Khiếu kiện vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất buộc phải giám đốc thẩm
VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Lê Đình N, bà Nguyễn Thị S với bị đơn ông Nguyễn Duy P, bà Thủy Thị L của Tòa án nhân dân tỉnh Đ giải quyết tại Bản án phúc thẩm ngày 04/8/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. Tóm tắt vụ án tranh chấp đất đai Ngày 27/02/2010, vợ chồng ông Nguyễn Duy P, bà Thủy Thị L ký “Giấy sang nhượng đất lô gia cư” cho vợ chồng ông Lê Đình N, bà Nguyễn Thị S. Nội dung giấy sang nhượng thể hiện: bề ngang 10m, dài hết đất với số tiền 90 triệu đồng, đã đưa trước 60 triệu đồng, còn 30 triệu đồng sẽ giao khi làm xong bìa đỏ; cắt 10m bên ông Thiện và 100m2 đất nhà ở. Ông N, bà S cho rằng đã nhận bàn giao đất trên thực địa, có tứ cận cụ thể: quá trình sử dụng đất đã làm hàng rào và trồng cà phê trên phần đất của thửa số 08, còn phần đất của thửa số 07 (giáp đường) cho ông T mượn đất canh tác. Ông N, bà S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông P và bà L thực hiện các thủ tục tách bìa, sang tên lô đất trên. Tuy nhiên, ông P, bà L cho rằng chỉ chuyển nhượng phần đất thuộc thửa đất số 08, không có thửa số 07 (tức đất không giáp mặt đường); nếu ông N không đồng ý thì vợ chồng Ông, Bà lấy lại đất và trả lại tiền cho ông N, bà S. Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai (1) Bản án sơ thẩm của TAND huyện K.p, tỉnh Đ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị với ông Lê Đình N, QSDĐ hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng có diện tích là 1.374,8m2, thuộc thửa đất số 07 và thửa đất số 08, theo Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ ông P. Ông P và bà L phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần đất nhận chuyển nhượng có diện tích 1.374,8m2, tại thửa đất số 07, 08 sau khi thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật. Ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L số tiền còn lại là 30 triệu đồng. (2) Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị L. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm 04/2022/DS-ST tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S về việc công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được xác lập ngày 27/02/2010 giữa ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị L với ông Lê Đình N, quyền sử dụng đất hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng có diện tích là 1.374,8m2, thuộc thửa đất số 07 và thửa đất số 08, đã được UBND huyện KP cấp cho hộ ông Nguyễn Duy ngày 13/9/2001. Ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tpc đê ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần đất nhận chuyển nhượng có diện tích 1.374,8m2, tại thửa đất số 07, 08. Ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L số tiền còn lại là 65.641.000 đồng. Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp đất đai “Giấy sang nhượng đất lô gia cư” giữa vợ chồng ông P, bà L với ông N được lập thành văn bản nhưng không có công chứng, chứng thực là không đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực hiện hợp đồng, ông N, bà S đã trả 60 triệu đồng, còn lại 30 triệu đồng các bên thỏa thuận sẽ trả đủ khi làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ông P, bà L đã giao đất và ông N, bà S đã nhận đất, quản lý, sử dụng từ năm 2010 đến nay. Do đó, bản án công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là đúng với hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2004/NQ- HĐTP ngày 10/8/2004 và khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, Bản án lại buộc ông P, bà L “Phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ” là không đúng. Trong trường hợp này phải xác định: ông N, bà S được quyền sử dụng diện tích đất đã nhận chuyển nhượng và được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đế làm các thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Đối với số tiền chuyển nhượng QSDĐ 30 triệu đồng mà ông N, bà S chưa trả cho ông P, bà L thì phải buộc ông N, bà S trả cho ông P, bà L số tiền còn thiếu theo giá thị trường của thửa đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm tương ứng với phần diện tích chưa trả tiền mới đúng. - Bản án sơ thẩm buộc ông N, bà S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông P, bà L số tiền 30 triệu đồng còn lại là không đúng. - Bản án phúc thẩm buộc ông N, bà S phải thanh toán cho ông P, bà L số tiền 30 triệu đồng còn lại và tiền lãi theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 đối với số tiền 30 triệu đồng cũng không đúng. Qua đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông P, bà L. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” bị cấp giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Đ để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm đế nâng cao chất lượng khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự. Thông báo rút kinh nghiệm: tải
