Rút kinh nghiệm về tranh chấp hợp đồng lai dắt tàu biển
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại về “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ”, giữa nguyên đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải biển C, bị đơn là Công ty Cổ phần Cảng Q do Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN giải quyết tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: I. NỘI DUNG VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI Ngày 12/10/2016, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải biển C (sau đây viết tắt là Công ty C - Bên A) và Công ty Cổ phần Cảng Q (sau đây viết tắt là Công ty Q - Bên B) cùng nhau ký kết Hợp đồng kinh tế số 274/CUULONG/2016/01.02 (sau đây viết tắt là Hợp đồng 274) về việc “Thuê tàu lai vào khai thác tại cảng Q”. Với nội dung tóm tắt như sau: Bên B đồng ý thuê tàu lai của bên A để thực hiện hỗ trợ tàu thủy của khách hàng bên B ra/vào cảng Q; Thời hạn thuê 10 năm; Trách nhiệm của bên A: ... Sau mỗi chuyến hỗ trợ tàu thủy vào hoặc ra cầu cảng, Thuyền trưởng có trách nhiệm nộp phiếu xác nhận cho bên B. Hàng tháng, Thuyền trưởng cùng cán bộ của bên B lập và đối chiếu Bảng kê chi tiết hoạt động của tàu lai và cước phí hỗ trợ (tách riêng giá nội và ngoại); Giá cả và phương thức thanh toán: Đơn giá, theo đơn giá thanh toán của bên B phê duyệt (có Phụ lục hợp đồng theo từng thời điểm). Đơn giá được điều chỉnh tùy theo biến động của thị trường; Chứng từ thanh toán bao gồm: (i) Chứng từ do bên B xác lập: Giấy đề nghị thanh toán, (ii) Chứng từ do bên A xác lập: Phiếu xác nhận khối lượng thực hiện, Bảng kê chi tiết hoạt động lai tàu, Hóa đơn dịch vụ GTGT của bên A. Ngoài ra hai bên còn thỏa thuận vê điều kiện chấm dứt hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng, hai bên tiếp tục ký các Phụ lục hợp đồng (Phụ lục số 01 ngày 01/01/2017; số 02 ngày 07/7/2017; số 03 ngày 03/4/2018; số 04 ngày 05/7/2018), trong đó có nội dung hai bên thỏa thuận điều chỉnh về đơn giá thanh toán cước các tàu lai theo chiều dài tàu, đặc điểm tàu (có chân vịt hoặc không có chân vịt) và trọng tải của tàu yêu cầu hỗ trợ lai dắt. Quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã tiến hành đối chiếu và thanh toán cụ thể như sau: Từ ngày 12/10/2016 đến ngày 01/7/2017 hai bên đã hoàn thành việc thanh toán, xuất hóa đơn và không có tranh chấp. Từ ngày 01/7/2017 đến 05/12/2018, hai bên đã đối chiếu và thống nhất Công ty C đã thực hiện 2.262 lượt lai dắt (trong đó: Lai dắt tàu ngoại là 1.585 lượt; lai dắt tàu nội là 677 lượt). Công ty Q đã thu của tàu khách hàng 76.318.155.736 đồng (trong đó: Tàu ngoại là 2.919.979 USD quy đổi bằng 66.560.715.736 đồng; tàu nội là 9.757.440.000 đồng). Công ty Q đã thanh toán cho Công ty C 51.879.851.800 đồng, Công ty C đã xuất hóa đơn cho Công ty Q. Công ty C cho rằng, do Công ty Q vi phạm hợp đồng 274 (không thực hiện đối chiếu, không thanh toán cho Công ty C theo giá tàu ngoại) nên ngày 04/12/2018, Công ty C ban hành Công văn sổ 72/CV-CL gửi Công ty Q với nội dung là: Công ty C thông báo sẽ kết thúc Hợp đồng 274 với Cảng Q vào ngày 05/12/2018. Sau khi kết thúc Hợp đồng, Công ty C sẽ thực hiện việc ký hợp đồng trực tiếp với các Chủ tàu/ Đại lý tàu biển để thực hiện dịch vụ laỉ dắt tàu biển vào làm hàng tại Cảng Q. Ngay sau khi thông báo ‘'ngày 05/12/2018 chấm dứt hợp đồng” thì ngày 06/12/2018 Công ty C đã không thực hiện công việc lai dắt tàu thủy vào Cảng. Trước tình hình đó, để đảm bảo các hãng tàu, các tàu vào Cảng Q theo hợp đồng đã ký với Công ty Q thì Công ty Q đã phải thông báo cho các hàng tàu trực tiếp liên hệ với Công ty C để được hỗ trợ lai dắt ra vào Cảng, còn phía Công ty Q đồng ý để Công ty C được hưởng 100% cước phí lai dắt đó. Từ ngày 05/12/2018 đến ngày 25/12/2018 Công ty C đã thực hiện 21 lượt lai dắt do các hãng tàu liên hệ trực tiếp. Ngày 26/12/2018, Công ty Q đã ban hành Văn bản số 1040/CV-QNP gửi Công ty C về việc cam kết thực hiện thanh toán đủ 100% số tiền của 21 lượt lai dắt mà Công ty Q đã thu của các hãng tàu. Hiện nay, số tiền này đã được thanh toán, Công ty C đã xuất hóa đơn GTGT cho Công ty Q. Tuy nhiên, Công ty C lại cho rằng, ngày 01/12/2016, Bộ Giao thông Vận tải ban hành Quyết định số 3863/QĐ-BGTVT về việc ban hành biểu khung giá dịch vụ bốc dở Container và dịch vụ lai dắt tại cảng biển Việt Nam (Quyết định số 3863) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2017 nên Công ty Q phải tách đơn giá tàu nội, tàu ngoại để thanh toán cho Công ty C, Công ty C là đơn vị lai dắt nên được hưởng phí lai dắt theo quy định tại Quyết định số 3863. Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/4/2019 (được sửa đổi, bổ sung ngày 08/8/2019, ngày 21/8/2019, ngày 27/01/2021, ngày 20/01/2022) và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là Công ty C đê nghị Tòa án giải quyết: Yêu cầu Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng 274 ký ngày 12/10/2016; Yêu cầu Công ty Q phải thanh toán phí dịch vụ lai dắt tàu ngoại từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018, với số tiền là 24.438.303.936 đồng; Yêu cầu Công ty Q bồi thường thiệt hại vì không cho Công ty C thực hiện lai dắt trong 02 năm 2019 và 2020, với tổng số tiền là 41.865.421.192 đồng; Yêu cầu Công ty Q trả các khoản lãi theo quy định của pháp luật, do chậm thanh toán các khoản nợ, kể từ khi chậm trả cho đến khi bản án có hiệu lực. II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tính BĐ, tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ lai dắt tàu từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018 là 24.438.303.936 đồng (thuế giá trị gia tăng 0%). Công ty C có nghĩa vụ xuất hóa đơn cho Công ty Q sau khi Công ty C nhận được số tiền 24.438.303.936 đồng. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng. - Buộc Công ty Q phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong hai năm 2019 và 2020 với sổ tiền là 21.066.570.128 đồng. Tổng cộng Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C 49.895.622.064 đồng. Trả một lần ngay khi bản ản có hiệu lực pháp luật. 2. Buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274 đã ký kết với Công ty C vào ngày 12/10/2016. 3. Bác yêu cầu phản tố của Công ty Q đòi Công ty C phải hoàn trả số tiền chênh lệch cho Công ty Q là 1.388.422.570 đồng. 4. Đình chỉ xét xử đối với phần khởi kiện của Công ty C yêu cầu Công ty Q trả 1.133.250.000 đồng của Hợp đồng số 171/THO/2018/03.03 ngày 13/01/2018 giữa Công ty C với Công ty Q. 5. Đình chỉ xét xử đối với phần phản tố của Công ty Q yêu cầu Công ty C bồi thường thiệt hại từ việc Công ty C không hoàn trả vị trí neo tàu lai lại cho Công ty Q với số tiền là 1.226.826.810 đồng. Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo. Ngày 27/02/2022, bị đơn là Công ty Q có đơn kháng cáo; ngày 29/7/2022, nguyên đơn là Công ty C có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN, quyết định: - Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn. -Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn. Sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh BĐ về phần bồi thường thiệt hại và phần án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ lai dắt tàu từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018 là 24.438.303.936 đồng (thuế giá trị gia tăng 0%). Công ty C có nghĩa vụ xuât hóa đơn cho Công ty Q sau khi Công ty C nhận được số tiền 24.438.303.936 đồng. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng. - Buộc Công ty Q phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong hai năm (năm 2019 và năm 2020) với số tiền là 24.651.366.128 đồng. Tong cộng Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C 53.480.418.064 đồng (năm mươi ba tỷ bổn trăm tám mươi triệu bốn trăm mười tám nghìn không trăm sáu mươi tư đồg). Trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. 2. Buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274 ngày 12/10/2016 đã ký kết với Công ty C. Ngoài ra, Tòa án còn tuyên về án phí và hiệu lực của bản án. Sau khi có Bản án kinh doanh, thưong mại phúc thẩm nêu trên, Công ty Q, có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 14/6/2023, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 02/QĐKNGĐT-VKS-KDTM kháng nghị đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN và Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh BĐ; giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh BĐ xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2024/KDTM-GĐT ngày 10/01/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. III. NHŨNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM Thứ nhất, Tòa án hai cấp buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ lai dắt tàu từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018 là 24.438.303.936 đồng (thuế giá trị gia tăng 0%). Công ty C có nghĩa vụ xuất hóa đơn cho Công ty Q sau khi Công ty C nhận được số tiền 24.438.303.936 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng là không có căn cứ, bởi lẽ như sau: Theo hồ sơ vụ án và tài liệu mà Công ty Q cung cấp cho thấy Công tỵ Q có đăng ký kinh doanh ngành nghề lai dắt tàu biển. Do đó Công ty Q có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 và Điều 257 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2014 Công ty Q ký hợp đồng cung cấp dịch vụ lai dắt với các Hãng tàu, Đại lý hàng hải theo Biểu cước dịch vụ cảng biển do Công ty Q ban hành phù hợp với quy định về hợp đồng lai dắt tàu biển tại Điều 179 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 (nay là Điều 258 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015). Quyết định số 3863 của Bộ Giao thông vận tải là ban hành về biểu khung giá dịch vụ bốc dở Container và dịch vụ lai dắt tại Cảng biển Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 01/7/2017) nên Công ty Q được hưởng theo biểu khung giá dịch vụ lai dắt tại Quyết định số 3863 khi ký các hợp đồng cung cấp dịch vụ lai dắt với các Hãng tàu, Đại lý hàng hải. Hợp đồng kinh tế số 274/CUULONG/2016/01.02 ngày 12/10/2016 và 04 Phụ lục hợp đồng (Phụ lục số 01 ngày 01/01/2017; số 02 ngày 01/7/2017; số 03 ngày 23/4/2018; số 04 ngày 07/5/2018) giữa Công ty C và Công ty Q về việc “Thuê tàu lai vào khai thác tại cảng Q ” là thuê tàu lai dắt, không phải là dịch vụ lai dắt nên đơn giá do hai bên thỏa thuận. Hai bên không có phụ lục điều chỉnh đơn giá lai dắt tàu nội, tàu ngoại cũng như không có thỏa thuận Công ty Q phải thanh toán cho Công ty C toàn bộ 100% tiền thu của khách hàng. Công ty C là bên chủ động chấm dứt Hợp đồng 274 bàng việc ban hành Văn bản số 72/CV-CL ngày 04/12/2018 thông báo sẽ kết thúc thực hiện Hợp đồng 274 với Công ty Q vào ngày 05/12/2018. Sau ngày 05/12/2018, thực hiện chỉ đạo của Cảng vụ Hàng hải QN, để đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải thông suốt lưu thông hàng hóa, nên ngày 07/12/2018 Công ty Q ban hành Văn bản số 963/QNP-KD thông báo cho các Hãng tàu liên lạc trực tiếp với Công ty C để được hỗ trợ lai dắt và Công ty Q buộc phải chấp nhận để Công ty C hưởng trọn 100% tiền thu của các tàu khách hàng từ ngày 05/12/2018 đến ngày 25/12/2018 đối với 21 lượt lai dắt là giải pháp tình thế chứ không phải Công ty Q chấp nhận việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Như vậy, Công ty Q có kinh doanh nghành nghề lai dắt tàu biển, trực tiếp ký hợp đồng cung cấp dịch vụ lai dắt với các Hãng tàu, Đại lý hàng hải sau đó ký Hợp đồng 274 với Công ty C nên Công ty C không phải là đối tượng được áp dụng giá dịch vụ lai dắt theo Quyết định 3863 mà chỉ được hưởng đơn giá theo giá hai bên thỏa thuận tại Hợp đồng 274. Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm nhận định Công ty Q là doanh nghiệp không đủ điều kiện, chức năng để thực hiện dịch vụ lai dăt tàu biên; Công ty C là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lai dắt tàu, nên Công ty C được thu phí lai dắt tàu theo khung giá dịch vụ lai dắt tàu của Quyêt định sô 3863, còn Công ty Q không phải là doanh nghiệp cung cấp địch vụ lai dắt tàu, nên Công ty Q không phải là đối tượng được hưởng số tiền thu phí lai dắt theo Quyết định số 3863; từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty C, buộc Công ty Q phải thanh toán phí dịch vụ lai dắt (từ ngày 01/7/2017 đến ngày 05/12/2018) theo Quyết định số 3863 với số tiền 24.438.303.936 đồng (76.318.155.736 đồng - 51.879.851.800 đồng) và tiền lãi của số tiền này là nhầm lẫn khái niệm thuê tàu lai dắt và khái niệm làm dịch vụ lai dắt, không đúng thỏa thuận của hai bên và áp dụng sai pháp luật gây thiệt hại của Công ty Q. Thứ hai, Tòa án cấp cấp phúc thẩm buộc Công ty Q phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong 02 năm (năm 2019 và năm 2020) với số tiền là 24.651.366.128 đồng và buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274 ngày 12/10/2016 đã ký kết với Công ty C cũng là không đúng, bởi lẽ sau: Do Công ty C đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng từ ngày 05/12/2018 nên Hợp đồng 274 chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 311 Luật Thương mại năm 2005; việc thực hiện 21 lượt lai dắt từ ngày 05/12/2018 đến ngày 25/12/2018, Công ty Q thu của các Hãng tàu, Đại lý hàng hải bao nhiêu thì trả cho Công ty C bấy nhiêu chỉ là giải pháp tình thế, không phải là việc đồng ý tiếp tục thực hiện Hợp đồng 274 vì đơn giá Hợp đồng 274 là do hai bên tự nguyện thỏa thuận; Công ty Q không có lỗi trong việc thanh toán, không vi phạm Hợp đồng 274 nên không gây thiệt hại cho Công ty C; việc Công ty Q cung cấp điện, nước cho tàu của Công ty C theo Hợp đồng 274 không phải là hợp đồng song vụ mà là việc tàu sử dụng điện, nước thì phải trả tiền. Tòa án hai cấp buộc Công ty Q phải bồi thường cho Công ty C thiệt hại phát sinh trong 02 năm 2019 và 2020 và buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng 274 là không có căn cứ, gây thiệt hại cho Công ty Q.
Rút kinh nghiệm về định tội danh trong vụ án giết người và cố ý gây thương tích
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Đặng Anh Việc (cùng các đồng phạm) bị xét xử về các tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo để các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phó nghiên cứu, rút kinh nghiệm như sau: I. Tóm tắt nội dung vụ án Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc mua bán điện thoại giữa Trịnh Nhật Tân và Đặng Anh Tú, nên khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/6/2021 Trịnh Nhật Tân cùng với Phạm Hữu Nghĩa đến nhà Trần Anh Tuấn (là anh ruột của Tú) để tìm gặp Tú. Khi gặp nhau hai bên đã xảy ra xô xát, cãi vã và thách thức đánh nhau. Nghe tiếng ồn ào Đặng Anh Việc (là em ruột của Tú ở nhà sát bên) liền chạy ra phía trước nhà của Tuấn đến gần chỗ Tân và nói “Do cái điện thoại của mày mà sinh chuyện”, đồng thời Việc dùng tay đấm trúng vào mặt của Tân. Thấy vậy, Nghĩa cầm 01 con dao Thái Lan xông đến định đâm Việc thì Việc liền sử dụng 01 thanh kiếm (cán màu đen dài 20cm, lưỡi kim loại dài 80cm) giơ lên cao và la lớn “Giết chết mẹ nó luôn”. Tuấn liền cầm 01 khúc cây gỗ dài 1,3m chạy ra đánh 01 cái trúng vào người của Nghĩa thì Nghĩa bỏ chạy. Tuấn cầm khúc cây cùng với Tú cầm 01 thanh kiếm tiếp tục truy đuổi theo Nghĩa. Trong khi Nghĩa đang bỏ chạy Tuấn ném khúc cây về phía Nghĩa nhưng không trúng. Nghĩa chạy đến bãi đất trống gần trường mẫu giáo An Hoà thì bị vấp ngã. Tuấn và Tú đuổi kịp dùng tay, chân đánh nhiều cái vào người của Nghĩa làm Nghĩa bất tỉnh. Sau đó Tuấn và Tú kéo Nghĩa ra đặt gần đường bê tông. Lúc sau người nhà của Nghĩa đến đề nghị được đưa Nghĩa đi cấp cứu nhưng Việc, Tuấn, Tú ngăn cản và yêu cầu chờ Công an đến giải quyết. Khi Công an xã Ân Phong đến thì Nghĩa mới được người nhà đưa đi cấp cứu. Kết quả giám định Nghĩa bị tổn hại 17% sức khoẻ. Cùng thời điểm này Tân gọi điện cho Trần Văn Bình kể lại việc Nghĩa bị đánh. Bình đang ngồi nhậu với Lê Tiến Sỹ và Đỗ Minh Thẩm nên rủ Sỹ, Thẩm đi cùng thì Sỹ, Thẩm đồng ý. Sau đó Sỹ điều khiển xe mô tô chở Thẩm, Bình về nhà Sỹ lấy 02 cây phảng phát bờ, rồi cùng nhau đến nhà Tuấn. Khi Sỹ, Thẩm, Bình đến nơi là khoảng 22 giờ 30 phút lúc này Công an xã đang lập biên bản tại hiên nhà của Tuấn. Sỹ đến đứng trước nhà của Việc (sát nhà Tuấn) nói lớn “Tao là chó Sỹ nè, đứa nào ăn được thì ăn”. Bình, Thẩm cũng la lớn tiếng đòi sang bằng nhà này. Tiếp đó, Bình cầm theo 01 cây phảng đi vào sân nhà Việc để đánh Việc, thấy vậy Việc đi lùi lại thì bị vấp ngã ngồi bệt xuống sân. Bình cầm cây Phảng đâm 01 nhát vào đầu gối chân trái của Việc (gây thương tích 2%). Việc nhào người lên giằng co cây phảng trên tay Bình và dùng tay đấm 02 cái trúng mặt Bình làm Bình gục ngã xuống đất. Việc đoạt được cây phảng trên tay Bình thì tiếp tục dùng cây Phảng đánh 02 cái vào người Bình. Sau khi đánh Bình thì Việc nhìn thấy Sỹ đang đứng trước cổng nhà của Việc cầm 01 cây phảng la lớn “Gọi mấy thằng thị trấn vô chém chết mẹ nó”. Nghe vậy Việc cầm cây phảng (mới giật được của Bình) chạy ra chém ngang 01 phát trúng tay trái của Sỹ, Sỹ bỏ chạy được khoảng 03 mét thi bị ngã nằm nghiêng bên đường, hai chân co lại, hai tay ôm đầu. Việc đến cầm phảng bằng hai tay giơ lên chém mạnh xuống trúng vào gối cẳng chân phải làm chẻ đôi từ bờ ngoài xương chày đến đoạn 1/3 giữa cẳng chân phải, gây đứt hoàn toàn bó mạch thần kinh kheo, được đưa đi cấp cứu đến 7 giờ 30 phút ngày 26/6/2021 thì Sỹ chết. Trước đó, trong lúc Việc đuổi đánh Sỹ thì Tú lấy 01 cây gỗ dài 120cm, đường kính 3,5cm chạy đến đánh nhiều cái vào người của Bình (đang nằm bất tình tại sân nhà Việc). Kết quả giám định Bình tổn hại 20% sức khoẻ. - Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HSST, ngày 14/6/2023 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh B; tuyên bố: Bị cáo Đặng Anh Việc phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích các bị cáo Đặng Anh Tú, Đặng Anh Tuấn phạm tội “Cố ý gây thương tích”. + Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b khoản 2, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Việc 09 năm tù về tội “Giết người” và 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, Buộc chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 12 năm tù. + Áp dụng điểm b,d khoản 2 Điều 134; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tú 04 năm tù. + Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tuấn 02 năm tù. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo. Bản án sơ thẩm nêu trên đã bị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận toàn bộ nội dung kháng nghị về các vi phạm của bản án sơ thẩm đã được kháng nghị nêu ra và tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. II. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm 1. Đối với bị cáo Đặng Anh Việc: Thông qua hành động cầm cây kiếm giơ lên cao và hô to “Giết chết mẹ luôn” thể hiện bị cáo Việc chính là người khởi xướng để Tuấn và Tú “dùng hung khí nguy hiểm” đánh gây thương tích 17% cho Nghĩa. Ngay sau khi nghe Việc hô thì Tuấn liền sử dụng cây gỗ dài 1,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Bị đánh nên Nghĩa bỏ chạy thì Tuấn cầm cây và Tú cầm kiếm tiếp tục rượt đuối, đánh Nghĩa. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” khi xử lý hành vi phạm tội của Tuấn theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Với vai trò là người chủ mưu, khởi xướng thì bị cáo Việc cũng phải cùng bị xem xét áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” như đã áp dụng để xử lý đối với bị cáo Tuấn. Trong khi gây thương tích cho bị hại Bình thì bị cáo Việc cũng đã trực tiếp “dùng hung khí nguy hiểm” là cây phảng đánh 02 cái vào người của bị hại Bình. Tổng thương tích gây ra cho Bình là 20%. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo điểm b khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt của tội “cố ý gây thương tích” bị cáo đã thực hiện. Vì hành vi trên của bị cáo Việc đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS đó là: “d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thế của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” (dẫn chiếu điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS là “dùng hung khí nguy hiểm”). Trường hợp truy cứu bị cáo Việc về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS (là tội rất nghiêm trọng) thì đồng thời phải truy cứu TNHS với bị cáo Việc về tội “Giết người” theo điểm e khoản 1 Điều 123 BLHS đó là “e) Giết người mà liền trước đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng”, cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo khoản 2 Điều 123 BLHS là không đúng khung hình phạt đối với tội “Giết người” 2. Đối với bị cáo Đặng Anh Tú: Bị cáo Tú trực tiếp chứng kiến bị cáo Việc cầm cây kiếm giơ lên cao và nghe Việc hô to “Giết chết mẹ nó luôn”, đồng thời chứng kiến bị cáo Tuấn cầm cây gỗ dài l,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Liền sau đó bị cáo Tú đã tiếp nhận ý chí của Việc và Tuấn, cầm kiếm đuổi theo cùng với Tuấn đánh Nghĩa gây thương tích 17%, đồng thời Tú còn sử dụng cây gỗ dài 120cm có đường kính 3,5cm đánh nhiều cái vào người của Bình trong khi Bình đã bị Việc đánh đang nằm bất tỉnh (hậu quả Bình bị tổn thương 20% sức khoẻ). Hành vi của bị cáo Tú đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Tú theo khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt bị cáo Tú đã thực hiện. 3. Đối với hành vi của các đối tượng Trịnh Nhật Tân, Phạm Hữu Nghĩa, Trần Văn Bình, Đỗ Minh Thẩm: Các đối tượng Tân và Nghĩa đã chủ động đến nhà của Tú gây sự, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vụ án làm 01 người chết và 02 người bị thương trong khoảng thời gian dài từ 21 giờ 30 đến hơn 22 giờ 30 phút tại khu vực đông dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Khi nhóm của mình bị đánh và bị yếu thế Tân tiếp tục gọi cho Bình, thì Bình rủ Thẩm, Sỹ cùng đi và được Thẩm, Sỹ đồng ý. Khi đến nơi Sỹ, Bình và Thẩm cùng la lối to tiếng đòi san bằng nhà của Việc, đồng thời Bình cầm cây Phảng đánh Việc nên bị Việc đánh lại làm cho Sỹ bị chết, Bình bị thương. Hành vi của nhóm: Tân, Nghĩa, Bình, Thẩm đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự với các đối tượng trên là bỏ lọt tội phạm.
