điều 31 Luật Tố tụng hành chính 2015 như sau: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện. Trường hợp đơn người dân gửi đơn kiện đến Tòa án cấp tỉnh để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó. Mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Cần Hướng dẫn xác định loại đất đang sử dụng
Gia đình tôi có thửa đất trên bản đồ địa chính năm 1995 và sổ mục kê đất năm 1999 có ký hiệu là T ( đất để ở) nhưng gia đình tôi chưa có nhu cầu xây nhà nên chỉ trồng cây trên đất. Nay UBND xã bảo gia đình tôi chưa sử dụng vào mục đích để ở nên xác định thửa đất của gia đình tôi là đất vườn. Xin hỏi việc UBND xã xác định thửa đất của gia đình tôi là đất vườn như vậy có đúng không?
Hướng dẫn một số thắc mắc liên quan đến lĩnh vực tố tụng hành chính
Ngày 27/12/2022 Hội đồng Thẩm phán TANDTC có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Theo đó, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc giải quyết các vụ án hành chính trong công tác xét xử như sau: 1. Trả hồ sơ chuyển đổi QSDĐ không có lý do Tình huống đặt ra: Ông Trần Văn H nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại UBND xã B theo đúng quy định, nhưng bà Nguyễn Thị N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đăng ký di biến động đất đai. Đã nhận hồ sơ đất nhưng trả lại hồ sơ cho ông H và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Không đồng ý với việc trả lại hồ sơ này, ông H có quyền khởi kiện không? Nếu có thì đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là gì? TANDTC giải đáp thắc mắc: Theo đó, tại đoạn 2 khoản 2 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 quy định: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ tại UBND cấp xã thì UBND cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, UBND cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”. Như vậy, theo quy định nêu trên thì trong trường hợp này ông H có quyền khởi kiện do UBND xã B không làm đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai. Đồng thời tại khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013 như sau: Việc trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện như sau: - Kết quả giải quyết thủ tục hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong thời hạn không quá 03 ngày từ ngày có kết quả. - Trường hợp trao Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện sau khi nộp chứng từ hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định. Trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính. - Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Như vậy, việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính về đất đai thuộc chức năng, nhiệm vụ của UBND xã B. Việc bà N là cán bộ của UBND xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đã trả lại hồ sơ mà không nêu rõ lý do là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Đây là hành vi hành chính của UBND xã B mà không phải là hành vi hành chính của bà N. Đối tượng khởi kiện trong trường hợp này là hành vi hành chính của UBND xã B. 2. Thẩm quyền thụ lý của Tòa án đối với vụ kiện dự án quốc phòng Tình huống đặt ra: Người khởi kiện khởi kiện quyết định thu hồi đất liên quan đến dự án quốc phòng thì Tòa án có được thụ lý không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015thì khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án cần phải xem xét đánh giá tài liệu chứng cứ để xác định việc thu hồi đất của dự án đó có thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng hay không. Nếu không thuộc lĩnh vực trên thì vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. 3. Có áp dụng khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 giải quyết vụ án hành chính Tình huống đặt ra: Đối với khoản 2 Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Vậy Tòa án có áp dụng quy định này của Bộ luật Dân sự 2015 khi giải quyết các vụ án hành chính hay không? TANDTC giải đáp thắc mắc: Căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: ... Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết. Ngoài ra, điểm g khoản 1 Điều 143 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết . Như vậy, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính 2015 khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà không đưa ra điều kiện đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Do đó, trong tố tụng hành chính Tòa án không áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 149 của Bộ luật Dân sự 2015 để xác định có áp dụng thời hiệu hay không. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022.
Chủ tịch UBND có nhất thiết phải tham gia tòa hành chính?
Án hành chính là một trong những khiếu kiện cơ bản của thủ tục tố tụng, mặc dù không phổ biến như án dân sự hay hình sự nhưng tòa hành chính lại giải quyết được những tranh chấp phát sinh rất đặc thù. Đó là có sự tham của cá nhân hay đại diện cơ quan nhà nước. Thông thường đối với những vụ án tranh chấp lao động, khiếu nại quyết định kỷ luật hay những vấn đề có liên quan đến một bên là cá nhân, tổ chức thuộc cơ quan nhà nước. Vậy, chủ tịch UBND có nhất thiết phải tham gia tòa hành chính? 1. Tòa hành chính là gì? Tòa hành chính là tòa chuyên trách của TAND có nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính theo quy định của pháp luật. Toà chuyên trách hiện nay được thiết lập trong hệ thống từ TAND cấp cao đến TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện. Theo Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính bao gồm các vụ việc sau: - Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống. - Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh quyết định giải quyết khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước. - Khiếu kiện danh sách cử tri. Ngoại trừ các quyết định, hành vi sau đây thì Tòa hành chính sẽ không có thẩm quyền giải quyết: (1) Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. (2) Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng. (3) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức. 2. Chủ tịch UBND không tham gia tố tụng có phạm luật? Đối thoại trong tố tụng hành chính là một hoạt động tố tụng cần phải có sự góp mặt của nguyên đơn và bị đơn, nhằm giải quyết các vấn đề vướng mắc được phía Tòa án chủ trì tổ chức. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định Luật Tố tụng hành chính 2015. 03 Trường hợp không cần phải đối thoại: Căn cứ Điều 135 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định 03 những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được bao gồm (1) Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. (2) Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng. (3) Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại. Theo quy định này, thì Chủ tịch UBND là đương sự trong vụ khiếu kiện sẽ được miễn tham gia phiên đối thoại nếu rơi vào một trong các trường hợp trên. Qua đó, việc Chủ tịch UBND không có mặt tại phiên đối thoại sẽ không bị xem là vi phạm pháp luật. Một trường hợp khác được quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính 2015 có nêu người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện. Qua đó, không bắt buộc Chủ tịch UBND các cấp phải có mặt trực tiếp tại phiên tòa để tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng mà có thể ủy quyền lại cho Phó Chủ tịch UBND của mình làm đại diện tham gia phiên tòa xét xử. Như vậy, Chủ tịch UBND các cấp là người đại diện pháp luật trong các vụ án hành chính không nhất thiết phải tham gia đối thoại hay trực tiếp có mặt tại phiên tòa xét xử. Mặc dù các quy định trên không có tính bắt buộc tuy nhiên luật vẫn khuyến khích đại diện phía UBND tham gia theo quy định pháp luật nhằm giúp giải quyết vướng mắc cho người dân được thuận lợi hơn.