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ”
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về "Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn, ông Đ với bị đơn ông T, bà P; cùng địa chỉ: Thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY đã được xét xử theo Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh PY có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: 1. Nội dung vụ án Vợ chồng ông Đ, bà H (chết năm 2005) và em trai bà H là ông B (chết năm 2016) được thừa hưởng phần tài sản của cụ C (mẹ của bà H) là ngôi nhà gắn liền diện tích đất 140,lm2 tại thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY. Khi xây dựng nhà, cụ C có chừa ra khoảng 0,4m đất phía Đông để trổ cửa sổ (giáp ranh với đất của bà M). Nhà đất này trước đây do ông B trực tiếp quản lý. Năm 2006, gia đình ông B đi làm ăn xa nên cho ông T thuê nhà, thời hạn 10 năm. Sau đó, ông B và vợ là bà S để lại nhà, đất cho ông Đ được quyền sở hữu và làm nơi thờ cúng cha mẹ, khi ông T hết thời hạn thuê nhà. Đầu năm 2017, ông Đ nhận lại nhà từ ông T và tiến hành xây dựng nhà mới thì vợ chồng ông T, bà P ngăn cản không cho ông xây dựng trên phần đất 0,4m mà cụ C để trổ cửa sổ. Đất của gia đình ông và đất của bà M được thể hiện rõ trên sơ đồ địa chính của UBND xã HT, huyện TH là phần đất có chiều ngang 0,4m là của gia đình ông. Ông Đ khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông T, bà P phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của ông, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) cấp cho vợ chồng ông T; công nhận diện tích đất 6,2m2 thuộc quyền sử dụng đất của ông. Ông T cho rằng, năm 2015, vợ chồng ông đã nhận chuyển nhượng 60m2 đất của bà M. Vợ chồng ông đã được cấp GCN QSDĐ ngày 17/7/2015. Phần đất 0,4m thuộc quyền sử dụng của ông theo GCN QSDĐ mà bà M đã chuyển nhượng cho ông nên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đ. 2. Quá trình giải quyết của Tòa án Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của TAND PY như sau: Chấp nhận yêu cầu của ông Đ theo đơn khởi kiện ngày 27/4/2017. Công nhận diện tích đất tranh chấp 6,2m2 tọa lạc tại thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY thuộc QSDĐ của ông Đ, buộc vợ chồng ông T, bà P chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ của gia đình ông Đ (kèm theo sơ đồ hiện trạng lập ngày 05/01/2018 và biên bản định giá tài sản lập ngày 01/02/2018). Ghi nhận sự tự nguyện thương lượng của ông Đ giữ nguyên phần mái ngói của nhà ông T nhô ra bề (0,15m X 4,78m) và bề (0,1m X 8,18m) trên phần không gian của diện tích đất tranh chấp 6,2m (kèm theo sơ đồ và biên bản định giá tài sản). Kiến nghị UBND huyện TH cấp và điều chỉnh lại GCN QSDĐ số BB765744 ngày 20/3/2012 cấp cho bà M đã chuyển nhượng cho ông T ngày 17/7/2015 theo đúng với thực trạng QSDĐ như bản án đã tuyên. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông T, bà P; hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của TAND tỉnh PY; giao hồ sơ cho TAND tỉnh PY giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 57/2022/DS-PT ngày 09/3/2022 của TAND cấp cao ĐN, như sau: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông T, bà P; hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của TAND tỉnh PY và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh PY giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Quá trình giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà S (vợ ông B) vào tham gia tố tụng để xác định vợ chồng ông B, bà S đã cho ông Đ nhà đất của cụ C hay chưa? để xác định ông Đ có phải là người được quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp ngôi nhà gắn liền với diện tích 140,lm2 hay không? Khi giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ Biên lai thu thuế nhà, đất và diện tích 179m2 đất bà H kê khai có liên quan gì với 140,lm2 đất tại địa chỉ thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY hay không để làm cơ sở giải quyết vụ án. Theo đó, khi chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, chưa làm rõ những nội dung nêu trên, nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ là giải quyết vụ án chưa đúng quy định của pháp luật. Trên đây là vi phạm của TAND tỉnh PY trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất ”, VKSND cấp cao ĐN thông báo để các VKS các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự.