Rút kinh nghiệm về khiếu kiện hành chính trong bồi thường thu hồi đất
I. NỘI DUNG VỤ ÁN Ngày 31/8/2018, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 5596/QĐ-UBND về việc thu hồi toàn bộ 1.059,1 m2 đất nông nghiệp của hộ ông Bùi Đình T (thửa đất số 11, tờ bản đồ số 56, phường E, thành phố B) để thực hiện Dự án: Xây dựng cơ sở hạ tầng khu đất Trường Hành chính (cũ), phường E, thành phố B. Cùng ngày, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 5623/QĐ-UBND v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (viết tắt là Quyết định số 5623). Theo đó, UBND thành phố B xác định diện tích đất bị thu hồi của hộ gia đình ông T không đủ điều kiện bồi thường. Không đồng ý với phương án bồi thường trên, ông Bùi Đình T khiếu nại. Ngày 09/03/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 1476/QĐ-UBND v/v phê duyệt phương án bổ sung bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông T 80% giá trị đất (viết tắt là Quyết định số 1476). Ông T cho rằng toàn bộ diện tích đất bị thu hồi có nguồn gốc do gia đình ông T khai hoang và sử dụng ổn định từ năm 1980 nên UBND thành phố B xác định không đủ điều kiện bồi thường và chỉ hỗ trợ 80% là không thoả đáng. Ông T tiếp tục khiếu nại Quyết định số 1476. Tuy nhiên, UBND thành phố B chưa giải quyết khiếu nại đã tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh K giải quyết: Hủy một phần Quyết định số 5623; một phần Quyết định số 1476 của UBND thành phố B đối với phần phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình ông T; buộc UBND thành phố B ban hành lại quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ theo hướng bồi thường 100% giá trị đất cho gia đình ông. II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 71/2023/HC-ST ngày 23/5/2023, Tòa án nhân dân tỉnh K quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đình T. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Bùi Đình T kháng cáo. Tại Bản án hành Chính phúc thẩm số 348/2023/HC-PT ngày 20/9/2023 quyết định tuyên xử: “Hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 71/2023/HC-ST ngày 23/5/2023, Tòa án nhân dân tỉnh K về việc ‘‘Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Giao hồ sơ cho TAND tỉnh K giải quyết lại theo quy định của pháp luật”. III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM 1. Vi phạm về tố tụng trong quả trình giải quyết vụ án - Toàn bộ tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp đều là bản photo không có công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 1 Điều 82 Luật TTHC năm 2015. - Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định tại khoản 5 Điều 61 Luật TTHC năm 2015. - Theo lời trình bày của người bị kiện thì UBND tỉnh K là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất của Trường Chính trị và giao cho UBND thành phố B quản lý nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND tỉnh K vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót trong việc xác định người tham gia tố tụng trong vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ án. 2. Vi phạm về việc thu thập tài liệu, đảnh giá chứng cứ dẫn đến giải quyết vụ án chưa thực sự khách quan, làm ảnh hưởng quyền và lợi chính đáng của người khởi kiện Về nguồn gốc đất: Người bị kiện cho rằng do năm 1984 Trường Hành chính tỉnh K lập hợp đồng kinh tế về việc liên kết trồng cây cà phê với ông Bùi Đình T. Ngày 01/02/1999, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 228/QĐ-ƯB (viết tắt Quyết định 228) thu hồi 48.720m2 đất của Trường Chính trị tỉnh K và giao 30.680m2 cho UBND thành phố B quản lý để thu thuế nông nghiệp của các hộ đang canh tác trong khu đất theo quy định, trong đó có diện tích thửa đất của ông T. Thế nhưng UBND thành phố B không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh Trường Hành chính (cũ) ký hợp đồng kinh tế liên kết trồng cà phê với hộ ông Bùi Đình T. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ cơ quan giao đất cho Trường Hành chính (cũ) là cơ quan nào và chưa thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh có hay không việc Trường Hành chính cũ ký hợp đồng liên kết trồng cà phê với hộ ông T để làm rõ nguồn gốc sử dụng đất và xác định căn cứ bồi thường cho hộ ông T nhưng tuyên bác yêu cầu khởi kiện của ông T là không đúng quy định tại Điều 95 Luật TTHC năm 2015 về đánh giá chứng cứ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật này”. Tuy nhiên, HĐXX sơ thẩm không thu thập chứng cứ thể hiện các căn cứ để xác định hộ ông Bùi Đình T là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3 của Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường để xem xét xác định việc bồi thường theo khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 nêu trên.
Khiếu kiện hành chính vụ BHXH tỉnh chấm dứt hưởng chế độ hưu trí sai quy định
Ngày 18/7/2023 VKSND cấp cao Đà Nẵng đã có Thông báo 49/TB-VKS-HC năm 2023 tải rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực BHXH ” giữa người khởi kiện là ông T.V Đôn và người bị kiện là BHXH tỉnh Đ của TAND tỉnh Đ tại Bản án hành chính sơ thẩm 113/2022/HC-ST ngày 22/9/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: 1. Tóm tắt nội dung vụ án hành chính (1) Thời gian làm việc và đóng BHXH của ông Đôn Ông T.V Đôn có thời gian công tác trong quân đội là 05 năm 9 tháng. Năm 1995, ông nhận khoán đất chăm sóc cây lâu năm cho nông trường cà phê 720. Năm 2003, ông Đôn ký lại hợp đồng lao động nhận khoán trong hợp đồng có xác định tôi tham gia BHXH mức đóng công nhận bậc 1, hệ số 1,35. Ông không nhận tiền lương mà chỉ hưởng sản lượng cà phê còn dư sau khi nộp sản lượng cho Công ty và nộp tiền đóng BHXH theo mức đóng sản lượng cho Công ty cà phê 720. Sau khi ký hợp đồng DW: 10.312 ông Đôn làm đơn đóng bảo hiểm bổ sung thời gian từ năm 1995 - 2002 và được Công ty cà phê 720, BHXH tỉnh Đ đồng ý, Công ty cà phê 720 đã lập danh sách điều chỉnh tăng giảm mức nộp BHXH và nộp số tiền trên cho BHXH tỉnh. (2) Quá trình hưởng hưu trí theo quy định BHXH Năm 2012, ông đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định BHXH tỉnh Đ căn cứ vào hồ sơ thu bảo hiểm đã xác nhận thời gian ông đóng BHXH là 23 năm 9 tháng, cấp sổ BHXH và giải quyết chế độ hưu trí theo Quyết định số 1717/QĐ-BHXH ngày 26/12/2012. Năm 2020, BHXH tỉnh Đ thanh tra, kết luận việc ông đóng BHXH từ năm 1995 - 2002 là không đúng quy định. Ngày 20/5/2021, BHXH tỉnh Đ đã ban hành Quyết định chấm dứt hưởng chế độ hưu trí số 558/QĐ-BHXH đối với ông và yêu cầu truy thu lại số tiền ông đã hưởng trong thời gian qua. (3) Ông Đôn khiếu nại quyết định ngừng chế độ hưu trí Sau khi nhận Quyết định số 558/QĐ-BHXH, ông Đôn đã làm đơn khiếu nại nhưng không được BHXH tỉnh Đ chấp nhận. Cho rằng quyền lợi bị xâm phạm, ông T.Đ Đôn khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Đ tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 của BHXH tỉnh Đ về việc chấm dứt hưởng chế độ hưu trí của ông Đôn. Buộc BHXH tỉnh Đ tiếp tục chi trả tiền lương hưu cho ông T.V Đôn theo Quyết định số 1717/QĐ-BHXH ngày 26/12/2012 của BHXH tỉnh Đ và chi trả lại toàn bộ sổ tiền lương hưu bị chấm dứt từ tháng 7/2021 đến nay. Người bị kiện BHXH tỉnh Đ cho rằng: Căn cứ theo quy định tại Quyết định số 722/2003/QĐ-BHXH-BT ngày 26/5/2006 của BHXH Việt Nam, ngày 27/11/2020 BHXH tỉnh Đ đã ban hành Kết luận số 2532/KL-BHXH về kiểm tra chuyên đề truy thu cộng nối thời gian tham gia BHXH tại Công ty TNHH MTV Cà phê 720, theo đó BHXH tỉnh Đ sẽ điều chỉnh giảm thời gian truy BHXH từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002 không đúng và hoàn trả sổ tiền đã nộp của ông T.V Đôn theo quy định. Thực hiện Kết luận số 2532/KL-BHXH ngày 27/11/2020 của BHXH tỉnh Đ, sau khi điều chỉnh giảm thời gian truy thu BHXH không đúng từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002. Thì thời gian công tác và tham gia BHXH của ông T.V Đôn chỉ còn 15 năm 9 tháng, không đủ điều kiện để hưởng lương hưu nên cơ quan BHXH tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 về chấm dứt hưởng lương hưu và thu hồi lương hưu đối với ông T.V Đôn kể từ ngày 01/7/2021. Việc điều chỉnh giảm thời gian truy đóng BHXH không đúng và ban hành Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 về chấm dứt hưởng lương hưu và thu hồi lương hưu đối với ông T.V Đôn đã được BHXH tỉnh Đ thực hiện đúng theo quy định pháp luật. 2. Quá trình giải quyết tại tòa án Bản án hành chính sơ thẩm số 113/2022/HC-ST ngày 22/9/2022 của TAND tỉnh Đ quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Tạ Văn Đôn. Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 92/2023/HC-PT ngày 31/3/2023, TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng cáo của ông T.V Đôn, sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.V Đôn. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ bản án sơ thẩm hành chính * Tính chất của hợp đồng khoán vẫn được xem là hợp đồng lao động Ông T.V Đôn ký Hợp đồng khoán đất ngày 10/9/1996 để nhận khoán chăm sóc cà phê của Nông trường cà phê 720. Ngày 06/01/2003, ông ký Hợp đồng lao động: 10.312 có xác định ông tham gia BHXH, mức đóng công nhận bậc 1, hệ số 1,35. Mặc dù Hợp đồng khoán đất chăm sóc cây lâu năm ngày 10/9/1996 nêu trên không có tên gọi là hợp đồng lao động nhưng về bản chất vẫn là quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động, có sự ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm, có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên. Được quy định theo quy định tại Nghị định số 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ quy định về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp Nhà nước , phù hợp quy định tại Điều 26 Bộ luật Lao động 1994 (nay là Điều 13 Bộ luật Lao động 2019). * Việc đóng BHXH bổ sung được xem là đúng quy định pháp luật Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị định số 01/CP, nghĩa vụ tham gia BHXH khi thực hiện phương án khoán đất và vườn cây thuộc về Nông trường cà phê 720. Tuy nhiên tại thời điểm này chưa có hướng dẫn cụ thể nên Nông trường cà phê 720 đã không thực hiện, còn người lao động không biết dẫn đến việc không đóng BHXH từ năm 1995 (thời điểm ban hành Nghị định). Do đó, khi có hướng dẫn, ông Đôn đã có đơn xin đóng bổ sung BHXH đối với thời gian chưa đóng từ năm 1995 và được Nông trường 720 cũng như BHXH tỉnh Đ đồng ý; ông Đôn đã nộp đủ số tiền. Việc BHXH tỉnh Đ cho rằng việc truy thu, cộng nối BHXH của ông Đôn không đúng nên đã ban hành Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 để chấm dứt hưởng chế độ hưu trí của ông Đôn, không giải quyết chế độ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. TAND tỉnh Đ đã áp dụng không đúng pháp luật, chưa đánh giá khách quan, toàn diện về những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, dẫn đến tuyên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.V Đôn là không đúng gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông Đôn, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Chi tiết Thông báo 49/TB-VKS-HC năm 2023 tải tại đây.
Rút kinh nghiệm việc ban hành cáo trạng sai quy định về hình thức và nội dung
Ngày 27/6/2023, VKSNDTC đã có Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 đây về việc rút kinh nghiệm trong việc xây dựng Cáo trạng. Cụ thể, qua công tác nghiên cứu Cáo trạng do VKSND các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chuyển đến, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC tổng hợp nhận thấy một số bản Cáo trạng ban hành chưa thực hiện đúng theo hướng dẫn về hình thức và có những nội dung cần thông báo rút kinh nghiệm. Cụ thể: (1) Rút kinh nghiệm về ban hành hình thức Cáo trạng Một số bản Cáo trạng của VKSND các tỉnh, Thành phố ghi, không ghi hoặc ghi không đúng hướng dẫn tại Mẫu số 144/HS ngày 09/01/2018 ban hành kèm theo Quyết định 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSNDTC. Ngoài ra, một số bản Cáo trạng còn có lỗi chính tả và chưa đúng phông chữ theo quy định: - Tại phần căn cứ: + Ghi tắt nhiều cụm từ: “CQĐT” và “BLHS”. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ). + Không ghi tội danh, khoản, Điều luật của Quyết định khởi tố vụ án hình sự. (Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB, Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB, Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ) hoặc ghi thiếu khoản của Điều luật (Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 và Cáo trạng số 40/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh BĐ). - Tại phần kết luận: + Ghi các nội dung: “Từ những tình tiết, chủng cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận các bị can có lý lịch dưới đây phạm tội”, “Vì các lẽ trên ” hoặc không ghi nội dung “Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên, ”... - Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ. - Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB. - Cáo trạng các số 45,50,51/CT-VKS ngày 12,27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. - Cáo trạng các số 21,22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB. - Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh ĐB. - Cáo trạng các số 121,125,129,139/CT-VKS ngày 06,11,17/04/2023 của VKSND Thành phố HN. - Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh BG. - Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh TB. - Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. - Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ ... + Không ghi rõ thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn (Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh Lâm Đồng). + Không ghi điểm, khoản, Điều nào của Bộ luật Hình sự 2015 về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Cáo Trạng 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ). + Ghi nội dung kết quả thu giữ vật chứng tại phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS). - Tại phần quyết định: + Ghi các nội dung: “Truy tố các bị can có lý lịch và hành vi phạm tội nêu trên ra trước Tòa án nhân dân tỉnh...đê xét xử" hoặc không ghi "Bảng kê vật chứng" (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Hòa Bình, Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 11/05/2023 của VKSND tỉnh Lào Cai, Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Sơn La, Cáo trạng số 41/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Điện Biên, Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh Yên Bái, Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Quảng Ninh, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 18/04/2023 của VKSND tỉnh Thái Nguyên, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh Bình Định). + Ghi nội dung xử lý vật chứng (Cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 31/05/2023 của VKSND tỉnh Vĩnh Phúc). - Nơi nhận: Ghi không đúng thứ tự hoặc không ghi Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc không ghi Luật sư bào chừa. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 129,139/CT-VKS ngày 11,17/04/2023 của VKSND Thành phố Hà Nội...). (2) Rút kinh nghiệm về nội dung Cáo trạng - Trích dẫn không đầy đủ các chất ma túy quy định tại điểm, khoản của Điều luật: “c) ...MDMA...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam... ". + Cáo trạng số 50,51/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. + Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. Hoặc không trích dẫn tên Điều luật hoặc không trích đúng quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ, Cáo trạng số 48/CT- VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh KH, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ). Cần ghi đầy đủ các chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và trích dẫn đầy đủ tên Điều luật để phổ biến, tuyên truyền giáo dục chung. - Xác định khối lượng chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự: Phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS) ghi nội dung: “ ...bản trái phép 06 bánh Heroine...có khối lượng từ 1.920 gam đến 2.280 gam ”. Cần xác định cụ thể khối lượng chất ma túy đề đảm bảo căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị can theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015. Những bản Cáo trạng của các Viện kiểm sát tỉnh, Thành phố nêu trên còn tồn tại một số nội dung khi ban hành, dẫn tới phải đính chính bản Cáo trạng hoặc bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đây là văn bản pháp lý quan trọng trong giai đoạn truy tố đòi hỏi phải bảo đảm sự thận trọng, chính xác, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Trên đây là tổng hợp những tồn tại khi ban hành bản Cáo trạng VKSND địa phương, Vụ Thực hành quyền công tố điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC thông báo, kiểm sát nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương biết rút chung trong quá trình Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều 1 hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng theo đúng quy định của pháp luật. Xem thêm Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Rút kinh nghiệm về việc khiếu kiện UBND cấp GCNQSDĐ không đúng đối tượng
Ngày 13/6/2023 VKSND Tối cao đã có Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSNDTC nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai "giữa người khởi kiện và người bị kiện là Chủ tịch UBND huyện B, tỉnh Đ của TAND cấp cao tại ĐN tại Bản án hành chính phúc thẩm 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Tóm tắt nội dung vụ án Gia đình ông Phạm Văn T2 và bà Trần Thị B trú tại tỉnh H có các người con gồm các ông, bà Phạm Văn L, Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và ông Phạm Văn H2 (ông L và ông H2 đã chết). Năm 1980 ông T2, bà B cùng gia đình chuyển vào sinh sống lại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đ, khai hoang và nhận chuyển nhượng của người dân được 6.160 m2 đất bao gồm các thửa đất số 360, 361, 355a, 359, 378a liền kề nhau thuộc tờ bản đồ số 37 thuộc xã E, huyện B để trồng cà phê, tiêu, lúa và liên tục sử dụng từ năm 1980 đến năm 1999. Năm 1997, ông Phạm Văn L đã kê khai đứng tên toàn bộ diện tích đất nêu trên của ông T2, bà B. Năm 1998, bà B chết; năm 1999, ông T2 chết không để lại di chúc. Khi biết đất của ông T2, bà B đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ ông Phạm Văn L nên ngày 21/10/2014 và ngày 18, 25/7/2016, ông Phạm Văn C đại diện cho các con, cháu của ông T2, bà B có đơn khiếu nại về việc UBND huyện B, tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ trái pháp luật. Đề nghị UBND huyện B thu hồi 02 GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 cấp ngày 30/11/2005 cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V do cấp không đúng đối tượng sử dụng đất, không đủ điều kiện được cấp. Ngày 08/9/2017, Chủ tịch UBND huyện B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND: + Bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C. + Giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ do UBND huyện B cấp ngày 31/5/2005 cho chủ sử dụng đất hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V, trú tại thôn H, xã E cụ thể: GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662. + Hộ gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn. hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ đảm bảo theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật hiện hành. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên, ngày 15/9/2017 đại diện của con, cháu ông T2, bà B đà nộp đơn khởi kiện đề nghị TAND tỉnh Đ hủy quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện B và trả lại quyền sử dụng đất của ông T2, bà B cho những người thừa kế hợp pháp. 2. Quá trình khởi kiện ra Tòa án (1) Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Đ Không chấp nhận đơn khởi kiện của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q. Phạm Thị H1 và Phạm Văn P về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4524/QĐ-UBND ngày 08/9/2017 của UBND huyện B về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Văn c trú tại Buôn N, xã E, huyện B, tỉnh Đ. Ngày 28/5/2018, những người khởi kiện có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. (2) Bản án Hành chính phúc thẩm TAND cấp cao tại ĐN Bác kháng cáo của người khởi kiện là các ông, bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn P, Phạm Văn T1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm. - Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 07/11/2018 ông Phạm Văn C đại diện cho những người khởi kiện có đơn đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thấm nêu trên. - Ngày 01/10/2021, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TAND cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. (3) Giám đốc thẩm của TAND tối cao Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN và Ban án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - UBND huyện B, tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AC 975854, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411361 H, thửa đất số 361 tờ bản đồ số 37; GCNQSDĐ số AC 975661, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411360 H, thửa đất số 387a, tờ bản đồ số 37 cho hộ gia đình ông L, bà V dựa trên trích Biên bản họp gia đình ngày 09/10/1999 là không đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003, quy định về giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất. - Để giải quyết đơn khiếu nại của ông Phạm Văn C UBND huyện B đã quyết định thành lập Đoàn xác minh số 4182; ngày 09/3/2017, Đoàn xác minh số 4182 ban hành Báo cáo số 06/BC-ĐXM về Kết quả kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C trú tại Buôn N, xã E, huyện B đã kết luận: "Việc ông Phạm Văn C cho rằng UBND huyện B cấp GCNQSDĐ cho ông L, bà V (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) trong khi ông L, bà V không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ là đúng. UBND huyện B cấp GCNQSDĐ (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) cho ông L, bà V là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bà H1 (người không ký trong trích Biên bàn ngày 09/10/1990) và bà (là người bị giả mạo chữ ký trong trích Biên bản) theo quy định của pháp luật. Báo cáo số 06 của Đoàn xác minh kiến nghị: UBND huyện B chấp nhận một phần nội dung khiếu nại của ông C. Giao cho phòng Tài nguyên và trường huyện tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi: GCNQSDĐ được UBND huyện B cấp ngày 30/11/2005 cho ông L, bà V (thửa đất số 361,387a tờ bản đồ số 37) đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Quyết định giải quyết khiếu nại số 4524 của Chủ tịch UBND huyện B bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn c là không đúng như đã phân tích ở trên. Bên cạnh đó Quyết định số 4524 còn giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện B tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662 cấp ngày 31/5/2005 đã cấp cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V nhưng lại hướng dẫn gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn, hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ là không phù hợp. Và mâu thuẫn với nội dung Báo cáo số 06/BC-ĐXM ngày 09/3/2017 của Đoàn xác minh số 4182 sau khi đã xác minh thực tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và Phạm Văn P. -Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST của Tòa án nhân dân Tỉnh Đ và Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT của TAND cấp cao tại ĐN, tuyên xử: Không chấp nhận đơn khởi kiện và bác kháng cáo của ông Phạm Văn C (đại diện cho những người khởi kiện) là không phù hợp với những tình tiết, tài liệu, chứng cứ khách quan của vụ án, áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không đúng quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và Luật Đất đai năm 2003. - Quyết định giám đốc thẩm số 10/2022/HC-GĐT ngày 25/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TTAND Cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. VKSND tỉnh Đ và VKSND cấp cao tại ĐN đều không phát hiện được vi phạm về đánh giá chứng cứ của Tòa án, có quan điểm giải quyết bác yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của của những người khởi kiện bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn Ph, Phạm Văn T1 là không chính xác cần phải rút kinh nghiệm. Xem chi tiết Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Rút kinh nghiệm đối với vụ án phạm tội “hủy hoại tài sản” ở Đồng Nai phải thực hiện giám đốc thẩm
Qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án Phạm Thị H và đồng phạm, phạm tội “hủy hoại tài sản” ở Đồng Nai, VKSNDTC thấy một số vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: Tóm tắt nội dung vụ án (1) Quá trình xảy ra tranh chấp đất đai Ngày 20/7/2016, bà Cao Thị L nhận chuyển nhượng diện tích đất tại phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa từ bà Lù Thị S, diện tích đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, bà L ủy quyền cho anh Nguyễn Đức T (con trai bà L) đứng tên trên các hợp đồng mua bán đối với diện tích đất trên. Cuối năm 2016, anh T đã chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị T một phần diện tích đất khoảng hơn 3000m2 với giá 1.300.000.000 đồng/1000m2. Phần đất giáp mặt tiền đường, bà L giữ lại không chuyển nhượng. Sau khi đặt cọc 03 lần với tổng số tiền 1.000.000.000 đồng, bà T đà tự phân chia đất thành các lô nhỏ để bán lại. Do bà T chưa thanh toán đủ số tiền như thỏa thuận nên bà Lụa chưa làm hợp đồng chuyển nhượng diện tích nêu trên cho bà T. Bà T đã tự làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên, giả chữ ký anh Nguyễn Đức T rồi bán đất cho 30 hộ dân khác nhau, nên đà xảy ra tranh chấp giữa bà L và các hộ dân đà mua đất của bà T. (2) Giai đoạn phá hoại tài sản trên đất tranh chấp Khoảng tháng 12/2018, bà L đã dựng 01 căn chòi có diện tích khoảng 2,5m X 3,5m X 2m, vật liệu bằng khung sắt hộp, lợp tôn, bên ngoài quây bạt màu xanh trên phần đất bà L không chuyển nhượng cho bà T trước đó, để trông coi phần đất còn lại. Khoảng 8h30 ngày 14/6/2020, Hương, Loan, Nam, Mừng, Hà, Tân, Thơm, Ngân, Sót và Lại Văn V (những người có đất đang tranh chấp với bà L) tập trung tại phần đất đang tranh chấp để xây lại bờ ranh của từng lô đất. Tất cả cùng thống nhất xây dựng để xây lại bờ ranh, trong đó, H là người thuê thợ hồ. Do căn chòi của bà L chấn lối đi, không thể đưa vật liệu vào bên trong nên tháo dỡ căn chòi để lấy lối đi. Sau khi hoàn thành thì mọi người cùng nhau xây lại bờ ranh như đã thống nhất trước đó. Sau khi phát hiện căn chòi của mình bị đập phá, tháo dỡ, bà L đã đến Công an phường Tân Phong trình báo. (3) Quá trình xét xử vụ án tranh chấp Tại Bản án hình sự sơ thẩm, TAND thành phố Biên Hòa áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với Hương và Nam), Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt các bị cáo về tội “hủy hoại tài sản”, trong đó xử phạt Hương 1 năm 02 tháng tù; Nam 01 năm tù; mỗi bị cáo Loan, Thơm, Mừng, Hà 10 tháng tù. Ngày 08/07/2020, các bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan, người bị hại có đơn kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND tỉnh Đồng Nai không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và bị hại, tuy nhiên sửa một phần về hình phạt của các bị cáo, theo đó các bị cáo chuyển sang hình phạt tiền, mỗi bị cáo nộp 30.000.000 đồng sung vào công quỹ Nhà nước. Ngày 25/02/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm 47/QĐ- VC3-V1 theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự trong việc thu thập các tài liệu chứng cứ, định giá tài sản...gây oan sai cho các bị cáo. Quyết định 38/2022 ngày 5/5/2022 của ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án (1) Về việc xác định người bị hại Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định bà Cao Thị L là người bị hại trong vụ án là chưa đủ căn cứ. Nhận thấy, lời khai của các bị cáo Hương, Loan, Nam thể hiện căn chòi bị phá bỏ được dựng trên phần diện tích 4m X 23m, ở lối đi chung. Phần diện tích này vẫn thuộc quyền sử dụng của anh T do bà T không thực hiện tiếp hợp đồng mua bán đất với anh T. Bà L là mẹ anh T, được ủy quyền giải quyết tranh chấp đất đai với các hộ dân, nên việc bà L dựng căn chòi trên phần diện tích đất không tranh chấp với các hộ dân, không ảnh hưởng đến quyền lợi của các hộ dân. Căn chòi do bà L bỏ tiền mua vật liệu, thuê thợ dựng lên để trông coi khu đất, nên khi căn chòi bị hủy hoại, không sử dụng được thì việc Tòa án hai cấp xác định bà L là người bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật. (2) về việc xác định tội danh Tòa án nhân dân cấp cao cho rằng chưa đủ căn cứ kết luận các bị cáo cố ý hủy hoại tài sản của bà L. Tuy nhiên, theo sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường thì xung quanh căn chòi là khu vực bãi đất trống, vị trí căn chòi không hoàn toàn cản trở việc vận chuyển vật liệu vào phía trong. Tuy nhiên, cột sắt bị bẻ gãy, tấm bạt bị xé rách nát, tấm tôn bị cong vênh, vứt ở nhiều nơi, các đồ vật, vật liệu không còn sử dụng được, đây là hành vi phá bỏ, không phải là tháo dở như các bị cáo khai. Các bị cáo có thể lựa chọn vận chuyển vật liệu qua khu vực bãi đất trống bên cạnh căn chòi để vào phía trong nhưng các bị cáo lại thống nhất việc phá bỏ căn chòi. Như vậy, Tòa án hai cấp kết án các bị cáo về tội “hủy hoại tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. - Về việc định giá tài sản TAND cấp cao nhận định Hội đồng định giá không tiến hành xác minh vật liệu cấu thành căn chòi để xác định giá trị thiệt hại, chi căn cứ hóa đơn mua vật tư do bà L cung cấp, không khảo sát giá thị trường, kết quả khám nghiệm hiện trường, chủng loại vật liệu cấu tạo nên căn chòi có khả năng khôi phục lại không...là vi phạm trình tự, thủ tục định giá, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Hội đồng định giá tài sản nhận định tài sản bị hư hỏng do bị tháo dỡ, đổ sập hoàn toàn, không sử dụng lại được. Hơn nữa, việc xác định giá trị tài sản bị thiệt hại không chỉ căn cứ vào hóa đơn mua bán vật tư (do bà L cung cấp) mà còn qua khảo sát giá tài sản cùng loại trên thị trường tại thời điểm xảy ra vụ án, từ đó xác định giá trị tài sản căn chòi khi bị xâm phạm còn lại 80%, tương đương 8.668.000 đồng là có cơ sở. - Về thủ tục tố tụng Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng như: + Biên bản khám nghiệm hiện trường không mô tả chi tiết, cụ thể các vật chứng tại hiện trường; Cơ quan điều tra không tiến hành thu giữ vật chứng tại hiện trường làm ảnh hưởng đến việc định giá tài sản bị thiệt hại. + Cùng một cán bộ điều tra, trong cùng một thời gian, cùng một địa điểm nhưng lại tiến hành các thủ tục tố tụng khác nhau là vi phạm thủ tục tố tụng về lập hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng. + Ngoài ra, Cơ quan điều tra ban hành quyết định khởi tố vụ án vào ngày 26/12/2020 nhưng đến ngày 08/02/2021, VKSND thành phố Biên Hòa mới ban hành quyết định phân công Kiểm sát viên là vi phạm thủ tục tố tụng về chức năng kiểm sát điều tra. Nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án tuy có một số vi phạm về tố tụng nhưng không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án, việc điều tra lại cũng không thay đổi nội dung vụ án. Lời khai của người bị hại, các bị cáo và những người làm chứng phù hợp với biên bản hiện trường cũng như bản ảnh, sơ đồ hiện trường, các giấy tờ, tài liệu thể hiện việc mua bán đất, vị trí mảnh đất, các giấy tờ định giá tài sản bị hủy hoại, do đó, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “hủy hoại tài sản”, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội và bồi thường thiệt hại cho bà L. Ngày 19/9/2022, Chánh án TANDTC quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận kháng nghị của Chánh án, hủy quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp cao và giữ nguyên bản án hình sự phúc thẩm 35/2022/HS-PT ngày 19/01/2022 của TAND tỉnh Đồng Nai. Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm, phúc thẩm cần kịp thời phát hiện các vi phạm, thiếu sót trong quá trình điều tra vụ án đê yêu cầu khắc phục. VKSND cấp cao cần đánh giá chứng cứ phù hợp hơn, mặc dù vụ án có vi phạm nhưng chứng cứ đủ để kết án các bị cáo, việc kháng nghị là chưa cần thiết. VKSNDTC thông báo để các đơn vị cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong toàn ngành. Thông báo 94/TB-VKSTC ngày 17/5/2023 tải về
Rút kinh nghiệm vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản"
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn bà B với bị đơn bà N của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh H tại Bản án phúc thẩm 14/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. Xem và tải bản án https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/03/22/2023-03-20%20(8).pdf (1) Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 30/10/2011, bà N viết “Giấy vay nợ” có nội dung: “Bà N vay của bà B 4.097.000.000 đồng. Bà B cho rằng bà N đã trả cho 597.000.000 đồng, sau khi khởi kiện thì trả thêm 24.000.000 đồng nên yêu cầu bà N trả số tiền còn lại 3.476.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà N cho rằng Bà đã trả hết cho bà B thông qua tờ giấy có ghi chữ “B mượn Hon” với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng và 8 cuốn sổ có ghi ngày, số tiền, chữ ký của bà B, bà L khi nhận tiền nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của Bản án sơ thẩm 63/2021/DS-ST ngày 5/11/2021 của TAND huyện H, tỉnh H: - Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà B yêu cầu bà N phải trả số tiền 24 triệu đồng. - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà B: Buộc bà N phải trả cho bà B số tiền 3.476.000.000 đồng(Ba tỷ, bốn trăm bảy mươi sáu triệu đồng). Quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm 14/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 của TAND tỉnh H: - Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Thị cẩm N; giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đến ngày 28/7/2022, bà N đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nói trên. Ngày 22/11/2022, Viện trưởng Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà N; giữ nguyên bản án sơ thẩm VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 75/QĐ-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND huyện H xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Quyết định giám đốc thẩm số 10/2023/DS-GĐT ngày 10/02/2023 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm 75/QĐ-VKS-DS ngày 22/11/2022 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm Tại phiên hòa giải ngày 02/7/2021, bà N thừa nhận có nợ bà B nhưng không nhớ số tiền nợ và số tiền đã trả, sẽ kiểm tra giấy tờ và cung cấp cho Tòa án. Sau đó, bà N cho ràng số tiền 4.097.000.000 đồng là tổng tiền vay và tiền nợ hụi nhưng đã trả hết cho bà B nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Bà N cung cấp tờ giấy có ghi chữ “B mượn Hon ” (Hon là tên gọi khác của bà N) với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng và 8 cuốn sổ có ghi ngày, số tiền, chữ ký của bà B, bà L khi nhận tiền. Theo đó, các đương sự thống nhất tờ giấy có ghi chữ “B mượn Hon” với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng chỉ ghi ngày tháng, không ghi năm là do thói quen ghi ở chợ. Bà N cho rằng số tiền này là tiền trả nợ của “Giấy vay nợ” ngày 30/10/2011. Tại phiên tòa phúc thẩm bà B thừa nhận giấy này là do Bà ghi; là tiên bà N trà nợ năm 2009 nhưng không có chứng cứ chúng minh. Như vậy, đây là ý kiến của bị đơn phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không phải yêu cầu phản tố quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định ý kiến của bà N đối với số tiền 2.380.000.000 đồng là yêu cầu phản tố được đưa ra sau khi công khai chứng cứ và hòa giải nên không xem xét là giải quyết không triệt để vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm này để hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại cho đúng pháp luật. Tại biên bản đối chất ngày 06/10/2021, khi bà N cho ràng số tiền 1.868.200.000 đồng trong 8 cuốn sổ do bà B, bà L ký nhận là tiền trả nợ cho bà B. Lúc này, bà B chỉ yêu cầu thời hạn 01 tuần để bà B, bà N, bà L đối chiếu các khoản đã trả và báo kết quả với Tòa án. Điều này thể hiện, bà B không phản đối việc bà N xác định đã trả nợ bà B thông qua những lần thu tiền nói trên. Sau đó, bà B cho rằng số tiền Bà và chị T (con dâu bà B) ký nhận là tiền trả nợ và bà N còn trả thêm nhiều lần chỉ ghi vào sổ bà B tổng cộng 597.000.000 đồng (cuốn sổ hiện đã bị thất lạc). Bà L khai có chơi hụi với bà N theo hình thức bốc hụi trước, nộp tiền sau; khi thu hại, bà L chỉ ký vào sổ của bà N nhưng không có chứng cứ chứng minh. Tại 08 cuốn sổ này có 13 lần bà B ký nhận tiền, 02 lần ghi chuyển khoản cho bà Phạm Thị B tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, còn lại bà L ký nhận nhưng Tòa án chỉ dựa vào lời khai của bà B, bà L đã xác định số tiền ký sổ của bà L là tiền hụi giữa bà L với bà N để không chấp nhận ý kiến của bà N là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện theo Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ số tiền trong giấy vay nợ là chôt vay hay chốt tiền hụi chưa đóng đủ hay cả tiền vay và tiền hụi; khoản tiền mà bà N cho rằng đã trả nợ cho bà B; có hay không việc bà L là người thu tiền cho bà B để xác định số tiền trong 8 cuốn sổ là tiền gì để làm căn cứ giải quyết vụ án. Ngoài ra Tòa án không đưa chị T vào tham gia tố tụng để xác định số tiền chị T nhận là tiền hụi hay tiền bà N trả nợ cho bà B là chưa đảm bảo cho việc giải quyết vụ án. Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B buộc bà N phải trả cho bà B số tiền 3.476.000.000 đồng là chưa đủ căn cứ, làm ảnh hướng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà N. Xem và tải bản án https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/03/22/2023-03-20%20(8).pdf
Rút kinh nghiệm vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn bà HC, địa chỉ: xã M, huyện M, tỉnh ĐL với bị đơn chị HD và anh YK, cùng địa chỉ: xã M, huyện M, tỉnh ĐL. Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2022/DS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL, có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: (1) Tóm tắt nội dung vụ án Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp do gia đình ông YW, bà HU và bà HK (em bà HU) khai hoang. Năm 1983, gia đình bà HU chuyển đến nơi khác và cho gia đình bà HC mượn đất làm nhà ở tạm. Khoảng năm 1993-1994, vợ chồng bà HC chuyển vào xã Đ, huyện Đ làm rẫy, không sử dụng đất nữa. Trong năm 1994, bà HC được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khoảng năm 1995, ông YW, bà HU mua lại căn nhà sàn của gia đình bà HC, giá 5 chỉ vàng (3.000.000 đồng). Từ đó, gia đình ông YW sinh sống ổn định, không ai tranh chấp. Sau khi ông YW, bà HU chết. Theo phong tục người dân tộc Ê đê, tài sản của bố mẹ sau khi chết để lại cho con gái là bà HY. Năm 2014, bà HY cho vợ chồng chị HD xây nhà, canh tác trồng hoa màu sử dụng ổn định cho đến nay. Khi vợ chồng chị HD làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện năm 2014, bà HC được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này. Gia đình chị HD đã chấp nhận hỗ trợ cho gia đình HC 01 lô đất khác để làm nhà ở, lúc đó HC đã chấp nhận. Sau khi biết mình được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 2019, bà HC khởi kiện yêu cầu chị HD, anh YK phải trả lại thửa đất này cho Bà. (2) Quá trình giải quyết của Tòa án *Bản án dân sự sơ thẩm: Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân, huyện Đ, tỉnh ĐL: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà HC về việc buộc bị đơn vợ chồng chị HD, anh YK phải trả diện tích đất 1.063,4m2, tại thửa đất số 78, tờ bản đồ 02. Kiến nghị UBND huyện thu hồi GCNQSDĐ đất số D-0374409 ngày 8/7/1994 cấp cho hộ bà HC. * Bản án dân sự phúc thẩm: Quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2022/DS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà HC. Buộc vợ chồng chị HD, anh YK phải trả diện tích đất 1.063,4m2, tại thửa đất số 78, tờ bản do so 02. Buộc bà HC có trách nhiệm thanh toán số tiền 216.469.000 đồng là giá trị tài sản trên đất cho vợ chồng chị HD và anh YK. Buộc vợ chồng chị HD, anh YK phải bàn giao toàn bộ tài sản trên đất. Ngày 03/9/2022, vợ chồng chị HD, anh YK có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngày 09/01/2023, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 02/2023/KN-DS đối với bản án dân sự phúc thẩm, đề nghị ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN hủy bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 08/2023/DS-GĐT ngày 10/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN chấp nhận kháng nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN hủy Bản án dân sự phúc thẩm sổ 166/2022/DS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân, huyện Đ, tỉnh ĐL. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Về hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Những người làm chứng, trình bày: Năm 1994, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn được cấp đồng loạt, theo chỉ tiêu, không kiểm tra đo đạc sơ đồ, các hộ không kê khai, ủy ban nhân dân xã không xác minh về nguồn gốc đất cũng như xác nhận của các hộ có đất giáp ranh. Các hộ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không biết diện tích, vị trí đất được cấp. Từ năm 1994 đến nay, gia đình bà HC cũng không sử dụng thửa đất tranh chấp. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất so D0374409 ngày 18/7/1994 cấp cho hộ bà HC có sự sai sót, không đúng nguồn gốc sử dụng, không đúng đối tượng sử dụng đất. Bản án sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của bà HC là có căn cứ, đúng pháp luật, bản án phúc thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của bà HC là thiếu căn cứ. Vì vậy, Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN đã hủy toàn bộ bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Xem và tải Bản án tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/03/16/2023-03-10%20(1).pdf
Rút kinh nghiệm xét xử vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy theo thủ tục giám đốc thẩm
