QSDĐ tặng cho nhưng có điều kiện không được chuyển nhượng thì có được thế chấp?
Tặng cho tài sản là một thủ tục chuyển giao tài sản phổ biến đã có từ lâu, tuy nhiên, một điều khoản mà nhiều người nhận tài sản tặng cho gặp khó sau khi tiếp nhận tài sản chính là yêu cầu không được bán. Vậy trường hợp trên có thể sử dụng tài sản tặng cho đem đi thế chấp được không? 1. Có bao nhiêu loại tài sản tặng cho? Theo Điều 458 và Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định hiện nay tặng cho tài sản có 02 loại là động sản và bất động sản được hiểu như sau: - Thứ nhất là tặng cho tài sản là động sản: + Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. + Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký. - Thứ hai là tặng cho tài sản là bất động sản: + Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. + Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. 2. Không cho chuyển nhượng QSDĐ tặng cho thì có đúng quy định pháp luật? Căn cứ khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013 cho phép người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 2013. Mặc dù Luật Đất đai hiện hành quy định người sử dụng đất được các quyền trên, tuy nhiên Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015 lại quy định tặng cho tài sản được phép có điều kiện như sau: - Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. - Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. - Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp trên thì người được tặng cho không được quyền chuyển nhượng QSDĐ lại cho người khác nhưng vẫn được thế chấp tài sản nếu hợp đồng tặng cho tài sản không có thỏa thuận giữa các bên về việc người nhận tài sản không được thế chấp. 3. QSDĐ tặng cho là tài sản chung mà người nhận không biết thì xử lý thế nào? Tại Điều 460 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trách nhiệm do cố ý tặng cho tài sản không thuộc sở hữu của mình thì sẽ thực hiện như sau: Trường hợp bên tặng cho cố ý tặng cho tài sản không thuộc sở hữu của mình mà bên được tặng cho không biết hoặc không thể biết về việc đó thì bên tặng cho phải thanh toán chi phí để làm tăng giá trị của tài sản cho bên được tặng cho khi chủ sở hữu lấy lại tài sản. Ngoài ra, bên tặng cho tài sản còn phải có trách nhiệm thông báo khuyết tật của tài sản tặng cho theo Điều 461 Bộ luật Dân sự 2015Bộ luật Dân sự 2015 như sau: - Bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên được tặng cho khuyết tật của tài sản tặng cho. - Trường hợp bên tặng cho biết tài sản có khuyết tật mà không thông báo thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra cho người được tặng cho. - Nếu bên tặng cho không biết về khuyết tật của tài sản tặng cho thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Như vậy, trường hợp trên thì người được tặng cho không được quyền chuyển nhượng QSDĐ thì vẫn được thế chấp tài sản nếu hợp đồng tặng cho tài sản không có thỏa thuận giữa các bên về việc người nhận tài sản không được thế chấp.
Ba mẹ chồng đòi chia thừa kế khi chồng mất có được không?
Không ít các trường hợp khi người chồng đã mất thì tình cảm giữa người vợ và gia đình bên chồng trở nên lạnh nhạt. Chồng mất đã là một mất mát to lớn đối với người vợ nhưng việc chia tài của người chồng sau đó cũng là một vấn đề nan giải. Trong trường hợp người chồng đã mất thì gia đình nhà chồng đòi chia thừa kế đối với số di sản để lại thì có được hay không? 1. Ba mẹ chồng được hưởng thừa kế đối với loại tài sản nào? Theo khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định có tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Căn cứ quy định nêu trên, số tiền, vàng, đất đai, nhà cửa của vợ chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng bạn và khi chia thừa kế sẽ được xác định từ tài sản chung. 2. Tài sản là vàng cưới thì ba mẹ có quyền đòi lại? Vàng cưới được xem là sính lễ cưới không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi tại Việt Nam, nó là loại tài sản kim thí quý có giá trị cao. Vàng được cho gia đình 2 bên cho vợ chồng vào ngày cưới của họ trước sự chứng kiến của những người có mặt tại buổi lễ. Tiền mừng cưới, vàng và các sính lễ có giá trị khác mà không phải là bất động sản được cho vợ chồng vào ngày cưới thuộc Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 khi đây được xem là hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Do đó, căn cứ quy định trên thì ba mẹ nhà chồng không còn quyền sở hữu đối với số tài sản đó và tất nhiên sẽ không có quyền đòi lại số tiền, vàng mà người vợ được cho vào ngày cưới. 3. Tài sản là bất động sản sẽ chia ra sao? Riêng đối với nhà ở, đất đai gọi chung là bất động sản sẽ là loại tài sản rất dễ xảy ra tranh chấp vì giá trị lớn mà bất động sản đem lại. Nếu xét theo hoàn cảnh giao dịch thì vẫn tương tự như các loại tài sản là động sản khác. Tuy nhiên, đây cũng là loại tài sản đặc biệt nên phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 thì hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực. Trong trường hợp này thì hai bên phải thực hiện công chứng hợp đồng tặng cho thì mới được xem là thuộc quyền sở hữu bất động sản về bên vợ chồng theo Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Qua đó, có thể thấy nếu gia đình nhà chồng dù có cho tặng trước sự chứng kiến của họ hàng thì tài sản là bất động sản tặng cho không công chứng mà vẫn để tên người sở hữu là gia đình nhà chồng thì rất khó cho người vợ. Trường hợp nếu đã thực hiện các thủ tục pháp lý đầy đủ về hợp đồng tặng cho vợ chồng sở hữu chung thì khi người chồng mất, số tài sản này vẫn sẽ được chia 2. Theo đó, ba mẹ nhà chồng có quyền đòi phân chia tài sản thừa kế thuộc quyền sở hữu của người chồng. Như vậy, nếu ba mẹ chồng chỉ sang tên cho chồng bạn và chồng bạn không để lại di chúc thì căn nhà trên được chia đều cho ba chồng, mẹ chồng, bạn, các con bạn, mỗi người phần bằng nhau. Trong trường hợp ba mẹ chồng bạn chỉ nói cho và chưa thực hiện công chứng, sang tên cho vợ chồng bạn thì ba mẹ chồng bạn vẫn có quyền quyết định đối với bất động sản.
Có thể tặng tài sản riêng cho người đã có vợ hoặc chồng không?