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án hình sự - Minh họa Ngày 6/5/2021, VKSND cấp cao tại TP. HCM ra Thông báo 21/TB-VC3-V1 rút kinh nghiệm vụ án Nguyễn Thanh Phượng cùng đồng phạm phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” xảy ra tại tỉnh Bạc Liêu. Sơ lược vụ án: Nguyễn Thanh Phượng và Nguyễn Thanh Hằng quan hệ là vợ chồng: Nguyễn Thanh Phượng đứng tên trên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ): (1) Giấy CNQSDĐ số BK689786, địa chỉ thửa đất: số 164, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 10, phường 1, Tp Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; (2) Giấy CNQSDĐ số BA 150831, địa chỉ thửa đất: ấp Tân Tạo, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu; (3) Giấy CNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất số BL 169590, địa chỉ: Số 184 Lê Đại Hành, phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh Tất cả các Giấy CNQSDĐ nêu trên đang được thể chấp vay vốn tại Ngân hàng. Để có tiền trả cho nhiều người đã vay trước đó, Nguyễn Thanh Phượng nảy sinh ý định làm giả Giấy CNQSDĐ của 03 thửa đất và căn hộ nêu trên để thế chấp, chuyển nhượng hoặc ủy quyền cho người khác để chiếm đoạt tiền của họ. Để thực hiện được hành vi trên, Phượng thuế Châu Thái Lang làm giả các giấy tờ này, trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2017, Phượng nhiều lần liên hệ thuê Châu Thái Lang làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với số tiền từ 6.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng/01 giấy. Sau khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, Phượng cùng Nguyễn Thanh Hằng đã ký chuyển nhượng, thể chấp hoặc ủy quyền cho nhiều người bị hại để chiếm đoạt của họ với số tiền tổng cộng là 4.950.000.000 đồng. Xem thêm chi tiết nội dung vụ án, kết quả các lần xét xử và nội dung rút kinh nghiệm tại file đính kèm dưới đây.
Thông báo rút kinh nghiệm giải quyết Vụ án Hành chính "Khiếu kiện thông báo thuế"
Thông qua kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông TVH và người bị kiện là Chi cục thuế thành phố X. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm số 19/TB-VC2-V3 về việc áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện thông báo thuế”; cụ thể như sau: 1. Tóm tắt nội dung vụ án Năm 1984, ông TVH được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp 01 lô đất toạ lạc tại tổ dân phố 5, phường T, thành phố X theo nội dung Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ có diện tích 400m2. Tuy nhiên, diện tích thực tế là 681,3m2 (nay thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79). Ngày 21/02/2017, ông nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với diện tích đất nói trên. Đến ngày 16/3/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) thành phố X có Công văn đề nghị UBND phường T xác định nguồn gốc và thời điểm sử dụng. Sau đó, ông nhận được Thông báo số 8498 nộp tiền sử dụng đất của Chi cục Thuế thành phố X có nội dung: Căn cứ vào phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 1702876 VPĐK của Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố X xác định hộ gia đình ông phải nộp 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích 300m2 đất ở là 1.650.000.000 đồng và tiền nộp phí trước bạ là 16.643.000 đồng. Ngày 09/8/2017, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố X cấp GCNQSDĐ số CI629871, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79, đứng tên hộ ông TVH và bà NTN, đồng thời, có ghi nợ nghĩa vụ tài chính. Ông cho rằng việc Chi cục thuế xác định mức nộp 50% tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình ông là không đúng nên đã khiếu nại lần đầu ngày 14/8/2017. Chi cục Trưởng Chi cục Thuế thành phố X đã ban hành Quyết định về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông. Do không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại trên, ông khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ Thông báo số 8498 của Chi cục Thuế thành phố X. 2. Quá trình giải quyết vụ án Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2018/HC-ST ngày 29/5/2018 của Toà án nhân dân thành phố X, tỉnh D: Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông TVH: Về việc yêu cầu huỷ Thông báo số 8498/TB-CC ngày 26/7/2017 của Chi cục thuế thành phố X đối với thửa đất đã được cấp GCNQSDĐ số CI629871, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79, tại phường T, thành phố X, tỉnh D, do UBND thành phố X cấp ngày 09/8/2017 đứng tên hộ ông TVH, bà NTN. Bản án phúc thẩm hành chính số 02/2019/HC-PT ngày 28/2/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D tuyên sửa bản án hành chính sơ thẩm số 05/2018/HCST ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân thành phố X theo hướng: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông TVH. Huỷ Thông báo số 8498/TB-CCT của Chi cục Thuế thành phố X đối với thửa đất trên. Ngày 12/4/2019, Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố X, tỉnh D có đơn đề nghị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D. Ngày 21/8/2019, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC đối với Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D, đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Huỷ bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung do chưa xem xét, đánh giá và thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh trong vụ án. Quyết định giám đốc thẩm số 09/2019/HC-GĐT của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên: Chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. 3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm Theo quy định tại khoản 2 Mục V Nghị định số 201-CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước thì việc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh D cấp đất cho ông TVH theo Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984 là không đúng thẩm quyền. Hộ gia đình ông TVH được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp Giấy sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984, đến năm 1992 ông đã làm nhà ở ổn định trước ngày 15/10/1993. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% tiền sử dụng đất theo giá đất quy định tại bảng giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Do đó, trường hợp ông TVH phải nộp tiền sử dụng đất bằng 40% đối với diện tích được cấp trong hạn mức theo bảng giá đất tại thời điểm công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng cấp sơ thẩm cho rằng: Hộ ông TVH làm thủ tục cấp GCNQSDĐ thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp đã được sử dụng đất ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất trong hạn mức giao đất theo giá đất quy định tại Bảng giá đất”, cụ thể: Ông TVH đã làm nhà từ năm 1992 nhưng không sử dụng, đến năm 2003 mới làm nhà cấp 4 để ở, sử dụng ổn định đến nay, theo đó ông TVH thuộc trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 nên thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở theo giá đất quy định tại bảng giá đất của địa phương là chưa chính xác. Ngược lại, bản án hành chính phúc thẩm lại nhận định: Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984 mà Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp cho hộ ông TVH là một trong những giấy tờ thuộc quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013 cụ thể: “Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính phủ” nên hộ ông TVH thuộc trường hợp sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất để từ đó sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng, chấp nhận đơn khởi kiện của ông TVH là không đúng pháp luật. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tỉnh D chưa thu thập, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện nhưng lại có phán quyết trái ngược nhau về cùng một dung là chưa có sự thống nhất về nhận thức trong áp dụng pháp luật về đất đai. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm số 09/2019/HC-GĐT ngày 29/10/2019 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị nghị giám đốc thẩm số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC ngày 21/8/2019 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng theo hướng, huỷ Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D và giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh D để xét xử phúc thẩm lại vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật./. Theo https://vksndtc.gov.vn/
TB rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp HĐ chuyển nhượng QSDĐ
Dưới đây là nội dung thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng BLTTDS, xâm phạm đến quyền lợi của các đương sự, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy cần đưa ra để rút kinh nghiệm. Mời bạn xem chi tiết tại đây
TB rút kinh nghiệm về tranh chấp thừa kế tài sản
Ngày 28/11/2019, Viện kiểm sát nhân tối cao ban hành thông báo 75/TB-VC1-DS về rút kinh nghiệm trong vụ tranh chấp thừa kế tài sản. Mời bạn xem chi tiết tại đây:
TB rút kinh nghiệm giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp HĐ mua bán nhà và HĐ vay tài sản
Ngày 29/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông báo 962/TB-VKSTC về rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự vụ án "Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và hợp đồng vay tài sản"
TB rút kinh nghiệm việc kiểm sát giải quyết vụ án DS bị cấp phúc thẩm hủy án
Dưới đây là nội dung thông báo của VKSND TPHCM về việc rút kinh nghiệm giải quyết vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm hủy án do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tài liệu cần thiết cho nhiều bạn!