Ngày 30/11/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND tối cao về vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” để xét xử phúc thẩm lại. Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 7) thông báo rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, quyết định hình phạt đối với bị cáo. nhàm bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 27/02/2019, Nguyễn Văn H điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Khoa Vũ N đi từ thành phố Huế đến tỉnh Quảng Trị để vận chuyển ma túy của Lương Đình V và Nguyễn Thị N vào tỉnh Thừa Thiên Huế giao cho Phạm Hoàng M nhận tiền công 20 triệu đồng: Cùng ngày, H gặp V tại bãi đỗ xe của khách sạn Bảo Sơn, V cho H 04 viên ma túy tổng hợp đề sử dụng. H lấy 04 viên ma túy tổng hợp cất giấu vào ngăn đựng phía trước xe ô tô. Ngày 01/3/2019, N đến phòng nghỉ gặp H nói có ma túy rồi xuống khu vực Massage của khách sạn Bảo S để nhận. H và N đi xuống khu vực Massage và bãi đỗ xe, H bảo N vào ngồi trong xe ô tô. Còn H ngồi ở ghế lái, V đi đến mở cửa sau bên trái ô tô biển kiểm soát 75A-095.59 bỏ 01 túi xách phía ghế sau. Sau đó, H điều khiển xe ô tô chở N về thành phố Huế. Quá trình bị lực lượng chức năng kiểm tra Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 01/3/2019, H điều khiển xe ô tô đến quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã Hải Trường, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị thì bị lực lượng chức năng phát hiện kiểm tra bắt quả tang thu giữ tang vật 01 gói ma túy tổng hợp có khối lượng 997,7547 gam Methamphetamine, 04 viên nén màu hồng có khối lượng 0,3947 gam Methamphetamine và một số tài sản khác. Quá trình điều tra, ngày 21/5/2019, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Trị tiến hành khám xét ô tô biển kiểm soát 75A-095.59, Nguyễn Khoa Vũ N giao nộp 10 gói ma túy tổng hợp được cất giấu trên cửa cách nhiệt phía trên trần xe ô tô có khối lượng 198,8713 gam Methamphetamine. Quá trình giải quyết vụ án (1) Bản án sơ thẩm Tại Bản án hình sự sơ thẩm ngày 18/02/2020, TAND tỉnh Quảng Trị áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm a, khoản 1, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 01 năm tù về tội “Tàng trữ' trái phép chất ma túy”; Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội là 21 năm tù. Áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm r, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt Nguyễn Khoa Vũ N tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. (2) Bản án phúc thẩm Ngày 25/02/2020, Nguyễn Khoa Vũ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 12/3/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Kháng nghị số 12/QĐ-VC2 kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Văn H từ 20 năm tù lên tù chung thân. Tại Bản án hình sự phúc thẩm 154/2021/HSPT ngày 07/4/2021, TAND cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. Theo đó, giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với Nguyễn Văn H; chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Khoa Vũ Ngân từ chung thân xuống 20 năm tù. (3) Bản án giám đốc thẩm Ngày 28/02/2022, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Kháng nghị số 03/QĐ-VKSTC-V7 kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên theo hướng đề nghị hủy phần trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn H để xét xử phúc thẩm lại. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không đúng với các tình tiết, nội dung vụ án bởi lẽ: - Chiếc xe ô tô là do H mượn của em trai ruột của H, không phải xe ô tô của Ngân. - Lời khai của N là chính xác, phù hợp với diễn biến và kết quả khám xét ngày 21/5/2019. - Khi lập biên bản niêm phong xe ô tô ngày 01/3/2019 thì H, N đều đã chứng kiến và ký vào biên bản niêm phong. - Khi mở niêm phong xe ô tô ngày 21/5/2019 bảo đảm thực hiện đúng theo quy định tại Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tại đó, có sự chứng kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến là ông Nguyễn Đức Hiếu nên việc khám xét xe ô tô bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật. Do đó, có đủ cơ sở xác định Nguyền Văn H cùng Nguyễn Khoa Vũ N tham gia vận chuyển trái phép 1.196,2313 gam Methamphetamine. Thứ hai, bị cáo Nguyễn Văn H giữ vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Khoa Vũ N, là người chủ động, trực tiếp điều khiển xe ô tô vận chuyển ma túy. H hướng dẫn bị cáo N cất giấu ma túy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá vai trò của hai bị cáo ngang nhau, từ dó quyết định mức hình phạt ngang nhau là không chính xác. Hành vi phạm tội của H thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 250 Bộ luật hình sự 2015, có khung hình phạt từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khối lượng ma túy vận chuyển cao hơn gần 10 lần so với mức khởi điểm 100 gam và bị cáo H không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù. Mức án khởi điểm của khung hình phạt là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, không công bằng với các bị cáo khác bị xét xử hình phạt tử hình khi vận chuyển trái phép với khối lượng ma túy tương tự. Kể cả trường hợp bị cáo H chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vận chuyển trái phép 997,7547 gam Methamphetamine nên cần xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đà kịp thời phát hiện và báo cáo đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao ban hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tải bản án tại đây bản án
Rút kinh nghiệm vụ án "làm giả giấy tờ lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo thủ tục giám đốc thẩm
Đây là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đền bù phần đất giải tỏa, có yếu tố làm giả giấy tờ, con dấu của cơ quan có thẩm quyền mà cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không nhận ra. Qua thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thấy cần rút kinh nghiệm một số vấn đề về vụ án này như sau: (1) Nội dung vụ án Huỳnh Thị Đ được thừa kế lô đất thuộc thửa đất diện tích 391m2 tại, phường H.X, quận C.L và được cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 18/01/1995. Ngày 03/6/2009, Huỳnh Thị Đ chuyển nhượng QSDĐ cho ông Biện Văn N; ông N chuyển nhượng lô đất cho bà Văn Thị V. Ngày 29/6/2010, bà V lập “hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng QSDĐ” cho vợ chồng ông Phạm L và bà Nguyễn Thị N; do thửa đất trên thuộc diện giải tỏa nên không làm thủ tục sang tên được, bà N cất giữ giấy chứng nhận QSDĐ mang tên bà Văn Thị V. Ngày 24/9/2010, UBND quận C.L thu hồi đất giao cho Công ty quản lý và khai thác đất Đà Nẵng quản lý để thực hiện theo quy hoạch. Nguyên nhân dẫn đến sai phạm Do Trung tâm đo đạc nhầm lẫn quy chủ thửa đất là Huỳnh Thị Đ nên Công ty quản lý khai thác đất giao cho Ban giải tỏa đền bù các dự án đầu tư và xây dựng số 2 (gọi tắt là Ban 2) tiến hành thẩm định, xác định giá trị tiền đền bù cho bà Đ. Ngày 06/7/2011, Ban 2 gửi thông báo cho bà Đ được bố trí 01 lô đất tại khu dân cư Nam cầu C.L. Biết việc quy chủ đất sai, Trung tâm đo đạc bản đồ tại Đà Nẵng có Công văn gửi Ban 2 điều chỉnh chủ sở hữu thửa đất sang hộ vợ chồng bà Nguyễn Thị N nhưng sau khi tiếp nhận, Ban 2 không điều chỉnh thông tin người được bố trí đất tái định cư. Hành vi thực hiện phạm tội của các bị cáo Bà Huỳnh Thị Đ biết rõ Ban 2 gửi nhầm vì lô đất đà được bà Đ chuyển nhượng cho người khác nhưng bà Đ vẫn bàn bạc thống nhất với Hồ Văn K bán lô đất tái định cư lấy tiền tiêu xài. K giao kết với Trần Phước L, nếu làm được thủ tục ra phiếu đất để bán thì số tiền kiếm được sẽ chia đôi, Đào và Lộc mỗi người một nửa. Trần Phước L liên hệ với Đặng Văn T làm giả “biên bản chi tiền đền bù” lần 1. Và trực tiếp gặp ông Trần Vũ T, cán bộ Ban 2, ông T lập biên bản tiếp nhận mặt bằng và ký vào vị trí tô công tác, giao lại cho Lộc. Lộc tiếp tục nhờ Đặng Văn T làm giả “biên bản chi tiền đền bù” lần 1, đóng dấu giả của Ban 2 có nội dung “Ban giải tỏa đền bù các ĐAT XD số 2 ĐN đà chi tiền”, giả chữ ký của kế toán Bùi Thị Hoài L và kế toán trưởng Thái Thị Minh H, rồi đưa Huỳnh Thị Đ ký vào vị trí chủ hộ. Sau đó L cùng Đ, K thỏa thuận chuyển nhượng lô đất trên cho vợ chồng ông Từ D và bà Võ Thị Hồng A với giá 520.000.000 đồng, số tiền bán đất Đ và L chia đôi, mỗi người được hưởng 260.000.000 đồng. (2) Quá trình giải quyết vụ án Ngày 02/4/2018 của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng, khởi tố vụ án hình sự về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; khởi tố Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hồ Văn K. Bản kết luận điều tra vụ, đề nghị truy tố Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hô Văn K về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 4, Điều 174 Bộ luật hình sự 2015. Đồng thời, cáo trạng ngày 14/12/2018 của VKSND thành phố Đà Nẵng, truy tố các bị can Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hồ Văn K về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại Bản án hình sự sơ thẩm ngày 25/01/2019, TAND thành phố Đà Nẵng xử phạt Trần Phước L 07 năm tù. Xử phạt Huỳnh Thị Đ 05 năm tù, Hồ Văn K 02 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đồng thời Toà án kiến nghị UBND thành phố Đà Nẵng có hình thức xử lý đối với cán bộ vi phạm, kiến nghị VKSND thành phố Đà Nẵng tiếp tục yêu cầu Cơ quan điều tra Công an làm rõ hành vi “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” của một số cán bộ ở Ban 2. Ngày 04/12/2019, các bị can kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 24/12/2019, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành kháng nghị phúc thẩm số 05, đề nghị hủy bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra lại. Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng cáo và kháng nghị, giữ nguyên Bản án sơ thẩm của TAND thành phố Đà Nẵng. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Trong vụ án này, bị cáo Trần Phước L đã 02 lần nhờ Đặng Văn T làm giả “biên bản chi tiền đền bù” (bản phô tô) và “biên bản chi tiền đền bù” (bản chính), đóng dấu giả của Ban 2, giả chữ ký của kế toán Bùi Thị Hoài L và kế toán trưởng Thái Thị Minh H Sau đó dùng các giấy tờ giả này để lừa dối ông Trương Thanh T, Phó trưởng Ban 2 và vợ chồng ông Từ D và bà Võ Thị Hồng A để chiếm đoạt số tiền 520.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của L có dấu hiệu phạm tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” nhưng L mới bị điều tra, truy tố, xét xử về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đối với Đặng Văn T có hành vi giúp L làm giả các biên bản chi tiền đền bù đất của Ban 2, nhưng Đặng Văn T đã chết, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự với T. UBND quận C.L đã có sai sót trong cung cấp hồ sơ chính bị giải tỏa đền bù sai đối tượng, nhưng đã sửa sai bằng cách gửi văn bản đề nghị Ban 2 chỉnh sửa. Một số cán bộ Ban 2 đã có hành vi thiếu trách nhiệm, không làm hết nhiệm vụ được giao, cụ thể là không tiến hành kiểm định, xác định vị trí, đo đạc kích thước thửa đất theo hiện trạng thực tế, không phát hiện hành vi làm giả “biên bản chi tiền đền bù” dẫn đến việc ký xác nhận vào biên bản và cấp phiếu bố trí đất sai đối tượng. Ban 2 không điều chỉnh, chỉ lưu công văn trong hồ sơ. Hành vi nêu trên của một số cán bộ Ban 2 tạo điều kiện cho các bị cáo Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hồ Văn K lừa đảo chiếm đoạt số tiền 520.000.000 đồng. Quá trình xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung 02 lần “yêu cầu làm rồ 08 vấn đề có liên quan đến vụ án. Nhưng Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng và VKSND thành phố Đà Nẵng giữ nguyên quan điểm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Phước L về hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức và hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của một số cán bộ Ban 2. Xem thêm Thông báo 19/TB-VKSTC ngày 31/01/2023 tải về.
Rút kinh nghiệm kiểm sát vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về "Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn X với bị đơn ông M, bà H của TAND thị xã B, tỉnh Đ tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 55/2021/QĐST-DS ngày 16/6/2021 có vi phạm. Theo đó, cần thông báo rút kinh nghiệm như sau: (1) Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 21/6/2016, ông M và bà H ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng X. Nội dung như sau: - Ngày 21/6/2019, ông M và bà H vay số tiền: 755.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng. - Để bảo đảm khoản vay, ông và đã thế chấp quyền sử dụng đất theo GCN QSDĐ số CĐ 315589 thuộc thửa đất số 09, tờ bản đồ số 39, diện tích 19.920 m2 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 11/5/2016 mang tên ông S được xác nhận chuyển nhượng cho ông M, bà H vào ngày 23/6/2016. Ngân hàng X yêu cầu ông M, bà H trả toàn bộ số nợ là 913.485.357 đồng (Nợ gốc 730.050.000đ, lãi vay trong hạn 132.574.891 đ, lãi quá hạn 33.534.925đ, lãi chậm trả đối với lãi 17.325.541đ) tính đến ngày 12/4/2021. Đồng thời, tiếp tục trả lãi vay, lãi quá hạn, phí chậm trả lãi phát sinh từ ngày 13/4/2021 cho đến khi ông M và bà H thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền vay đối với Ngân hàng X được quy định tại Hợp đồng tín dụng. Trường hợp, ông M và bà H không trả nợ cho Ngân hàng X thì Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất để thu hồi nợ. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 55/2021/QĐST- DS ngày 16/6/2021 của TAND thị xã B, tỉnh Đ quyết định: - Chấp nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự như trên, cụ thể: + Về số nợ và nghĩa vụ trả nợ: Ông M và bà H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày 12/4/2021 là: 913.485.357 đồng gồm tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả… + Trường hợp ông M và bà H không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông bà theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã ký giữa ông bà với Ngân hàng để thu hồi nợ. Ngày 13/9/2021, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đ có Văn bản số 1362/CCTHADS đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên. Ngày 24/6/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 50/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên. Quyết định giám đốc thẩm số 59/2022/DS-GĐT ngày 01/12/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nằng xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nằng, hủy toàn bộ Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. (3) Vấn đề cần rút kinh nghiệm - Quá trình tổ chức thi hành Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đã kết hợp với UBND xã c, Phòng tài nguyên và Môi trường huyện K, Vãn phòng đăng ký đất đại huyện K tổ chức xem xét thực địa thửa đất số 09 phát hiện: “Hiện thửa đất này do ông C, bà H đang chăm sóc, bảo quản; thực trạng thửa đất có hình trạng thửa đất không giống với thực trạng, tình trạng thửa đất trong GCNQSDĐ sổ CĐ 315589" và "qua kiểm tra thực tế cũng như bản đồ số hỏa thì hiện tại thửa đất nói trên thuộc tờ bản đồ số hóa 75 và đã được cấp GCNQSDĐ cho 05 người. - Qua thực tế xác minh tài sản thế chấp thửa đất số 09 hiện đang do người khác quản lý và sử dụng, tài sản trên đang có tranh chấp (Hiện do ông S1 và ông C cùng địa chỉ xã C, huyện K quản lý và sử dụng)... - Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đ đã bỏ qua Biên bản làm việc ngày 17/01/2021 giữa Ngân hàng với ông M, bà H và không thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp, từ đó không phát hiện ra những sự thay đổi, biến động của tài sản thế chấp nên không thể tổ chức thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã có hiệu lực pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Trên đây là rút kinh nghiệm từ những vi phạm nghiêm trọng tố tụng trong việc giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng tín dụng” bị cấp giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Xem chi tiết tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/01/11/2023-01-05%20(12).pdf
Rút kinh nghiệm vụ án hình sự bỏ sót tội phạm giết người theo thủ tục giám đốc thẩm
Ngày 25/7/2022, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ Bản án hình sự phúc thẩm ngày 18/9/2020 của TAND cấp cao tại ĐN và Bản án hình sự sơ của TAND tỉnh QB đối với PQB để điều tra lại. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự thông báo rút kinh nghiệm trong việc bỏ lọt tội phạm; nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không bó lọt tội phạm, đúng quy định của pháp luật. Nội dung vụ án hình sự Tối ngày 04/02/2019, nhiều thanh niên ở các thôn thuộc xã HP, huyện BT, tỉnh QT dụng rạp tổ chức liên hoan hát tất niên. Đến 22 giờ cùng ngày, HVD và PQB ở rạp của thôn TL đến rạp của thôn TH để giao lưu. Lúc này, PVH ở thôn NH khoác vai PQB cùng nhảy múa và có chạm tay vào đầu B và PQB cho rằng H đã xoa đầu là xúc phạm mình, nên B tát vào mặt H và nói "Tau từ nhỏ đến lớn không ai dám xoa đầu tau". Lúc này, LVT đứng gần đó thấy B xông vào định đánh tiếp nên can ngăn. Khi thấy B đánh nhau, HVD xông đến thì nhiều thanh niên của thôn TH và thôn NH đang ở trong rạp xông vào đánh B và D làm D bị thương ở ngực và môi dưới. Sau đó, B và D chạy về rạp của nhóm thôn NH bảo mọi người đi đánh trả thù, nhiều người đồng ý trong đó có: HVL, HDC, PHN, HVN (đều ở thôn NH). HQH, ĐGT, PVD, NTA, NV (đều ở NH). PQB điện thoại cho HVL ở thôn TL đến rạp TH đánh nhau, nhiều người nghe và đi cùng L. Trong đó có, NT, PTD, HMH, LVH, LHQ, HQT, HVT, LTK, NVL. NTA cầm theo 01 cưa xếp, HVD cầm theo 01 cái kéo cán màu đỏ, HVL cầm theo 01 bình xịt hơi cay… Bản thân B vào nhà bà VTH ở thôn NH lấy 01 con dao bản rộng khoảng 05 cm, mũi không nhọn. Khi đến gần rạp thôn TH hô hào lên đánh. Lúc này, TQT ở trong rạp thôn TH chạy ra cùng với PDH và PCS thì gặp HVL và NTA xông tới. NTA cầm cưa inox dài 25 cm chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào vùng đầu của TQT. T dùng gậy tre đánh vào đầu NTA, TA tiếp tục cầm cưa chém nhát thứ hai theo hướng từ trên xuống trúng vào vai TQT. T dùng gậy đánh lại HVL và NTA. NV ném đá và cầm gậy gỗ xông vào TQT, sau đó cả bọn bỏ chạy. Lúc này, HVD từ đường liên thôn xông vào rạp TH, cầm kéo cán màu đỏ dài 22,5 cm, khi thấy T cầm gậy xông ra D xông tới ghì đầu T xuống rồi dùng kéo đâm nhiều nhát. Thấy nhiều người trong rạp TH rượt đuổi thì D đẩy H ra bỏ chạy. ĐGT ném đá vào trong rạp và dùng tay đấm vào mặt một người từ trong rạp TH xông ra. HMH, PTD, HVL, PHN, HVN, HVL và NV ném đá vào rạp TH. NT, HQH, PVD, HDC cầm đá, gậy nhưng chưa sử dụng. HVD sau khi đâm PDH, mang theo kéo đi đến ngõ hẻm vào chùa VP gặp PQB cách vị trí đâm PDH 78m về phía Tây, thì D nói với PQB: "Cụ ơi, cháu mới đâm thằng nớ mấy nhát, không biết chết hay sống”. Hậu quả, PDH bị tử vong sau khi đưa đi cấp cứu, TQT bị đa chấn thương tổn hại sức khỏe 12%, tình hình an ninh trật tự khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Quá trình giải quyết vụ án Tại Bản án hình sự sơ thẩm 11/2020/HS-ST ngày 13/5/2020, TAND tỉnh QB áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt PQB 30 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Tòa án xử phạt 14 bị cáo khác từ 24 tháng tù đến 15 năm tù về các tội "Giết người", "Cố ý gây thương tích” và ”Gây rối trật tự công cộng". Trong thời hạn luật định, các bị cáo HVD, HVL kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; các bị cáo PTD và HMH xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo. Bà PTMH là đại diện hợp pháp cho bị hại PDH kháng cáo yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với HVD về tội "Gây rối trật tự công cộng"; tăng hình phạt đối với bị cáo D về tội "Giết người". VKSND cấp cao tại ĐN đề nghị hủy phần hình phạt đối với bị cáo NTA và PQB tại bản án hình sự sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử thêm về tội "Gây rối trật tự công cộng". Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND cấp cao không chấp nhận kháng cáo của bị cáo HVD; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo HVL, PTD, HMH; chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện bị hại. Không chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại ĐN; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm cho các bị cáo HVL, PTD và HMH được hưởng án treo. Ngày 19/8/2021, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm 26/QĐ-VKSTC-V7 đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC huỷ phần trách nhiệm hình sự của Bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại ĐN; Bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh QB đối với PQB để điều tra lại. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Trong vụ án này, ban đầu PQB dùng tay đánh H vì cho rằng H xoa đầu, xúc phạm B, dẫn đến một số thanh niên xông vào đánh B và D. Sau đó, B thông báo cho nhóm thanh niên thôn NH là bị thanh niên nhóm TH đánh và bảo mọi người đi đánh trả thù. B nói mọi người mang theo hung khí, bản thân B cùng mang theo một con dao bản rộng để đi đánh nhau. Đến rạp thôn TH, Bảo hô đồng bọn "xông lên đập bọn TH". Khi D đâm H xong gặp B thì D thông báo mình vừa thực hiện hành vi đâm H cho B nghe. B không nói gì, chấp nhận hậu quả xảy ra. Như vậy, B là người khởi xướng, chủ mưu, cầm đầu trong nhóm người tìm đánh thanh niên thôn TH. B là người phải chịu trách nhiệm về hành vi, hậu quả của sự việc này, trong đó có người bị thương tích, có người tử vong. Một số đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội "Gây rối trật tự công cộng", "Cố ý gây thương tích", "Giết người". Hành vi của B có đủ dấu hiệu của tội "Giết người" theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Các cơ quan tố tụng chỉ truy cứu đối với B về tội "Gây rối trật tự công cộng", không truy cứu đối với Bảo về tội "Giết người" là sai lầm nghiêm trọng. Mặt khác, tại án lệ số 17/2018/AL ngày 17/10/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC có hướng dẫn, trường hợp người xúi giục đồng bọn đánh nhau, có mang theo hung khí. Dù không có mặt khi thực hiện tội phạm, không biết đồng bọn dùng mã tấu chém chết người, thì vẫn phải truy cứu về tội "Giết người"; thực tế người này đã để mặc hậu quả xảy ra thì hậu quả đến đâu phải chịu trách nhiệm đến đó. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự VKSNDTC thông báo để VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, rút kinh nghiệm chung, nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra, truy tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm các vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” bị ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Yêu cầu của nguyên đơn ông D: Khởi kiện buộc ông L trả số tiền 4.450.000.000 đồng gốc và tiền lãi 10%/năm theo Giấy vay tiền ngày 10/4/2020, thời hạn vay 36 tháng. Chứng cứ ông D khởi kiện là Giấy vay tiền ngày 10/4/2020, có chữ ký, ghi rõ họ tên của ông L và các dấu lăn tay vào 02 trang giấy. Bị đơn ông L trình bày: Ông không vay tiền của ông D mà ông D là nhân viên điện lực đã lợi dụng việc ký hợp đồng mua bán điện giữa ông với Điện lực Y nên lừa ông ký và lăn tay vào Giấy vay tiền ngày 10/4/2020 (02 tờ) được lồng vào hợp đồng mua bán điện. (2) Quá trình giải quyết vụ án Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2020/DSST ngày 17/12/2020 của TAND thành phố H xử: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu tính lãi của nguyên đơn ông D. Buộc bị đơn ông L phải trả cho ông D với tổng số tiền 4.754.098.162 đồng (Bốn tỷ bảy trăm năm mươi bốn triệu không trăm chín mươi tám nghìn một trăm sáu mươi hai đồng). ” Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2022/DSPT ngày 16/02/2022 của TAND tỉnh Y xử: - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu tính lãi của nguyên đơn ông D về việc buộc bị đơn ông L phải trả cho ông D với tổng số tiền 4.754.098.162 đồng Sau khi xét xử phúc thẩm, ông D có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 10/6/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 48/QĐ-VKS-DS theo hướng hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2022/DSPT ngày 16/02/2022 của TAND tỉnh Y và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2020/DSST ngày 17/12/2020 của TAND thành phố H, tỉnh Y. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 49/2022/DS-GĐT ngày 09/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy bản án dân sự phúc thẩm và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định ông L đã ký và lăn tay vào từng trang của Giấy vay tiền ngày 10/4/2020 trong trạng thái tinh thần ổn định và không bị cưỡng ép, lừa dối, đã nhận tiền như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Theo đó, Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2020/DSST ngày 17/12/2020 của TAND thành phố H chấp nhận yêu cầu khởi kiện, buộc bị đơn ông L phải trả cho ông D tổng số tiền gốc và lãi 4.754.098.162 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2022/DSPT ngày 16/02/2022 của TAND tỉnh Y không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Trên đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. VKSND cấp cao tại ĐN thông báo để VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà"
