Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHTN thấp hơn quy định là hành vi trốn đóng BHTN
Hành vi chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHTN là hành vi bị nghiêm cấm, cần xác định rõ các trường hợp thế nào là chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHTN để xử lý cho đúng. Các trường hợp chậm đóng BHXH, BHTN Căn cứ theo quy định tại Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 thì chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp: - Chưa đóng hoặc đóng chưa đầy đủ số tiền phải đóng theo hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp đã đăng ký kể từ sau ngày đóng bảo hiểm xã hội chậm nhất quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 hoặc kể từ sau ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, trừ trường hợp quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; - Thuộc trường hợp không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024. Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHTN thấp hơn quy định là hành vi trốn đóng BHTN Trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây để không đóng hoặc đóng không đầy đủ BHXH, BHTN cho người lao động theo Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2024. Cụ thể như sau: - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp hơn quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm xã hội bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc chậm nhất quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Các trường hợp khác bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHXH theo quy định của Chính phủ. Nếu thuộc các trường hợp trên nhưng có lý do chính đáng thì không bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN. Hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN; trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 39 Nghị định 12/2022/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Hành vi nào được xem là trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp?
Ngày 29/06/2024 Quốc hội thông qua Luật Bảo hiểm xã hội 2024 thay thế Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và Nghị quyết 93/2015/QH13. Theo đó Luật Bảo hiểm xã hội 2024 xác định cụ thể đối tượng bị truy cứu và hành vi được xem là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp. Hành vi nào được xem là trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp? Căn cứ Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2024, Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây để không đóng hoặc đóng không đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động: - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp hơn quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm xã hội bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc chậm nhất quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Các trường hợp khác bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Chính phủ. Lưu ý rằng nếu thuộc các trường hợp trên nhưng có lý do chính đáng thì không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp. Biện pháp xử lý trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp như thế nào? Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội 2024, Biện pháp xử lý hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: 1. Bắt buộc đóng đủ số tiền trốn đóng; nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trốn đóng và số ngày trốn đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm thất nghiệp. 2. Xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 3. Không xem xét trao tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng. Trốn đóng BHXH bắt buộc bao nhiêu thì bị truy cứu hình sự? Căn cứ Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015, mức trốn đóng bảo hiểm xã hội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể như sau: - Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng từ 06 tháng trở lên, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: - Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng năm đến 03 năm. - Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Như vậy, Trốn đóng BHXH bắt buộc từ 50.000.000 đồng thì người có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật Bảo hiểm xã hội 2024 có hiệu lực từ ngày 01/07/2025.
Công ty nợ tiền BHXH, người lao động vẫn được hưởng đầy đủ quyền lợi
Công ty nợ tiền, chậm đóng BHXH, chưa đóng BHXH thì người lao động có được hưởng các chế độ của BHXH không? (1) Công ty nợ tiền BHXH, người lao động có được hưởng các chế độ của BHXH không? Thông thường, khi người lao động đi làm tại một công ty, người sử dụng lao động sẽ là người đứng ra đóng tiền BHXH cho người lao động. Tuy nhiên, nếu công ty chậm đóng tiền BHXH, hoặc có dấu hiệu nợ tiền BHXH, chưa đóng đủ BHXH cho người lao động của công ty thì quyền lợi của người lao động làm việc trong công ty đó có được thụ hưởng các chế độ của BHXH không? Theo Công văn 1880/BHXH-CSXH của cơ quan BHXH Việt Nam hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động tại các đơn vị chưa đóng đủ BHXH, các đơn vị sử dụng lao động chưa đóng đủ BHXH là các đơn vị: - Đơn vị đang làm thủ tục phá sản; - Đơn vị đã có Quyết định phá sản của Tòa án; - Đơn vị không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký; - Đơn vị không có người đại diện theo pháp luật. Theo đó, nếu người lao động làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động chưa đóng đủ BHXH đang trong tình trạng như trên thì việc xác nhận thời gian tham gia BHXH đối với người lao động được thực hiện như sau: Thực hiện theo điểm 3.2 khoản 3 Điều 46 Quyết định 595/QĐ-BHXH được sửa đổi, bổ sung tại khoản 72 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH: Xác nhận sổ BHXH cho người lao động đến thời điểm đã đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, nếu vì lí do đơn vị sử dụng lao động chưa đóng đủ BHXH cho người lao động, dẫn đến tình trạng người lao động không đủ điều kiện (không đủ thời gian tham gia BHXH) nhận lương hưu thì giải quyết như sau: Thu BHXH tự nguyện một lần cho thời gian còn thiếu - Đối tượng: Người lao động đủ điều kiện về tuổi hưởng lương hưu, có thời gian thực đóng BHXH từ đủ 10 năm đến dưới 20 năm (không bao gồm thời gian chưa đóng tiền BHXH) mà có nguyện vọng thì được đóng BHXH tự nguyện một lần cho những năm còn thiếu để đủ điều kiện hưởng lương hưu hằng tháng. - Mức đóng: Theo quy định tại khoản 1, 4 Điều 10 Nghị định 134/2015/NĐ-CP; trong đó, thu nhập làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện do người lao động lựa chọn theo quy định của pháp luật. Như vậy, dù công ty chưa đóng đủ BHXH, người lao động vẫn được hưởng đầy đủ các chế độ của BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm nghề nghiệp với mức hưởng tính đến thời gian đã đóng BHXH. Trường hợp thu hồi được số tiền mà công ty còn nợ BHXH thì sẽ xác nhận bổ sung trên sổ BHXH cho người lao động để tăng mức hưởng. (2) Công ty chưa đóng đủ BHXH bị xử lý thế nào? Theo khoản 9 Điều 2 Quyết định 490/QĐ-BHXH sửa đổi Điều 36 Quyết định 595/QĐ-BHXH, việc quản lý đơn vị và người đang tham gia BHXH được thực hiện như sau: - Trường hợp đơn vị chậm đóng trên 02 tháng đối với phương thức đóng hằng tháng; 04 tháng, đối với phương thức đóng 03 tháng; 07 tháng, đối với phương thức đóng 06 tháng, cán bộ Phòng/Tổ Quản lý Thu - Sổ, Thẻ thực hiện: + Gửi Thông báo đôn đốc 10 ngày một lần. Sau 02 lần gửi văn bản đôn đốc, đối với các đơn vị đã gửi thông báo nhưng không thực hiện đóng tiền lập Danh sách đề nghị thanh tra đột xuất (Mẫu D04m-TS) chuyển Phòng Thanh tra - Kiểm tra. + Cập nhật kết quả thanh tra vào phần mềm quản lý theo Báo cáo tình hình thực hiện thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN đột xuất (Mẫu số 01-TTTĐ). + Lập danh sách đơn vị đã thanh tra nhưng cố tình không đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN để thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Trường hợp phát hiện đơn vị có dấu hiệu hoặc cố tình vi phạm như trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN; đóng không đúng tiền lương của