Thông thường tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng được xác định là tài sản chung. Tuy nhiên, trong thực tế không ít các trường hợp vợ chồng lại muốn xác định tài sản riêng hình thành trong thời kỳ hôn nhân vì lý do cá nhân nào đó. Cụ thể xảy ra nhất là chuyện gia đình không hòa thuận, nhưng bố mẹ muốn tặng riêng nhà ở hoặc tài sản có giá khác thì phải làm thủ tục gì? Tài sản tặng riêng cho cá nhân vợ hoặc chồng thì người còn lại có quyền yêu cầu chia hay không? 1. Khi nào tài sản của vợ chồng được xác định là tài sản riêng? Để đề cao quyền riêng tư của vợ chồng trong trong thời kỳ hôn nhân pháp luật về hôn nhân và gia đình có quy định chi tiết về việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, tài sản riêng của vợ, chồng được tạo lập từ: - Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn. - Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. - Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. - Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Do đó, việc ba, mẹ hoặc người khác có nhu cầu tặng cho, thừa kế riêng tài sản cho vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân đều được pháp luật công nhân. 2. Xác định tài sản phát sinh từ tài sản riêng Trong trường hợp mà tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng (tức là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cũng được xem là của riêng người chủ sở hữu). Khi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng thì có thể căn cứ khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để xác định tài sản đó là chung hay riêng. Cụ thể, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, khi tài sản riêng có phát sinh hoa lợi, lợi tức thì đó được xem là tài sản chung với nhau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác của vợ, chồng thì có thể xác định tài sản hoa lợi, lợi tức có thể là tài sản riêng. 3. Hiệu lực chia tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân Tương tự như việc xác định thời điểm có hiệu lực tài sản chung của vợ chồng thì tài sản riêng cũng được chia theo Điều 39 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thực hiện như sau: Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản riêng của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản. Nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định. Trong trường hợp Tòa án chia tài sản riêng của vợ chồng thì việc chia tài sản riêng có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Qua đó, hợp đồng tặng cho là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực; phải đăng ký chuyển quyền, thì có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai. Sau khi ba mẹ, người thân của vợ hoặc chồng lập hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì cần phải được công chứng, chứng thực. Sau đó, người nhận hồ sơ đăng ký biến động sẽ tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, nếu đã đầy đủ thì tiến hành theo trình tự của thủ tục và hồ sơ sẽ được gửi đến cơ quan thuế và Phòng Tài nguyên và Môi trường để xác định nghĩa vụ tài chính và tiến hành sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cha mẹ tặng cho đất cho một người con, có cần tất cả các con phải ký tên không?
Xin chào luật sư. Tôi có một vấn đề không rõ muốn được luật sư tư vấn.Trong gia định tôi có 7 ace tính luôn cả tôi. Trong đó có 4 người đã có gia đình đã tách hộ khẩu và cũng đã được xoá tên trên sổ hộ khẩu chung với cha mẹ. Tức là sổ hộ khẩu hiện tại của ba mẹ tôi chỉ còn có cha mẹ và 3 người con. Giờ cha mẹ tôi có một ngôi nhà muốn để lại cho một trong 3 người con còn lại trong sổ hộ khẩu đứng tên. Thì bây giờ ngoài ba mẹ tôi đã ký tên vào giấy tặng cho thì có cần thêm 2 người con còn lại ký k ạ và những người đã cắ khẩu và gạch tên khỏi sổ có cần ký k ạ. Cái tôi k rõ nhất là NHỮNG NGƯỜI CON ĐÃ BỊ GẠCH TÊN KHỎI SỔ CÓ CẦN PHẢI KÝ TÊN KHÔNG Ạ. Mong được luật sư trả lời, xin cảm on
Re: Nhà đã tặng cho vợ khi ra toà có được chia không?
Điều kiện hợp pháp của hợp đồng tặng cho tài sản Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy ta có thể hiểu hợp đồng tặng cho bất động sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao quyền sử dụng bất động sản cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận. Bên cạnh đó còn Hợp đồng tặng cho bất động sản còn phải tuân theo pháp luật về đất đai quy định tại điều 167 Luật đất đai 2013, như sau: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực…” Như vậy, trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu. Trường hợp đã tặng cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại. Vậy trường hợp nào có thể đòi lại tài sản? Trừ trường hợp hợp đồng tặng cho đó là hợp đồng tặng cho có điều kiện và người được tặng cho vi phạm điều kiện này thì có thể lấy đó làm căm cứ chấm dứt hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau: "Điều 120. Giao dịch dân sự có điều kiện 1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. 2. Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra." Như vậy, người tặng cho chỉ có thể đòi lại tài sản đã tặng cho trong trường hợp là tặng cho tài sản có điều kiện và bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho. Theo thông tin bạn cung cấp thì việc các bên có thỏa thuận về việc sau ly hôn một nữa căn nhà để lại cho các con. Tuy nhiên, thỏa thuận này phải được lập thành văn bản mới có thể coi là điều kiện của hợp đồng tặng cho. Vì vậy khi người được tặng cho vi phạm thỏa thuận này thì các bạn phải có căn cứ chứng minh tồn tại điều kiện của hợp đồng và người vợ đã vi phạm điều kiện đó thì mới có thể đòi lại căn nhà.
Quy định pháp lý về tặng cho giấy tờ có giá
Bộ luật Dân sự 2015 không định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu giấy tờ có giá là một loại tài sản. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác". Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại Công văn 141/TANDTC-KHXX, có thể liệt kê một số loại giấy tờ có giá như: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác; Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu; Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái; Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) và Trái phiếu doanh nghiệp … Như vậy, giấy tờ có giá là một loại tài sản do đó, việc tặng cho giấy tờ có giá cũng là một giao dịch dân sự được thực hiện theo quy định của tặng cho tài sản. Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.” “Điều 458. Tặng cho động sản 1. Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.” “Điều 462. Tặng cho tài sản có điều kiện 1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. 3. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.” Hiện tại, pháp luật không có văn bản nào quy định chi tiết về việc tặng cho giấy tờ có giá nên căn cứ theo quy định pháp luật nêu trên, hợp đồng tặng cho giấy tờ có giá sẽ được thực hiện theo quy định của hợp đồng tặng cho tài sản và không bắt buộc các bên giao dịch phải công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, để đảm bảo giá trị pháp lý cho giao dịch này, hai bên có thể thực hiện công chứng, chứng thực tại các phòng, văn phòng công chứng.
Tặng cho nhà đất, có đòi lại được không?