Khiếu kiện vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất buộc phải giám đốc thẩm
VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Lê Đình N, bà Nguyễn Thị S với bị đơn ông Nguyễn Duy P, bà Thủy Thị L của Tòa án nhân dân tỉnh Đ giải quyết tại Bản án phúc thẩm ngày 04/8/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. Tóm tắt vụ án tranh chấp đất đai Ngày 27/02/2010, vợ chồng ông Nguyễn Duy P, bà Thủy Thị L ký “Giấy sang nhượng đất lô gia cư” cho vợ chồng ông Lê Đình N, bà Nguyễn Thị S. Nội dung giấy sang nhượng thể hiện: bề ngang 10m, dài hết đất với số tiền 90 triệu đồng, đã đưa trước 60 triệu đồng, còn 30 triệu đồng sẽ giao khi làm xong bìa đỏ; cắt 10m bên ông Thiện và 100m2 đất nhà ở. Ông N, bà S cho rằng đã nhận bàn giao đất trên thực địa, có tứ cận cụ thể: quá trình sử dụng đất đã làm hàng rào và trồng cà phê trên phần đất của thửa số 08, còn phần đất của thửa số 07 (giáp đường) cho ông T mượn đất canh tác. Ông N, bà S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông P và bà L thực hiện các thủ tục tách bìa, sang tên lô đất trên. Tuy nhiên, ông P, bà L cho rằng chỉ chuyển nhượng phần đất thuộc thửa đất số 08, không có thửa số 07 (tức đất không giáp mặt đường); nếu ông N không đồng ý thì vợ chồng Ông, Bà lấy lại đất và trả lại tiền cho ông N, bà S. Quá trình giải quyết vụ án tranh chấp đất đai (1) Bản án sơ thẩm của TAND huyện K.p, tỉnh Đ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị với ông Lê Đình N, QSDĐ hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng có diện tích là 1.374,8m2, thuộc thửa đất số 07 và thửa đất số 08, theo Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ ông P. Ông P và bà L phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần đất nhận chuyển nhượng có diện tích 1.374,8m2, tại thửa đất số 07, 08 sau khi thực hiện xong nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật. Ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L số tiền còn lại là 30 triệu đồng. (2) Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị L. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm 04/2022/DS-ST tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S về việc công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được xác lập ngày 27/02/2010 giữa ông Nguyễn Duy P, bà Thuỷ Thị L với ông Lê Đình N, quyền sử dụng đất hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng có diện tích là 1.374,8m2, thuộc thửa đất số 07 và thửa đất số 08, đã được UBND huyện KP cấp cho hộ ông Nguyễn Duy ngày 13/9/2001. Ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tpc đê ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với phần đất nhận chuyển nhượng có diện tích 1.374,8m2, tại thửa đất số 07, 08. Ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Duy P và bà Thủy Thị L số tiền còn lại là 65.641.000 đồng. Rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp đất đai “Giấy sang nhượng đất lô gia cư” giữa vợ chồng ông P, bà L với ông N được lập thành văn bản nhưng không có công chứng, chứng thực là không đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực hiện hợp đồng, ông N, bà S đã trả 60 triệu đồng, còn lại 30 triệu đồng các bên thỏa thuận sẽ trả đủ khi làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ông P, bà L đã giao đất và ông N, bà S đã nhận đất, quản lý, sử dụng từ năm 2010 đến nay. Do đó, bản án công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là đúng với hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2004/NQ- HĐTP ngày 10/8/2004 và khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, Bản án lại buộc ông P, bà L “Phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ông Lê Đình N và bà Nguyễn Thị S được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ” là không đúng. Trong trường hợp này phải xác định: ông N, bà S được quyền sử dụng diện tích đất đã nhận chuyển nhượng và được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đế làm các thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Đối với số tiền chuyển nhượng QSDĐ 30 triệu đồng mà ông N, bà S chưa trả cho ông P, bà L thì phải buộc ông N, bà S trả cho ông P, bà L số tiền còn thiếu theo giá thị trường của thửa đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm tương ứng với phần diện tích chưa trả tiền mới đúng. - Bản án sơ thẩm buộc ông N, bà S phải có trách nhiệm tiếp tục thanh toán cho ông P, bà L số tiền 30 triệu đồng còn lại là không đúng. - Bản án phúc thẩm buộc ông N, bà S phải thanh toán cho ông P, bà L số tiền 30 triệu đồng còn lại và tiền lãi theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 đối với số tiền 30 triệu đồng cũng không đúng. Qua đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông P, bà L. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Đ trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” bị cấp giám đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Đ để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm đế nâng cao chất lượng khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự. Thông báo rút kinh nghiệm: tải