người lao động, thu tiền của người lao động nhưng không đóng, đóng không kịp thời, đóng không đủ số tiền phải đóng; khai man, giả mạo hồ sơ thì báo cáo đề xuất Giám đốc để tổ chức thanh tra chuyên ngành và xử lý theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, theo khoản 10 Điều 2 Quyết định 490/QĐ-BHXH sửa đổi bổ sung điểm 1.1 khoản 1 Điều 38 Quyết định 595/QĐ-BHXH quy định: Trường hợp đơn vị trốn đóng, đóng không đủ số người thuộc diện bắt buộc tham gia, đóng không đủ số tiền phải đóng theo quy định, chiếm dụng tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN (sau đây gọi là trốn đóng) do cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền, cơ quan BHXH kết luận thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN từ ngày 01/01/2016 thì ngoài việc truy thu số tiền phải đóng theo quy định, còn phải truy thu số tiền lãi tính trên số tiền, thời gian trốn đóng và mức lãi suất chậm đóng như sau: - Toàn bộ thời gian trốn đóng trước ngày 01/01/2016, được tính theo mức lãi suất chậm đóng áp dụng đối với năm 2016; - Đối với thời gian trốn đóng từ ngày 01/01/2016 trở đi, được tính theo mức lãi suất chậm đóng áp dụng đối với từng năm áp dụng tại thời điểm phát hiện trốn đóng. Như vậy, ngoài việc bị thanh tra, đăng thông báo lên các phương tiện đại chúng, công ty nợ tiền BHXH (không đóng, chưa đóng đủ BHXH) mà có dấu hiệu trốn đóng BHXH thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, bị truy thu số tiền chưa đóng BHXH và phải trả thêm lãi suất chậm đóng theo quy định trên.
NLĐ cần làm gì khi bị nợ BHXH? Doanh nghiệp trốn đóng bị xử lý thế nào?
Vừa qua Bộ LĐ-TB&XH đã chỉ đạo BHXH Việt Nam thực hiện giải quyết quyền lợi cho hơn 200.000 người bị nợ bảo hiểm. Như vậy, khi NLĐ phát hiện doanh nghiệp không đóng BHXH cho mình thì cần làm gì? Doanh nghiệp trong trường hợp này sẽ bị xử lý thế nào? Khi nào phải đóng BHXH? Hiện nay, đối tượng phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 bao gồm những đối tượng sau: 1) Người lao động là công dân Việt Nam - Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; - Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; - Cán bộ, công chức, viên chức; - Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; - Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; - Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; - Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; - Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; + Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. 2) Người lao động là công dân nước ngoài Vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ. 3) Người sử dụng lao động Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng trở lên sẽ thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. NLĐ cần làm gì khi bị nợ BHXH? Theo Điều 48 Bộ luật Lao động 2019 quy định về trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau: - Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản. - Người sử dụng lao động có trách nhiệm sau đây: + Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động; + Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả. Đồng thời, Điều 46 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017, được sửa đổi bởi Khoản 72 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH năm 2020, Khoản 6 Điều 1 Quyết định 490/QĐ-BHXH năm 2023 như sau: - Đối với đơn vị chậm đóng tiền đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, nếu người lao động đủ điều kiện hưởng BHXH hoặc chấm dứt HĐLĐ, HĐLV thì đơn vị có trách nhiệm đóng đủ BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, bao gồm cả tiền lãi chậm đóng theo quy định, cơ quan BHXH xác nhận sổ BHXH để kịp thời giải quyết chế độ BHXH, BHTN cho người lao động. Trường hợp đơn vị chưa đóng đủ thì xác nhận sổ BHXH đến thời điểm đã đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN. Sau khi thu hồi được số tiền đơn vị còn chậm đóng thì xác nhận bổ sung trên sổ BHXH. Như vậy, khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định pháp luật thì doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán đủ số tiền bảo hiểm xã hội còn chậm đóng của người lao động. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải thực hiện chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động để người lao động có thể tham gia bảo hiểm khi làm việc tại doanh nghiệp khác. Tóm lại, đối với trường hợp còn chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội thì người lao động vẫn có thể chốt sổ bảo hiểm xã hội cho những tháng đã đóng bảo hiểm xã hội. Nếu doanh nghiệp đủ khả năng tài chính mà cố tình không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thì người lao động có thể khiếu nại đến Sở Lao động Thương binh và Xã hội hoặc khởi kiện trực tiếp lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đặt trụ sở chính để đòi lại quyền lợi. Doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ bị xử lý thế nào? Theo Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về xử lý vi phạm về BHXH như sau: - Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Cá nhân có hành vi vi phạm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Người sử dụng lao động có hành vi vi phạm chậm đóng BHXH từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; Nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi của số tiền này vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội. Như vậy, doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ có thể bị xử lý hành chính, xử lý hình sự và bị phạt lãi chậm trả. 1) Xử lý hành chính Theo Khoản 6, Khoản 7, Khoản 10 Điều 39 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định như sau: - Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. - Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; - Biện pháp khắc phục hậu quả + Buộc người sử dụng lao động đóng đủ số tiền bảo hiểm xã hội bắt buộc phải đóng cho cơ quan bảo hiểm xã hội + Buộc người sử dụng lao động nộp khoản tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng, không đóng, trốn đóng, chiếm dụng tiền đóng; Nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và khoản tiền lãi của số tiền này tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội. Như vậy, doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ nhưng chưa đến mức truy cứu hình sự thì bị phạt từ 50 - 70 triệu đồng, không đóng cho toàn bộ NLĐ thì bị phạt từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu. Đồng thời, bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc đóng đủ số tiền và lãi chậm đóng. 2) Xử lý hình sự Theo Điều 216 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định về tội trốn đóng BHXH cho người lao động như sau: - Trường hợp 1: Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: + Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; + Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động. - Trường hợp 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng năm đến 03 năm: + Phạm tội 02 lần trở lên; + Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; + Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người; + Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này. - Trường hợp 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: + Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên; + Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên; + Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động. - Trường hợp 3: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. - Pháp nhân thương mại phạm tội thì bị phạt như sau: + Phạm tội thuộc trường hợp 1 thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc trường hợp 2 thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc trường hợp 3 thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng. Như vậy, đối với doanh nghiệp là pháp nhân thương mại, sẽ bị phạt tiền từ 200 triệu đến 3 tỷ đồng tuỳ tính chất, hành vi vi phạm. Đối với cá nhân sẽ bị phạt từ 50 - 500 triệu đồng, từ 03 tháng đến 07 năm tù và bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm tuỳ tính chất, hành vi vi phạm.