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao (Vụ 9) thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà", giữa nguyên đơn là bà N với bị đơn là ông C và bà S. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 05/6/2015, bà N ký hợp đồng thuê của vợ chồng ông C, bà S một phần nhà diện tích 90m² tại địa chỉ 83 đường AC, tổ 51, phường KB, quận LC, thành phố ĐN, mục đích mở quán cafe, nước giải khát; thời hạn thuê 04 năm, 7 tháng, kể từ ngày 01/6/2015; Trong đó, giá thuê mỗi tháng là 13.000.000 đồng (sau 02 năm giá thuê sẽ tăng không quá 10%/năm); phương thức thanh toán 01 năm 01 lần vào tháng 12 hàng năm. Bà N đã thanh toán đầy đủ tiền thuê trong năm 2015 và 2016. Tuy nhiên, đến tháng 3 năm 2017, do bà N chưa thanh toán tiền thuê nhà năm 2017 nên ngày 20/3/2017, ông C nhờ con rể là ông T nhắn tin cho bà N về việc bà N chuyển tiền không theo nội dung hợp đồng, nên đề nghị bà vào ngay giải quyết, nếu ngày 22/3/2017, bà N không có mặt để thanh toán tiền thuê nhà thì gia đình ông sẽ đóng cửa quán. Bà N đã chuyển vào tài khoản của ông T 140.000.000 đồng để nhờ trả tiền nhà cho vợ chồng ông C, bà S (chuyển 60.000.000 đồng vào ngày 20/3/2017; 30.000.000 đồng vào ngày 23/3/2017; 50.000.000 đồng vào ngày 28/4/2017). Ngày 23/3/2017, gia đình ông C, bà S mời Công an phường KB, ông MH tổ trưởng tổ dân phố và ông NT là hàng xóm chứng kiến việc ông, bà khóa cửa quán của bà N. Cùng ngày, ông C, bà S lập bản Cam kết thông báo cho bà N trong hạn 7 ngày phải có mặt để thanh lý hợp đồng, nếu không thực hiện, ông bà sẽ tự thanh lý hợp đồng, đồng thời lập biên bản kiểm kê tài sản của bà N tại quán. Yêu cầu của nguyên đơn: Trước sự việc trên, bà N cho rằng ông C, bà S đã đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà nên đã khởi kiện yêu cầu ông C, bà S bồi thường thiệt hại tổng số tiền 1.420.000.000 đồng gồm: - Doanh thu bị mất do không bán được hàng là 1.320.000.000 đồng (mỗi ngày 4.000.000 đồng, tính từ tháng 2/2017 đến tháng 12/2017); - Thiệt hại do mất, giảm sút về chất lượng, hàng hóa hết hạn sử dụng: 100.000.000 đồng. Tuy nhiên phía ông C, bà S lại cho rằng bà N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê nhà theo thỏa thuận, trong quá trình thuê, quán của bà N đã làm mất trật tự công cộng nhiều lần nên ông, bà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà trên. Yêu cầu của bị đơn: Ông C, bà S có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án buộc bà N phải thanh toán số tiền thuê nhà từ 01/01/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm 13/8/2019 là 408.633.000 đồng và tiếp tục đến ngày bàn giao mặt bằng với giá thuê 13.000.000 đồng/tháng. (2) Quá trình giải quyết vụ án 1. Quyết định của Tòa án nhân dân (TAND) quận LC, thành phố ĐN đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DSST ngày 13/8/20190: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và khởi kiện bổ sung của nguyên đơn - bà N với ông C và bà S. - Về quan hệ hợp đồng: Chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa bà N với ông C được ký kết ngày 05/6/2015 tại Văn phòng công chứng NY thành phố ĐN. Buộc bà N dịch chuyển tất cả tài sản của bà có tại tầng trệt và vỉa hè nhà số 83 AC, tổ 51 phường KB ra khỏi vị trí hiện tại và bàn giao mặt bằng cho ông c kể từ ngày tuyên án. - Về yêu cầu phản tố: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố và yêu cầu phản tố bổ sung của ông C bà S, buộc bà N bồi thường cho ông C, bà S số tiền 408.633.000 đồng. Trường hợp sau ngày 13 tháng 8 năm 2019 nếu bà N vẫn chưa bàn giao mặt bằng thì ngoài số tiền lãi bà N phải trả do chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 thì bà N còn phải bồi thường số tiền thuê nhà tính từ ngày 14 tháng 8 năm 2019 đến ngày bàn giao mặt bằng với số tiền mỗi tháng 13.000.000 đồng: Cụ thể mỗi ngày 433.333 đồng....Ngoài ra, tòa án còn quyết định về phần lãi suất chậm thi hành án, án phí, lệ phí và quyền kháng cáo của các đương sự. (Ngày 27/8/2019, VKSND quận LC ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐKNPT-VKS-DS đề nghị hủy toàn bộ bản án DSST nêu trên.) 2. Quyết định của Tòa án nhân dân thành phố ĐN đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2019/DSPT ngày 30/11/2019: Không chấp nhận kháng cáo của bà N; Không chấp nhận Kháng nghị phúc thẩm của VKSND quận LC; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DSST ngày 13/8/2019 của TAND quận LC. 3. Quyết định giám đốc thẩm số 38/2020/DS-GĐT ngày 06/7/2020: Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN quyết định: Không chấp nhận kháng nghị GĐT nêu trên của VKSND cấp cao tại ĐN, giữ nguyên bản án phúc thẩm. - Ngày 24/8/2020, VKSND cấp cao tại ĐN có báo cáo đề nghị kháng nghị đối với Quyết định GĐT nêu trên. - Ngày 14/3/2022, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quyết định kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định giám đốc thẩm số 38/2020/DS-GĐT ngày 6/7/2020 của TAND cấp cao tại ĐN, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2019/DS-PT ngày 30/11/2019 của TAND thành phố ĐN và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DS-ST ngày 13/8/2019 của TAND quận LC, thành phố ĐN. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm - Về việc ông C, bà S đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và nghĩa vụ thông báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng: Theo nội dung hợp đồng nêu trên, tại Điều 4 khoản 2, hai bên thỏa thuận phương thức thanh toán thì bà N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Đồng thời ông C, bà S có thực hiện nghĩa vụ báo trước thông qua bà H (người được bà N nhờ trông coi quán) và ông T đôn đốc bà N trả tiền cũng như thông báo, yêu cầu bà N có mặt để giải quyết, tuy nhiên bà N đã không có mặt. Như vậy, ông C, bà S đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là đúng theo thỏa thuận của hai bên tại hợp đồng thuê nhà. - Xác định thiệt hại do đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét đến những thiệt hại thực tế của bà N, xác định lỗi hoàn toàn thuộc về bà N và buộc bà N phải bồi thường thiệt hại trên cơ sở phát sinh thiệt hại xảy ra cũng chính bằng khoản tiền thuê nhà hàng tháng từ thời điểm chấm dứt thực hiện hợp đồng đến thời điểm xét xử là không phù hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bà N. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2019/DS-PT ngày 30/11/2019 của TAND thành phố ĐN là không đúng. Về việc VKSND quận LC, VKSND thành phố ĐN và VKSND cấp cao tại ĐN xác định bà N có vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhưng chưa đủ 03 tháng nên ông C, bà S không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê là chưa nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, VKSND các cấp đã phát hiện vi phạm khác của Tòa án và kịp thời ban hành kháng nghị theo thẩm quyền. Từ vụ án trên, VKSND tối cao thông báo để các VKSND các cấp nghiên cứu cùng rút kinh nghiệm chung, nhằm nhận diện được các vi phạm tương tự để thực hiện tốt chức năng kiểm sát của Ngành theo quy định của pháp luật.
Rút kinh nghiệm vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Cao Sơn N cùng đồng phạm, phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nhận thấy một số vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: 1. Tóm tắt vụ án Ngày 18/11/2003, UBND huyện T quyết định thành lập Ban Quản lý dự án Đầu tư và xây dựng công trình huyện T, có con dấu và tài khoản riêng. Trong đó: - Cao Sơn N được bổ nhiệm làm Trưởng ban, - Dương Thị T.H làm Kế toán trưởng, - Nguyễn Thiên D làm Phó trưởng ban - Đỗ Tú T làm cán bộ kỹ thuật kiêm thủ quỹ. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, các đối tượng trên đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng. Gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng và cổ ý làm trái chi sai số tiền 3.123.581.697 đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý. 2. Bản án sơ thẩm Ngày 28/5/2019, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST, TAND tỉnh N áp dụng khoản 3, Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt đối với các bị cáo như sau: - Cao Sơn N 06 năm tù. - Dương Thị T.H 04 năm tù. - Nguyễn Thiên D 03 năm tù. - Đỗ Tú T 02 năm tù cùng. Về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Sau đó, các bị cáo kháng cáo kêu oan trong hạn luật định. 3. Bản án phúc thẩm Ngày 15/9/2020, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 532/2020/HSPT, TAND cấp cao tại TP. M chấp nhận một phần đơn kháng cáo của các bị cáo. Sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm, áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999, miễn trách nhiệm hình sự đối với Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T. Ngày 09/9/2021, Viện trưởng VKSNDTC quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Ngày 04/10/2022, Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận Kháng nghị của VKSNDTC, hủy Bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao TP. M, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh N đối với các bị cáo nêu trên. 4. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm (1) Sai phạm của các bị cáo Lợi dụng nhiệm vụ được giao các bị cáo đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng, cụ thể: - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 500 triệu đồng cho Công ty D: Ngày 22/01/2009, Cty D được Cao Sơn N chi tạm ứng số tiền 500 triệu đồng (nguồn tiền ngân sách của UBND huyện) để thi công công trình đường 797 là không đúng đối tượng, đúng nội dung thanh toán. Ngày 30/5/2009 công trình đường 797 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đến ngày 27/11/2009, BQLDA đã thanh toán 4 lần tổng số tiền 4.369.658.000 đồng nhưng N và đồng phạm không thu hồi tiền tạm ứng theo phụ lục hợp đồng là vi phạm phụ lục. Trong năm 2012, 2013, UBND huyện T đã 06 lần yêu cầu N và đồng phạm thu hồi số tiền tạm ứng này nhưng đến sau khi khởi tố vụ án hơn 03 tháng, Cty D mới nộp trả số tiền trên vào ngày 10/11/2015. Như vậy, các bị cáo cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về chi tạm ứng gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước số tiền 500 triệu đồng trong thời gian từ ngày 01/01/2010 - ngày 03/8/2015 (Điểm 1, Phần I Thông tư số 108/2008/TT-BTC, ngày 18/11/2018 của Bộ Tài chính “Thời hạn chi, tạm ứng ngân sách kể cả tạm ứng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với các nhiệm vụ được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm được thực hiện chậm nhất đến ngày 31/12”). Ngoài việc gây thiệt hại số tiền này, các bị cáo còn gây thiệt hại cho Nhà nước bằng tiền lãi của số tiền 500 triệu đồng là 247.410.956 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 02 tỷ đồng cho Cty P: Cty P chưa phải đối tượng nhận thầu, UBND huyện T không đề nghị tạm ứng tiền thi công 03 công trình, nhưng ngày 10/11/2010 N và đồng phạm đã chi 02 tỷ đồng tạm ứng cho Công ty Hiệp phát (là cty gia đình của Nguyễn Thiên D). Đến ngày 27/12/2010 Cty P mới được chỉ định và ký 03 hợp đồng xây dựng với Ban QLDA về việc thi công các hạng mục, mua sắm thiết bị 03 công trình phát sinh tại trụ sở UBND huyện T. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bị cáo lại tiếp tục chi 50% tạm ứng giá trị hợp đồng cho Cty P số tiền 1.089.000.000 đồng, tổng cộng N và đồng phạm đã chi tạm ứng cho Cty P là 3.089.000.000 đồng, trong khi giá trị thi công chỉ là 2.179.670.000 đồng. Ngày 17/01/2011, Ban QLDA đà thanh toán khối lượng 03 công trình cho Cty P đều đạt 90% tổng giá trị công trình nhưng các bị cáo chỉ thu hồi được 1.089.000.000 đồng. Khi các công trình này được phê duyệt quyết toán xong toàn bộ giá trị 03 công trình vào ngày 19/9/2013 thì số tiền 02 tỷ đồng vẫn không được thu hồi. Sau 07 lần yêu cầu, ngày 07/8/2014, Cty P mới nộp hoàn trả 02 tỷ đồng. Như vậy các bị cáo đã cố ý chi sai cho Cty P dẫn đến không thu hồi được tiền tạm ứng trong thời gian 03 năm 09 tháng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước sách Nhà nước 02 tỷ đồng cùng số tiền lãi là 648.493.151 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 5,5 tỷ đồng cho Cty H: Công trình trụ sở Huyện ủy UBND huyện T và Trường THCS V do Ban QLDA ký thuê nhà thầu nhận thi công và ký hợp đồng xây dựng với Cty cổ phần phát triển đô thị N. Theo Hợp đồng xây dựng năm 2007 giá trị thi công công trình là 19.238.179.000 đồng, thời gian hoàn thành là ngày 31/12/2010 và Hợp đồng số 11 ngày 09/6/2009 giá trị thi công công trình là 9.212.209.000 đồng, thời gian hoàn thành vào ngày 31/12/2010. Hợp đồng còn quy định rất chi tiết, cụ thể về nghĩa vụ các bên khi thực hiện hợp đồng này như nội dung vấn đề hoàn ứng: theo nội dung tạm ứng tại Điều 8 Hợp đồng số 76 và Điều 9 Hợp đồng số 11 có nội dung “Bên A (Ban QLDA) sẽ tạm ứng cho Bên B”, và quy định về việc thu hồi tạm ứng này rất cụ thể: “vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán, việc thu hồi vốn tạm ứng được bắt đầu ngay khi thanh toán lần đầu và kết thúc khi khối lượng đã thanh toán đạt 80% giá trị hợp đồng”. Trên cơ sở hai hợp đồng này, Công ty N đã ký 02 hợp đồng thi công với ông D cũng là Đội trưởng Đội thi công của Cty N, giữa ông D và Cty N không có bất kỳ thỏa thuận nào ủy quyền cho ông D được đề nghị tạm ứng tiền thi công hai công trình nêu trên. Do D nợ tiền mua vật liệu của Cty P.H và N muốn thu hồi tiền nợ cho Cty P.H (công ty gia đình của N) nên N đã lập các tờ trình xin UBND huyện tạm ứng tiền thi công 02 công trình nêu trên. Cụ thể - Ngày 09/12/2010, UBND huyện đã chi 3 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA. - Ngày 03/3/2011, UBND huyện chi 2,5 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA để chi thi công công trình trụ sở UBND huyện T. Sau khi có tiền trong tài khoản của Ban QLDA, N và H không thông báo để Cty N xin tạm ứng mà hướng dẫn D lập lại 02 hợp đồng mua bán vật tư khống giữa D và Cty P.H để D làm đề nghị tạm ứng để có tiền trả nợ cho Cty P.H. S và H đã ký ủy nhiệm chi, tiền tạm ứng được chuyển trực tiếp vào tài khoản của Cty P.H, trong khi Cty P.H không có ký kết hợp đồng xây dựng với Ban QLDA, việc chi này là hoàn toàn sai đối tượng, sai mục đích sử dụng. Việc thanh toán khối lượng thi công công trình trụ sở UBND huyện: Từ ngày 31/12/2007 - tháng 26/7/2010, Cty N đã được Ban QLDA thanh toán 08 lần tổng số tiền 16.809.209.600 đồng đạt hơn 84% tổng giá trị khối lượng công trình trụ sở UBND huyện theo nguyên tắc và cam kết trong hợp đồng là phải thu hồi 08 tỷ tiền tạm ứng theo từng lần thanh toán giai đoạn ngay từ lần thanh toán đầu tiên. Đến ngày 26/7/2010, công trình trụ sở UBND huyện hết khối lượng thanh toán nhưng vẫn không được nghiệm thu thanh toán 4,2 tỷ vì các bị cáo không hoàn ứng số tiền 04 tỷ đồng cho Ngân sách. Các bị cáo cố tình không thu hồi gây thiệt hại cho ngân sách số tiền 4 tỷ đồng. Ngày 31/12/2011, công trình Trường THCS V đã gần hoàn thành nhưng không thu hồi số tiền tạm ứng 1,5 tỷ đồng gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước số tiền này. Từ việc không thu hồi được số tiền 5,5 tỷ đồng, ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại tiền lãi suất của số tiền này là: tiền lãi của 3 tỷ đồng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 03/8/2015 là 1.239.780.822 đồng; tiền lãi của 2,5 tỷ từ ngày 01/01/2012 đến ngày 03/8/2015 là 808.150.685 đồng. Cty P và Cty P.H đều không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để nhận 02 khoản tiền trên (02 tỷ và 5,5 tỷ đồng) nhưng từ khi chuyển tiền đến thời điểm hiện tại, không có tài liệu nào thể hiện các bị cáo tiến hành thu hồi, đòi trả về cho UBND huyện. Trong khi UBND huyện có 07 văn bản liên tục (từ năm 2012 đến năm 2013) yêu cầu thu hồi đều không có kết quả. Từ hành vi làm trái chi tiền sai đối tượng, sử dụng sai mục đích, không đúng nội dung tạm ứng dẫn đến hậu quả gần 07 năm mới khắc phục được 5,5 tỷ đồng từ các nguồn khác nhau như: - Quyết toán trụ sở huyện ủy - ủy ban được 4.207.094.083 đồng, còn lại 1.292.905.917 đồng Ban QLDA kế nhiệm phải đi xin và luân chuyển từ các nguồn khác. - Còn đối tượng nhận tiền sai quy định là Cty P.H - Cty gia đình của bị cáo N lại không trả. (2) Cố ý làm trái chi sai số tiền 3 tỷ đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý: Từ 18/6/2006 - 04/2/2012, các bị cáo Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T lập 33 phiếu rút tiền mặt tổng cộng 4.043.633.000 đồng tiền tạm giữ bảo hành của 75 công trình xây dựng trên địa bàn huyện sau đó cho Lâm Tấn D mượn 3.973.295.000 đồng không có chứng từ, thủ tục theo quy định. Trong khi ông D không ký hợp đồng xây dựng với Ban QLDA và không được ủy quyền từ các đơn vị thi công để nhận tiền. Đến khi vụ án khởi tố, Lâm Tấn D mới trả được 849.713.303 đồng, Ban ALDA vẫn chưa thu hồi 3.123.581.697 đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước 3.123.581.697 đồng. Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo là cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây thiệt hại cho Ngân sách số tiền 14.067.420.311 đồng, nhưng bản án phúc thẩm lại cho rằng hành vi trên của các bị cáo có dấu hiệu tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Việc thu hồi tiền tạm ứng ảnh hưởng đến việc điều tiết khoản chi ngân sách huyện cho hoạt động chung, khoản tiền 08 tỷ đồng tạm ứng để thi công các hạng mục công trình đà được thu hồi, không có thiệt hại số tiền trên. Ban quản lý dự án xác định số tiền tạm giữ bảo hành công trình đã được thanh toán cho đơn vị thi công, đơn vị thi công không có khiếu nại gì với Ban quản lý về số tiền bảo hành công trình chậm thanh toán. Các hạng mục công trình vẫn đảm bảo chất lượng, đã đưa vào sử dụng, hậu quả thiệt hại không xảy ra, tính chất nguy hiểm của hành vi không còn nên áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 để miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật. Vì các bị cáo cố ý phạm tội vì lợi ích của cty gia đình nhưng bản án phúc thẩm cho rằng các bị cáo phạm tội với lỗi vô ý để chuyển tội danh, hậu quả vật chất đã xảy ra và tội phạm đã hoàn thành, việc khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ chứ không phải thiệt hại chưa xảy ra như bản án phúc thẩm nhận định đề từ đó miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại TP M kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo phạm tội là không có căn cứ và cho rằng các bị cáo có dấu hiệu của tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chuyển từ tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trong” sang tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và đề nghị miễn hình phạt đối với tất cả các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật nên cần phải rút kinh nghiệm. VKSNDTC thông báo để các đơn vị cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong toàn ngành.