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ”
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về "Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn, ông Đ với bị đơn ông T, bà P; cùng địa chỉ: Thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY đã được xét xử theo Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh PY có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: 1. Nội dung vụ án Vợ chồng ông Đ, bà H (chết năm 2005) và em trai bà H là ông B (chết năm 2016) được thừa hưởng phần tài sản của cụ C (mẹ của bà H) là ngôi nhà gắn liền diện tích đất 140,lm2 tại thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY. Khi xây dựng nhà, cụ C có chừa ra khoảng 0,4m đất phía Đông để trổ cửa sổ (giáp ranh với đất của bà M). Nhà đất này trước đây do ông B trực tiếp quản lý. Năm 2006, gia đình ông B đi làm ăn xa nên cho ông T thuê nhà, thời hạn 10 năm. Sau đó, ông B và vợ là bà S để lại nhà, đất cho ông Đ được quyền sở hữu và làm nơi thờ cúng cha mẹ, khi ông T hết thời hạn thuê nhà. Đầu năm 2017, ông Đ nhận lại nhà từ ông T và tiến hành xây dựng nhà mới thì vợ chồng ông T, bà P ngăn cản không cho ông xây dựng trên phần đất 0,4m mà cụ C để trổ cửa sổ. Đất của gia đình ông và đất của bà M được thể hiện rõ trên sơ đồ địa chính của UBND xã HT, huyện TH là phần đất có chiều ngang 0,4m là của gia đình ông. Ông Đ khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông T, bà P phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của ông, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) cấp cho vợ chồng ông T; công nhận diện tích đất 6,2m2 thuộc quyền sử dụng đất của ông. Ông T cho rằng, năm 2015, vợ chồng ông đã nhận chuyển nhượng 60m2 đất của bà M. Vợ chồng ông đã được cấp GCN QSDĐ ngày 17/7/2015. Phần đất 0,4m thuộc quyền sử dụng của ông theo GCN QSDĐ mà bà M đã chuyển nhượng cho ông nên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đ. 2. Quá trình giải quyết của Tòa án Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của TAND PY như sau: Chấp nhận yêu cầu của ông Đ theo đơn khởi kiện ngày 27/4/2017. Công nhận diện tích đất tranh chấp 6,2m2 tọa lạc tại thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY thuộc QSDĐ của ông Đ, buộc vợ chồng ông T, bà P chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ của gia đình ông Đ (kèm theo sơ đồ hiện trạng lập ngày 05/01/2018 và biên bản định giá tài sản lập ngày 01/02/2018). Ghi nhận sự tự nguyện thương lượng của ông Đ giữ nguyên phần mái ngói của nhà ông T nhô ra bề (0,15m X 4,78m) và bề (0,1m X 8,18m) trên phần không gian của diện tích đất tranh chấp 6,2m (kèm theo sơ đồ và biên bản định giá tài sản). Kiến nghị UBND huyện TH cấp và điều chỉnh lại GCN QSDĐ số BB765744 ngày 20/3/2012 cấp cho bà M đã chuyển nhượng cho ông T ngày 17/7/2015 theo đúng với thực trạng QSDĐ như bản án đã tuyên. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông T, bà P; hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của TAND tỉnh PY; giao hồ sơ cho TAND tỉnh PY giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 57/2022/DS-PT ngày 09/3/2022 của TAND cấp cao ĐN, như sau: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông T, bà P; hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của TAND tỉnh PY và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh PY giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Quá trình giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà S (vợ ông B) vào tham gia tố tụng để xác định vợ chồng ông B, bà S đã cho ông Đ nhà đất của cụ C hay chưa? để xác định ông Đ có phải là người được quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp ngôi nhà gắn liền với diện tích 140,lm2 hay không? Khi giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa thu thập chứng cứ để xác minh làm rõ Biên lai thu thuế nhà, đất và diện tích 179m2 đất bà H kê khai có liên quan gì với 140,lm2 đất tại địa chỉ thôn X, xã HT, huyện TH, tỉnh PY hay không để làm cơ sở giải quyết vụ án. Theo đó, khi chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, chưa làm rõ những nội dung nêu trên, nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ là giải quyết vụ án chưa đúng quy định của pháp luật. Trên đây là vi phạm của TAND tỉnh PY trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất ”, VKSND cấp cao ĐN thông báo để các VKS các tỉnh, thành trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án tương tự.