>>>Tặng cho đất với điều kiện không được bán có được không? Xuất phát từ ý chí của chủ sở hữu tài sản, không ít trường hợp diễn ra việc tặng cho nhà đất trong đời sống. Phổ biến là việc tặng cho giữa cha mẹ với con cái, giữa vợ và chồng, giữa họ hàng thân thích với nhau,… Xong, thực tế vẫn xảy ra trường hợp người tặng cho đổi ý, muốn đòi lại tài sản đã tặng cho thì như thế nào? Họ có được quyền đòi lại tài sản hay không? Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận (Điều 457 Bộ luật dân sự 2015). Điều 459 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc tặng cho bất động sản như sau: 1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. 2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Theo đó, trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu. Khi phát sinh vấn đề đòi lại nhà đất đã tặng cho, chúng ta cần chia thành 02 trường hợp: - TH1: Trường hợp không có quyền đòi lại tài sản Trường hợp đã tặng cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại. - TH2: Đòi lại tài sản khi chưa hoàn tất việc chuyển quyền sở hữu Nếu hợp chưa thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng thì có quyền sửa đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng tặng cho theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Công chứng 2014: “Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó”. Theo quy định trên, nếu muốn hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thì cần có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của cả người tặng cho và người được tặng cho và văn bản thỏa thuận, cam kết này cũng phải được công chứng theo quy định. - TH3: Đòi lại tài sản khi việc tặng cho vô hiệu Nếu việc tặng cho rơi vào các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 (hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức như không lập thành văn bản, không công chứng, chứng thực; hợp đồng bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép...) thì người tặng cho có quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó vô hiệu. Cụ thể, Tòa án có thẩm quyền được xác định là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản (theo Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, các bên sẽ được khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nếu bên tặng cho chứng minh được Hợp đồng tặng cho nhà, đất vô hiệu. - TH4: Đòi lại tài sản khi tặng cho có điều kiện Tại Điều 470 Bộ luật dân 2015sự có quy định về tặng cho tài sản có điều kiện như sau: "1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. 2. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. 3. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại". Với quy định trên, đối với trường hợp tặng cho có điều kiện thì bên tặng cho có thể yêu cầu bên nhận tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Do đó, người tặng cho có thể đòi lại tài sản đã tặng cho trong trường hợp là tặng cho tài sản có điều kiện và bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho.
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Gia Phác, bà Phùng Thị Tài, anh Phạm Gia Ơn, chị Phạm Thị Lữ, anh Bùi Văn Đáp, chị Đỗ Thị Ngọc Hà. Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; - Điều 242 của Bộ luật Dân sự năm 1995; - Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995. Từ khoá của án lệ: “Ly hôn”; “Tài sản chung của vợ chồng”; “Tặng cho tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”. NỘI DUNG VỤ ÁN Chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam kết hôn năm 1992, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Sau chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2008 đến nay. Ngày 18-4-2009, chị Hồng khởi kiện xin ly hôn anh Nam, anh Nam cũng đồng ý. Về con chung: Vợ chồng có hai con là Phạm Gia Khang, sinh năm 1992 và Phạm Hương Giang, sinh năm 2000. Chị Hồng và anh Nam đều có nguyện vọng nuôi cả hai con và không yêu cầu người còn lại đóng góp nuôi con. Nguyện vọng của cháu Khang là muốn ở với anh Nam, nguyện vọng của cháu Giang là muốn ở với chị Hồng. Về tài sản: Trong quá trình chung sống thì vợ chồng có xây nhà hai tầng vào năm 2002 (năm 2005 xây thêm một tum để chống nóng), nhà được xây trên thửa đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín. Về nhà, vợ chồng thống nhất là tài sản chung hai vợ chồng. Riêng về đất thì các bên không thống nhất được với nhau. Theo chị Hồng: Đất là của gia đình ông Phạm Gia Phác (bố đẻ anh Nam) được cấp đất giãn dân năm 1992, sau đó gia đình ông Phác đã họp và tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất, không làm giấy tờ. Năm 2001, ông Phác sang báo và anh Nam đi làm thủ tục cấp sổ đỏ nên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ anh Phạm Gia Nam nên đất này là tài sản chung của vợ chồng. Chị yêu cầu được sử dụng nhà và đất nêu trên và thanh toán 1/2 giá trị đất và tài sản trên đất cho anh Nam như giá mà Hội đồng định giá đã đưa ra. Theo anh Nam: Thửa đất này bố mẹ anh được cấp giãn dân năm 1992, bố mẹ chỉ cho vợ chồng ở nhờ chứ chưa cho vì gia đình anh còn đông anh em. Năm 2001, anh tự kê khai làm giấy tờ đất, gia đình anh không biết. Quan điểm của anh là trả lại đất cho ông Phác. Theo ông Phác và bà Tài (bố mẹ anh Nam): Nguồn gốc đất là của ông được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo cấp đất giãn dân năm 1992, ông có xây một căn nhà cấp 4 trên đó. Năm 1993, gia đình ông cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng ra đó làm ăn sinh sống chứ không cho đất vì vợ ông bị liệt 15 năm nay, ông và anh Ơn (em trai anh Nam) phải chăm sóc, nguyện vọng của gia đình là để mảnh đất này cho anh Ơn vì anh Ơn chưa có chỗ ở. Khi gia đình được cấp đất giãn dân thì gia đình chỉ có 4 người là ông, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (còn anh Nam đã thoát ly khỏi địa phương). Khi chị Hồng xin ly hôn anh Nam thì gia đình mới biết anh Nam đã tự động sang tên đất từ năm 2001. Nay ông, bà yêu cầu anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho ông, bà. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án chị Hồng còn khai anh Nam được trường Cán bộ Sỹ quan Lục quân I cấp một thửa đất có diện tích 125m2 ở huyện Thạch Thất, ban đầu chị yêu cầu chia thửa đất này nhưng sau đó chị không yêu cầu giải quyết nữa. Về nợ: Theo chị Hồng, vợ chồng vay của bà Hoàng Thị Chu (mẹ chị) 7,5 chỉ vàng 9999, vay của chị Đỗ Thị Ngọc Hà (chị gái chị) 1 cây vàng 9999, vay của anh Bùi Văn Đáp 150.000.000 đồng, lãi suất 1,25%/tháng, tất cả các khoản vay này đều không có giấy tờ. Chị yêu cầu anh Nam phải cùng chị thanh toán các khoản nợ trên. Theo anh Nam, vợ chồng chỉ nợ bà Chu 7,5 chỉ vàng, anh đã trả được 13.875.000 đồng (tương đương 3,75 chỉ vàng). Còn các khoản vay khác anh không biết, anh không đồng ý trả theo yêu cầu của chị Hồng. Ngày 03-11-2010, Hội đồng định giá đã định giá tài sản như sau: Đất: 80m2 x 22.000.000 đồng/m2 = 1.760.000.000 đồng. Nhà: 475.865.