Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm
Bài viết sau đây sẽ chỉ ra cách phân biệt giữa tố giác và tin báo tội phạm và những nguyên tắc cần phải đảm bảo của cơ quan và cán bộ khi tiếp nhận tố giác và tin báo tội phạm. (1) Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm Tiêu chí Tố giác Tin báo tội phạm Khái niệm Điều 144 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Theo đó, nhìn chung tin báo về tội phạm và tố giác về tội phạm đều là một trong những nguồn tin về tội phạm. Chủ thể Cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng. Ngoài cá nhân, chủ thể báo tin về tội phạm còn có thể bao gồm cơ quan, tổ chức. Yếu tố phát hiện hành vi Chủ thể phải là người phát hiện, có thể là bị hại hoặc người trực tiếp chứng kiến hành vi có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Chủ thể có thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm như được nghe lại, kể lại, có thông tin từ người khác,... và trình báo lại cho cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, có thể thấy, tố giác tội phạm là sự tố cáo hành vi phạm tội của cá nhân nào đó với một cơ quan, tổ chức bất kỳ. Còn tin báo tội phạm là sự chuyển tiếp thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân hoặc những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó như qua thanh tra, kiểm tra,... Hoặc được phát hiện do hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (của các cơ quan thông tin đại chúng) đến với cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết theo quy định. (2) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nào? Căn cứ Điều 3 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định về nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau: Bên cạnh những nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì cơ quan và người có thẩm quyền tiếp nhận còn phải tuân thủ theo những nguyên tắc như sau: - Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận, phân loại, xử lý, kiểm tra, xác minh, giải quyết kịp thời, đúng thời hạn theo quy định, không để lọt tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, không làm oan người hoặc pháp nhân thương mại vô tội. - Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật; những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh. - Việc bảo vệ người tố giác, báo tin về tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác phải được thực hiện theo đúng quy định tại Chương XXXIV Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, khi tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc như đã nêu trên. (3) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì phải đảm bảo ghi lại những thông tin nào? Căn cứ Khoản 3 Điều 5 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận phải ghi chép vào sổ tiếp nhận đầy đủ các thông tin như sau: - Thời gian tiếp nhận thông tin, họ tên cán bộ tiếp nhận. - Họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số CMND/CCCD, ngày, tháng, năm, đơn vị cấp của người tố giác, báo tin. - Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc. - Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc. - Các thông tin khác có liên quan (nếu có) như: họ tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, người làm chứng, bị hại, hướng bỏ trốn của đối tượng, công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, những việc đã làm tại hiện trường khi phát hiện vụ việc,... - Lý do người tố giác, báo tin biết được vụ việc đó, những ai cùng biết vụ việc đó. Trường hợp nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì cán bộ tiếp nhận vẫn phải tiến hành tiếp nhận và ghi rõ lý do từ chối. Theo đó, sau khi đã tiếp nhận thông tin thì cán bộ tiếp nhận viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý. Như vậy, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận cần phải đảm bảo ghi lại đầy đủ những thông tin như đã nêu trên.
Hướng dẫn 06/HD-VKSTC: Hướng dẫn kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội năm 2023
Ngày 05/01/2023, Viện KSNDTC có Hướng dẫn 06/HD-VKSTC năm 2023 về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội năm 2023. Theo đó, để công tác đạt chất lượng, hiệu quả cao nhất khi giải quyết các vụ án hình sự về trật tự xã hội, Viện KSNN các cấp quan tâm tập trung thực hiện các nội dung cụ thể sau: (1) Đối với hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị 05/CT-VKSTC năm 2020 về Tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó, thực hiện phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đồng thời áp dụng đồng bộ các giải pháp để thực hiện tốt hơn công tác này bằng việc thực hiện tốt các nội dung sau: - Tăng cường kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Cơ quan điều tra ngay từ khi tiếp nhận, phân loại, thụ lý, xác minh nguồn tin về tội phạm. - Nắm chắc các tố giác, tin báo tội phạm về trật tự xã hội. - Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ trực nghiệp vụ, tiếp công dân 24/24 giờ. - Thường xuyên theo dõi thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội. Lưu ý các tố giác, tin báo về giết người, xâm hại trẻ em, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, đánh bạc; tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm có tính chất “xã hội đen”; các vụ việc về trật tự xã hội mà dư luận xã hội quan tâm. Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ và thụ lý giải quyết kịp thời, đúng quy định của pháp luật. - Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết phải chủ động, kịp thời đề ra các yêu cầu kiểm tra, xác minh đảm bảo chất lượng, sát thực; 100% vụ việc phải có yêu cầu xác minh. - Trước khi kết thúc việc xác minh ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự thì cần phối hợp Cơ quan điều tra rà soát để đảm bảo việc ban hành quyết định có căn cứ, đúng pháp luật, chống oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. - Kiểm sát chặt chẽ các căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thường xuyên phối hợp với Cơ quan điều tra rà soát, giải quyết dứt điểm các tố giác, tin báo hoặc kiến nghị khởi tố tạm đình chỉ còn tồn đọng, nếu thấy lý do tạm đình chỉ không còn, thì yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết ngay theo quy định của pháp luật. - Tăng cường hoạt động trực tiếp kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các Cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra cùng cấp. Lưu ý, tập trung triển khai nghiêm túc, có hiệu quả công tác kiểm sát với lực lượng Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an. - Thường xuyên tổng hợp những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn công tác để báo cáo Viện kiểm sát cấp trên hướng dẫn, chỉ đạo. (2) Đối với hoạt động kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Thực hiện nghiêm túc về chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm và các quy chế, hướng dẫn nghiệp vụ của ngành. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án trật tự xã hội, Viện kiểm sát các cấp quan tâm thực hiện tốt một số nội dung sau: - Trong giai đoạn điều tra vụ án: Kiểm sát viên phải xây dựng kế hoạch kiểm sát, nhật ký kiểm sát điều tra, thu thập chứng cứ phải đúng trình tự, thủ tục. Trong việc xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, phải thận trọng, kiên quyết không phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định trái pháp luật. - Đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án có tính chất phức tạp, việc thu thập chứng cứ có nhiều khó khăn, bị can không nhận tội, cần trực tiếp hỏi cung bị can, lấy lời khai những người tham gia tố tụng và trực tiếp xem xét đánh giá các chứng cứ, vật chứng thu thập được trước khi đề xuất phê chuẩn các quyết định tố tụng. - Trước khi kết thúc điều tra vụ án, phối hợp với Cơ quan điều tra đánh giá toàn bộ hệ thống chứng cứ buộc tội, gỡ tội, thống nhất đường lối xử lý vụ án bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội. Triển khai thực hiện nghiêm quy định về hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Triển khai hiệu quả số hoá hồ sơ vụ án, xây dựng hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát có chứa phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. - Trong giai đoạn truy tố: Trước khi quyết định việc truy tố, phải phúc tra, kiểm tra thận trọng các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án, nghiên cứu, đánh giá chính xác, khách quan, toàn diện các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, Trong trường hợp nếu thấy cần thiết thì Kiểm sát viên trực tiếp hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, người bị hại, trực tiếp xem xét các dấu vết, vật chứng. - Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Kiểm sát viên phải nghiên cứu, kiểm tra lại các chứng cứ tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thống kê và nắm chắc các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, nội dung vụ án. Xây dựng kế hoạch tranh luận, đối đáp tại phiên tòa và dự thảo bản luận tội ngay từ giai đoạn chuẩn bị xét xử, chuẩn bị thực hiện có hiệu quả việc tranh tụng tại phiên toà bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát. Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện “Số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa để phục vụ tích cực, hiệu quả cho việc giải quyết vụ án. - Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, phải kịp thời phát hiện các trường hợp bức cung, nhục hình để xử lý nghiêm theo pháp luật. - Tăng cường phối hợp với Cơ quan điều tra, Toà án cùng cấp đảm bảo việc giải quyết án kịp thời, đúng pháp luật. - Chú trọng nâng cao chất lượng giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền, không để tồn đọng kéo dài, quá thời hạn, đặc biệt là các khiếu nại, tố cáo. - Thực hiện nghiêm quy định về đóng dấu bút lục tài liệu điều tra theo khoản 5 Điều 88 Bộ luật TTHS 2015 quy định về lập hồ sơ nghiệp vụ kiểm sát theo Quyết định 590/QĐ-VKSTC và 190/QĐ-VKSTC . - Quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh Hướng dẫn 33/HD-VKSTC về công tác quản lý, kiểm tra, đánh giá, báo cáo án đình chỉ do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật hình sự 2015. Xem thêm Hướng dẫn 06/HD-VKSTC ban hành ngày 05/01/2023.