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao nhận thấy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2019/QĐ-PT ngày 08/5/2019, giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND” giữa nguyên đơn bà H với bị đơn là bà C của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại thành phố M có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Nguyên đơn Bà H trình bày: Bà H cho rằng diện tích 1.962m² đất tranh chấp là thửa đất số 72 (thửa cũ 56), tờ bản đồ số 17, tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN, có nguồn gốc của cha mẹ chồng bà là cụ K và cụ H. Khi cụ K, cụ H chết thì chồng bà là ông Th, quản lý, sử dụng đất. Năm 1987, gia đình bà C có khó khăn, ông Th đã cho bà C tạm thời canh tác 2,5 sào. Quá trình canh tác, bà C đã lấn chiếm thêm, đồng thời xây dựng nhà kiên cố trên đất. Mặc dù, đất tranh chấp từ năm 1992, nhưng đến năm 1993 bà C vẫn kê khai nộp được thuế. Ngày 09/10/1998, bà C làm đơn xin cấp GCN QSDĐ. Diện tích đất bà C xin cấp GCN QSDĐ là bà C mượn của gia đình bà canh tác, nhưng Hội đồng xét duyệt cấp GCN xã QTr lại xác nhận nguồn gốc đất của bà C có “nguồn gốc ông Th cho năm 1987 và bà C sử dụng ổn định phù hợp với quy hoạch ”. Ngày 09/8/2002, ủy ban nhân dân (UBND) huyện ThNh cấp GCN QSDĐ cho bà C và ngày 21/12/2006 UBND huyện ThNh cấp lại GCN QSDĐ cho bà C diện tích 1.962m2 đất. Bà đã nhiều lần yêu cầu bà C trả đất, nhưng bà C không trả. Bị đơn bà C trình bày: Năm 1975, gia đình bà vào lập nghiệp tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Thời điểm đó, gia đình bà gồm có bà, bà H (là em gái của bà) và anh L (là con của bà). Gia đình bà phát cỏ, canh tác trồng hoa màu (khoai lang, đậu, bắp...) trên diện tích đất tranh chấp. Lúc đó, ông Th sinh sống ở thành phố H thỉnh thoảng có về trông coi đất và nói với bà là đất gia đình bà đang canh tác là đất của ông Th nên bà có ngỏ lời xin phần đất này đề canh tác và được ông Th đồng ý. Ngày 08/12/1987, ông Th viết “Giấy xác nhận” cho bà diện tích đất trên. Do có tranh chấp nên ngày 21/11/2000 UBND huyện ThNh ban hành Quyết định số 1627/QĐ và ngày 19/12/2001, UBND tỉnh ĐN ban hành Quyết định 4835/QĐ bác đơn khiếu nại về việc tranh chấp diện tích đất và cấp cho gia đình bà. Do đó, bà không đồng ý với yêu cầu của bà H về việc đòi lại thửa đất nêu trên. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của TAND tỉnh ĐN về quyết định dân sự sơ thẩm số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018: I. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 41/2015/TLST-DS ngày 14/10/2015 về việc “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND ” giữa: - Nguyên đơn: Bà H, sinh năm 1953; địa chỉ: 271/8 T, Phường 10, quận PhNh, thành phố H. Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Kh, sinh nám 1973 (theo văn bản và quyền ngày 22/12/2014); hộ khẩu thường trú: 1/5J Ch, Phường 14, quận GV, thành phố H. - Bị đơn: Bà C, sinh năm 1939; địa chỉ: F3/113 ấp NS, xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Bà M, sinh năm 1960 (theo văn bản ủy quyền ngày 01/7/2015); địa chỉ: P505 nhà D5A phổ TrThT, phường DVH, quận CGi, thành phố H. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. UBND tỉnh ĐN; địa chỉ: số 02 NgVTr, phường ThB, thành phố BH, tỉnh ĐN. 2. UBND huyện ThNh, tỉnh ĐN; địa chỉ: Tập LTh, xã XTh, huyện ThNh, tỉnh ĐN. 3. Anh L, sinh năm 1961; 4. Bà Thị H, sinh năm 1957; Cùng địa chỉ: số nhà F3/113 ấp NS, xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. II. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án: Đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự này. Sau khi có Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm, ngày 12/12/2018 bà H có đơn kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm nêu trên. Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2019/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bà H, hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Do có kiến nghị của Chánh án TAND tỉnh ĐN, ngày 14/3/2022, người có thẩm quyền đã ban hành Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 06/2022/KN-DS đối với Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2012/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M. Tại phiên tòa xét xử giám đốc thẩm ngày 28/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã xác định, phân tích, làm rõ vi phạm đề nghị hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2014/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M, giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự 55/2018/QDST-DS ngày 31/10/2018 của TAND tỉnh ĐN và được Hội đồng xét xử chấp nhận. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - Diện tích đất tranh chấp 1.962m2 giữa các đương sự là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 17 (thửa cũ số 56, tờ bản đồ số 12) tọa lạc tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định thửa đất này năm 1995 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đó ông Th (chồng bà H) đã có tranh chấp quyền sử dụng thửa đất với bà C, nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND huyện ThNh theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 là đúng theo quy định của pháp luật. - Diện tích đất bà H tranh chấp với bà C đã được giải quyết tại Quyết định số 4835/QĐ-CTUBT ngày 19/12/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh ĐN là quyết định có hiệu lực thi hành. - Tòa án nhân dân tỉnh ĐN ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 là đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. TAND cấp cao tại thành phố M hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh ĐN tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật là không có cơ sở. Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đã nghiên cứu hồ sơ chưa toàn diện nên không phát hiện ra vi phạm nêu trên của Tòa án. Trên đây là vi phạm của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND” mà Kiểm sát viên VKSND không phát hiện kịp thời để thực hiện chức năng, nhiệm vụ khi kiểm sát xét xử phúc thẩm và thông báo phát hiện vi phạm đề nghị cấp có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND tối cao (Vụ 9) thông báo để các VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự tương tự.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp chia di sản thừa kế'’ giữa nguyên đơn bà Đ với bị đơn ông T, ông Th của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố X, tỉnh Y tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án dân sự Yêu cầu nguyên đơn: - Bà Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án chia phần di sản thừa kế của ông N (chồng của bà, chết năm 1995) để lại trong khối tài sản chung của vợ chồng là 1/2 ngôi nhà và tài sản khác gắn liền diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất số 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b cho hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm bà và 06 người con: Bà NT, ông NT, bà M, bà MT, ông Th, ông T (riêng bà Tr đã được chia trước 40m2 đất và xây dựng nhà ở ổn định nên từ chối không hưởng phần di sản còn lại). - Bà Đ đề nghị được nhận nhà đất bằng hiện vật, tiếp tục sở hữu, sử dụng nhà đất để ở và trả lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa kế khác. Bị đơn: - Bị đơn ông Th thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xin nhận kỷ phần bằng giá trị. - Bị đơn ông T, hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp, không đồng ý chia thừa kế, ông muốn giữ nguyên nhà đất như hiện nay để ở và làm nơi thờ tự. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của TAND thành phố X, tỉnh Y về bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đ và sự tự nguyện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NT, ông NT, bà M, bà MT giao lại kỷ phần của mỗi người được hưởng cho mẹ (bà Đ) toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt. - Bà Đ được quyền tiếp tục sở hữu, sử dụng căn nhà cấp 4 cùng các công trình kiến trúc khác và các cây trồng trên đất gắn liền với diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất sổ 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b... - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đổi với các kỷ phần cho ông Th được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng; ông T được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng. - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đối với giá trị tài sản phát sinh của vợ chồng ông T, bà N là 22.655.593 đồng. - Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai Ngày 11/12/2018, TAND thành phố X ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018. Ngày 15/02/2022, VKSND thành phổ X, tỉnh Y có Báo cáo số 04/BC-VKS- DS đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X. Ngày 01/6/2022, bà Đ có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Ngày 30/8/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 63/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2018 của TAND thành phố X, tỉnh Y. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 58/2022/DS-GĐT ngày 25/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ- SCBSBA ngày 11/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm Tại phần quyết định của các bản án mà Tòa án nhân dân thành phố X gửi cho bà Đ và VKSND thành phố X lại ghi thêm nội dung: “vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N đế tạo lập nơi ở khác. ” Đồng thời, ngày 11/12/2018, TAND thành phố X lại ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm có nội dung: “Tại dòng thứ 9 từ trên xuống, trang số 6 của bản án đã ghi: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Nay sửa chữa, bổ sung như sau: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N để tạo lập nơi ở khác. ” . Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm sửa chữa, bổ sung vào phần quyết định của bản án sơ thẩm nội dung hoàn toàn mới so với Biên bản nghị án và bản án được tuyên tại phiên tòa là không đúng quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thực tế, tồn tại nhiều Bản án sơ thẩm cùng số 26/2018/DSST cùng ngày 27/4/2018 và Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của TAND thành phố X có nội dung tại phần quyết định khác nhau dẫn đến không thể thi hành án. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp chia di sản thừa kế” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.
Rút kinh nghiệm "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ"
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) là hợp đồng theo đó người sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho người được chuyển nhượng (gọi là bên nhận quyền sử dụng đất) theo các điều kiện, nội dung, hình thức được quy định trong Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai. Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ” giữa nguyên đơn ông H và bị đơn ông K, ông VH. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Năm 2000 ông K có chuyển nhượng cho ông H diện tích đất 2000m2 bằng giấy viết tay với nội dung: Chuyển nhượng lâu dài, nếu có thay đổi chính sách cũng không tranh chấp, giá chuyển nhượng 2.500.000 đồng. Hai bên giao nhận tiền, ông H canh tác ổn định và nộp thuế đầy đủ, tuy nhiên ông H chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Năm 2007, ông K làm hợp đồng tặng cho diện tích đất trên cho ông VH, bà L (con ông K). Năm 2015, ông VH đòi đất, cản trở không cho ông H tiếp tục canh tác. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của Tòa án qua bản án dân sự sơ thẩm 13/2022/DSDT ngày 18/05/2022. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H về việc “Yêu cầu công nhận đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/11/2000 giữa ông K và ông H và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ số H00985/2 UBND huyện TH cấp ngày 30/9/2007 đứng tên ông VH và bà L. Vì không có căn cứ pháp luật. Cụ thể: - Tuyên bố đơn xin chuyển nhượng QSDĐ ngày 01/11/2000 giữa ông H và ông K bị vô hiệu. - Buộc ông K phải có trách nhiệm trả cho ông H số tiền 2.500.000 đồng về khoản tiền chuyển nhượng đất đã nhận và phải bồi thường cho ông H số tiền phạt vi phạm tương ứng với mức độ lỗi là 178.500.000d. Tổng cộng hai khoản là 181.000.000 đồng. Đổi với diện tích đất thửa số 189, tờ bản đồ 4D, diện tích 2000m2 (đo đạc thực tế 1.977,7m2), đất HNK tọa lạc tại thôn Lễ Lộc Bình, xã STĐ, huyện TH, tỉnh PY theo Giấy chứng nhận QSDĐ số H0098512 do UBND huyện TH cấp ngày 30/9/2007 đứng tên VH, KL đã được ông H giao cho bị đơn năm 2016… Ngày 18/5/2022, nguyên đơn ông H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên. Ngày 31/5/2022, Viện trưởng VKSND tỉnh PY ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2022/DSST ngày 18/5/2022 của TAND tỉnh PY, theo hướng sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Quyết định của TAND cấp cao tại ĐN qua bản án dân sự phúc thẩm số 204/2022/DSPT ngày 14/9/2022: Chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh PY và kháng cáo của ông H, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - Tại đơn chuyển nhượng QSDĐ chỉ có chữ ký chủ đất là ông K, vợ chồng ông VH (con ông K), bà L (vợ ông VH), còn các thành viên khác trong gia đình không ký. Tuy nhiên, sau khi nhận chuyển nhượng vợ chồng ông H đã giao đủ tiền và nhận đất canh tác từ năm 2000 đến năm 2015 và cũng không ai tranh chấp. Vợ và các con ông K đều cư trú tại nơi có diện tích đất chuyển nhượng này, biết vợ chồng ông H sản xuất nhưng không có ý kiến gì là mặc nhiên thừa nhận, phù hợp với tinh thần Án lệ số 04/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 04/6/2016. - Đất nông nghiệp được cân đối theo Nghị định 64/CP cho 09 nhân khẩu của hộ gia đình ông Khanh với tổng diện tích là 11.829m2; bình quân mỗi nhân khẩu là 1.314m2. Do đó, việc ông K và ông VH là 02 nhân khẩu trong hộ gia đình chuyển nhượng 2.000m2 đất cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình; Do đó, có đủ cơ sở để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/11/2000 được ký kết giữa ông K, ông VH với ông H. - TAND tỉnh PY xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật không đúng. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh PY trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ”. VKSND cấp cao tại ĐN thông báo để VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.
Rút kinh nghiệm khiếu kiện tranh chấp QSDĐ, di dời tài sản theo thủ tục giám đốc thẩm
Đây là một vụ án tranh chấp phức tạp với nhiều người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan từ năm 1985 đến năm 2020. Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSNDTC thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm đối với vụ án: "Tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu di dời tài sản, vật kiến trúc trên đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là bà Lâm Thị C với bị đơn là bà Nguyễn Thị Bích L, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ủy ban nhân dân huyện PQ, ông Nguyễn Việt D, Công ty LT và một số người khác. 1. Tóm tắt vụ án Năm 1975 huyện ủy PQ cấp cho bố mẹ bà Lâm Thị C là cụ Lâm Văn M và cụ Trần Thị H diện tích đất 40.000 m2 (trong đó có diện tích 11.420,9 m2 đang tranh chấp) tại ấp SĐ, xã DT, huyện PQ, tỉnh KG. Trên đất có trồng một số cây lâu năm như: Dừa, Mít, Tràm bông vàng... Năm 1985, UBND huyện PQ đã mượn một phần đất trên để xây dựng lò gốm, việc mượn không lập văn bản, giấy tờ. Năm 1993, do không không hiệu quả nên đã sang nhượng cho ông Huỳnh Văn M. Năm 1996, ông M cho người chặt phá cây do gia đình bà trồng nên đã xảy ra tranh chấp. Năm 1998, ông Huỳnh Văn M được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trong đó có cả đất tranh chấp). Quá trình khiếu nại UBND huyện PQ ra Quyết định 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999, không công nhận khiếu nại của bà C, ngày 22/8/2000 Thanh tra tỉnh KG công nhận quyết định trên. Bà C cho rằng việc giải quyết trên là trái quy định pháp luật, tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà và ông M chưa được cơ quan có thẩm quyền nào giải quyết. Việc ông M chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho Công ty cổ phần LT vào năm 2004, năm 2015 Công ty cổ phần LT chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Bích L, năm 2020 bà L chuyển nhượng cho anh Nguyễn Việt D là không đúng quy định pháp luật. Yêu cầu khởi kiện ra Tòa án Đơn kiện của bà C có những yêu cầu như sau: Buộc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện PQ cấp cho ông Huỳnh Văn M. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M với Công ty công phần LT và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND tỉnh KG đã cấp cho Công ty cổ phần LT. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Công chứng ngày 07/8/2015 giữa Công tỵ cổ phần LT với bà Nguyễn Thị Bích L. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện PQ đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L ngày 03/9/2015. Hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được công chứng ngày 06/01/2020. Hủy đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho anh Nguyền Việt D ngày 09/01/2020. Giữ nguyên hiện trạng quyền sử dụng diện tích đất 11.420,9m2 tọa lạc tại ấp SĐ, xà DT, huyện PQ cho bà và công nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà. 2. Quá trình giải quyết tại Tòa án Bản án sơ thẩm tại TAND tỉnh KG - Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị C - Chấp nhận yêu cầu độc lập anh Nguyễn Việt D. Theo đó, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyền Việt D được công chứng, chứng thực ngày 06/01/2020, đăng ký biến động quyền sử dụng đất ngày 09/01/2020 tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện PQ. - Buộc bà Lâm Thị C giao trả cho anh Nguyễn Việt D diện tích đất 11.420,9 m2 thực hiện giao dịch cho bà Nguyễn Thị Bích L. - Buộc bà Lâm Thị C phải di dời toàn bộ tài sản, công trình, vật kiến trúc, cây trồng ra khỏi diện tích 11.420,9 m2 đất. - Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Nguyễn Thị Bích L cho lại bà Lâm Thị C giá trị cây trồng trên đất với số tiền 12.714.000 đồng. Bản án phúc thẩm tại TAND cấp cao thành phố H - Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Lâm Thị C. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm của TAND tỉnh KG. - Ngày 15/1/2021, bà Lâm Thị C có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm trên. - Ngày 04/11/2021, TAND tối cao có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại Thành phố H, đề nghị: Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh KG. 3. Rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát vụ án Thứ nhất: UBND huyện bán đấu giá toàn bộ xí nghiệp cho ông M nhưng không có nội dung giao đất. Ngày 12/12/1995, ông M có đơn xin cấp 27.852m2 đất trong đó có diện tích đất đang tranh chấp. Ngày 20/11/1998, UBND huyện PQ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M trong khi đất đang có tranh chấp chưa được giải quyết là không đúng với quy định tại khoản 3 Điều 30 Luật Đất đai 1993. Thứ hai: UBND huyện PQ không công nhận khiếu nại của bà C. Thanh tra tỉnh KG công nhận Quyết định của UBND huyện PQ là không đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai 1993. Thứ ba: Căn cứ vào Biên bản xác minh hoa màu và cây trái trên phần đất giao thì trên đất tranh chấp có một số cây trồng lâu năm, bà C cho rằng những cây trồng lâu năm này do bà trồng từ năm 1975 và năm 1996. Các cấp Tòa án chưa xác minh làm rõ diện tích đất có cây trồng lâu năm có phải do bà C trồng để xem xét công nhận quyền sử dụng phần đất này cho bà C. Tòa án các cấp căn cứ vào Quyết định của UBND huyện PQ và Thanh tra tỉnh KG giải quyết không đúng thẩm quyền đề giải quyết vụ án, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà C là không có căn cứ, không đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn. Thứ tư: Các quyết định giải quyết khiếu nại mà bà C muốn được giao quyền sử dụng đất gồm 0,65 ha thì bà C phải lập thủ tục đề nghị giao đất theo quy định, nếu muốn giao thêm diện tích đất để canh tác thì sẽ được UBND huyện xem xét giao đất tại vị trí khác ngoài thửa đất 0,65 ha đang tranh chấp. Tuy nhiên, sau khi có Quyết định giải quyết khiếu nại thì bà C có đơn đề nghị giao thêm đất hay không? Đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét hay chưa? Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cũng chưa xác minh làm rõ để có căn cứ giải quyết vụ án nhằm đảm bảo quyền lợi cho bà C. Thứ năm: Về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được Văn phòng Công chứng N K. tỉnh KG công chứng, chứng thực ngày 06/01/2020 đà vi phạm điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013. do đất chuyển nhượng có tranh chấp, đang được TAND tỉnh KG thụ lý, giải quyết nên không công nhận hợp đồng công chứng trên. Từ vụ án trên, VKSNDTC thông báo để các VKSND các cấp nghiên cứu cùng rút kinh nghiệm chung, nhằm nhận diện được các vi phạm tương tự ặê thực hiện tốt chức năng kiểm sát của Ngành theo quy định của pháp luật.