Trách nhiệm hình sự khi DN không đóng BHXH cho người lao động
Doanh nghiệp không đóng BHXH cho người lao động sẽ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội trốn đóng BHXH. Cụ thể: Căn cứ Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi bị coi là phạm tội trốn đóng bảo hiểm xã hội nếu đáp ứng đủ các yếu tố sau: (1) Yếu tố về chủ thể: là người có nghĩa vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Theo đó, doanh nghiệp là chủ thể phạm tội trốn đóng BHXH trong trường hợp sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên (căn cứ điểm a, b khoản 1 và khoản 3 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014). (2) Yếu tố về hành vi: Doanh nghiệp thực hiện hành vi dưới đây đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm như sau: Gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng, không đóng đầy đủ tiền BHXH là trường hợp cố ý không kê khai hoặc kê khai không đúng thực tế việc đóng BHXH với cơ quan có thẩm quyền từ 06 tháng trở lên. Trong đó: - Không đóng tiền BHXH là trường hợp doanh nghiệp: + Không gửi hồ sơ đăng ký đóng BHXH đối với người lao động; hoặc + Có gửi hồ sơ và đã xác định rõ, đầy đủ số người phải đóng hoặc các khoản phải đóng, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp, nhưng không đóng tiền BHXH cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định. - Không đóng đầy đủ tiền BHXH là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp nhưng chỉ đóng một phần tiền BHXH cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định. (Căn cứ khoản 11, 12 và 13 Điều 2 Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP) (3) Thuộc một trong các trường hợp sau: - Trốn đóng BHXH từ 50.000.000 đồng trở lên; - Trốn đóng BHXH cho từ 10 người trở lên. >> Như vậy, nếu công ty mà anh của Anh/Chị không đóng BHXH thỏa mãn đủ các yếu tố bên trên sẽ bị coi là phạm tội trốn đóng BHXH và phải chịu trách nhiệm hình sự với mức phạt tiền như sau: Mức trốn đóng Mức phạt tiền - Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động. Từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng - Phạm tội 02 lần trở lên; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người; hoặc - Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 10 người đến dưới 50 người lao động Từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng - Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên; hoặc - Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc từ 50 người đến dưới 200 người; Từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng
Không xử lý hình sự hành vi trốn đóng bảo hiểm trước năm 2018
Không xử lý hình sự hành vi trốn đóng bảo hiểm trước năm 2018. Đây là quy định được ban hành theo Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết về Tội gian lận bảo hiểm xã hội Trước đó tại Bộ luật hình sự 2015 quy định: "Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm". Theo đó, tại Nghị quyết 05 đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng trường hợp có những cách xử lý như sau: + Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm hành chính. + Trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn. + Trường hợp gây thiệt hại cho người lao động và những người liên quan thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, đối với những trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trước năm 2018 thì đó không được coi là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự. Giải thích cho quy định trên ông Nguyễn Trí Tuệ - Phó Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao - nói rằng, việc trước đây cần phải có uỷ quyền của người lao động tại doanh nghiệp thì công đoàn cơ sở mới khởi kiện chủ sử dụng lao động với hành vi trốn đóng, nợ BHXH, BHYT, BHTN là cơ chế uỷ quyền khởi kiện dân sự. Tuy nhiên, từ ngày 1.1.2018, những hành vi trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động là tội phạm hình sự. Do đó, nghị quyết nêu rõ: "Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 214, 215, 216 của Bộ luật Hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan BHXH gửi văn bản kiến nghị khởi tố kèm theo chứng cứ, tài liệu có liên quan đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự." Trên đây là một số quy định theo Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực ngày 01/9/2019.
Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các tội danh liên quan đến bảo hiểm
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đang dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các tội danh liên quan đến bảo hiểm của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), bao gồm: - Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); - Tội gian lận bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) (Điều 214); - Tội gian lận bảo hiểm y tế (BHYT) (Điều 215); - Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động (NLĐ) (Điều 216). Ảnh minh họa (Nguồn Internet) Theo đó, Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn cụ thể một số tình tiết định tội như sau: - Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường quy định tại điểm b khoản 1 Điều 213 BLHS: Là hành vi làm giả hoặc sử dụng tài liệu giả hoặc cố ý làm sai lệch, điều chỉnh sai thông tin có liên quan đến sự kiện bảo hiểm trong hồ sơ yêu cầu bồi thường. - Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 213 BLHS là tự mình hoặc nhờ người khác gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của chính mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm. Ví dụ: Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm tự cắt bộ phận cơ thể để tạo sự kiện bảo hiểm thân thể mà mình đã ký kết với công ty bảo hiểm để hưởng quyền lợi bảo hiểm. - Không đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN quy định tại khoản 1 Điều 216 BLHS là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp nhưng không đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN đã trích nộp cho cơ quan BHXH, y tế, lao động thương binh và xã hội theo quy định. - Đóng không đầy đủ theo quy tại khoản 1 Điều 216 BLHS là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho NLĐ, thu nhập doanh nghiệp đầy đủ nhưng chỉ đóng một phần tiền BHXH, BHYT, BHTN đã trích nộp cho cơ quan BHXH, y tế, lao động thương binh và xã hội theo quy định. Có thể nói, hướng dẫn trên rất cần thiết trong bối cảnh tỷ lệ nợ đọng, trốn đóng BHXH đang gia tăng, về lâu dài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của NLĐ. Việc ban hành hướng dẫn trong thời gian tới cũng góp phần áp dụng đúng và thống nhất các điều 213, 214, 215 và 216 BLHS.
TRỐN ĐÓNG BẢO HIỂM CHO NHÂN VIÊN, CÓ THỂ TÙ 7 NĂM
Phi tội phạm hóa hai tội danh, song cũng tội phạm hóa 8 loại hành vi, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) vừa được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội có nhiều sửa đổi, bổ sung đáng chú ý ở nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Là một trong 14 nhóm tội phạm tại dự thảo luật, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định trong 40 điều, chỉ đứng sau quy định về nhóm các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng về dung lượng. Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, theo tờ trình, là nhằm góp phần bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, hai tội danh ở luật hiện hành được đề xuất phi tội phạm hóa là các tội kinh doanh trái phép và tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế. Tội phạm hóa 8 loại hành vi 8 loại hành vi vi phạm nghiêm trọng trong các lĩnh vực kinh tế được tội phạm hóa bao gồm: vi phạm quy định về sử dụng điện; làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán; trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm ; gian lận bảo hiểm xã hội; gian lận bảo hiểm y tế; trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản. Khi tham gia ý kiến, Bộ Y tế đề nghị tách tội danh trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thành hai tội danh độc lập. Song, theo cơ quan chủ trì soạn thảo thì cả hai loại bảo hiểm nói trên đều là lĩnh vực bảo hiểm bắt buộc mà doanh nghiệp, tổ chức buộc phải đóng cho người lao động, nên cùng được quy định tại một tội danh. Hình phạt cao nhất cho tội danh này có thể lên đến 7 năm tù và phạt tiền từ 5 đến 7 lần số tiền trốn đóng bảo hiểm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm. Trường hợp pháp nhân phạm tội thì mức phạt có thể cao gấp 10 lần mức phạt áp dụng đối với cá nhân phạm tội. Điểm mới nữa được Chính phủ nhấn mạnh là “đặc biệt” là dự thảo bộ luật đã bổ sung một tội danh liên quan đến vấn đề cạnh tranh nhằm trừng trị những hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về cạnh tranh, bảo đảm sự bình đẳng, lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định. Bộ Tư pháp cho biết, tội danh này được bổ sung trên cơ sở đề nghị của Bộ Công Thương. Theo lập luận của Bộ Công Thương, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường nên bảo vệ cạnh tranh là hết sức cần thiết làm tiền đề cho sự phát triển của kinh tế của đất nước. Trong thực tiễn xử lý bằng các chế tài hình sự đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm cạnh tranh từ lâu đã được nhiều nước áp dụng và hiện đang trở thành một xu thế chung trên thế giới. Ý kiến đề nghị mở rộng chủ thể của tội này đối với đối tượng là cá nhân vì cá nhân có thể thực hiện được hành vi phạm tội này cũng được cho là hợp lý và đã được tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo luật. Theo quy định tại dự thảo luật, người nào vi phạm các quy định về cạnh tranh, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10% đến 30% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi phạm tội của từng người là các bên của thỏa thuận hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: phạm tội từ 2 lần trở lên; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ 30% đến 50% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi phạm tội của mỗi bên là các bên của thỏa thuận hoặc phạt tù từ 3 năm đến 7 năm. Đề nghị tăng mức răn đe tội cho vay lãi nặng Bên cạnh các nội dung trên, báo cáo tiếp thu, giải trình của cơ quan soạn thảo còn đề cập đến tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Cụ thể, UBND thành phố Đà Nẵng cho rằng điều 205 dự thảo luật quy định hành vi cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất do Bộ luật Dân sự quy định từ 5 lần trở lên… thì bị coi là phạm tội. Như vậy, quy định về số lần vượt quá mức lãi suất do Bộ luật Dân sự quy định là quá cao, dẫn đến quy định này không đủ tính răn đe. Trong khi đó, với mức lãi suất cho vay cao từ 2 đến 4 lần đã gây ra nhiều bất lợi cho người vay nhưng lại không bị xử lý hình sự. Ý kiến này đề nghị quy định theo hướng nếu việc cho vay với lãi suất cao hơn từ 3 lần trở lên so với quy định lãi suất được quy định tại Bộ luật Dân sự hoặc dưới 3 lần mà sử dụng thủ đoạn nguy hiểm, hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn tái phạm thì xử lý hình sự, Bộ Tư pháp phản ánh. Theo Nguyễn Lê VnEconomy (Nguồn CafeF)
Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHTN thấp hơn quy định là hành vi trốn đóng BHTN
Hành vi chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHTN là hành vi bị nghiêm cấm, cần xác định rõ các trường hợp thế nào là chậm đóng, trốn đóng BHXH, BHTN để xử lý cho đúng. Các trường hợp chậm đóng BHXH, BHTN Căn cứ theo quy định tại Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 thì chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp: - Chưa đóng hoặc đóng chưa đầy đủ số tiền phải đóng theo hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp đã đăng ký kể từ sau ngày đóng bảo hiểm xã hội chậm nhất quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 hoặc kể từ sau ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, trừ trường hợp quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; - Thuộc trường hợp không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội 2024. Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng BHTN thấp hơn quy định là hành vi trốn đóng BHTN Trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây để không đóng hoặc đóng không đầy đủ BHXH, BHTN cho người lao động theo Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2024. Cụ thể như sau: - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp hơn quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm xã hội bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc chậm nhất quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Các trường hợp khác bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHXH theo quy định của Chính phủ. Nếu thuộc các trường hợp trên nhưng có lý do chính đáng thì không bị coi là trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN. Hành vi chậm đóng BHXH bắt buộc, BHTN; trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 39 Nghị định 12/2022/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Hành vi nào được xem là trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp?