Rút kinh nghiệm về việc nâng cao kiểm sát sai phạm trong vụ án thu hồi đất đai
Đây là nội dung tại Thông báo 61/TB-VC2-HC ngày 09/8/2022 của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng về việc rút kinh nghiệm về khiếu kiện liên quan kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Cụ thể, qua công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thấy cần rút kinh nghiệm đối với vụ án về quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai giữa người khởi kiện bà TTN, người bị kiện UBND Tp. BMT, tỉnh ĐL như sau: 1. Tóm tắt nội dung Bà TTN có diện tích đất là 300m2 trong đó bao gồm đất ở và đất trồng cây lâu năm nhưng hiện đất đang nằm trong quy hoạch thu hồi của nhà nước. Vì vậy, năm 2019 UBND Tp.BMT sau khi đo đạc lần 1 không bồi thường xứng đáng đối với đất của bà TTN cũng không cấp đất tái định cư cho bà TTN, sau khi làm đơn khiếu nại đo đạc lần 2 thì năm 2021 UBND Tp.BMT mới thực hiện lại số tiền bồi thường của bà TTN bị giảm xuống và thực hiện tái định cư. Bà TTN gửi đơn kiện ra Tòa án - Hủy một phần Quyết định về phần diện tích 20,4m2 đất trồng cây lâu năm bị thu hồi. - Thay nội dung giao đất tái định cư thành bồi thường bằng đất ở. - Buộc UBND Tp. BMT bồi thường diện tích đất 69,5m2 còn lại không thu hồi (300m2 - 230,5m2 = 69,5m2). Bản án sơ thẩm Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2022/HC-ST ngày 25/02/2022 của đã quyết định tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Trịnh Thị Ngọc. Bản án phúc thẩm Ngày 8/3/2022, bà Trịnh Thị Ngọc kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị HĐXX phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện. Ngày 30/6/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã quyết định, tuyên xử: Chấp nhận kháng cáo của bà Trịnh Thị Ngọc, quyết định kháng nghị phúc thẩm số 205/QĐ-VKS-HC của Viện trưởng VKSND tỉnh ĐL. 2. Kinh nghiệm rút ra từ vụ án hành chính 2.1 Việc thu hồi đất của UBND Tp.BMT chưa thu hồi hết diện tích đất bà Ngọc đang quản lý sử dụng, thể hiện như sau: Diện tích đất của bà TTN là 308,1m2 trong đó: - Đất nằm trong quy hoạch là 238,6m2. - Đất ở đã được cấp Giấy CNQSDĐ là 218,2m2. - Đất trồng cây lâu năm chưa được cấp Giấy CNQSDĐ là 20,4m2. - Diện tích nằm ngoài ranh giới quy hoạch là 69,5m2 (gồm 8,2m2 đất ở đã được cấp Giấy CNQSDĐ và 61,3m2 không thuộc Giấy CNQSDĐ). Như vậy, diện tích đất ở 8,2m2 đất ở của bà Ngọc đã được cấp Giấy CNQSDĐ tuy không thuộc phạm vi quy hoạch nhưng không đủ điều kiện để UBND tỉnh ĐL thực hiện thu hồi và bồi thường. Các trích lục cho thấy bà TTN quản lý và sử dụng diện tích 308,1m2, sau khi trừ đi phần diện tích nằm trong ranh giới quy hoạch bị thu hồi được bồi thường. Thì diện tích đất của bà TTN đang quan lý sử dụng chưa được cấp Giấy CNQSDĐ vẫn còn. Vì vậy, UBND Tp.BMT cần phải xem xét, giải quyết đối với diện tích này theo quy định tại các Điều 75, 77 và Điều 79 Luật đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 6, Điều 12 Nghị định 47/2014/NĐ- CP và Quyết định 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014 của UBND tỉnh ĐL mới đúng quy định của pháp luật. 2.2 Việc áp giá thu tiền sử dụng đất khi cấp đất tái định cư cho bà Ngọc không cùng thời điểm thu hồi đất của bà Ngọc, thể hiện như sau: UBND Tp. BMT xác định diện tích đất 69,5m2 đất ở còn lại của bà TTN không bị thu hồi là đủ điều kiện xây dựng nhà ở nên không xem xét giao đất tái định cư. Tuy nhiên, sau khi bà Ngọc khiếu nại thì UBND Tp.BMT chi đạo các đơn vị có liên quan thực hiện kiểm tra (lồng ghép bản đè cấp Giấy CNQSDĐ và Trích lục bản đồ địa chính sổ 20322/TL-VPĐKQLDĐ- KTDC ngày 03/12/2019) nên UBND Tp. BMT đã điều chỉnh lại diện tích đất thu hồi theo Trích lục bản đồ địa chính ngày 14/12/2020 của VPĐKDĐ tỉnh ĐL. Như vậy, việc điều chỉnh lại diện tích đất thu hồi của UBND Tp.BMT dẫn đến diện tích đất ở còn lại của bà TTN thuộc thửa đất số 56, tờ bản đồ số 40 không đủ điều kiện để ở nhưng lại không thực hiện giao đất tái định cư là mẫu thuẫn khi đủ điều kiện. 3. Kết luận của TAND cấp cao ĐN Đây là lỗi của UBND Tp.BMT dẫn đến việc bà Ngọc không được bố trí đất tái định cư tại thời điểm thu hồi đất là ngày 26/12/2019. Tức là lần đo đạc đất lần 1, đến năm 2021 UBND Tp.BMT mới cấp đất tái định cư và áp giá thu tiền sử dụng đất theo ngày 20/4/2021 của UBND tỉnh ĐL là không đúng quy định làm thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của bà Ngọc. Kết luận lại bản án phúc thẩm của TAND cấp cao ĐN đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu theo đơn khởi kiện của bà TTN. Qua đó, tuyên dương VKSND tỉnh ĐL đã kịp thời phát hiện vi phạm của cấp sơ thẩm về nội dung, ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án và cần tiếp tục phát huy trong công tác kiểm sát xét xử giải quyết các vụ án tương tự trong thời gian đến. 4. Kinh nghiệm cần rút ra từ VKSND cấp cao Đà