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 2.235.865.000 đồng. Tại Bản án sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011, Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội đã quyết định: 1. Về quan hệ vợ chồng: Chị Đỗ Thị Hồng được ly hôn anh Phạm Gia Nam. 2. Về con chung: Giao cháu Phạm Hương Giang, sinh ngày 14-8-2000 cho chị Hồng nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung cho anh Nam đến khi chị Hồng có yêu cầu. Anh Nam có quyền đi lại thăm hỏi con chung, không ai được ngăn cản. 3. Tài sản chung, công sức đóng góp: Xác nhận ngôi nhà hai tầng 1 tum và Tòan bộ công trình trên thửa đất số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản chung của chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam có giá trị 475.865.000 đồng. 4. Xác nhận quyền sử dụng đất 80m2 đất thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác. Buộc chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam phải trả lại cho hộ gia đình ông Phạm Gia Phác quyền sử dụng 80m2 thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Giao hộ gia đình ông Phạm Gia Phác được quyền sở hữu Tòan bộ tài sản trên thửa đất này gồm nhà hai tầng và công trình trên đất. Buộc ông Phạm Gia Phác phải thanh toán trả chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam mỗi người 237.932.500 đồng. 5. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 cấp ngày 21-12-2001, mang tên hộ ông Phạm Gia Nam để làm thủ tục cấp lại cho ông Phạm Gia Phác khi ông Phác có yêu cầu. 6. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Gia Nam hỗ trợ chị Đỗ Thị Hồng số tiền là 800.000.000 đồng. 7. Buộc chị Đỗ Thị Hồng phải thanh toán trả cho anh Bùi Văn Đáp số tiền là 179.820.000 đồng. 8. Bác các yêu cầu khác của chị Đỗ Thị Hồng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 19-5-2011, chị Hồng có đơn kháng cáo Tòan bộ Bản án sơ thẩm. Ngày 24-5-2011, anh Nam kháng cáo không đồng ý hỗ trợ chị Hồng 800.000.000 đồng tạo dựng chỗ ở mới. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm anh Nam rút yêu cầu kháng cáo này. Tại Bản án phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30-8-2011 và ngày 06-9-2011 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (như đã nêu ở trên). Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Hồng và bà Hoàng Thị Chu có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định kháng nghị số 05/2013/KN-HNGĐ-LĐ ngày 03-01-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30-8-2011 và 06-9-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm nêu trên và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm soát nhân dân tối cao cho rằng đối với đất tranh chấp, khi cấp giãn dân cho gia đình ông Phác thì không có anh Nam, không có căn cứ cho rằng bố mẹ đã cho vợ chồng anh Nam nên đất vẫn là của gia đình ông Phác. Tòa án hai cấp xác định là của bố mẹ anh Nam là có căn cứ. Có sai phần nợ của bà Chu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Về quan hệ hôn nhân và con chung, Tòa án các cấp đã giải quyết, các đương sự không có khiếu nại. Về quan hệ tài sản: Tài sản mà các đương sự tranh chấp là diện tích đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội mang tên hộ anh Phạm Gia Nam. Hồ sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia Phác được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín cấp đất giãn dân vào năm 1992. Căn cứ Biên bản bàn giao đất của Ủy ban nhân dân xã cho ông Phác thì thời điểm có biên bản giao đất này chị Hồng đã kết hôn với anh Nam. Tuy nhiên, theo xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm tại xã Vân Tảo, Thường Tín về thủ tục cấp đất thì xã Vân Tảo đã có chủ trương cấp đất giãn dân từ năm 1991. Dù khi làm thủ tục cấp đất, gia đình ông Phác chỉ có 4 người là ông Phác, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (vì thời điểm này anh Nam đi bộ đội chưa về địa phương), nhưng việc cấp đất giãn dân là cấp đất cho hộ đông người, cấp cho vợ chồng ông Phác và các con, nên anh Nam cũng là đối tượng được cấp đất. Sau khi nhận đất, gia đình ông Phác đã xây dựng một căn nhà cấp 4. Năm 1993, gia đình ông Phác cho vợ chồng anh Nam chị Hồng ra ở riêng trên diện tích đất này và anh chị là người quản lý, sử dụng đất liên tục từ đó cho đến nay. Chị Hồng cho rằng gia đình ông Phác đã tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất nêu trên, ông Phác và anh Nam khẳng định gia đình chưa cho vợ chồng. Xét thấy: Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001, xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001, anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời, buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Đối với nội dung khiếu nại của bà Hoàng Thị Chu (mẹ đẻ chị Hồng), thấy rằng: Ngày 07-5-2011 (trước ngày xét xử sơ thẩm), bà Chu đã có đơn gửi Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, nội dung: “Hôm nay là ngày 07-5-2011, tôi đã nhận được số tiền các cháu trả tôi. Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết nữa”. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên sung công quỹ đối với số tiền tạm ứng án phí của bà Chu (200.000đ), nhưng không tuyên đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đòi nợ của bà Chu, là trái với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bà Chu không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm đã căn cứ Điều 263 Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, nên kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với nội dung trên là không cần thiết. Do đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét thấy kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với phần tài sản tranh chấp của anh Nam, chị Hồng (là 80m2 đất tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, Hà Nội), là có căn cứ chấp nhận. Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LH-PT ngày 30-8-2011 và ngày 06-9-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản, đã giải quyết vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng và bị đơn là anh Phạm Gia Nam; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”
QSDĐ tặng cho nhưng có điều kiện không được chuyển nhượng thì có được thế chấp?