Gửi đơn tố cáo, tố giác tội phạm bao lâu thì được giải quyết
Hiện nay rất nhiều trường hợp người dân thực hiện tố cáo, tố giác tội phạm nhưng đợi mòn mỏi vẫn không thấy được giải quyết. Vậy thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo pháp luật về tố tụng hình sự được quy định như thế nào? Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 và hướng dẫn tại Điều 9 và Điều 11 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm được quy định như sau: - Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá 20 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm. - Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết có thể kéo dài thời hạn giải quyết nhưng không quá 02 tháng kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết. - Trường hợp sắp hết thời gian sau khi gia hạn lần thứ nhất nhưng chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh thì chậm nhất 05 ngày trước khi hết thời hạn Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh. - Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị nêu trên, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phải xem xét, quyết định. Trường hợp đề nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết là có căn cứ thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (trong trường hợp được Viện trưởng ủy quyền hoặc phân công) ra Quyết định gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh; thời hạn gia hạn kiểm tra, xác minh là không quá 02 tháng kể từ ngày hết thời hạn lần thứ nhất. =>> Như vậy thời gian tối đa giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tối đa không quá 4 tháng. Ngoài ra thời gian thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm được quy định tại Điều 17 Thông tư 28/2020/TT-BCA như sau: "Điều 17. Thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố 1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân phải thông báo bằng văn bản về kết quả tiếp nhận cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân) biết. 2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm), Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân) biết kết quả giải quyết. 3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân có trách nhiệm gửi Quyết định tạm đình chỉ đó cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân)."
Phân biệt "Tố giác về tội phạm " và "Tin báo về tội phạm"
Theo quy định tại Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm được xem là một trong những cơ sở khởi tố vụ án hình sự khi nhận thấy có dấu hiệu phạm tội. Đây là những căn cứ, thông tin ban đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác điều tra, xác minh sự thật của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, không phải ai cũng phân biệt được sự khác biệt giữa tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm dẫn đến nhận thức nhầm lẫn giữa hai trường hợp này. Cụ thể tố giác và tin báo về tội phạm là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, theo Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tố giác về tội phạm: là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm: là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Như vậy, khác với tin báo về tội phạm: + Thứ nhất, về chủ thể tố: chỉ có cá nhân mới có thể là chủ thể tiến hành tố giác về tội phạm. Còn tin báo về tội phạm có thể do cá nhân, tổ chức, cơ quan thông báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. + Thứ hai, về yếu tố phát hiện hành vi: chủ thể tiến hành tố giác về tội phạm phải là người phát hiện (có thể chính là bị hại hoặc người chứng kiến hành vi có dấu hiệu phạm tội xảy ra). Trong khi đó, chủ thể tin báo về tội phạm chỉ cần có thông tin về vụ việc (được nghe lại, kể lại từ người khác,…) có dấu hiệu phạm tội là có thể tiến hành tin báo trên thông tin đại chúng hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng.
Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm là 20 ngày
Đây là nội dung mới nổi bật tại Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và thay thế Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC. Theo đó, Thông tư này quy định thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố là 20 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được tin. Riêng đối với trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh thì thời hạn không quá 02 tháng. Nếu hết thời hạn trên mà chưa thể kết thúc thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp có thẩm quyền gia hạn thời hạn giải quyết. - Nếu được sự nhất trí thì được kéo dài thêm không quá 02 tháng kể từ ngày kết hạn. - Nếu không nhất trí thì phải tạm dừng việc kiểm tra, xác minh và ra 01 trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nếu đủ căn cứ. Thời hạn giải quyết tiếp trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố về tội phạm của cơ quan đang thụ lý, giải quyết không quá 01 tháng kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn giải quyết tiếp trong trường hợp cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi. Ngoài ra, Thông tư này cũng quy định một số nội dung mới như giải quyết các trường hợp liên quan đến thẩm quyền của nhiều đơn vị có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính… Mời các bạn xem chi tiết Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tại file đính kèm.
Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm
Bài viết sau đây sẽ chỉ ra cách phân biệt giữa tố giác và tin báo tội phạm và những nguyên tắc cần phải đảm bảo của cơ quan và cán bộ khi tiếp nhận tố giác và tin báo tội phạm. (1) Cách phân biệt tố giác và tin báo tội phạm Tiêu chí Tố giác Tin báo tội phạm Khái niệm Điều 144 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Theo đó, nhìn chung tin báo về tội phạm và tố giác về tội phạm đều là một trong những nguồn tin về tội phạm. Chủ thể Cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng. Ngoài cá nhân, chủ thể báo tin về tội phạm còn có thể bao gồm cơ quan, tổ chức. Yếu tố phát hiện hành vi Chủ thể phải là người phát hiện, có thể là bị hại hoặc người trực tiếp chứng kiến hành vi có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Chủ thể có thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm như được nghe lại, kể lại, có thông tin từ người khác,... và trình báo lại cho cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, có thể thấy, tố giác tội phạm là sự tố cáo hành vi phạm tội của cá nhân nào đó với một cơ quan, tổ chức bất kỳ. Còn tin báo tội phạm là sự chuyển tiếp thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân hoặc những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó như qua thanh tra, kiểm tra,... Hoặc được phát hiện do hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (của các cơ quan thông tin đại chúng) đến với cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết theo quy định. (2) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc nào? Căn cứ Điều 3 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định về nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau: Bên cạnh những nguyên tắc tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì cơ quan và người có thẩm quyền tiếp nhận còn phải tuân thủ theo những nguyên tắc như sau: - Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận, phân loại, xử lý, kiểm tra, xác minh, giải quyết kịp thời, đúng thời hạn theo quy định, không để lọt tội phạm, người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, không làm oan người hoặc pháp nhân thương mại vô tội. - Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật; những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh. - Việc bảo vệ người tố giác, báo tin về tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác phải được thực hiện theo đúng quy định tại Chương XXXIV Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, khi tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cần phải tuân thủ theo những nguyên tắc như đã nêu trên. (3) Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì phải đảm bảo ghi lại những thông tin nào? Căn cứ Khoản 3 Điều 5 Thông tư 28/2020/TT-BCA có quy định trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận phải ghi chép vào sổ tiếp nhận đầy đủ các thông tin như sau: - Thời gian tiếp nhận thông tin, họ tên cán bộ tiếp nhận. - Họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số CMND/CCCD, ngày, tháng, năm, đơn vị cấp của người tố giác, báo tin. - Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc. - Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc. - Các thông tin khác có liên quan (nếu có) như: họ tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, người làm chứng, bị hại, hướng bỏ trốn của đối tượng, công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, những việc đã làm tại hiện trường khi phát hiện vụ việc,... - Lý do người tố giác, báo tin biết được vụ việc đó, những ai cùng biết vụ việc đó. Trường hợp nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì cán bộ tiếp nhận vẫn phải tiến hành tiếp nhận và ghi rõ lý do từ chối. Theo đó, sau khi đã tiếp nhận thông tin thì cán bộ tiếp nhận viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý. Như vậy, khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm qua điện thoại thì cán bộ tiếp nhận cần phải đảm bảo ghi lại đầy đủ những thông tin như đã nêu trên.
Hướng dẫn 06/HD-VKSTC: Hướng dẫn kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội năm 2023
Ngày 05/01/2023, Viện KSNDTC có Hướng dẫn 06/HD-VKSTC năm 2023 về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án trật tự xã hội năm 2023. Theo đó, để công tác đạt chất lượng, hiệu quả cao nhất khi giải quyết các vụ án hình sự về trật tự xã hội, Viện KSNN các cấp quan tâm tập trung thực hiện các nội dung cụ thể sau: (1) Đối với hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị 05/CT-VKSTC năm 2020 về Tăng cường trách nhiệm công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó, thực hiện phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đồng thời áp dụng đồng bộ các giải pháp để thực hiện tốt hơn công tác này bằng việc thực hiện tốt các nội dung sau: - Tăng cường kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Cơ quan điều tra ngay từ khi tiếp nhận, phân loại, thụ lý, xác minh nguồn tin về tội phạm. - Nắm chắc các tố giác, tin báo tội phạm về trật tự xã hội. - Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ trực nghiệp vụ, tiếp công dân 24/24 giờ. - Thường xuyên theo dõi thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội. Lưu