Nẵng Thứ nhất, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND các địa phương khu vực Miền Trung - Tây Nguyên để rút kinh nghiệm chung khi kiểm sát giải quyết vụ án hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai từ vụ kiện trên. Thứ hai, chủ động phát hiện những bản án có vi phạm để kịp thời ban hành kháng nghị hoặc thông báo đến VKS cấp trên xem xét kháng nghị, bảo đảm áp dụng pháp luật một cách nghiêm chỉnh, thống nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như VKSND tỉnh ĐL đã thực hiện đối với vụ án nêu trên. Như vậy, qua vụ án trên các VKSND các cấp tại khu vực miền trung nói riêng và các cấp khu vực khác nói chung khi thực hiện kiểm sát liên quan đến các vụ án hành chính cụ thể là lĩnh vực đất đai. Cần lưu ý kiểm định lại toàn bộ vụ án thật kỹ càng nhằm đảm pháp thực hiện pháp luật được đi đúng hướng, bên cạnh đó khi có phát hiện sai phạm thì cần báo cáo, đề nghị kịp thời lên cấp trên giải quyết.
Chủ tịch có thể ủy quyền phó chủ tịch tham gia tố tụng không?
Theo Luật Tố tụng hành chính 2015: "Điều 60. Người đại diện .. 3. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này." Theo đó, trong tố tụng hành chính thì Chủ tịch chỉ được ủy quyền cho Phó chủ tịch, không được ủy quyền cho luật sư hay ai khác tham gia tố tụng. Còn trong pháp luật tố tụng dân sự thì không có hạn chế này.
Có được ghi hình khi bị xử phạt hành chính về giao thông?
Xử phạt hành chính về giao thông Đây là câu hỏi được rất nhiều người thắc mắc, tuy nhiên để có thể tìm được câu trả lời thích đáng, cần phải xem xét việc quay phim, chụp ảnh người thi hành công vụ dưới nhiều góc độ. Thứ nhất, về quyền bất khả xâm phạm đời sống riêng tư Nhiều quan điểm cho rằng việc ghi âm, ghi hình người khác là xâm phạm đời sống riêng tư, và họ có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình (theo Điều 21 Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, bản chất của việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính không phải là việc “xâm phạm quyền riêng tư”, bởi lẽ lúc này họ đang thi hành công vụ. Việc ghi âm, ghi hình là để thực hiện quyền giám sát của công dân đối với hoạt động “giám sát” của Nhân dân theo Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp 2013: “2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.” Theo đó, Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó Khoản 5 Điều 3 Luật công an nhân dân 2018 cũng quy định: “Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân…” Thứ hai, về quyền cung cấp chứng cứ khi khiếu nại, tố cáo, khởi kiện Điều 115 Luật tố tụng hành chính 2015 có quy định: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó…” Hiện nay, pháp luật cho phép người dân được trực tiếp khởi kiện vụ án đối với một quyết định hành chính (tức quyết định xử phạt liên quan đến giao thông mà họ đã bị xử phạt) hoặc hành vi hành chính mà mình không đồng ý. Để có thể khởi kiện một vụ án, một trong những quyền cơ bản mà đương sự (tức người bị xử phạt hành chính) Tại Điều 55 của Luật này có quy định: “Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng, bao gồm: … 5. Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; …” Điều này có nghĩa, khi người dân muốn khởi kiện một vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật cho phép họ có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ. Theo nguyên tắc của Tố tụng, một tài liệu, chứng cứ phải được Tòa án chấp thuận thì mới phát sinh tính pháp lý, và để có được sự chấp thuận đó, việc cung cấp đầy đủ băng ghi âm, ghi hình cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh, làm rõ tính hợp pháp là điều hết sức cần thiết. Thứ ba, ghi âm, ghi hình là thực hiện quyền dân chủ trong công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông Tại Điều 11 Thông tư 67/2019/TT-BCA có quy định về Hình thức giám sát của nhân dân trong công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông như sau: “… 5. Thông qua thiết bị ghi âm, ghi hình hoặc quan sát trực tiếp nhưng phải đảm bảo các điều kiện sau: a) Không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cán bộ, chiến sỹ khi đang thực thi nhiệm vụ; b) Ngoài khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông (đối với nơi có triển khai khu vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông); c) Tuân thủ các quy định pháp luật khác có liên quan.” Theo những phân tích ở trên, chưa có quy định pháp luật nào cấm việc ghi âm, ghi hình quá trình xử phạt hành chính, vậy người dân chỉ cần giải thích được việc ghi âm, ghi hình của mình không ảnh hưởng đến hoạt động của cán bộ, chiến sĩ và cũng không nằm trong những khu vực không cho phép sử dụng các thiết bị ghi âm, ghi hình thì không có căn cứ để cấm hành vi này. Với những căn cứ nêu trên, theo quan điểm của người viết, việc ghi âm, ghi hình khi bị xử phạt hành chính là hoàn toàn hợp pháp.