Rút kinh nghiệm về tranh chấp hợp đồng lai dắt tàu biển
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận thấy việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại về “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ”, giữa nguyên đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải biển C, bị đơn là Công ty Cổ phần Cảng Q do Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN giải quyết tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: I. NỘI DUNG VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI Ngày 12/10/2016, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vận tải biển C (sau đây viết tắt là Công ty C - Bên A) và Công ty Cổ phần Cảng Q (sau đây viết tắt là Công ty Q - Bên B) cùng nhau ký kết Hợp đồng kinh tế số 274/CUULONG/2016/01.02 (sau đây viết tắt là Hợp đồng 274) về việc “Thuê tàu lai vào khai thác tại cảng Q”. Với nội dung tóm tắt như sau: Bên B đồng ý thuê tàu lai của bên A để thực hiện hỗ trợ tàu thủy của khách hàng bên B ra/vào cảng Q; Thời hạn thuê 10 năm; Trách nhiệm của bên A: ... Sau mỗi chuyến hỗ trợ tàu thủy vào hoặc ra cầu cảng, Thuyền trưởng có trách nhiệm nộp phiếu xác nhận cho bên B. Hàng tháng, Thuyền trưởng cùng cán bộ của bên B lập và đối chiếu Bảng kê chi tiết hoạt động của tàu lai và cước phí hỗ trợ (tách riêng giá nội và ngoại); Giá cả và phương thức thanh toán: Đơn giá, theo đơn giá thanh toán của bên B phê duyệt (có Phụ lục hợp đồng theo từng thời điểm). Đơn giá được điều chỉnh tùy theo biến động của thị trường; Chứng từ thanh toán bao gồm: (i) Chứng từ do bên B xác lập: Giấy đề nghị thanh toán, (ii) Chứng từ do bên A xác lập: Phiếu xác nhận khối lượng thực hiện, Bảng kê chi tiết hoạt động lai tàu, Hóa đơn dịch vụ GTGT của bên A. Ngoài ra hai bên còn thỏa thuận vê điều kiện chấm dứt hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng, hai bên tiếp tục ký các Phụ lục hợp đồng (Phụ lục số 01 ngày 01/01/2017; số 02 ngày 07/7/2017; số 03 ngày 03/4/2018; số 04 ngày 05/7/2018), trong đó có nội dung hai bên thỏa thuận điều chỉnh về đơn giá thanh toán cước các tàu lai theo chiều dài tàu, đặc điểm tàu (có chân vịt hoặc không có chân vịt) và trọng tải của tàu yêu cầu hỗ trợ lai dắt. Quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã tiến hành đối chiếu và thanh toán cụ thể như sau: Từ ngày 12/10/2016 đến ngày 01/7/2017 hai bên đã hoàn thành việc thanh toán, xuất hóa đơn và không có tranh chấp. Từ ngày 01/7/2017 đến 05/12/2018, hai bên đã đối chiếu và thống nhất Công ty C đã thực hiện 2.262 lượt lai dắt (trong đó: Lai dắt tàu ngoại là 1.585 lượt; lai dắt tàu nội là 677 lượt). Công ty Q đã thu của tàu khách hàng 76.318.155.736 đồng (trong đó: Tàu ngoại là 2.919.979 USD quy đổi bằng 66.560.715.736 đồng; tàu nội là 9.757.440.000 đồng). Công ty Q đã thanh toán cho Công ty C 51.879.851.800 đồng, Công ty C đã xuất hóa đơn cho Công ty Q. Công ty C cho rằng, do Công ty Q vi phạm hợp đồng 274 (không thực hiện đối chiếu, không thanh toán cho Công ty C theo giá tàu ngoại) nên ngày 04/12/2018, Công ty C ban hành Công văn sổ 72/CV-CL gửi Công ty Q với nội dung là: Công ty C thông báo sẽ kết thúc Hợp đồng 274 với Cảng Q vào ngày 05/12/2018. Sau khi kết thúc Hợp đồng, Công ty C sẽ thực hiện việc ký hợp đồng trực tiếp với các Chủ tàu/ Đại lý tàu biển để thực hiện dịch vụ laỉ dắt tàu biển vào làm hàng tại Cảng Q. Ngay sau khi thông báo ‘'ngày 05/12/2018 chấm dứt hợp đồng” thì ngày 06/12/2018 Công ty C đã không thực hiện công việc lai dắt tàu thủy vào Cảng. Trước tình hình đó, để đảm bảo các hãng tàu, các tàu vào Cảng Q theo hợp đồng đã ký với Công ty Q thì Công ty Q đã phải thông báo cho các hàng tàu trực tiếp liên hệ với Công ty C để được hỗ trợ lai dắt ra vào Cảng, còn phía Công ty Q đồng ý để Công ty C được hưởng 100% cước phí lai dắt đó. Từ ngày 05/12/2018 đến ngày 25/12/2018 Công ty C đã thực hiện 21 lượt lai dắt do các hãng tàu liên hệ trực tiếp. Ngày 26/12/2018, Công ty Q đã ban hành Văn bản số 1040/CV-QNP gửi Công ty C về việc cam kết thực hiện thanh toán đủ 100% số tiền của 21 lượt lai dắt mà Công ty Q đã thu của các hãng tàu. Hiện nay, số tiền này đã được thanh toán, Công ty C đã xuất hóa đơn GTGT cho Công ty Q. Tuy nhiên, Công ty C lại cho rằng, ngày 01/12/2016, Bộ Giao thông Vận tải ban hành Quyết định số 3863/QĐ-BGTVT về việc ban hành biểu khung giá dịch vụ bốc dở Container và dịch vụ lai dắt tại cảng biển Việt Nam (Quyết định số 3863) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2017 nên Công ty Q phải tách đơn giá tàu nội, tàu ngoại để thanh toán cho Công ty C, Công ty C là đơn vị lai dắt nên được hưởng phí lai dắt theo quy định tại Quyết định số 3863. Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/4/2019 (được sửa đổi, bổ sung ngày 08/8/2019, ngày 21/8/2019, ngày 27/01/2021, ngày 20/01/2022) và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là Công ty C đê nghị Tòa án giải quyết: Yêu cầu Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng 274 ký ngày 12/10/2016; Yêu cầu Công ty Q phải thanh toán phí dịch vụ lai dắt tàu ngoại từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018, với số tiền là 24.438.303.936 đồng; Yêu cầu Công ty Q bồi thường thiệt hại vì không cho Công ty C thực hiện lai dắt trong 02 năm 2019 và 2020, với tổng số tiền là 41.865.421.192 đồng; Yêu cầu Công ty Q trả các khoản lãi theo quy định của pháp luật, do chậm thanh toán các khoản nợ, kể từ khi chậm trả cho đến khi bản án có hiệu lực. II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tính BĐ, tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ lai dắt tàu từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018 là 24.438.303.936 đồng (thuế giá trị gia tăng 0%). Công ty C có nghĩa vụ xuất hóa đơn cho Công ty Q sau khi Công ty C nhận được số tiền 24.438.303.936 đồng. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng. - Buộc Công ty Q phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong hai năm 2019 và 2020 với sổ tiền là 21.066.570.128 đồng. Tổng cộng Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C 49.895.622.064 đồng. Trả một lần ngay khi bản ản có hiệu lực pháp luật. 2. Buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274 đã ký kết với Công ty C vào ngày 12/10/2016. 3. Bác yêu cầu phản tố của Công ty Q đòi Công ty C phải hoàn trả số tiền chênh lệch cho Công ty Q là 1.388.422.570 đồng. 4. Đình chỉ xét xử đối với phần khởi kiện của Công ty C yêu cầu Công ty Q trả 1.133.250.000 đồng của Hợp đồng số 171/THO/2018/03.03 ngày 13/01/2018 giữa Công ty C với Công ty Q. 5. Đình chỉ xét xử đối với phần phản tố của Công ty Q yêu cầu Công ty C bồi thường thiệt hại từ việc Công ty C không hoàn trả vị trí neo tàu lai lại cho Công ty Q với số tiền là 1.226.826.810 đồng. Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo. Ngày 27/02/2022, bị đơn là Công ty Q có đơn kháng cáo; ngày 29/7/2022, nguyên đơn là Công ty C có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN, quyết định: - Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn. -Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn. Sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh BĐ về phần bồi thường thiệt hại và phần án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty C. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ lai dắt tàu từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018 là 24.438.303.936 đồng (thuế giá trị gia tăng 0%). Công ty C có nghĩa vụ xuât hóa đơn cho Công ty Q sau khi Công ty C nhận được số tiền 24.438.303.936 đồng. - Buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng. - Buộc Công ty Q phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong hai năm (năm 2019 và năm 2020) với số tiền là 24.651.366.128 đồng. Tong cộng Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C 53.480.418.064 đồng (năm mươi ba tỷ bổn trăm tám mươi triệu bốn trăm mười tám nghìn không trăm sáu mươi tư đồg). Trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. 2. Buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274 ngày 12/10/2016 đã ký kết với Công ty C. Ngoài ra, Tòa án còn tuyên về án phí và hiệu lực của bản án. Sau khi có Bản án kinh doanh, thưong mại phúc thẩm nêu trên, Công ty Q, có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 14/6/2023, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 02/QĐKNGĐT-VKS-KDTM kháng nghị đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 31/2022/KDTM-PT ngày 16/12/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN và Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2022/KDTM-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh BĐ; giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh BĐ xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2024/KDTM-GĐT ngày 10/01/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. III. NHŨNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM Thứ nhất, Tòa án hai cấp buộc Công ty Q phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C phí dịch vụ lai dắt tàu từ ngày 01/7/2017 đến hết ngày 05/12/2018 là 24.438.303.936 đồng (thuế giá trị gia tăng 0%). Công ty C có nghĩa vụ xuất hóa đơn cho Công ty Q sau khi Công ty C nhận được số tiền 24.438.303.936 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán là 4.390.748.000 đồng là không có căn cứ, bởi lẽ như sau: Theo hồ sơ vụ án và tài liệu mà Công ty Q cung cấp cho thấy Công tỵ Q có đăng ký kinh doanh ngành nghề lai dắt tàu biển. Do đó Công ty Q có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 và Điều 257 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2014 Công ty Q ký hợp đồng cung cấp dịch vụ lai dắt với các Hãng tàu, Đại lý hàng hải theo Biểu cước dịch vụ cảng biển do Công ty Q ban hành phù hợp với quy định về hợp đồng lai dắt tàu biển tại Điều 179 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 (nay là Điều 258 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015). Quyết định số 3863 của Bộ Giao thông vận tải là ban hành về biểu khung giá dịch vụ bốc dở Container và dịch vụ lai dắt tại Cảng biển Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 01/7/2017) nên Công ty Q được hưởng theo biểu khung giá dịch vụ lai dắt tại Quyết định số 3863 khi ký các hợp đồng cung cấp dịch vụ lai dắt với các Hãng tàu, Đại lý hàng hải. Hợp đồng kinh tế số 274/CUULONG/2016/01.02 ngày 12/10/2016 và 04 Phụ lục hợp đồng (Phụ lục số 01 ngày 01/01/2017; số 02 ngày 01/7/2017; số 03 ngày 23/4/2018; số 04 ngày 07/5/2018) giữa Công ty C và Công ty Q về việc “Thuê tàu lai vào khai thác tại cảng Q ” là thuê tàu lai dắt, không phải là dịch vụ lai dắt nên đơn giá do hai bên thỏa thuận. Hai bên không có phụ lục điều chỉnh đơn giá lai dắt tàu nội, tàu ngoại cũng như không có thỏa thuận Công ty Q phải thanh toán cho Công ty C toàn bộ 100% tiền thu của khách hàng. Công ty C là bên chủ động chấm dứt Hợp đồng 274 bàng việc ban hành Văn bản số 72/CV-CL ngày 04/12/2018 thông báo sẽ kết thúc thực hiện Hợp đồng 274 với Công ty Q vào ngày 05/12/2018. Sau ngày 05/12/2018, thực hiện chỉ đạo của Cảng vụ Hàng hải QN, để đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải thông suốt lưu thông hàng hóa, nên ngày 07/12/2018 Công ty Q ban hành Văn bản số 963/QNP-KD thông báo cho các Hãng tàu liên lạc trực tiếp với Công ty C để được hỗ trợ lai dắt và Công ty Q buộc phải chấp nhận để Công ty C hưởng trọn 100% tiền thu của các tàu khách hàng từ ngày 05/12/2018 đến ngày 25/12/2018 đối với 21 lượt lai dắt là giải pháp tình thế chứ không phải Công ty Q chấp nhận việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Như vậy, Công ty Q có kinh doanh nghành nghề lai dắt tàu biển, trực tiếp ký hợp đồng cung cấp dịch vụ lai dắt với các Hãng tàu, Đại lý hàng hải sau đó ký Hợp đồng 274 với Công ty C nên Công ty C không phải là đối tượng được áp dụng giá dịch vụ lai dắt theo Quyết định 3863 mà chỉ được hưởng đơn giá theo giá hai bên thỏa thuận tại Hợp đồng 274. Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm nhận định Công ty Q là doanh nghiệp không đủ điều kiện, chức năng để thực hiện dịch vụ lai dăt tàu biên; Công ty C là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lai dắt tàu, nên Công ty C được thu phí lai dắt tàu theo khung giá dịch vụ lai dắt tàu của Quyêt định sô 3863, còn Công ty Q không phải là doanh nghiệp cung cấp địch vụ lai dắt tàu, nên Công ty Q không phải là đối tượng được hưởng số tiền thu phí lai dắt theo Quyết định số 3863; từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty C, buộc Công ty Q phải thanh toán phí dịch vụ lai dắt (từ ngày 01/7/2017 đến ngày 05/12/2018) theo Quyết định số 3863 với số tiền 24.438.303.936 đồng (76.318.155.736 đồng - 51.879.851.800 đồng) và tiền lãi của số tiền này là nhầm lẫn khái niệm thuê tàu lai dắt và khái niệm làm dịch vụ lai dắt, không đúng thỏa thuận của hai bên và áp dụng sai pháp luật gây thiệt hại của Công ty Q. Thứ hai, Tòa án cấp cấp phúc thẩm buộc Công ty Q phải bồi thường thiệt hại cho Công ty C trong 02 năm (năm 2019 và năm 2020) với số tiền là 24.651.366.128 đồng và buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng kinh tế số 274 ngày 12/10/2016 đã ký kết với Công ty C cũng là không đúng, bởi lẽ sau: Do Công ty C đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng từ ngày 05/12/2018 nên Hợp đồng 274 chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 311 Luật Thương mại năm 2005; việc thực hiện 21 lượt lai dắt từ ngày 05/12/2018 đến ngày 25/12/2018, Công ty Q thu của các Hãng tàu, Đại lý hàng hải bao nhiêu thì trả cho Công ty C bấy nhiêu chỉ là giải pháp tình thế, không phải là việc đồng ý tiếp tục thực hiện Hợp đồng 274 vì đơn giá Hợp đồng 274 là do hai bên tự nguyện thỏa thuận; Công ty Q không có lỗi trong việc thanh toán, không vi phạm Hợp đồng 274 nên không gây thiệt hại cho Công ty C; việc Công ty Q cung cấp điện, nước cho tàu của Công ty C theo Hợp đồng 274 không phải là hợp đồng song vụ mà là việc tàu sử dụng điện, nước thì phải trả tiền. Tòa án hai cấp buộc Công ty Q phải bồi thường cho Công ty C thiệt hại phát sinh trong 02 năm 2019 và 2020 và buộc Công ty Q tiếp tục thực hiện Hợp đồng 274 là không có căn cứ, gây thiệt hại cho Công ty Q.
Rút kinh nghiệm về định tội danh trong vụ án giết người và cố ý gây thương tích
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án Đặng Anh Việc (cùng các đồng phạm) bị xét xử về các tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thông báo để các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phó nghiên cứu, rút kinh nghiệm như sau: I. Tóm tắt nội dung vụ án Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc mua bán điện thoại giữa Trịnh Nhật Tân và Đặng Anh Tú, nên khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/6/2021 Trịnh Nhật Tân cùng với Phạm Hữu Nghĩa đến nhà Trần Anh Tuấn (là anh ruột của Tú) để tìm gặp Tú. Khi gặp nhau hai bên đã xảy ra xô xát, cãi vã và thách thức đánh nhau. Nghe tiếng ồn ào Đặng Anh Việc (là em ruột của Tú ở nhà sát bên) liền chạy ra phía trước nhà của Tuấn đến gần chỗ Tân và nói “Do cái điện thoại của mày mà sinh chuyện”, đồng thời Việc dùng tay đấm trúng vào mặt của Tân. Thấy vậy, Nghĩa cầm 01 con dao Thái Lan xông đến định đâm Việc thì Việc liền sử dụng 01 thanh kiếm (cán màu đen dài 20cm, lưỡi kim loại dài 80cm) giơ lên cao và la lớn “Giết chết mẹ nó luôn”. Tuấn liền cầm 01 khúc cây gỗ dài 1,3m chạy ra đánh 01 cái trúng vào người của Nghĩa thì Nghĩa bỏ chạy. Tuấn cầm khúc cây cùng với Tú cầm 01 thanh kiếm tiếp tục truy đuổi theo Nghĩa. Trong khi Nghĩa đang bỏ chạy Tuấn ném khúc cây về phía Nghĩa nhưng không trúng. Nghĩa chạy đến bãi đất trống gần trường mẫu giáo An Hoà thì bị vấp ngã. Tuấn và Tú đuổi kịp dùng tay, chân đánh nhiều cái vào người của Nghĩa làm Nghĩa bất tỉnh. Sau đó Tuấn và Tú kéo Nghĩa ra đặt gần đường bê tông. Lúc sau người nhà của Nghĩa đến đề nghị được đưa Nghĩa đi cấp cứu nhưng Việc, Tuấn, Tú ngăn cản và yêu cầu chờ Công an đến giải quyết. Khi Công an xã Ân Phong đến thì Nghĩa mới được người nhà đưa đi cấp cứu. Kết quả giám định Nghĩa bị tổn hại 17% sức khoẻ. Cùng thời điểm này Tân gọi điện cho Trần Văn Bình kể lại việc Nghĩa bị đánh. Bình đang ngồi nhậu với Lê Tiến Sỹ và Đỗ Minh Thẩm nên rủ Sỹ, Thẩm đi cùng thì Sỹ, Thẩm đồng ý. Sau đó Sỹ điều khiển xe mô tô chở Thẩm, Bình về nhà Sỹ lấy 02 cây phảng phát bờ, rồi cùng nhau đến nhà Tuấn. Khi Sỹ, Thẩm, Bình đến nơi là khoảng 22 giờ 30 phút lúc này Công an xã đang lập biên bản tại hiên nhà của Tuấn. Sỹ đến đứng trước nhà của Việc (sát nhà Tuấn) nói lớn “Tao là chó Sỹ nè, đứa nào ăn được thì ăn”. Bình, Thẩm cũng la lớn tiếng đòi sang bằng nhà này. Tiếp đó, Bình cầm theo 01 cây phảng đi vào sân nhà Việc để đánh Việc, thấy vậy Việc đi lùi lại thì bị vấp ngã ngồi bệt xuống sân. Bình cầm cây Phảng đâm 01 nhát vào đầu gối chân trái của Việc (gây thương tích 2%). Việc nhào người lên giằng co cây phảng trên tay Bình và dùng tay đấm 02 cái trúng mặt Bình làm Bình gục ngã xuống đất. Việc đoạt được cây phảng trên tay Bình thì tiếp tục dùng cây Phảng đánh 02 cái vào người Bình. Sau khi đánh Bình thì Việc nhìn thấy Sỹ đang đứng trước cổng nhà của Việc cầm 01 cây phảng la lớn “Gọi mấy thằng thị trấn vô chém chết mẹ nó”. Nghe vậy Việc cầm cây phảng (mới giật được của Bình) chạy ra chém ngang 01 phát trúng tay trái của Sỹ, Sỹ bỏ chạy được khoảng 03 mét thi bị ngã nằm nghiêng bên đường, hai chân co lại, hai tay ôm đầu. Việc đến cầm phảng bằng hai tay giơ lên chém mạnh xuống trúng vào gối cẳng chân phải làm chẻ đôi từ bờ ngoài xương chày đến đoạn 1/3 giữa cẳng chân phải, gây đứt hoàn toàn bó mạch thần kinh kheo, được đưa đi cấp cứu đến 7 giờ 30 phút ngày 26/6/2021 thì Sỹ chết. Trước đó, trong lúc Việc đuổi đánh Sỹ thì Tú lấy 01 cây gỗ dài 120cm, đường kính 3,5cm chạy đến đánh nhiều cái vào người của Bình (đang nằm bất tình tại sân nhà Việc). Kết quả giám định Bình tổn hại 20% sức khoẻ. - Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2023/HSST, ngày 14/6/2023 của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh B; tuyên bố: Bị cáo Đặng Anh Việc phạm tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích các bị cáo Đặng Anh Tú, Đặng Anh Tuấn phạm tội “Cố ý gây thương tích”. + Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b khoản 2, Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Việc 09 năm tù về tội “Giết người” và 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, Buộc chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 12 năm tù. + Áp dụng điểm b,d khoản 2 Điều 134; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tú 04 năm tù. + Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Anh Tuấn 02 năm tù. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo. Bản án sơ thẩm nêu trên đã bị VKSND cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp nhận toàn bộ nội dung kháng nghị về các vi phạm của bản án sơ thẩm đã được kháng nghị nêu ra và tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. II. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm 1. Đối với bị cáo Đặng Anh Việc: Thông qua hành động cầm cây kiếm giơ lên cao và hô to “Giết chết mẹ luôn” thể hiện bị cáo Việc chính là người khởi xướng để Tuấn và Tú “dùng hung khí nguy hiểm” đánh gây thương tích 17% cho Nghĩa. Ngay sau khi nghe Việc hô thì Tuấn liền sử dụng cây gỗ dài 1,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Bị đánh nên Nghĩa bỏ chạy thì Tuấn cầm cây và Tú cầm kiếm tiếp tục rượt đuối, đánh Nghĩa. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” khi xử lý hành vi phạm tội của Tuấn theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Với vai trò là người chủ mưu, khởi xướng thì bị cáo Việc cũng phải cùng bị xem xét áp dụng tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” như đã áp dụng để xử lý đối với bị cáo Tuấn. Trong khi gây thương tích cho bị hại Bình thì bị cáo Việc cũng đã trực tiếp “dùng hung khí nguy hiểm” là cây phảng đánh 02 cái vào người của bị hại Bình. Tổng thương tích gây ra cho Bình là 20%. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo điểm b khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt của tội “cố ý gây thương tích” bị cáo đã thực hiện. Vì hành vi trên của bị cáo Việc đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS đó là: “d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thế của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” (dẫn chiếu điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS là “dùng hung khí nguy hiểm”). Trường hợp truy cứu bị cáo Việc về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS (là tội rất nghiêm trọng) thì đồng thời phải truy cứu TNHS với bị cáo Việc về tội “Giết người” theo điểm e khoản 1 Điều 123 BLHS đó là “e) Giết người mà liền trước đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng”, cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Việc theo khoản 2 Điều 123 BLHS là không đúng khung hình phạt đối với tội “Giết người” 2. Đối với bị cáo Đặng Anh Tú: Bị cáo Tú trực tiếp chứng kiến bị cáo Việc cầm cây kiếm giơ lên cao và nghe Việc hô to “Giết chết mẹ nó luôn”, đồng thời chứng kiến bị cáo Tuấn cầm cây gỗ dài l,3m đánh trúng vào người của Nghĩa. Liền sau đó bị cáo Tú đã tiếp nhận ý chí của Việc và Tuấn, cầm kiếm đuổi theo cùng với Tuấn đánh Nghĩa gây thương tích 17%, đồng thời Tú còn sử dụng cây gỗ dài 120cm có đường kính 3,5cm đánh nhiều cái vào người của Bình trong khi Bình đã bị Việc đánh đang nằm bất tỉnh (hậu quả Bình bị tổn thương 20% sức khoẻ). Hành vi của bị cáo Tú đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 BLHS. Cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Tú theo khoản 2 Điều 134 BLHS là không đúng khung hình phạt bị cáo Tú đã thực hiện. 3. Đối với hành vi của các đối tượng Trịnh Nhật Tân, Phạm Hữu Nghĩa, Trần Văn Bình, Đỗ Minh Thẩm: Các đối tượng Tân và Nghĩa đã chủ động đến nhà của Tú gây sự, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến vụ án làm 01 người chết và 02 người bị thương trong khoảng thời gian dài từ 21 giờ 30 đến hơn 22 giờ 30 phút tại khu vực đông dân cư, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Khi nhóm của mình bị đánh và bị yếu thế Tân tiếp tục gọi cho Bình, thì Bình rủ Thẩm, Sỹ cùng đi và được Thẩm, Sỹ đồng ý. Khi đến nơi Sỹ, Bình và Thẩm cùng la lối to tiếng đòi san bằng nhà của Việc, đồng thời Bình cầm cây Phảng đánh Việc nên bị Việc đánh lại làm cho Sỹ bị chết, Bình bị thương. Hành vi của nhóm: Tân, Nghĩa, Bình, Thẩm đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cấp sơ thẩm không truy cứu trách nhiệm hình sự với các đối tượng trên là bỏ lọt tội phạm.