ý các tố giác, tin báo về giết người, xâm hại trẻ em, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản, tổ chức đánh bạc, đánh bạc; tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm có tính chất “xã hội đen”; các vụ việc về trật tự xã hội mà dư luận xã hội quan tâm. Đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ và thụ lý giải quyết kịp thời, đúng quy định của pháp luật. - Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết phải chủ động, kịp thời đề ra các yêu cầu kiểm tra, xác minh đảm bảo chất lượng, sát thực; 100% vụ việc phải có yêu cầu xác minh. - Trước khi kết thúc việc xác minh ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự thì cần phối hợp Cơ quan điều tra rà soát để đảm bảo việc ban hành quyết định có căn cứ, đúng pháp luật, chống oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. - Kiểm sát chặt chẽ các căn cứ tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thường xuyên phối hợp với Cơ quan điều tra rà soát, giải quyết dứt điểm các tố giác, tin báo hoặc kiến nghị khởi tố tạm đình chỉ còn tồn đọng, nếu thấy lý do tạm đình chỉ không còn, thì yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi giải quyết ngay theo quy định của pháp luật. - Tăng cường hoạt động trực tiếp kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các Cơ quan điều tra, cơ quan tiến hành một số hoạt động điều tra cùng cấp. Lưu ý, tập trung triển khai nghiêm túc, có hiệu quả công tác kiểm sát với lực lượng Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an. - Thường xuyên tổng hợp những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn công tác để báo cáo Viện kiểm sát cấp trên hướng dẫn, chỉ đạo. (2) Đối với hoạt động kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Thực hiện nghiêm túc về chống oan, sai, chống bỏ lọt tội phạm và các quy chế, hướng dẫn nghiệp vụ của ngành. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án trật tự xã hội, Viện kiểm sát các cấp quan tâm thực hiện tốt một số nội dung sau: - Trong giai đoạn điều tra vụ án: Kiểm sát viên phải xây dựng kế hoạch kiểm sát, nhật ký kiểm sát điều tra, thu thập chứng cứ phải đúng trình tự, thủ tục. Trong việc xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, phải thận trọng, kiên quyết không phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định trái pháp luật. - Đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án có tính chất phức tạp, việc thu thập chứng cứ có nhiều khó khăn, bị can không nhận tội, cần trực tiếp hỏi cung bị can, lấy lời khai những người tham gia tố tụng và trực tiếp xem xét đánh giá các chứng cứ, vật chứng thu thập được trước khi đề xuất phê chuẩn các quyết định tố tụng. - Trước khi kết thúc điều tra vụ án, phối hợp với Cơ quan điều tra đánh giá toàn bộ hệ thống chứng cứ buộc tội, gỡ tội, thống nhất đường lối xử lý vụ án bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội. Triển khai thực hiện nghiêm quy định về hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Triển khai hiệu quả số hoá hồ sơ vụ án, xây dựng hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát có chứa phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. - Trong giai đoạn truy tố: Trước khi quyết định việc truy tố, phải phúc tra, kiểm tra thận trọng các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án, nghiên cứu, đánh giá chính xác, khách quan, toàn diện các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, Trong trường hợp nếu thấy cần thiết thì Kiểm sát viên trực tiếp hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, người bị hại, trực tiếp xem xét các dấu vết, vật chứng. - Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: Kiểm sát viên phải nghiên cứu, kiểm tra lại các chứng cứ tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thống kê và nắm chắc các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, nội dung vụ án. Xây dựng kế hoạch tranh luận, đối đáp tại phiên tòa và dự thảo bản luận tội ngay từ giai đoạn chuẩn bị xét xử, chuẩn bị thực hiện có hiệu quả việc tranh tụng tại phiên toà bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát. Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện “Số hóa hồ sơ vụ án” và công bố tài liệu, chứng cứ bằng hình ảnh tại phiên tòa để phục vụ tích cực, hiệu quả cho việc giải quyết vụ án. - Quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, phải kịp thời phát hiện các trường hợp bức cung, nhục hình để xử lý nghiêm theo pháp luật. - Tăng cường phối hợp với Cơ quan điều tra, Toà án cùng cấp đảm bảo việc giải quyết án kịp thời, đúng pháp luật. - Chú trọng nâng cao chất lượng giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền, không để tồn đọng kéo dài, quá thời hạn, đặc biệt là các khiếu nại, tố cáo. - Thực hiện nghiêm quy định về đóng dấu bút lục tài liệu điều tra theo khoản 5 Điều 88 Bộ luật TTHS 2015 quy định về lập hồ sơ nghiệp vụ kiểm sát theo Quyết định 590/QĐ-VKSTC và 190/QĐ-VKSTC . - Quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh Hướng dẫn 33/HD-VKSTC về công tác quản lý, kiểm tra, đánh giá, báo cáo án đình chỉ do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật hình sự 2015. Xem thêm Hướng dẫn 06/HD-VKSTC ban hành ngày 05/01/2023.