Văn bản tố tụng trong Hình sự, Dân sự, Hành chính gồm những gì?
Văn bản tố tụng có thể hiểu là tài liệu, hồ sơ có liên quan đến vụ án, vụ việc, được cơ quan có thẩm quyền cung cấp, sử dụng trong quá trình tố tụng. Để thực hiện nhiệm vụ cấp, tống đạt cũng như sử dụng trong quá trình tố tụng cần xác định cụ thể văn bản tố tụng gồm những gì. Nội dung dưới đây sẽ tổng hợp quy định về văn bản tố tụng trong hình sự, dân sự và hành chính. Trong Hình sự: Điều 132 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định về văn bản tố tụng: 1. Văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác trong hoạt động tố tụng được lập theo mẫu thống nhất. 2. Văn bản tố tụng ghi rõ: a) Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; b) Căn cứ ban hành văn bản tố tụng; c) Nội dung của văn bản tố tụng; d) Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu. Trong Dân sự: Điều 171 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 quy định về các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo gồm: - Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự. - Bản án, quyết định của Tòa án. - Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát; các văn bản của cơ quan thi hành án dân sự. - Các văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định. Trong Hành chính: Các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt hoặc thông báo theo Điều 100, Luật tố tụng hành chính 2015 gồm: - Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng hành chính. - Bản án, quyết định của Tòa án. - Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát; văn bản của cơ quan thi hành án dân sự. - Văn bản tố tụng khác mà pháp luật có quy định phải cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Nhờ tư vấn giúp về lĩnh vực tố tụng hành chính
Câu hỏi là: Hành vi hành chính bị kiện là gì? Và nó được hiểu như thế nào? Em xin chân thành cảm ơn ạ!
TAND Phú Yên trả đơn khởi kiện của ông Võ An Đôn là sai luật
Hôm nay đọc được một tin khá thú vị liên quan tới việc cựu Luật sư Võ An Đôn khởi kiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp với Quyết định không chấp thuận nội dung khiếu nại của ông Đông. Về cụ thể diễn biến toàn bộ sự việc thì xin được tóm tắt như sau: - Ngày 26-11-2017, Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên ban hành quyết định kỷ luật ông Đôn với hình thức xóa tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư Phú Yên. Không đồng ý với quyết định kỷ luật của Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, ông Đôn khiếu nại. - Ngày 21-5-2018, Liên đoàn Luật sư Việt Nam ban hành quyết định không chấp nhận nội dung khiếu nại, giữ nguyên hình thức kỷ luật đối với ông Đôn. - Ngày 27-5-2018, ông Đôn gởi đơn đến ông Lê Thành Long - bộ trưởng Bộ Tư pháp - khiếu nại các quyết định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. - Ngày 15-11-2018, Bộ Tư pháp có quyết định giải quyết khiếu nại, không chấp nhận nội dung khiếu nại, giữ nguyên hình thức kỷ luật của ông Đôn. Do vậy, ông Đôn làm đơn khởi kiện đến TAND tỉnh Phú Yên, yêu cầu tòa hủy quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ Tư pháp và trả lại quyền hành nghề luật sư cho ông. Theo thông báo trả lại đơn khởi kiện, xét nội dung khiếu nại và các tài liệu, chứng cứ kèm theo của ông Đôn, TAND tỉnh Phú Yên thấy rằng: "Căn cứ Luật Luật sư, Điều lệ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Luật Tố tụng hành chính, các quyết định giải quyết khiếu nại của ông Đôn là quyết định nội bộ của tổ chức xã hội nghề nghiệp, nên không thuộc đối tượng khởi kiện hành chính". Vì thế, TAND tỉnh Phú Yên trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho ông Đôn. Đến đây mình cùng xem lại một tí ở Luật Tố tụng hành chính 2015. Theo đó, tại Khoản 3 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015 định nghĩa về Quyết định hành chính mang tính nội bộ. Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức là những quyết định, hành vi chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác; quản lý, tổ chức cán bộ, kinh phí, tài sản được giao; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, chính sách, pháp luật đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức. Khoản 1 Điều này thì định nghĩa về Quyết định hành chính, như sau: Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trong thực tế sự việc của ông Đôn, ta có thể thấy rằng Quyết định xóa tên cũng như Quyết định rút thẻ của Đoàn Luật sư Phú Yên cũng như Liên đoàn Luật sư Việt Nam là 02 quyết định hành chính của tổ chức xã hội nghề nghiệp, được xem là Quyết định hành chính nội bộ giữa tổ chức và thành viên. Tuy nhiên khi ông Đôn khiếu nại 02 quyết định này lên Bộ Tư pháp, Bộ trưởng đã ra quyết định không chấp thuận khiếu nại. Quyết định này do Bộ Trưởng ký với cương vị là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong công tác quản lý hành chính của theo chức năng quản lý hành chính về hoạt động nghề nghiệp luật sư theo quy định của Luật Luật sư. Và theo khoản 1 Điều 3 Luật TTHC thì rõ ràng đây được xem là một quyết định hành chính. Chính vì vậy, có thể thấy rằng Quyết định trả đơn khởi kiện của TAND tỉnh Phú Yên là sai với quy định của pháp luật hiện hành.