Tặng cho tài sản là một thủ tục chuyển giao tài sản phổ biến đã có từ lâu, tuy nhiên, một điều khoản mà nhiều người nhận tài sản tặng cho gặp khó sau khi tiếp nhận tài sản chính là yêu cầu không được bán. Vậy trường hợp trên có thể sử dụng tài sản tặng cho đem đi thế chấp được không? 1. Có bao nhiêu loại tài sản tặng cho? Theo Điều 458 và Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định hiện nay tặng cho tài sản có 02 loại là động sản và bất động sản được hiểu như sau: - Thứ nhất là tặng cho tài sản là động sản: + Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. + Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký. - Thứ hai là tặng cho tài sản là bất động sản: + Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. + Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. 2. Không cho chuyển nhượng QSDĐ tặng cho thì có đúng quy định pháp luật? Căn cứ khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013 cho phép người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai 2013. Mặc dù Luật Đất đai hiện hành quy định người sử dụng đất được các quyền trên, tuy nhiên Điều 462 Bộ luật Dân sự 2015 lại quy định tặng cho tài sản được phép có điều kiện như sau: - Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. - Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. - Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp trên thì người được tặng cho không được quyền chuyển nhượng QSDĐ lại cho người khác nhưng vẫn được thế chấp tài sản nếu hợp đồng tặng cho tài sản không có thỏa thuận giữa các bên về việc người nhận tài sản không được thế chấp. 3. QSDĐ tặng cho là tài sản chung mà người nhận không biết thì xử lý thế nào? Tại Điều 460 Bộ luật Dân sự 2015 quy định trách nhiệm do cố ý tặng cho tài sản không thuộc sở hữu của mình thì sẽ thực hiện như sau: Trường hợp bên tặng cho cố ý tặng cho tài sản không thuộc sở hữu của mình mà bên được tặng cho không biết hoặc không thể biết về việc đó thì bên tặng cho phải thanh toán chi phí để làm tăng giá trị của tài sản cho bên được tặng cho khi chủ sở hữu lấy lại tài sản. Ngoài ra, bên tặng cho tài sản còn phải có trách nhiệm thông báo khuyết tật của tài sản tặng cho theo Điều 461 Bộ luật Dân sự 2015Bộ luật Dân sự 2015 như sau: - Bên tặng cho có nghĩa vụ thông báo cho bên được tặng cho khuyết tật của tài sản tặng cho. - Trường hợp bên tặng cho biết tài sản có khuyết tật mà không thông báo thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra cho người được tặng cho. - Nếu bên tặng cho không biết về khuyết tật của tài sản tặng cho thì không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Như vậy, trường hợp trên thì người được tặng cho không được quyền chuyển nhượng QSDĐ thì vẫn được thế chấp tài sản nếu hợp đồng tặng cho tài sản không có thỏa thuận giữa các bên về việc người nhận tài sản không được thế chấp.
Ba mẹ chồng đòi chia thừa kế khi chồng mất có được không?
Không ít các trường hợp khi người chồng đã mất thì tình cảm giữa người vợ và gia đình bên chồng trở nên lạnh nhạt. Chồng mất đã là một mất mát to lớn đối với người vợ nhưng việc chia tài của người chồng sau đó cũng là một vấn đề nan giải. Trong trường hợp người chồng đã mất thì gia đình nhà chồng đòi chia thừa kế đối với số di sản để lại thì có được hay không? 1. Ba mẹ chồng được hưởng thừa kế đối với loại tài sản nào? Theo khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định có tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 điều 40 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Căn cứ quy định nêu trên, số tiền, vàng, đất đai, nhà cửa của vợ chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng bạn và khi chia thừa kế sẽ được xác định từ tài sản chung. 2. Tài sản là vàng cưới thì ba mẹ có quyền đòi lại? Vàng cưới được xem là sính lễ cưới không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi tại Việt Nam, nó là loại tài sản kim thí quý có giá trị cao. Vàng được cho gia đình 2 bên cho vợ chồng vào ngày cưới của họ trước sự chứng kiến của những người có mặt tại buổi lễ. Tiền mừng cưới, vàng và các sính lễ có giá trị khác mà không phải là bất động sản được cho vợ chồng vào ngày cưới thuộc Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 khi đây được xem là hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Do đó, căn cứ quy định trên thì ba mẹ nhà chồng không còn quyền sở hữu đối với số tài sản đó và tất nhiên sẽ không có quyền đòi lại số tiền, vàng mà người vợ được cho vào ngày cưới. 3. Tài sản là bất động sản sẽ chia ra sao? Riêng đối với nhà ở, đất đai gọi chung là bất động sản sẽ là loại tài sản rất dễ xảy ra tranh chấp vì giá trị lớn mà bất động sản đem lại. Nếu xét theo hoàn cảnh giao dịch thì vẫn tương tự như các loại tài sản là động sản khác. Tuy nhiên, đây cũng là loại tài sản đặc biệt nên phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 thì hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực. Trong trường hợp này thì hai bên phải thực hiện công chứng hợp đồng tặng cho thì mới được xem là thuộc quyền sở hữu bất động sản về bên vợ chồng theo Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Qua đó, có thể thấy nếu gia đình nhà chồng dù có cho tặng trước sự chứng kiến của họ hàng thì tài sản là bất động sản tặng cho không công chứng mà vẫn để tên người sở hữu là gia đình nhà chồng thì rất khó cho người vợ. Trường hợp nếu đã thực hiện các thủ tục pháp lý đầy đủ về hợp đồng tặng cho vợ chồng sở hữu chung thì khi người chồng mất, số tài sản này vẫn sẽ được chia 2. Theo đó, ba mẹ nhà chồng có quyền đòi phân chia tài sản thừa kế thuộc quyền sở hữu của người chồng. Như vậy, nếu ba mẹ chồng chỉ sang tên cho chồng bạn và chồng bạn không để lại di chúc thì căn nhà trên được chia đều cho ba chồng, mẹ chồng, bạn, các con bạn, mỗi người phần bằng nhau. Trong trường hợp ba mẹ chồng bạn chỉ nói cho và chưa thực hiện công chứng, sang tên cho vợ chồng bạn thì ba mẹ chồng bạn vẫn có quyền quyết định đối với bất động sản.
Có thể tặng tài sản riêng cho người đã có vợ hoặc chồng không?