Gửi đơn tố cáo, tố giác tội phạm bao lâu thì được giải quyết
Hiện nay rất nhiều trường hợp người dân thực hiện tố cáo, tố giác tội phạm nhưng đợi mòn mỏi vẫn không thấy được giải quyết. Vậy thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo pháp luật về tố tụng hình sự được quy định như thế nào? Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 và hướng dẫn tại Điều 9 và Điều 11 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm được quy định như sau: - Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá 20 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm. - Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết có thể kéo dài thời hạn giải quyết nhưng không quá 02 tháng kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết. - Trường hợp sắp hết thời gian sau khi gia hạn lần thứ nhất nhưng chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh thì chậm nhất 05 ngày trước khi hết thời hạn Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng (trong trường hợp được Thủ trưởng ủy quyền hoặc phân công), cấp trưởng, cấp phó (trong trường hợp được cấp trưởng ủy quyền hoặc phân công) cơ quan đang thụ lý, giải quyết phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh. - Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị nêu trên, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phải xem xét, quyết định. Trường hợp đề nghị của cơ quan đang thụ lý, giải quyết là có căn cứ thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (trong trường hợp được Viện trưởng ủy quyền hoặc phân công) ra Quyết định gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh; thời hạn gia hạn kiểm tra, xác minh là không quá 02 tháng kể từ ngày hết thời hạn lần thứ nhất. =>> Như vậy thời gian tối đa giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm tối đa không quá 4 tháng. Ngoài ra thời gian thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm được quy định tại Điều 17 Thông tư 28/2020/TT-BCA như sau: "Điều 17. Thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố 1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân phải thông báo bằng văn bản về kết quả tiếp nhận cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân) biết. 2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm), Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân) biết kết quả giải quyết. 3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân có trách nhiệm gửi Quyết định tạm đình chỉ đó cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố (trừ trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân)."
Phân biệt "Tố giác về tội phạm " và "Tin báo về tội phạm"
Theo quy định tại Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm được xem là một trong những cơ sở khởi tố vụ án hình sự khi nhận thấy có dấu hiệu phạm tội. Đây là những căn cứ, thông tin ban đầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác điều tra, xác minh sự thật của cơ quan điều tra. Tuy nhiên, không phải ai cũng phân biệt được sự khác biệt giữa tố giác về tội phạm và tin báo về tội phạm dẫn đến nhận thức nhầm lẫn giữa hai trường hợp này. Cụ thể tố giác và tin báo về tội phạm là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau, theo Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tố giác về tội phạm: là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm: là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Như vậy, khác với tin báo về tội phạm: + Thứ nhất, về chủ thể tố: chỉ có cá nhân mới có thể là chủ thể tiến hành tố giác về tội phạm. Còn tin báo về tội phạm có thể do cá nhân, tổ chức, cơ quan thông báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. + Thứ hai, về yếu tố phát hiện hành vi: chủ thể tiến hành tố giác về tội phạm phải là người phát hiện (có thể chính là bị hại hoặc người chứng kiến hành vi có dấu hiệu phạm tội xảy ra). Trong khi đó, chủ thể tin báo về tội phạm chỉ cần có thông tin về vụ việc (được nghe lại, kể lại từ người khác,…) có dấu hiệu phạm tội là có thể tiến hành tin báo trên thông tin đại chúng hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng.
Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm là 20 ngày
Đây là nội dung mới nổi bật tại Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và thay thế Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC. Theo đó, Thông tư này quy định thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố là 20 ngày kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền nhận được tin. Riêng đối với trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh thì thời hạn không quá 02 tháng. Nếu hết thời hạn trên mà chưa thể kết thúc thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp có thẩm quyền gia hạn thời hạn giải quyết. - Nếu được sự nhất trí thì được kéo dài thêm không quá 02 tháng kể từ ngày kết hạn. - Nếu không nhất trí thì phải tạm dừng việc kiểm tra, xác minh và ra 01 trong các quyết định quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nếu đủ căn cứ. Thời hạn giải quyết tiếp trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố về tội phạm của cơ quan đang thụ lý, giải quyết không quá 01 tháng kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn giải quyết tiếp trong trường hợp cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không quá 01 tháng kể từ ngày ra quyết định phục hồi. Ngoài ra, Thông tư này cũng quy định một số nội dung mới như giải quyết các trường hợp liên quan đến thẩm quyền của nhiều đơn vị có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính… Mời các bạn xem chi tiết Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tại file đính kèm.