Hậu quả của việc đình chỉ vụ án
Đình chỉ vụ án trong dân sự và hành chính gây ra những hậu quả nhất định, hôm nay mình sẽ khái quát một vài hậu quả về pháp lý cũng như đi qua về một vài hậu quả ngoài thực tế để mọi người tham khảo. I. Đình chỉ vụ án dân sự >>>Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự Điều 218, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 1. Về quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án - Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. Trừ một số trường hợp sau: + Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; + Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại; + Đã có đủ điều kiện khởi kiện 2. Về án phí 2.1. Sung vào công quỹ khi: + Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; + Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; + Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt 2.2. Trả lại cho đương sự khi: + Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện + Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó; + Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; + Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết; + Các trường hợp trả đơn khởi kiện mà Tòa án đã thụ lý 3. Kháng cáo, kháng nghị quyết định đình chỉ Có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. II. Đình chỉ vụ án Hành chính Điều 144, Luật Tố tụng Hành chính 2015 1. Về quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án đó, nếu việc khởi kiện này không có gì khác với vụ án đã bị đình chỉ về người khởi kiện, người bị kiện và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp sau: - Lúc đình chỉ là người khởi kiện không có năng lực tố tụng hành chính đầy đủ, sau đó có đầy đủ thì có quyền yêu cầu giải quyết lại vụ án - Khi vụ án trước đó bị đình chỉnh vì một số điều kiện chưa đáp ứng đầy đủ nhưng sau đó người khởi kiện đáp ứng đầy đủ các điều kiện - Ban đầu người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại nhưng sau đó thay đổi sang thủ tục khởi kiện - Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt trừ trường hợp họ đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hoặc trường hợp có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan - Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút 2. Về án phí Theo Điều 18, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 2.1. Sung vào công quỹ khi: + Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà không được thừa kế + Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể, phá sản mà không có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó; + Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt 2.2. Trả lại cho người đã nộp khi: + Người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong trường hợp không có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp có yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện đã rút; + Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút đơn yêu cầu độc lập; + Người khởi kiện không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu độc lập của họ; + Người bị kiện hủy bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện đồng ý rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đồng ý rút yêu cầu; + Thời hiệu khởi kiện đã hết; + Các trường hợp quy định về trả đơn kiện mà Tòa án đã thụ lý. 3. Kháng cáo, kháng nghị quyết định đình chỉ Có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. III. Hậu quả ngoài thực tế Có những bản án đang được thi hành nhưng bỗng dưng bị ngừng lại vì có quyết định đình chỉ vụ án. Việc này gây ra hệ quả không nhỏ cho cả nguyên đơn và bị đơn, Như một số trường hợp đình chỉ vụ án Dân sự: trong việc tranh chấp đất, bản án tuyên bị đơn phải giao miếng đất mình đang sinh sống cho nguyên đơn, sau 2 năm thi hành thì có quyết định hủy bản án. Lúc đó mảnh đất đã được nguyên đơn chuyển nhượng cho nhiều người khác. Vậy trong trường hợp này bị đơn biết phải làm sao để đòi lại miếng đất? Khi đưa ra quyết định đình chỉ vụ án, cơ quan chức năng đã không cân nhắc đến tình trạng thực hiện bản án đến đâu, phần bản án đã giải quyết ra sao, làm cho những người có quyền lợi liên quan trực tiếp gặp nhiều khó khăn.
Giải đáp mới nhất về tố tụng hành chính của TAND Tối cao
Ngày 19/9/2018 vừa qua, TAND Tối cao ra Công văn số 02/GĐ-TANDTC giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính. Cụ thể, một số vướng mắc về tố tụng hành chính được TAND Tối cao giải đáp như sau: Theo công văn hướng dẫn thì cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong vụ án hành chính. Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai là văn bản hành chính, nhưng chưa làm phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Trong vụ án hành chính mà chỉ một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại, còn các đương sự khác không có ý kiến hoặc có yêu cầu đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại theo thủ tục chung. Trường hợp đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp thì Tòa án phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện”. Trong quá trình xét xử, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định tạm ngừng phiên tòa. Trả lời vướng mắc: Trong vụ án hành chính, người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện và chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nên người đại diện theo pháp luật của người bị kiện là chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trường hợp này Tòa án có thể nhập chung hai chủ thể bị kiện thành một chủ thể được không? Tòa tối cao hướng dẫn như sau: Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau và có trách nhiệm riêng đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Do đó, trường hợp này không thể xác định chung tư cách tham gia tố tụng, mà vẫn phải xác định riêng tư cách tham tố tụng của người bị kiện là của Ủy ban nhân dân huyện và chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Ngoài ra, trường hợp một người khởi kiện nhiều quyết định hành chính có liên quan đến nhau trong cùng một vụ án thì tính án phí sơ thẩm là 300.000 đồng. Xem cụ thể cơ sở pháp lý và chi tiết tại Công văn số 02/GĐ-TANDTC
TANDTC trả lời 15 vấn đề về tố tụng hành chính
Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính để đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật. 1. Trong vụ án hành chính, cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không? Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 của Luật Thanh tra thì Thanh tra sở là một trong những cơ quan thanh tra nhà nước. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì “cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an” không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong vụ án hành chính. Do đó, theo các quy định nêu trên thì cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong vụ án hành chính. 2. Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng đăng ký đất đai lập có phải là quyết định hành chính không? Có được coi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không? Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được hiểu như sau: “1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. 