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án hình sự - Minh họa Ngày 6/5/2021, VKSND cấp cao tại TP. HCM ra Thông báo 21/TB-VC3-V1 rút kinh nghiệm vụ án Nguyễn Thanh Phượng cùng đồng phạm phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” xảy ra tại tỉnh Bạc Liêu. Sơ lược vụ án: Nguyễn Thanh Phượng và Nguyễn Thanh Hằng quan hệ là vợ chồng: Nguyễn Thanh Phượng đứng tên trên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ): (1) Giấy CNQSDĐ số BK689786, địa chỉ thửa đất: số 164, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 10, phường 1, Tp Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; (2) Giấy CNQSDĐ số BA 150831, địa chỉ thửa đất: ấp Tân Tạo, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu; (3) Giấy CNQSDĐ và tài sản gắn liền với đất số BL 169590, địa chỉ: Số 184 Lê Đại Hành, phường 15, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh Tất cả các Giấy CNQSDĐ nêu trên đang được thể chấp vay vốn tại Ngân hàng. Để có tiền trả cho nhiều người đã vay trước đó, Nguyễn Thanh Phượng nảy sinh ý định làm giả Giấy CNQSDĐ của 03 thửa đất và căn hộ nêu trên để thế chấp, chuyển nhượng hoặc ủy quyền cho người khác để chiếm đoạt tiền của họ. Để thực hiện được hành vi trên, Phượng thuế Châu Thái Lang làm giả các giấy tờ này, trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2017, Phượng nhiều lần liên hệ thuê Châu Thái Lang làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với số tiền từ 6.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng/01 giấy. Sau khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, Phượng cùng Nguyễn Thanh Hằng đã ký chuyển nhượng, thể chấp hoặc ủy quyền cho nhiều người bị hại để chiếm đoạt của họ với số tiền tổng cộng là 4.950.000.000 đồng. Xem thêm chi tiết nội dung vụ án, kết quả các lần xét xử và nội dung rút kinh nghiệm tại file đính kèm dưới đây.
Thông báo rút kinh nghiệm giải quyết Vụ án Hành chính "Khiếu kiện thông báo thuế"
Thông qua kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông TVH và người bị kiện là Chi cục thuế thành phố X. VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm số 19/TB-VC2-V3 về việc áp dụng pháp luật trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện thông báo thuế”; cụ thể như sau: 1. Tóm tắt nội dung vụ án Năm 1984, ông TVH được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp 01 lô đất toạ lạc tại tổ dân phố 5, phường T, thành phố X theo nội dung Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ có diện tích 400m2. Tuy nhiên, diện tích thực tế là 681,3m2 (nay thuộc thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79). Ngày 21/02/2017, ông nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) đối với diện tích đất nói trên. Đến ngày 16/3/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) thành phố X có Công văn đề nghị UBND phường T xác định nguồn gốc và thời điểm sử dụng. Sau đó, ông nhận được Thông báo số 8498 nộp tiền sử dụng đất của Chi cục Thuế thành phố X có nội dung: Căn cứ vào phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 1702876 VPĐK của Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố X xác định hộ gia đình ông phải nộp 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích 300m2 đất ở là 1.650.000.000 đồng và tiền nộp phí trước bạ là 16.643.000 đồng. Ngày 09/8/2017, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố X cấp GCNQSDĐ số CI629871, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79, đứng tên hộ ông TVH và bà NTN, đồng thời, có ghi nợ nghĩa vụ tài chính. Ông cho rằng việc Chi cục thuế xác định mức nộp 50% tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình ông là không đúng nên đã khiếu nại lần đầu ngày 14/8/2017. Chi cục Trưởng Chi cục Thuế thành phố X đã ban hành Quyết định về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông. Do không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại trên, ông khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ Thông báo số 8498 của Chi cục Thuế thành phố X. 2. Quá trình giải quyết vụ án Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2018/HC-ST ngày 29/5/2018 của Toà án nhân dân thành phố X, tỉnh D: Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông TVH: Về việc yêu cầu huỷ Thông báo số 8498/TB-CC ngày 26/7/2017 của Chi cục thuế thành phố X đối với thửa đất đã được cấp GCNQSDĐ số CI629871, thửa đất số 110, tờ bản đồ số 79, tại phường T, thành phố X, tỉnh D, do UBND thành phố X cấp ngày 09/8/2017 đứng tên hộ ông TVH, bà NTN. Bản án phúc thẩm hành chính số 02/2019/HC-PT ngày 28/2/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D tuyên sửa bản án hành chính sơ thẩm số 05/2018/HCST ngày 25/9/2018 của Toà án nhân dân thành phố X theo hướng: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông TVH. Huỷ Thông báo số 