Ngày 29/06/2024 Quốc hội thông qua Luật Bảo hiểm xã hội 2024 thay thế Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và Nghị quyết 93/2015/QH13. Theo đó Luật Bảo hiểm xã hội 2024 xác định cụ thể đối tượng bị truy cứu và hành vi được xem là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp. Hành vi nào được xem là trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp? Căn cứ Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2024, Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây để không đóng hoặc đóng không đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động: - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; - Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp hơn quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm xã hội bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc chậm nhất quy định tại khoản 4 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội 2024; - Các trường hợp khác bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Chính phủ. Lưu ý rằng nếu thuộc các trường hợp trên nhưng có lý do chính đáng thì không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp. Biện pháp xử lý trốn đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp như thế nào? Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội 2024, Biện pháp xử lý hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: 1. Bắt buộc đóng đủ số tiền trốn đóng; nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp trốn đóng và số ngày trốn đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm thất nghiệp. 2. Xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 3. Không xem xét trao tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng. Trốn đóng BHXH bắt buộc bao nhiêu thì bị truy cứu hình sự? Căn cứ Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015, mức trốn đóng bảo hiểm xã hội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể như sau: - Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng từ 06 tháng trở lên, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: - Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng năm đến 03 năm. - Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Như vậy, Trốn đóng BHXH bắt buộc từ 50.000.000 đồng thì người có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Luật Bảo hiểm xã hội 2024 có hiệu lực từ ngày 01/07/2025.
Công ty nợ tiền BHXH, người lao động vẫn được hưởng đầy đủ quyền lợi
Công ty nợ tiền, chậm đóng BHXH, chưa đóng BHXH thì người lao động có được hưởng các chế độ của BHXH không? (1) Công ty nợ tiền BHXH, người lao động có được hưởng các chế độ của BHXH không? Thông thường, khi người lao động đi làm tại một công ty, người sử dụng lao động sẽ là người đứng ra đóng tiền BHXH cho người lao động. Tuy nhiên, nếu công ty chậm đóng tiền BHXH, hoặc có dấu hiệu nợ tiền BHXH, chưa đóng đủ BHXH cho người lao động của công ty thì quyền lợi của người lao động làm việc trong công ty đó có được thụ hưởng các chế độ của BHXH không? Theo Công văn 1880/BHXH-CSXH của cơ quan BHXH Việt Nam hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động tại các đơn vị chưa đóng đủ BHXH, các đơn vị sử dụng lao động chưa đóng đủ BHXH là các đơn vị: - Đơn vị đang làm thủ tục phá sản; - Đơn vị đã có Quyết định phá sản của Tòa án; - Đơn vị không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký; - Đơn vị không có người đại diện theo pháp luật. Theo đó, nếu người lao động làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động chưa đóng đủ BHXH đang trong tình trạng như trên thì việc xác nhận thời gian tham gia BHXH đối với người lao động được thực hiện như sau: Thực hiện theo điểm 3.2 khoản 3 Điều 46 Quyết định 595/QĐ-BHXH được sửa đổi, bổ sung tại khoản 72 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH: Xác nhận sổ BHXH cho người lao động đến thời điểm đã đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Bên cạnh đó, nếu vì lí do đơn vị sử dụng lao động chưa đóng đủ BHXH cho người lao động, dẫn đến tình trạng người lao động không đủ điều kiện (không đủ thời gian tham gia BHXH) nhận lương hưu thì giải quyết như sau: Thu BHXH tự nguyện một lần cho thời gian còn thiếu - Đối tượng: Người lao động đủ điều kiện về tuổi hưởng lương hưu, có thời gian thực đóng BHXH từ đủ 10 năm đến dưới 20 năm (không bao gồm thời gian chưa đóng tiền BHXH) mà có nguyện vọng thì được đóng BHXH tự nguyện một lần cho những năm còn thiếu để đủ điều kiện hưởng lương hưu hằng tháng. - Mức đóng: Theo quy định tại khoản 1, 4 Điều 10 Nghị định 134/2015/NĐ-CP; trong đó, thu nhập làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện do người lao động lựa chọn theo quy định của pháp luật. Như vậy, dù công ty chưa đóng đủ BHXH, người lao động vẫn được hưởng đầy đủ các chế độ của BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm nghề nghiệp với mức hưởng tính đến thời gian đã đóng BHXH. Trường hợp thu hồi được số tiền mà công ty còn nợ BHXH thì sẽ xác nhận bổ sung trên sổ BHXH cho người lao động để tăng mức hưởng. (2) Công ty chưa đóng đủ BHXH bị xử lý thế nào? Theo khoản 9 Điều 2 Quyết định 490/QĐ-BHXH sửa đổi Điều 36 Quyết định 595/QĐ-BHXH, việc quản lý đơn vị và người đang tham gia BHXH được thực hiện như sau: - Trường hợp đơn vị chậm đóng trên 02 tháng đối với phương thức đóng hằng tháng; 04 tháng, đối với phương thức đóng 03 tháng; 07 tháng, đối với phương thức đóng 06 tháng, cán bộ Phòng/Tổ Quản lý Thu - Sổ, Thẻ thực hiện: + Gửi Thông báo đôn đốc 10 ngày một lần. Sau 02 lần gửi văn bản đôn đốc, đối với các đơn vị đã gửi thông báo nhưng không thực hiện đóng tiền lập Danh sách đề nghị thanh tra đột xuất (Mẫu D04m-TS) chuyển Phòng Thanh tra - Kiểm tra. + Cập nhật kết quả thanh tra vào phần mềm quản lý theo Báo cáo tình hình thực hiện thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN đột xuất (Mẫu số 01-TTTĐ). + Lập danh sách đơn vị đã thanh tra nhưng cố tình không đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN để thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Trường hợp phát hiện đơn vị có dấu hiệu hoặc cố tình vi phạm như trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN; đóng không đúng tiền lương của người lao động, thu tiền của người lao động nhưng không đóng, đóng không kịp thời, đóng không đủ số tiền phải đóng; khai man, giả mạo hồ sơ thì báo cáo đề xuất Giám đốc để tổ chức thanh tra chuyên ngành và xử lý theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, theo khoản 10 Điều 2 Quyết định 490/QĐ-BHXH sửa đổi bổ sung điểm 1.1 khoản 1 Điều 38 Quyết định 595/QĐ-BHXH quy định: Trường hợp đơn vị trốn đóng, đóng không đủ số người thuộc diện bắt buộc tham gia, đóng không đủ số tiền phải đóng theo quy định, chiếm dụng tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN (sau đây gọi là trốn đóng) do cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền, cơ quan BHXH kết luận thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BHYT, BHTN từ ngày 01/01/2016 thì ngoài việc truy thu số tiền phải đóng theo quy định, còn phải truy thu số tiền lãi tính trên số tiền, thời gian trốn đóng và mức lãi suất chậm đóng như sau: - Toàn bộ thời gian trốn đóng trước ngày 01/01/2016, được tính theo mức lãi suất chậm đóng áp dụng đối với năm 2016; - Đối với thời gian trốn đóng từ ngày 01/01/2016 trở đi, được tính theo mức lãi suất chậm đóng áp dụng đối với từng năm áp dụng tại thời điểm phát hiện trốn đóng. Như vậy, ngoài việc bị thanh tra, đăng thông báo lên các phương tiện đại chúng, công ty nợ tiền BHXH (không đóng, chưa đóng đủ BHXH) mà có dấu hiệu trốn đóng BHXH thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, bị truy thu số tiền chưa đóng BHXH và phải trả thêm lãi suất chậm đóng theo quy định trên.