2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” Theo quy định tại khoản 4 Điều 10 và khoản 1 Điều 12 của Thông tư liên tịch số 88/2016/TTLT/BTC-BTNMT ngày 22-6-2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm lập Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai theo Mẫu số 01/LCHS Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này để chuyển cho cơ quan thuế ra thông báo nộp tiền sử dụng đất. Cơ quan thuế có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ. Trường hợp phát hiện hồ sơ có sai sót hoặc thiếu căn cứ để xác định nghĩa vụ tài chính thì cơ quan thuế đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai xác định hoặc bổ sung thông tin. Căn cứ vào các quy định nêu trên thì Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai là văn bản hành chính, nhưng chưa làm phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. 3. Ban đầu người khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính; sau đó, người khởi kiện bổ sung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đối tượng khởi kiện ban đầu. Tòa án xử lý trường hợp này như thế nào? Trong trường hợp này, Tòa án phải hướng dẫn đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính để khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp đương sự rút đơn khởi kiện vụ án hành chính, đồng thời có đơn khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về đất đai thì Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và xem xét, thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục chung. Trường hợp đương sự không rút đơn khởi kiện thì Tòa án căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 141 của Luật Tố tụng hành chính tạm đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết quả giải quyết vụ án dân sự. Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến nhau và có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khoản 1 Điều 34 của Luật Tố tụng hành chính và Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết đồng thời hai yêu cầu của đương sự trong cùng một vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định. 4. Trường hợp đơn khởi kiện thể hiện nội dung yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Trường hợp này thụ lý vụ án dân sự hay vụ án hành chính để xem xét giải quyết? Trường hợp người khởi kiện chỉ yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án phải tôn trọng “Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện” theo quy định tại Điều 8 của Luật Tố tụng hành chính. Theo đó thì Tòa án phải xem xét thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. 5. Trong quá trình xét xử vụ án hành chính, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử hay tạm ngừng phiên tòa? Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa khi có căn cứ: "Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng”. Như vậy, trong quá trình xét xử, do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà Kiểm sát viên không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 187 của Luật Tố tụng hành chính để xem xét, quyết định tạm ngừng phiên tòa. 6. Trong vụ án hành chính, người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nên người đại diện theo pháp luật của người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Trường hợp này Tòa án có thể nhập chung hai chủ thể bị kiện thành một chủ thể được không? Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính thì mỗi chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau và có trách nhiệm riêng đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình. Do đó, trường hợp này không thể xác định chung tư cách tham gia tố tụng, mà vẫn phải xác định riêng tư cách tham tố tụng của người bị kiện là của Ủy ban nhân dân huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. 7. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử ban hành trong tố tụng hành chính như thế nào? Theo quy định tại Điều 77 của Luật Tố tụng hành chính về giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì: “3. Việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị tại phiên tòa thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng”. Theo quy định nêu trên thì trường hợp khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Hội đồng xét xử sơ thẩm ban hành tại phiên tòa sơ thẩm thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm. Trường hợp khiếu nại việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng xét xử là quyết định cuối cùng. 8. Người khởi kiện yêu cầu hủy quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh. Khi họ khởi kiện thì có phải thông báo quyền của họ được trợ giúp pháp lý như thương binh không? Có được miễn tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án? Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng thì thương binh là người có công với cách mạng. Theo quy định tại Điều 17 của Luật Trợ giúp pháp lý, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì người có công với cách mạng thuộc trường hợp được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng và được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án. Tuy nhiên, tại thời điểm họ nộp đơn khởi kiện thì Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh đang có hiệu lực, nên người khởi kiện không được quyền trợ giúp pháp lý và miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp Tòa án hủy quyết định thu hồi Giấy chứng nhận thương binh thì việc xử lý tiền tạm ứng án phí được Hội đồng xét xử nhận định và quyết định hoàn trả lại cho người khởi kiện trong bản án. 9. Một người khởi kiện nhiều quyết định hành chính trong cùng một vụ án thì tính án phí sơ thẩm như thế nào? Pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án chỉ quy định án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành Chính phúc thẩm mà không quy định án phí theo từng yêu cầu khởi kiện. Do đó, nếu người khởi kiện yêu cầu hủy nhiều quyết định hành chính có liên quan đến nhau thì Tòa án giải quyết các yêu cầu này trong cùng một vụ án. Trong trường hợp này, án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính phúc thẩm được xác định là 300.000 đồng. Nếu người khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định hành chính độc lập với nhau thì Tòa án xem xét, thụ lý giải quyết bằng các vụ án hành chính khác nhau. Việc tính án phí hành chính thực hiện theo quy định chung. 10. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định nếu các bên đương sự đối thoại thành về việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm. Vậy, tính án phí trong trường hợp này cụ thể như thế nào? Theo quy định tại khoản 4 Điều 32 của Nghị quyết số 326 thì: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành đối thoại nếu các bên đương sự đối thoại thành về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí hành chính sơ thẩm”. Theo quy định tại mục III Phần A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326 thì án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng. Như vậy, theo các quy định này thì đối với trường hợp đối thoại thành, đình chỉ vụ án thì các bên phải chịu 150.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm. 11. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai, nên các bên tranh chấp không thực hiện được việc khởi kiện tại Tòa án. Vậy, hành vi không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có phải là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính không? Theo quy định tại khoản 3 Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo các quy định nêu trên thì hành vi không tổ chức hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. 12. Việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính được thực hiện như thế nào? Trong vụ án hành chính, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản thì việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện tương tự như việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của người khởi kiện, người bị kiện theo quy định tại Điều 59 của Luật Tố tụng hành chính. 13. Trong vụ án hành chính, nếu một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại hay tiếp tục các thủ tục khác để rút ngắn thời gian giải quyết vụ án? Trong vụ án hành chính mà chỉ một trong các bên đương sự yêu cầu không tiến hành đối thoại, còn các đương sự khác không có ý kiến hoặc có yêu cầu đối thoại thì Tòa án vẫn tiến hành đối thoại theo thủ tục chung. Trường hợp, đương sự đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai hoặc không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng thì thuộc trường hợp không tiến hành đối thoại được; trường hợp này Biên bản đối thoại được lập theo quy định tại khoản 1 Điều 139 của Luật Tố tụng hành chính. 14. Đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày 01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử, có phải quay trở lại thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015? Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án thụ lý trước ngày 01-7-2016, nhưng kể từ ngày 01-7-2016 mới xét xử theo thủ tục sơ thẩm thì áp dụng quy định của Luật này để giải quyết. Như vậy, đối với những vụ án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trước ngày 01-7-2016, nhưng sau ngày 01-7-2016 mới xét xử thì Tòa án vẫn phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. 15. Trước khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập thì Tòa án có phải ban hành quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút không? Trường hợp này, Tòa án không ban hành quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu đã rút mà Hội đồng xét xử nhận định về việc người khởi kiện rút một phần yêu cầu khởi kiện; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút yêu cầu độc lập và quyết định đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện, đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập đó trong bản án. Trên đây là giải đáp một số vướng mắc về tố tụng hành chính để các Tòa án nghiên cứu, tham khảo trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền. Xem chi tiết công văn: TẠI ĐÂY
Sắp có văn bản quy định việc tống đạt văn bản ra nước ngoài
Toàn án nhân dân tối cao và Bộ Ngoại giao đang tiến hành xây dựng Dự thảo Thông tư liên tịch quy định về việc phối hợp giữa TAND và cơ quản đại diện Việt Nam tại nước ngoài để thực hiện một số hoạt động tố tụng dân sự và tố tụng hành chính ở nước ngoài. Tại dự thảo lần này, hoạt động tống đạt văn bản cho đương sự là người Việt Nam ở nước ngoài và thông báo giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người nước ngoài được quy định cụ thể. Theo đó, chi phí tống đạt văn bản tố tụng bao gồm: - Chi phí sử dụng dịch vụ chuyển phát bưu phẩm bảo đảm có ký nhận của người nhận để Tòa án gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài cho cơ quan đại diện và để cơ quan đại diện gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở quốc gia tiếp nhận; - Chi phí phải trả cho ngân hàng khi chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của cơ quan đại diện để hoàn trả khoản chi phí mà cơ quan này đã ứng trước để gửi hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự là công dân Việt Nam ở quốc gia tiếp nhận. Hồ sơ tống đạt văn bản tố tụng bao gồm: - Văn bản đề nghị cơ quan đại diện tống đạt và thông báo kết quả thực hiện tống đạt; - Văn bản tố tụng cần phải tống đạt; - Văn bản yêu cầu đương sự ở nước ngoài gửi lời khai, tài liệu, chứng cứ cho tòa án (nếu có) ; - Văn bản mà đương sự ở trong nước đề nghị tòa án gửi cho đương sự ở nước ngoài (nếu có) Ngoài ra, dự thảo còn quy định nhiều vấn đề khác liên quan đến hoạt động tống đạt.
Tất tần tật những quy định về thời hiệu khởi kiện
1. Những quy định về thời hiệu khởi kiện dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 - Bộ luật dân sự 2015 có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự 2005. Trong đó, những quy định về thời hiệu khởi kiện cũng đã có nhiều thay đổi. Bộ luật dân sự 2015 Bộ luật dân sự 2005 Tranh chấp hợp đồng dân sự 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Yêu cầu bồi thường thiệt hại 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. 02 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm. Về thừa kế 10 năm nếu tài sản là động sản/30 năm nếu tài sản là bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế Yêu cầu xác nhận, bãi bỏ quyền thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế - Những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện cũng có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự 2005. Cụ thể như sau: + Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản. + Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan quy định khác. + Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. + Trường hợp khác do luật quy định. 2. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp kinh doanh thương mại là 02 năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. 3. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính: - Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: + 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; + 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; + Từ ngày nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri hoặc kết thúc thời hạn giải quyết khiếu nại mà không nhận được thông báo kết quả giải quyết khiếu nại của cơ quan lập danh sách cử tri đến trước ngày bầu cử 05 ngày. - Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau: + 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; + 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Căn cứ pháp lý: - Bộ luật dân sự 2015 - Bộ luật dân sự 2005 - Luật thương mại 2005 - Luật tố tụng hành chính 2015
62 biểu mẫu dùng trong tố tụng hành chính từ ngày 24/02/2017