8498/TB-CCT của Chi cục Thuế thành phố X đối với thửa đất trên. Ngày 12/4/2019, Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố X, tỉnh D có đơn đề nghị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D. Ngày 21/8/2019, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC đối với Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D, đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm theo hướng: Huỷ bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung do chưa xem xét, đánh giá và thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh trong vụ án. Quyết định giám đốc thẩm số 09/2019/HC-GĐT của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên: Chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. 3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm Theo quy định tại khoản 2 Mục V Nghị định số 201-CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước thì việc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh D cấp đất cho ông TVH theo Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984 là không đúng thẩm quyền. Hộ gia đình ông TVH được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp Giấy sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984, đến năm 1992 ông đã làm nhà ở ổn định trước ngày 15/10/1993. Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 thì thu tiền sử dụng đất bằng 40% tiền sử dụng đất theo giá đất quy định tại bảng giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Do đó, trường hợp ông TVH phải nộp tiền sử dụng đất bằng 40% đối với diện tích được cấp trong hạn mức theo bảng giá đất tại thời điểm công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng cấp sơ thẩm cho rằng: Hộ ông TVH làm thủ tục cấp GCNQSDĐ thuộc trường hợp phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Trường hợp đã được sử dụng đất ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất trong hạn mức giao đất theo giá đất quy định tại Bảng giá đất”, cụ thể: Ông TVH đã làm nhà từ năm 1992 nhưng không sử dụng, đến năm 2003 mới làm nhà cấp 4 để ở, sử dụng ổn định đến nay, theo đó ông TVH thuộc trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 nên thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở theo giá đất quy định tại bảng giá đất của địa phương là chưa chính xác. Ngược lại, bản án hành chính phúc thẩm lại nhận định: Giấy cho sử dụng đất số 837/SDĐ ngày 15/10/1984 mà Bộ chỉ huy quân sự tỉnh D cấp cho hộ ông TVH là một trong những giấy tờ thuộc quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013 cụ thể: “Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định của Chính phủ” nên hộ ông TVH thuộc trường hợp sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất để từ đó sửa bản án hành chính sơ thẩm theo hướng, chấp nhận đơn khởi kiện của ông TVH là không đúng pháp luật. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tỉnh D chưa thu thập, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện nhưng lại có phán quyết trái ngược nhau về cùng một dung là chưa có sự thống nhất về nhận thức trong áp dụng pháp luật về đất đai. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm số 09/2019/HC-GĐT ngày 29/10/2019 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị nghị giám đốc thẩm số 74/QĐKNGĐT-VKS-HC ngày 21/8/2019 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng theo hướng, huỷ Bản án số 02/2019/HC-PT ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân tỉnh D và giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh D để xét xử phúc thẩm lại vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật./. Theo https://vksndtc.gov.vn/
TB rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp HĐ chuyển nhượng QSDĐ
Dưới đây là nội dung thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng BLTTDS, xâm phạm đến quyền lợi của các đương sự, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy cần đưa ra để rút kinh nghiệm. Mời bạn xem chi tiết tại đây
TB rút kinh nghiệm về tranh chấp thừa kế tài sản
Ngày 28/11/2019, Viện kiểm sát nhân tối cao ban hành thông báo 75/TB-VC1-DS về rút kinh nghiệm trong vụ tranh chấp thừa kế tài sản. Mời bạn xem chi tiết tại đây:
TB rút kinh nghiệm giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp HĐ mua bán nhà và HĐ vay tài sản
Ngày 29/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thông báo 962/TB-VKSTC về rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự vụ án "Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và hợp đồng vay tài sản"
TB rút kinh nghiệm việc kiểm sát giải quyết vụ án DS bị cấp phúc thẩm hủy án
Dưới đây là nội dung thông báo của VKSND TPHCM về việc rút kinh nghiệm giải quyết vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm hủy án do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tài liệu cần thiết cho nhiều bạn!