Thông thường tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng được xác định là tài sản chung. Tuy nhiên, trong thực tế không ít các trường hợp vợ chồng lại muốn xác định tài sản riêng hình thành trong thời kỳ hôn nhân vì lý do cá nhân nào đó. Cụ thể xảy ra nhất là chuyện gia đình không hòa thuận, nhưng bố mẹ muốn tặng riêng nhà ở hoặc tài sản có giá khác thì phải làm thủ tục gì? Tài sản tặng riêng cho cá nhân vợ hoặc chồng thì người còn lại có quyền yêu cầu chia hay không? 1. Khi nào tài sản của vợ chồng được xác định là tài sản riêng? Để đề cao quyền riêng tư của vợ chồng trong trong thời kỳ hôn nhân pháp luật về hôn nhân và gia đình có quy định chi tiết về việc xác định tài sản riêng của vợ, chồng tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, tài sản riêng của vợ, chồng được tạo lập từ: - Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn. - Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. - Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. - Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Do đó, việc ba, mẹ hoặc người khác có nhu cầu tặng cho, thừa kế riêng tài sản cho vợ hoặc chồng trong thời kỳ hôn nhân đều được pháp luật công nhân. 2. Xác định tài sản phát sinh từ tài sản riêng Trong trường hợp mà tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng (tức là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng cũng được xem là của riêng người chủ sở hữu). Khi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng thì có thể căn cứ khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để xác định tài sản đó là chung hay riêng. Cụ thể, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, khi tài sản riêng có phát sinh hoa lợi, lợi tức thì đó được xem là tài sản chung với nhau, trừ trường hợp có thỏa thuận khác của vợ, chồng thì có thể xác định tài sản hoa lợi, lợi tức có thể là tài sản riêng. 3. Hiệu lực chia tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân Tương tự như việc xác định thời điểm có hiệu lực tài sản chung của vợ chồng thì tài sản riêng cũng được chia theo Điều 39 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thực hiện như sau: Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản riêng của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản. Nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản. Trong trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định. Trong trường hợp Tòa án chia tài sản riêng của vợ chồng thì việc chia tài sản riêng có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Qua đó, hợp đồng tặng cho là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực; phải đăng ký chuyển quyền, thì có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai. Sau khi ba mẹ, người thân của vợ hoặc chồng lập hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì cần phải được công chứng, chứng thực. Sau đó, người nhận hồ sơ đăng ký biến động sẽ tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, nếu đã đầy đủ thì tiến hành theo trình tự của thủ tục và hồ sơ sẽ được gửi đến cơ quan thuế và Phòng Tài nguyên và Môi trường để xác định nghĩa vụ tài chính và tiến hành sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cha mẹ tặng cho đất cho một người con, có cần tất cả các con phải ký tên không?
Xin chào luật sư. Tôi có một vấn đề không rõ muốn được luật sư tư vấn.Trong gia định tôi có 7 ace tính luôn cả tôi. Trong đó có 4 người đã có gia đình đã tách hộ khẩu và cũng đã được xoá tên trên sổ hộ khẩu chung với cha mẹ. Tức là sổ hộ khẩu hiện tại của ba mẹ tôi chỉ còn có cha mẹ và 3 người con. Giờ cha mẹ tôi có một ngôi nhà muốn để lại cho một trong 3 người con còn lại trong sổ hộ khẩu đứng tên. Thì bây giờ ngoài ba mẹ tôi đã ký tên vào giấy tặng cho thì có cần thêm 2 người con còn lại ký k ạ và những người đã cắ khẩu và gạch tên khỏi sổ có cần ký k ạ. Cái tôi k rõ nhất là NHỮNG NGƯỜI CON ĐÃ BỊ GẠCH TÊN KHỎI SỔ CÓ CẦN PHẢI KÝ TÊN KHÔNG Ạ. Mong được luật sư trả lời, xin cảm on
Re: Nhà đã tặng cho vợ khi ra toà có được chia không?
Điều kiện hợp pháp của hợp đồng tặng cho tài sản Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy ta có thể hiểu hợp đồng tặng cho bất động sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao quyền sử dụng bất động sản cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận. Bên cạnh đó còn Hợp đồng tặng cho bất động sản còn phải tuân theo pháp luật về đất đai quy định tại điều 167 Luật đất đai 2013, như sau: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực…” Như vậy, trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu. Trường hợp đã tặng cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại. Vậy trường hợp nào có thể đòi lại tài sản? Trừ trường hợp hợp đồng tặng cho đó là hợp đồng tặng cho có điều kiện và người được tặng cho vi phạm điều kiện này thì có thể lấy đó làm căm cứ chấm dứt hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2015 có quy định như sau: "Điều 120. Giao dịch dân sự có điều kiện 1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ. 2. Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra." Như vậy, người tặng cho chỉ có thể đòi lại tài sản đã tặng cho trong trường hợp là tặng cho tài sản có điều kiện và bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho. Theo thông tin bạn cung cấp thì việc các bên có thỏa thuận về việc sau ly hôn một nữa căn nhà để lại cho các con. Tuy nhiên, thỏa thuận này phải được lập thành văn bản mới có thể coi là điều kiện của hợp đồng tặng cho. Vì vậy khi người được tặng cho vi phạm thỏa thuận này thì các bạn phải có căn cứ chứng minh tồn tại điều kiện của hợp đồng và người vợ đã vi phạm điều kiện đó thì mới có thể đòi lại căn nhà.
Quy định pháp lý về tặng cho giấy tờ có giá
Bộ luật Dân sự 2015 không định nghĩa cụ thể giấy tờ có giá là gì mà chỉ nêu giấy tờ có giá là một loại tài sản. Theo Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác". Căn cứ vào nội dung giải đáp về giấy tờ có giá tại Công văn 141/TANDTC-KHXX, có thể liệt kê một số loại giấy tờ có giá như: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác; Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu; Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái; Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) và Trái phiếu doanh nghiệp … Như vậy, giấy tờ có giá là một loại tài sản do đó, việc tặng cho giấy tờ có giá cũng là một giao dịch dân sự được thực hiện theo quy định của tặng cho tài sản. Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.” “Điều 458. Tặng cho động sản 1. Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.” “Điều 462. Tặng cho tài sản có điều kiện 1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. 3. Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.” Hiện tại, pháp luật không có văn bản nào quy định chi tiết về việc tặng cho giấy tờ có giá nên căn cứ theo quy định pháp luật nêu trên, hợp đồng tặng cho giấy tờ có giá sẽ được thực hiện theo quy định của hợp đồng tặng cho tài sản và không bắt buộc các bên giao dịch phải công chứng, chứng thực. Tuy nhiên, để đảm bảo giá trị pháp lý cho giao dịch này, hai bên có thể thực hiện công chứng, chứng thực tại các phòng, văn phòng công chứng.
Tặng cho nhà đất, có đòi lại được không?