NLĐ cần làm gì khi bị nợ BHXH? Doanh nghiệp trốn đóng bị xử lý thế nào?
Vừa qua Bộ LĐ-TB&XH đã chỉ đạo BHXH Việt Nam thực hiện giải quyết quyền lợi cho hơn 200.000 người bị nợ bảo hiểm. Như vậy, khi NLĐ phát hiện doanh nghiệp không đóng BHXH cho mình thì cần làm gì? Doanh nghiệp trong trường hợp này sẽ bị xử lý thế nào? Khi nào phải đóng BHXH? Hiện nay, đối tượng phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 bao gồm những đối tượng sau: 1) Người lao động là công dân Việt Nam - Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; - Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; - Cán bộ, công chức, viên chức; - Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; - Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; - Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; - Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; - Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; + Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. 2) Người lao động là công dân nước ngoài Vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Chính phủ. 3) Người sử dụng lao động Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động. Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng trở lên sẽ thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. NLĐ cần làm gì khi bị nợ BHXH? Theo Điều 48 Bộ luật Lao động 2019 quy định về trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau: - Tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp thôi việc và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động được ưu tiên thanh toán trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản. - Người sử dụng lao động có trách nhiệm sau đây: + Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động; + Cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của người lao động nếu người lao động có yêu cầu. Chi phí sao, gửi tài liệu do người sử dụng lao động trả. Đồng thời, Điều 46 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017, được sửa đổi bởi Khoản 72 Điều 1 Quyết định 505/QĐ-BHXH năm 2020, Khoản 6 Điều 1 Quyết định 490/QĐ-BHXH năm 2023 như sau: - Đối với đơn vị chậm đóng tiền đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, nếu người lao động đủ điều kiện hưởng BHXH hoặc chấm dứt HĐLĐ, HĐLV thì đơn vị có trách nhiệm đóng đủ BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, bao gồm cả tiền lãi chậm đóng theo quy định, cơ quan BHXH xác nhận sổ BHXH để kịp thời giải quyết chế độ BHXH, BHTN cho người lao động. Trường hợp đơn vị chưa đóng đủ thì xác nhận sổ BHXH đến thời điểm đã đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN. Sau khi thu hồi được số tiền đơn vị còn chậm đóng thì xác nhận bổ sung trên sổ BHXH. Như vậy, khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định pháp luật thì doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán đủ số tiền bảo hiểm xã hội còn chậm đóng của người lao động. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải thực hiện chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động để người lao động có thể tham gia bảo hiểm khi làm việc tại doanh nghiệp khác. Tóm lại, đối với trường hợp còn chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội thì người lao động vẫn có thể chốt sổ bảo hiểm xã hội cho những tháng đã đóng bảo hiểm xã hội. Nếu doanh nghiệp đủ khả năng tài chính mà cố tình không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động thì người lao động có thể khiếu nại đến Sở Lao động Thương binh và Xã hội hoặc khởi kiện trực tiếp lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đặt trụ sở chính để đòi lại quyền lợi. Doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ bị xử lý thế nào? Theo Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về xử lý vi phạm về BHXH như sau: - Cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Cá nhân có hành vi vi phạm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Người sử dụng lao động có hành vi vi phạm chậm đóng BHXH từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; Nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi của số tiền này vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội. Như vậy, doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ có thể bị xử lý hành chính, xử lý hình sự và bị phạt lãi chậm trả. 1) Xử lý hành chính Theo Khoản 6, Khoản 7, Khoản 10 Điều 39 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định như sau: - Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. - Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; - Biện pháp khắc phục hậu quả + Buộc người sử dụng lao động đóng đủ số tiền bảo hiểm xã hội bắt buộc phải đóng cho cơ quan bảo hiểm xã hội + Buộc người sử dụng lao động nộp khoản tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng, không đóng, trốn đóng, chiếm dụng tiền đóng; Nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và khoản tiền lãi của số tiền này tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội. Như vậy, doanh nghiệp trốn đóng BHXH cho NLĐ nhưng chưa đến mức truy cứu hình sự thì bị phạt từ 50 - 70 triệu đồng, không đóng cho toàn bộ NLĐ thì bị phạt từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75 triệu. Đồng thời, bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc đóng đủ số tiền và lãi chậm đóng. 2) Xử lý hình sự Theo Điều 216 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 quy định về tội trốn đóng BHXH cho người lao động như sau: - Trường hợp 1: Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: + Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; + Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động. - Trường hợp 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng năm đến 03 năm: + Phạm tội 02 lần trở lên; + Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; + Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người; + Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này. - Trường hợp 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: + Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên; + Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên; + Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động. - Trường hợp 3: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. - Pháp nhân thương mại phạm tội thì bị phạt như sau: + Phạm tội thuộc trường hợp 1 thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc trường hợp 2 thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng; + Phạm tội thuộc trường hợp 3 thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng. Như vậy, đối với doanh nghiệp là pháp nhân thương mại, sẽ bị phạt tiền từ 200 triệu đến 3 tỷ đồng tuỳ tính chất, hành vi vi phạm. Đối với cá nhân sẽ bị phạt từ 50 - 500 triệu đồng, từ 03 tháng đến 07 năm tù và bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm tuỳ tính chất, hành vi vi phạm.