Theo Nghị quyết 02/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính đựơc thông qua ngày 06/01/2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 24/02/2017. Theo đó, trước mắt, ban hành 62 biểu mẫu dùng trong tố tụng hành chính, các biểu mẫu khác sẽ được ban hành sau trong thời gian tới. Sau đây là danh sách 62 biểu mẫu: Mẫu số 01-HC Đơn khởi kiện Mẫu số 02-HC Giấy xác nhận nhận đơn khởi kiện Mẫu số 03-HC Thông báo trả lại đơn khởi kiện Mẫu số 04-HC Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí Mẫu số 05-HC Thông báo nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng Mẫu số 06-HC Thông báo về việc thụ lý vụ án Mẫu số 07-HC Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ Mẫu số 08-HC Biên bản đối thoại Mẫu số 09-HC Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ giải quyết vụ án Mẫu số 10-HC Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Thẩm phán); Mẫu số 11-HC Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 12-HC Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hành chính (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 13-HC Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hành chính (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 14-HC Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 15-HC Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 16-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử Mẫu số 17-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn Mẫu số 18-HC Quyết định hoãn phiên toà Mẫu số 19-HC Quyết định tạm ngừng phiên tòa Mẫu số 20-HC Biên bản phiên toà sơ thẩm Mẫu số 21-HC Biên bản nghị án Mẫu số 22-HC Bản án hành chính sơ thẩm Mẫu số 23-HC Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án (quyết định) Mẫu số 24-HC Đơn kháng cáo Mẫu số 25-HC Giấy xác nhận đã nhận đơn kháng cáo Mẫu số 26-HC Thông báo về yêu cầu làm lại hoặc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo Mẫu số 27-HC Thông báo về yêu cầu trình bày lý do kháng cáo quá hạn Mẫu số 28-HC Thông báo trả lại đơn kháng cáo Mẫu số 29-HC Quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá hạn Mẫu số 30-HC Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn Mẫu số 31-HC Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm Mẫu số 32-HC Thông báo về việc kháng cáo Mẫu số 33-HC Thông báo về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo (kháng nghị) Mẫu số 34-HC Thông báo về việc rút kháng cáo (kháng nghị) Mẫu số 35-HC Thông báo về việc thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm Mẫu số 36-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm Mẫu số 37-HC Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (theo thủ tục rút gọn) Mẫu số 38-HC Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 39-HC Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 40-HC Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 41-HC Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 42-HC Quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính Mẫu số 43-HC Quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ (đình chỉ) giải quyết vụ án Mẫu số 44-HC Quyết định hoãn phiên tòa hành chính phúc thẩm Mẫu số 45-HC Biên bản phiên toà phúc thẩm Mẫu số 46-HC Bản án phúc thẩm Mẫu số 47-HC Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm Mẫu số 48-HC Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Mẫu số 49-HC Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và tài liệu Mẫu số 50-HC Giấy xác nhận đã nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Mẫu số 51-HC Thông báo giải quyết đơn đề nghị (thông báo, kiến nghị) xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Mẫu số 52-HC Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Mẫu số 53-HC Quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao Mẫu số 54-HC Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Mẫu số 55-HC Quyết định Giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao Mẫu số 56-HC Quyết định buộc thi hành án hành chính Mẫu số 57-HC Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 58-HC Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 59-HC Quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Hội đồng xét xử) Mẫu số 60-HC Quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 61-HC Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Thẩm phán) Mẫu số 62-HC Quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (dành cho Hội đồng xét xử) Mời các bạn xem chi tiết Nghị quyết 02/2017/NQ-HĐTP ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính tại file đính kèm.
45 biểu mẫu mới áp dụng trong tố tụng hành chính tại Tòa án nhân dân
Luật tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Song, tính đến thời điểm hiện nay chỉ có 2 văn bản hướng dẫn Luật này đó là Nghị định 71/2016/NĐ-CP và Nghị quyết 104/2015/QH13. Nhằm hoàn thiện hơn nữa các hướng dẫn để thực thi tốt Luật này, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vừa hoàn tất Dự thảo Nghị quyết ban hành các biểu mẫu áp dụng trong tố tụng hành chính tại TAND gửi các cơ quan để xin đóng góp ý kiến và kết thúc nhận đóng góp trước 30/8/2016. Trong đó, Nghị quyết ban hành kèm theo 45 biểu mẫu mới áp dụng trong tố tụng hành chính tại Tòa án nhân dân gồm: 1. Mẫu số 01 về Đơn khởi kiện 2. Mẫu số 02 về Giấy báo nhận đơn khởi kiện 3. Mẫu số 03 về Thông báo trả lại đơn khởi kiện 4. Mẫu số 04 về Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí 5. Mẫu số 05 về Thông báo về việc thụ lý vụ án 6. Mẫu số 06 về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính 7. Mẫu số 06a về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (tại phiên tòa) 8. Mẫu số 07 về Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính 9. Mẫu số 07a về Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (tại phiên tòa) 10. Mẫu số 08 về Quyết định đưa vụ án ra xét xử 11. Mẫu số 08a về Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn 12. Mẫu số 09 về Quyết định hoãn phiên tòa 13. Mẫu số 10 về Biên bản phiên tòa sơ thẩm 14. Mẫu số 11 về Bản án hành chính sơ thẩm 15. Mẫu số 12 về Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án 16. Mẫu số 13 về Đơn kháng cáo 17. Mẫu số 14 về Giấy báo nhận đơn kháng cáo 18. Mẫu số 15 về Thông báo về yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo 19. Mẫu số 16 về Thông báo về yêu cầu trình bày lý do kháng cáo quá hạn 20. Mẫu số 17 về Thông báo trả lại đơn kháng cáo 21. Mẫu số 18 về Quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn 22. Mẫu số 19 về Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn 23. Mẫu số 20 về Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 24. Mẫu số 21 về Thông báo về việc kháng cáo 25. Mẫu số 22 về Thông báo về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo (kháng nghị) 26. Mẫu số 23 về Thông báo về việc rút kháng cáo, kháng nghị 27. Mẫu số 24 về Thông báo về việc thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm 28. Mẫu số 25 về Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm 29. Mẫu số 25a về Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn 30. Mẫu số 26 về Quyết định hoãn phiên tòa hành chính phúc thẩm 31. Mẫu số 27 về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính 32. Mẫu số 27a về Quyết định tạm đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính (tại phiên tòa) 33. Mẫu số 28 về Quyết định đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính 34. Mẫu số 28a về Quyết định đình chỉ giải quyết phúc thẩm vụ án hành chính (tại phiên tòa) 35. Mẫu số 29 về Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án hành chính 36. Mẫu số 30 về Quyết định giải quyết việc kháng cáo (kháng nghị) đối với quyết định tạm đình chỉ (đình chỉ) giải quyết vụ án 37. Mẫu số 31 về Biên bản phiên tòa phúc thẩm 38. Mẫu số 32 về Bản án hành chính phúc thẩm 39. Mẫu số 33 về Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm 40. Mẫu số 34 về Đơn đề nghị xem xét bản án (quyết định) đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm 41. Mẫu số 35 về Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị giám đốc thẩm và tài liệu 42. Mẫu số 36 về Giấy xác nhận đã nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm 43. Mẫu số 37 về Thông báo giải quyết đơn đề nghị (thông báo, kiến nghị) 44. Mẫu số 38 về Quyết định kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm 45. Mẫu số 39 về Quyết định giám đốc thẩm. Mời các bạn xem chi tiết 45 biểu mẫu này tại file đính kèm.