>>>Tặng cho đất với điều kiện không được bán có được không? Xuất phát từ ý chí của chủ sở hữu tài sản, không ít trường hợp diễn ra việc tặng cho nhà đất trong đời sống. Phổ biến là việc tặng cho giữa cha mẹ với con cái, giữa vợ và chồng, giữa họ hàng thân thích với nhau,… Xong, thực tế vẫn xảy ra trường hợp người tặng cho đổi ý, muốn đòi lại tài sản đã tặng cho thì như thế nào? Họ có được quyền đòi lại tài sản hay không? Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận (Điều 457 Bộ luật dân sự 2015). Điều 459 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc tặng cho bất động sản như sau: 1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. 2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản. Theo đó, trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu. Khi phát sinh vấn đề đòi lại nhà đất đã tặng cho, chúng ta cần chia thành 02 trường hợp: - TH1: Trường hợp không có quyền đòi lại tài sản Trường hợp đã tặng cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại. - TH2: Đòi lại tài sản khi chưa hoàn tất việc chuyển quyền sở hữu Nếu hợp chưa thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng thì có quyền sửa đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng tặng cho theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Công chứng 2014: “Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó”. Theo quy định trên, nếu muốn hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thì cần có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của cả người tặng cho và người được tặng cho và văn bản thỏa thuận, cam kết này cũng phải được công chứng theo quy định. - TH3: Đòi lại tài sản khi việc tặng cho vô hiệu Nếu việc tặng cho rơi vào các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2015 (hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức như không lập thành văn bản, không công chứng, chứng thực; hợp đồng bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép...) thì người tặng cho có quyền khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó vô hiệu. Cụ thể, Tòa án có thẩm quyền được xác định là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản (theo Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015) Theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, các bên sẽ được khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nếu bên tặng cho chứng minh được Hợp đồng tặng cho nhà, đất vô hiệu. - TH4: Đòi lại tài sản khi tặng cho có điều kiện Tại Điều 470 Bộ luật dân 2015sự có quy định về tặng cho tài sản có điều kiện như sau: "1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. 2. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. 3. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại". Với quy định trên, đối với trường hợp tặng cho có điều kiện thì bên tặng cho có thể yêu cầu bên nhận tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Do đó, người tặng cho có thể đòi lại tài sản đã tặng cho trong trường hợp là tặng cho tài sản có điều kiện và bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho.
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03-5-2013 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Gia Phác, bà Phùng Thị Tài, anh Phạm Gia Ơn, chị Phạm Thị Lữ, anh Bùi Văn Đáp, chị Đỗ Thị Ngọc Hà. Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; - Điều 242 của Bộ luật Dân sự năm 1995; - Khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 1995. Từ khoá của án lệ: “Ly hôn”; “Tài sản chung của vợ chồng”; “Tặng cho tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”. NỘI DUNG VỤ ÁN Chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam kết hôn năm 1992, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Sau chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2008 đến nay. Ngày 18-4-2009, chị Hồng khởi kiện xin ly hôn anh Nam, anh Nam cũng đồng ý. Về con chung: Vợ chồng có hai con là Phạm Gia Khang, sinh năm 1992 và Phạm Hương Giang, sinh năm 2000. Chị Hồng và anh Nam đều có nguyện vọng nuôi cả hai con và không yêu cầu người còn lại đóng góp nuôi con. Nguyện vọng của cháu Khang là muốn ở với anh Nam, nguyện vọng của cháu Giang là muốn ở với chị Hồng. Về tài sản: Trong quá trình chung sống thì vợ chồng có xây nhà hai tầng vào năm 2002 (năm 2005 xây thêm một tum để chống nóng), nhà được xây trên thửa đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín. Về nhà, vợ chồng thống nhất là tài sản chung hai vợ chồng. Riêng về đất thì các bên không thống nhất được với nhau. Theo chị Hồng: Đất là của gia đình ông Phạm Gia Phác (bố đẻ anh Nam) được cấp đất giãn dân năm 1992, sau đó gia đình ông Phác đã họp và tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất, không làm giấy tờ. Năm 2001, ông Phác sang báo và anh Nam đi làm thủ tục cấp sổ đỏ nên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ anh Phạm Gia Nam nên đất này là tài sản chung của vợ chồng. Chị yêu cầu được sử dụng nhà và đất nêu trên và thanh toán 1/2 giá trị đất và tài sản trên đất cho anh Nam như giá mà Hội đồng định giá đã đưa ra. Theo anh Nam: Thửa đất này bố mẹ anh được cấp giãn dân năm 1992, bố mẹ chỉ cho vợ chồng ở nhờ chứ chưa cho vì gia đình anh còn đông anh em. Năm 2001, anh tự kê khai làm giấy tờ đất, gia đình anh không biết. Quan điểm của anh là trả lại đất cho ông Phác. Theo ông Phác và bà Tài (bố mẹ anh Nam): Nguồn gốc đất là của ông được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo cấp đất giãn dân năm 1992, ông có xây một căn nhà cấp 4 trên đó. Năm 1993, gia đình ông cho vợ chồng anh Nam, chị Hồng ra đó làm ăn sinh sống chứ không cho đất vì vợ ông bị liệt 15 năm nay, ông và anh Ơn (em trai anh Nam) phải chăm sóc, nguyện vọng của gia đình là để mảnh đất này cho anh Ơn vì anh Ơn chưa có chỗ ở. Khi gia đình được cấp đất giãn dân thì gia đình chỉ có 4 người là ông, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (còn anh Nam đã thoát ly khỏi địa phương). Khi chị Hồng xin ly hôn anh Nam thì gia đình mới biết anh Nam đã tự động sang tên đất từ năm 2001. Nay ông, bà yêu cầu anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho ông, bà. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án chị Hồng còn khai anh Nam được trường Cán bộ Sỹ quan Lục quân I cấp một thửa đất có diện tích 125m2 ở huyện Thạch Thất, ban đầu chị yêu cầu chia thửa đất này nhưng sau đó chị không yêu cầu giải quyết nữa. Về nợ: Theo chị Hồng, vợ chồng vay của bà Hoàng Thị Chu (mẹ chị) 7,5 chỉ vàng 9999, vay của chị Đỗ Thị Ngọc Hà (chị gái chị) 1 cây vàng 9999, vay của anh Bùi Văn Đáp 150.000.000 đồng, lãi suất 1,25%/tháng, tất cả các khoản vay này đều không có giấy tờ. Chị yêu cầu anh Nam phải cùng chị thanh toán các khoản nợ trên. Theo anh Nam, vợ chồng chỉ nợ bà Chu 7,5 chỉ vàng, anh đã trả được 13.875.000 đồng (tương đương 3,75 chỉ vàng). Còn các khoản vay khác anh không biết, anh không đồng ý trả theo yêu cầu của chị Hồng. Ngày 03-11-2010, Hội đồng định giá đã định giá tài sản như sau: Đất: 80m2 x 22.000.000 đồng/m2 = 1.760.000.000 đồng. Nhà: 475.865.