Trách nhiệm hình sự khi DN không đóng BHXH cho người lao động
Doanh nghiệp không đóng BHXH cho người lao động sẽ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội trốn đóng BHXH. Cụ thể: Căn cứ Điều 216 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi bị coi là phạm tội trốn đóng bảo hiểm xã hội nếu đáp ứng đủ các yếu tố sau: (1) Yếu tố về chủ thể: là người có nghĩa vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Theo đó, doanh nghiệp là chủ thể phạm tội trốn đóng BHXH trong trường hợp sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên (căn cứ điểm a, b khoản 1 và khoản 3 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014). (2) Yếu tố về hành vi: Doanh nghiệp thực hiện hành vi dưới đây đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm như sau: Gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng, không đóng đầy đủ tiền BHXH là trường hợp cố ý không kê khai hoặc kê khai không đúng thực tế việc đóng BHXH với cơ quan có thẩm quyền từ 06 tháng trở lên. Trong đó: - Không đóng tiền BHXH là trường hợp doanh nghiệp: + Không gửi hồ sơ đăng ký đóng BHXH đối với người lao động; hoặc + Có gửi hồ sơ và đã xác định rõ, đầy đủ số người phải đóng hoặc các khoản phải đóng, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp, nhưng không đóng tiền BHXH cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định. - Không đóng đầy đủ tiền BHXH là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp nhưng chỉ đóng một phần tiền BHXH cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo quy định. (Căn cứ khoản 11, 12 và 13 Điều 2 Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP) (3) Thuộc một trong các trường hợp sau: - Trốn đóng BHXH từ 50.000.000 đồng trở lên; - Trốn đóng BHXH cho từ 10 người trở lên. >> Như vậy, nếu công ty mà anh của Anh/Chị không đóng BHXH thỏa mãn đủ các yếu tố bên trên sẽ bị coi là phạm tội trốn đóng BHXH và phải chịu trách nhiệm hình sự với mức phạt tiền như sau: Mức trốn đóng Mức phạt tiền - Trốn đóng bảo hiểm từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm cho từ 10 người đến dưới 50 người lao động. Từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng - Phạm tội 02 lần trở lên; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người; hoặc - Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 10 người đến dưới 50 người lao động Từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng - Trốn đóng bảo hiểm 1.000.000.000 đồng trở lên; hoặc - Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên; hoặc - Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc từ 50 người đến dưới 200 người; Từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng
Không xử lý hình sự hành vi trốn đóng bảo hiểm trước năm 2018
Không xử lý hình sự hành vi trốn đóng bảo hiểm trước năm 2018. Đây là quy định được ban hành theo Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết về Tội gian lận bảo hiểm xã hội Trước đó tại Bộ luật hình sự 2015 quy định: "Người nào có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động mà gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định từ 06 tháng trở lên thuộc một trong những trường hợp sau đây, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm". Theo đó, tại Nghị quyết 05 đối với hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì không xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng trường hợp có những cách xử lý như sau: + Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm hành chính. + Trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn. + Trường hợp gây thiệt hại cho người lao động và những người liên quan thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, đối với những trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động trước năm 2018 thì đó không được coi là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự. Giải thích cho quy định trên ông Nguyễn Trí Tuệ - Phó Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao - nói rằng, việc trước đây cần phải có uỷ quyền của người lao động tại doanh nghiệp thì công đoàn cơ sở mới khởi kiện chủ sử dụng lao động với hành vi trốn đóng, nợ BHXH, BHYT, BHTN là cơ chế uỷ quyền khởi kiện dân sự. Tuy nhiên, từ ngày 1.1.2018, những hành vi trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động là tội phạm hình sự. Do đó, nghị quyết nêu rõ: "Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 214, 215, 216 của Bộ luật Hình sự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan BHXH gửi văn bản kiến nghị khởi tố kèm theo chứng cứ, tài liệu có liên quan đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để xem xét, khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự." Trên đây là một số quy định theo Nghị quyết 05/2019/NQ-HĐTP có hiệu lực ngày 01/9/2019.
Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các tội danh liên quan đến bảo hiểm
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đang dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các tội danh liên quan đến bảo hiểm của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), bao gồm: - Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); - Tội gian lận bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) (Điều 214); - Tội gian lận bảo hiểm y tế (BHYT) (Điều 215); - Tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động (NLĐ) (Điều 216). Ảnh minh họa (Nguồn Internet) Theo đó, Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn cụ thể một số tình tiết định tội như sau: - Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường quy định tại điểm b khoản 1 Điều 213 BLHS: Là hành vi làm giả hoặc sử dụng tài liệu giả hoặc cố ý làm sai lệch, điều chỉnh sai thông tin có liên quan đến sự kiện bảo hiểm trong hồ sơ yêu cầu bồi thường. - Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 213 BLHS là tự mình hoặc nhờ người khác gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của chính mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm. Ví dụ: Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm tự cắt bộ phận cơ thể để tạo sự kiện bảo hiểm thân thể mà mình đã ký kết với công ty bảo hiểm để hưởng quyền lợi bảo hiểm. - Không đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN quy định tại khoản 1 Điều 216 BLHS là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho người lao động, thu nhập doanh nghiệp nhưng không đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN đã trích nộp cho cơ quan BHXH, y tế, lao động thương binh và xã hội theo quy định. - Đóng không đầy đủ theo quy tại khoản 1 Điều 216 BLHS là việc người sử dụng lao động đã xác định rõ, đầy đủ các khoản đóng bảo hiểm, lập chứng từ, hồ sơ quyết toán lương cho NLĐ, thu nhập doanh nghiệp đầy đủ nhưng chỉ đóng một phần tiền BHXH, BHYT, BHTN đã trích nộp cho cơ quan BHXH, y tế, lao động thương binh và xã hội theo quy định. Có thể nói, hướng dẫn trên rất cần thiết trong bối cảnh tỷ lệ nợ đọng, trốn đóng BHXH đang gia tăng, về lâu dài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của NLĐ. Việc ban hành hướng dẫn trong thời gian tới cũng góp phần áp dụng đúng và thống nhất các điều 213, 214, 215 và 216 BLHS.
TRỐN ĐÓNG BẢO HIỂM CHO NHÂN VIÊN, CÓ THỂ TÙ 7 NĂM
Phi tội phạm hóa hai tội danh, song cũng tội phạm hóa 8 loại hành vi, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) vừa được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội có nhiều sửa đổi, bổ sung đáng chú ý ở nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Là một trong 14 nhóm tội phạm tại dự thảo luật, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định trong 40 điều, chỉ đứng sau quy định về nhóm các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng về dung lượng. Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, theo tờ trình, là nhằm góp phần bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, hai tội danh ở luật hiện hành được đề xuất phi tội phạm hóa là các tội kinh doanh trái phép và tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế. Tội phạm hóa 8 loại hành vi 8 loại hành vi vi phạm nghiêm trọng trong các lĩnh vực kinh tế được tội phạm hóa bao gồm: vi phạm quy định về sử dụng điện; làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán; trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm ; gian lận bảo hiểm xã hội; gian lận bảo hiểm y tế; trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản. Khi tham gia ý kiến, Bộ Y tế đề nghị tách tội danh trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế thành hai tội danh độc lập. Song, theo cơ quan chủ trì soạn thảo thì cả hai loại bảo hiểm nói trên đều là lĩnh vực bảo hiểm bắt buộc mà doanh nghiệp, tổ chức buộc phải đóng cho người lao động, nên cùng được quy định tại một tội danh. Hình phạt cao nhất cho tội danh này có thể lên đến 7 năm tù và phạt tiền từ 5 đến 7 lần số tiền trốn đóng bảo hiểm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm. Trường hợp pháp nhân phạm tội thì mức phạt có thể cao gấp 10 lần mức phạt áp dụng đối với cá nhân phạm tội. Điểm mới nữa được Chính phủ nhấn mạnh là “đặc biệt” là dự thảo bộ luật đã bổ sung một tội danh liên quan đến vấn đề cạnh tranh nhằm trừng trị những hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về cạnh tranh, bảo đảm sự bình đẳng, lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định. Bộ Tư pháp cho biết, tội danh này được bổ sung trên cơ sở đề nghị của Bộ Công Thương. Theo lập luận của Bộ Công Thương, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường nên bảo vệ cạnh tranh là hết sức cần thiết làm tiền đề cho sự phát triển của kinh tế của đất nước. Trong thực tiễn xử lý bằng các chế tài hình sự đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm cạnh tranh từ lâu đã được nhiều nước áp dụng và hiện đang trở thành một xu thế chung trên thế giới. Ý kiến đề nghị mở rộng chủ thể của tội này đối với đối tượng là cá nhân vì cá nhân có thể thực hiện được hành vi phạm tội này cũng được cho là hợp lý và đã được tiếp thu, chỉnh lý tại dự thảo luật. Theo quy định tại dự thảo luật, người nào vi phạm các quy định về cạnh tranh, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10% đến 30% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi phạm tội của từng người là các bên của thỏa thuận hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: phạm tội từ 2 lần trở lên; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ 30% đến 50% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi phạm tội của mỗi bên là các bên của thỏa thuận hoặc phạt tù từ 3 năm đến 7 năm. Đề nghị tăng mức răn đe tội cho vay lãi nặng Bên cạnh các nội dung trên, báo cáo tiếp thu, giải trình của cơ quan soạn thảo còn đề cập đến tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Cụ thể, UBND thành phố Đà Nẵng cho rằng điều 205 dự thảo luật quy định hành vi cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất do Bộ luật Dân sự quy định từ 5 lần trở lên… thì bị coi là phạm tội. Như vậy, quy định về số lần vượt quá mức lãi suất do Bộ luật Dân sự quy định là quá cao, dẫn đến quy định này không đủ tính răn đe. Trong khi đó, với mức lãi suất cho vay cao từ 2 đến 4 lần đã gây ra nhiều bất lợi cho người vay nhưng lại không bị xử lý hình sự. Ý kiến này đề nghị quy định theo hướng nếu việc cho vay với lãi suất cao hơn từ 3 lần trở lên so với quy định lãi suất được quy định tại Bộ luật Dân sự hoặc dưới 3 lần mà sử dụng thủ đoạn nguy hiểm, hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn tái phạm thì xử lý hình sự, Bộ Tư pháp phản ánh. Theo Nguyễn Lê VnEconomy (Nguồn CafeF)