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 2.235.865.000 đồng. Tại Bản án sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011, Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội đã quyết định: 1. Về quan hệ vợ chồng: Chị Đỗ Thị Hồng được ly hôn anh Phạm Gia Nam. 2. Về con chung: Giao cháu Phạm Hương Giang, sinh ngày 14-8-2000 cho chị Hồng nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung cho anh Nam đến khi chị Hồng có yêu cầu. Anh Nam có quyền đi lại thăm hỏi con chung, không ai được ngăn cản. 3. Tài sản chung, công sức đóng góp: Xác nhận ngôi nhà hai tầng 1 tum và Tòan bộ công trình trên thửa đất số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản chung của chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam có giá trị 475.865.000 đồng. 4. Xác nhận quyền sử dụng đất 80m2 đất thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác. Buộc chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam phải trả lại cho hộ gia đình ông Phạm Gia Phác quyền sử dụng 80m2 thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Giao hộ gia đình ông Phạm Gia Phác được quyền sở hữu Tòan bộ tài sản trên thửa đất này gồm nhà hai tầng và công trình trên đất. Buộc ông Phạm Gia Phác phải thanh toán trả chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam mỗi người 237.932.500 đồng. 5. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Thường Tín thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 cấp ngày 21-12-2001, mang tên hộ ông Phạm Gia Nam để làm thủ tục cấp lại cho ông Phạm Gia Phác khi ông Phác có yêu cầu. 6. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Gia Nam hỗ trợ chị Đỗ Thị Hồng số tiền là 800.000.000 đồng. 7. Buộc chị Đỗ Thị Hồng phải thanh toán trả cho anh Bùi Văn Đáp số tiền là 179.820.000 đồng. 8. Bác các yêu cầu khác của chị Đỗ Thị Hồng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 19-5-2011, chị Hồng có đơn kháng cáo Tòan bộ Bản án sơ thẩm. Ngày 24-5-2011, anh Nam kháng cáo không đồng ý hỗ trợ chị Hồng 800.000.000 đồng tạo dựng chỗ ở mới. Nhưng tại phiên tòa phúc thẩm anh Nam rút yêu cầu kháng cáo này. Tại Bản án phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30-8-2011 và ngày 06-9-2011 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội (như đã nêu ở trên). Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí. Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Hồng và bà Hoàng Thị Chu có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định kháng nghị số 05/2013/KN-HNGĐ-LĐ ngày 03-01-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30-8-2011 và 06-9-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm nêu trên và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm soát nhân dân tối cao cho rằng đối với đất tranh chấp, khi cấp giãn dân cho gia đình ông Phác thì không có anh Nam, không có căn cứ cho rằng bố mẹ đã cho vợ chồng anh Nam nên đất vẫn là của gia đình ông Phác. Tòa án hai cấp xác định là của bố mẹ anh Nam là có căn cứ. Có sai phần nợ của bà Chu. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Về quan hệ hôn nhân và con chung, Tòa án các cấp đã giải quyết, các đương sự không có khiếu nại. Về quan hệ tài sản: Tài sản mà các đương sự tranh chấp là diện tích đất 80m2 tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội mang tên hộ anh Phạm Gia Nam. Hồ sơ thể hiện nguồn gốc diện tích đất nêu trên là của ông Phạm Gia Phác được Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo, huyện Thường Tín cấp đất giãn dân vào năm 1992. Căn cứ Biên bản bàn giao đất của Ủy ban nhân dân xã cho ông Phác thì thời điểm có biên bản giao đất này chị Hồng đã kết hôn với anh Nam. Tuy nhiên, theo xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm tại xã Vân Tảo, Thường Tín về thủ tục cấp đất thì xã Vân Tảo đã có chủ trương cấp đất giãn dân từ năm 1991. Dù khi làm thủ tục cấp đất, gia đình ông Phác chỉ có 4 người là ông Phác, bà Tài, chị Lữ, anh Ơn (vì thời điểm này anh Nam đi bộ đội chưa về địa phương), nhưng việc cấp đất giãn dân là cấp đất cho hộ đông người, cấp cho vợ chồng ông Phác và các con, nên anh Nam cũng là đối tượng được cấp đất. Sau khi nhận đất, gia đình ông Phác đã xây dựng một căn nhà cấp 4. Năm 1993, gia đình ông Phác cho vợ chồng anh Nam chị Hồng ra ở riêng trên diện tích đất này và anh chị là người quản lý, sử dụng đất liên tục từ đó cho đến nay. Chị Hồng cho rằng gia đình ông Phác đã tuyên bố cho vợ chồng chị diện tích đất nêu trên, ông Phác và anh Nam khẳng định gia đình chưa cho vợ chồng. Xét thấy: Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001, xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001, anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời, buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Đối với nội dung khiếu nại của bà Hoàng Thị Chu (mẹ đẻ chị Hồng), thấy rằng: Ngày 07-5-2011 (trước ngày xét xử sơ thẩm), bà Chu đã có đơn gửi Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, nội dung: “Hôm nay là ngày 07-5-2011, tôi đã nhận được số tiền các cháu trả tôi. Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết nữa”. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên sung công quỹ đối với số tiền tạm ứng án phí của bà Chu (200.000đ), nhưng không tuyên đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đòi nợ của bà Chu, là trái với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, bà Chu không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm đã căn cứ Điều 263 Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, nên kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với nội dung trên là không cần thiết. Do đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét thấy kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với phần tài sản tranh chấp của anh Nam, chị Hồng (là 80m2 đất tại xóm Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, Hà Nội), là có căn cứ chấp nhận. Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH Hủy Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 105/2011/LH-PT ngày 30-8-2011 và ngày 06-9-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐST ngày 17-5-2011 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản, đã giải quyết vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng và bị đơn là anh Phạm Gia Nam; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Theo xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thôn xóm (BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này. Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm tum tầng 3. Ông Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hôn của anh Nam, chị Hồng (2009), gia đình ông Phác cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ông Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê khai giấy tờ đất, ông Phác không biết là không có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ông Phác đã cho anh chị diện tích đất trên, là có cơ sở. Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng không có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m2 tại thôn Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ông Phạm Gia Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ông Phác, là không đúng. Cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có công sức đóng góp nhiều hơn để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”