Rút kinh nghiệm về khiếu kiện hành chính trong bồi thường thu hồi đất
I. NỘI DUNG VỤ ÁN Ngày 31/8/2018, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 5596/QĐ-UBND về việc thu hồi toàn bộ 1.059,1 m2 đất nông nghiệp của hộ ông Bùi Đình T (thửa đất số 11, tờ bản đồ số 56, phường E, thành phố B) để thực hiện Dự án: Xây dựng cơ sở hạ tầng khu đất Trường Hành chính (cũ), phường E, thành phố B. Cùng ngày, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 5623/QĐ-UBND v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (viết tắt là Quyết định số 5623). Theo đó, UBND thành phố B xác định diện tích đất bị thu hồi của hộ gia đình ông T không đủ điều kiện bồi thường. Không đồng ý với phương án bồi thường trên, ông Bùi Đình T khiếu nại. Ngày 09/03/2022, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 1476/QĐ-UBND v/v phê duyệt phương án bổ sung bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông T 80% giá trị đất (viết tắt là Quyết định số 1476). Ông T cho rằng toàn bộ diện tích đất bị thu hồi có nguồn gốc do gia đình ông T khai hoang và sử dụng ổn định từ năm 1980 nên UBND thành phố B xác định không đủ điều kiện bồi thường và chỉ hỗ trợ 80% là không thoả đáng. Ông T tiếp tục khiếu nại Quyết định số 1476. Tuy nhiên, UBND thành phố B chưa giải quyết khiếu nại đã tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. Do đó, ông T khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh K giải quyết: Hủy một phần Quyết định số 5623; một phần Quyết định số 1476 của UBND thành phố B đối với phần phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình ông T; buộc UBND thành phố B ban hành lại quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ theo hướng bồi thường 100% giá trị đất cho gia đình ông. II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 71/2023/HC-ST ngày 23/5/2023, Tòa án nhân dân tỉnh K quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Đình T. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Bùi Đình T kháng cáo. Tại Bản án hành Chính phúc thẩm số 348/2023/HC-PT ngày 20/9/2023 quyết định tuyên xử: “Hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 71/2023/HC-ST ngày 23/5/2023, Tòa án nhân dân tỉnh K về việc ‘‘Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Giao hồ sơ cho TAND tỉnh K giải quyết lại theo quy định của pháp luật”. III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM 1. Vi phạm về tố tụng trong quả trình giải quyết vụ án - Toàn bộ tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp đều là bản photo không có công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 1 Điều 82 Luật TTHC năm 2015. - Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định tại khoản 5 Điều 61 Luật TTHC năm 2015. - Theo lời trình bày của người bị kiện thì UBND tỉnh K là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất của Trường Chính trị và giao cho UBND thành phố B quản lý nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa UBND tỉnh K vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót trong việc xác định người tham gia tố tụng trong vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ án. 2. Vi phạm về việc thu thập tài liệu, đảnh giá chứng cứ dẫn đến giải quyết vụ án chưa thực sự khách quan, làm ảnh hưởng quyền và lợi chính đáng của người khởi kiện Về nguồn gốc đất: Người bị kiện cho rằng do năm 1984 Trường Hành chính tỉnh K lập hợp đồng kinh tế về việc liên kết trồng cây cà phê với ông Bùi Đình T. Ngày 01/02/1999, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 228/QĐ-ƯB (viết tắt Quyết định 228) thu hồi 48.720m2 đất của Trường Chính trị tỉnh K và giao 30.680m2 cho UBND thành phố B quản lý để thu thuế nông nghiệp của các hộ đang canh tác trong khu đất theo quy định, trong đó có diện tích thửa đất của ông T. Thế nhưng UBND thành phố B không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh Trường Hành chính (cũ) ký hợp đồng kinh tế liên kết trồng cà phê với hộ ông Bùi Đình T. Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ cơ quan giao đất cho Trường Hành chính (cũ) là cơ quan nào và chưa thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh có hay không việc Trường Hành chính cũ ký hợp đồng liên kết trồng cà phê với hộ ông T để làm rõ nguồn gốc sử dụng đất và xác định căn cứ bồi thường cho hộ ông T nhưng tuyên bác yêu cầu khởi kiện của ông T là không đúng quy định tại Điều 95 Luật TTHC năm 2015 về đánh giá chứng cứ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 thì: “Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật này”. Tuy nhiên, HĐXX sơ thẩm không thu thập chứng cứ thể hiện các căn cứ để xác định hộ ông Bùi Đình T là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 3 của Thông tư 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường để xem xét xác định việc bồi thường theo khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 nêu trên.
Khiếu kiện hành chính vụ BHXH tỉnh chấm dứt hưởng chế độ hưu trí sai quy định
Ngày 18/7/2023 VKSND cấp cao Đà Nẵng đã có Thông báo 49/TB-VKS-HC năm 2023 tải rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực BHXH ” giữa người khởi kiện là ông T.V Đôn và người bị kiện là BHXH tỉnh Đ của TAND tỉnh Đ tại Bản án hành chính sơ thẩm 113/2022/HC-ST ngày 22/9/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: 1. Tóm tắt nội dung vụ án hành chính (1) Thời gian làm việc và đóng BHXH của ông Đôn Ông T.V Đôn có thời gian công tác trong quân đội là 05 năm 9 tháng. Năm 1995, ông nhận khoán đất chăm sóc cây lâu năm cho nông trường cà phê 720. Năm 2003, ông Đôn ký lại hợp đồng lao động nhận khoán trong hợp đồng có xác định tôi tham gia BHXH mức đóng công nhận bậc 1, hệ số 1,35. Ông không nhận tiền lương mà chỉ hưởng sản lượng cà phê còn dư sau khi nộp sản lượng cho Công ty và nộp tiền đóng BHXH theo mức đóng sản lượng cho Công ty cà phê 720. Sau khi ký hợp đồng DW: 10.312 ông Đôn làm đơn đóng bảo hiểm bổ sung thời gian từ năm 1995 - 2002 và được Công ty cà phê 720, BHXH tỉnh Đ đồng ý, Công ty cà phê 720 đã lập danh sách điều chỉnh tăng giảm mức nộp BHXH và nộp số tiền trên cho BHXH tỉnh. (2) Quá trình hưởng hưu trí theo quy định BHXH Năm 2012, ông đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định BHXH tỉnh Đ căn cứ vào hồ sơ thu bảo hiểm đã xác nhận thời gian ông đóng BHXH là 23 năm 9 tháng, cấp sổ BHXH và giải quyết chế độ hưu trí theo Quyết định số 1717/QĐ-BHXH ngày 26/12/2012. Năm 2020, BHXH tỉnh Đ thanh tra, kết luận việc ông đóng BHXH từ năm 1995 - 2002 là không đúng quy định. Ngày 20/5/2021, BHXH tỉnh Đ đã ban hành Quyết định chấm dứt hưởng chế độ hưu trí số 558/QĐ-BHXH đối với ông và yêu cầu truy thu lại số tiền ông đã hưởng trong thời gian qua. (3) Ông Đôn khiếu nại quyết định ngừng chế độ hưu trí Sau khi nhận Quyết định số 558/QĐ-BHXH, ông Đôn đã làm đơn khiếu nại nhưng không được BHXH tỉnh Đ chấp nhận. Cho rằng quyền lợi bị xâm phạm, ông T.Đ Đôn khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh Đ tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 của BHXH tỉnh Đ về việc chấm dứt hưởng chế độ hưu trí của ông Đôn. Buộc BHXH tỉnh Đ tiếp tục chi trả tiền lương hưu cho ông T.V Đôn theo Quyết định số 1717/QĐ-BHXH ngày 26/12/2012 của BHXH tỉnh Đ và chi trả lại toàn bộ sổ tiền lương hưu bị chấm dứt từ tháng 7/2021 đến nay. Người bị kiện BHXH tỉnh Đ cho rằng: Căn cứ theo quy định tại Quyết định số 722/2003/QĐ-BHXH-BT ngày 26/5/2006 của BHXH Việt Nam, ngày 27/11/2020 BHXH tỉnh Đ đã ban hành Kết luận số 2532/KL-BHXH về kiểm tra chuyên đề truy thu cộng nối thời gian tham gia BHXH tại Công ty TNHH MTV Cà phê 720, theo đó BHXH tỉnh Đ sẽ điều chỉnh giảm thời gian truy BHXH từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002 không đúng và hoàn trả sổ tiền đã nộp của ông T.V Đôn theo quy định. Thực hiện Kết luận số 2532/KL-BHXH ngày 27/11/2020 của BHXH tỉnh Đ, sau khi điều chỉnh giảm thời gian truy thu BHXH không đúng từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002. Thì thời gian công tác và tham gia BHXH của ông T.V Đôn chỉ còn 15 năm 9 tháng, không đủ điều kiện để hưởng lương hưu nên cơ quan BHXH tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 về chấm dứt hưởng lương hưu và thu hồi lương hưu đối với ông T.V Đôn kể từ ngày 01/7/2021. Việc điều chỉnh giảm thời gian truy đóng BHXH không đúng và ban hành Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 về chấm dứt hưởng lương hưu và thu hồi lương hưu đối với ông T.V Đôn đã được BHXH tỉnh Đ thực hiện đúng theo quy định pháp luật. 2. Quá trình giải quyết tại tòa án Bản án hành chính sơ thẩm số 113/2022/HC-ST ngày 22/9/2022 của TAND tỉnh Đ quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Tạ Văn Đôn. Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 92/2023/HC-PT ngày 31/3/2023, TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng cáo của ông T.V Đôn, sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.V Đôn. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ bản án sơ thẩm hành chính * Tính chất của hợp đồng khoán vẫn được xem là hợp đồng lao động Ông T.V Đôn ký Hợp đồng khoán đất ngày 10/9/1996 để nhận khoán chăm sóc cà phê của Nông trường cà phê 720. Ngày 06/01/2003, ông ký Hợp đồng lao động: 10.312 có xác định ông tham gia BHXH, mức đóng công nhận bậc 1, hệ số 1,35. Mặc dù Hợp đồng khoán đất chăm sóc cây lâu năm ngày 10/9/1996 nêu trên không có tên gọi là hợp đồng lao động nhưng về bản chất vẫn là quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động, có sự ràng buộc trách nhiệm giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm, có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của các bên. Được quy định theo quy định tại Nghị định số 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ quy định về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp Nhà nước , phù hợp quy định tại Điều 26 Bộ luật Lao động 1994 (nay là Điều 13 Bộ luật Lao động 2019). * Việc đóng BHXH bổ sung được xem là đúng quy định pháp luật Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị định số 01/CP, nghĩa vụ tham gia BHXH khi thực hiện phương án khoán đất và vườn cây thuộc về Nông trường cà phê 720. Tuy nhiên tại thời điểm này chưa có hướng dẫn cụ thể nên Nông trường cà phê 720 đã không thực hiện, còn người lao động không biết dẫn đến việc không đóng BHXH từ năm 1995 (thời điểm ban hành Nghị định). Do đó, khi có hướng dẫn, ông Đôn đã có đơn xin đóng bổ sung BHXH đối với thời gian chưa đóng từ năm 1995 và được Nông trường 720 cũng như BHXH tỉnh Đ đồng ý; ông Đôn đã nộp đủ số tiền. Việc BHXH tỉnh Đ cho rằng việc truy thu, cộng nối BHXH của ông Đôn không đúng nên đã ban hành Quyết định số 558/QĐ-BHXH ngày 20/5/2021 để chấm dứt hưởng chế độ hưu trí của ông Đôn, không giải quyết chế độ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. TAND tỉnh Đ đã áp dụng không đúng pháp luật, chưa đánh giá khách quan, toàn diện về những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, dẫn đến tuyên bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.V Đôn là không đúng gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông Đôn, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Chi tiết Thông báo 49/TB-VKS-HC năm 2023 tải tại đây.
Rút kinh nghiệm việc ban hành cáo trạng sai quy định về hình thức và nội dung
Ngày 27/6/2023, VKSNDTC đã có Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 đây về việc rút kinh nghiệm trong việc xây dựng Cáo trạng. Cụ thể, qua công tác nghiên cứu Cáo trạng do VKSND các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương chuyển đến, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC tổng hợp nhận thấy một số bản Cáo trạng ban hành chưa thực hiện đúng theo hướng dẫn về hình thức và có những nội dung cần thông báo rút kinh nghiệm. Cụ thể: (1) Rút kinh nghiệm về ban hành hình thức Cáo trạng Một số bản Cáo trạng của VKSND các tỉnh, Thành phố ghi, không ghi hoặc ghi không đúng hướng dẫn tại Mẫu số 144/HS ngày 09/01/2018 ban hành kèm theo Quyết định 15/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng VKSNDTC. Ngoài ra, một số bản Cáo trạng còn có lỗi chính tả và chưa đúng phông chữ theo quy định: - Tại phần căn cứ: + Ghi tắt nhiều cụm từ: “CQĐT” và “BLHS”. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ). + Không ghi tội danh, khoản, Điều luật của Quyết định khởi tố vụ án hình sự. (Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB, Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB, Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ) hoặc ghi thiếu khoản của Điều luật (Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 và Cáo trạng số 40/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh BĐ). - Tại phần kết luận: + Ghi các nội dung: “Từ những tình tiết, chủng cứ nêu trên có đủ cơ sở để kết luận các bị can có lý lịch dưới đây phạm tội”, “Vì các lẽ trên ” hoặc không ghi nội dung “Căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên, ”... - Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh NĐ. - Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh HB. - Cáo trạng các số 45,50,51/CT-VKS ngày 12,27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. - Cáo trạng các số 21,22/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh YB. - Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh ĐB. - Cáo trạng các số 121,125,129,139/CT-VKS ngày 06,11,17/04/2023 của VKSND Thành phố HN. - Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh BG. - Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh TB. - Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. - Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ ... + Không ghi rõ thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn (Cáo Trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh Lâm Đồng). + Không ghi điểm, khoản, Điều nào của Bộ luật Hình sự 2015 về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (Cáo Trạng 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ). + Ghi nội dung kết quả thu giữ vật chứng tại phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS). - Tại phần quyết định: + Ghi các nội dung: “Truy tố các bị can có lý lịch và hành vi phạm tội nêu trên ra trước Tòa án nhân dân tỉnh...đê xét xử" hoặc không ghi "Bảng kê vật chứng" (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Hòa Bình, Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 11/05/2023 của VKSND tỉnh Lào Cai, Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Sơn La, Cáo trạng số 41/CT- VKS ngày 21/04/2023 của VKSND tỉnh Điện Biên, Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 25/04/2023 của VKSND tỉnh Yên Bái, Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh Quảng Ninh, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 18/04/2023 của VKSND tỉnh Thái Nguyên, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh Bình Định). + Ghi nội dung xử lý vật chứng (Cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 31/05/2023 của VKSND tỉnh Vĩnh Phúc). - Nơi nhận: Ghi không đúng thứ tự hoặc không ghi Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hoặc không ghi Luật sư bào chừa. (Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh Nam Định, Cáo trạng số 129,139/CT-VKS ngày 11,17/04/2023 của VKSND Thành phố Hà Nội...). (2) Rút kinh nghiệm về nội dung Cáo trạng - Trích dẫn không đầy đủ các chất ma túy quy định tại điểm, khoản của Điều luật: “c) ...MDMA...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam... ". + Cáo trạng số 50,51/CT-VKS ngày 27/04/2023 của VKSND tỉnh QN. + Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 04/05/2023 của VKSND tỉnh LC. Hoặc không trích dẫn tên Điều luật hoặc không trích đúng quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 22/05/2023 của VKSND tỉnh LĐ, Cáo trạng số 48/CT- VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh KH, Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 27/03/2023 của VKSND tỉnh BĐ). Cần ghi đầy đủ các chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và trích dẫn đầy đủ tên Điều luật để phổ biến, tuyên truyền giáo dục chung. - Xác định khối lượng chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự: Phần kết luận (Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/04/2023 của VKSND tỉnh LS) ghi nội dung: “ ...bản trái phép 06 bánh Heroine...có khối lượng từ 1.920 gam đến 2.280 gam ”. Cần xác định cụ thể khối lượng chất ma túy đề đảm bảo căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các bị can theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015. Những bản Cáo trạng của các Viện kiểm sát tỉnh, Thành phố nêu trên còn tồn tại một số nội dung khi ban hành, dẫn tới phải đính chính bản Cáo trạng hoặc bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đây là văn bản pháp lý quan trọng trong giai đoạn truy tố đòi hỏi phải bảo đảm sự thận trọng, chính xác, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Trên đây là tổng hợp những tồn tại khi ban hành bản Cáo trạng VKSND địa phương, Vụ Thực hành quyền công tố điều tra án ma túy (Vụ 4) VKSNDTC thông báo, kiểm sát nhân dân các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương biết rút chung trong quá trình Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều 1 hình sự nói chung và vụ án ma túy nói riêng theo đúng quy định của pháp luật. Xem thêm Thông báo 135/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Rút kinh nghiệm về việc khiếu kiện UBND cấp GCNQSDĐ không đúng đối tượng
Ngày 13/6/2023 VKSND Tối cao đã có Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây rút kinh nghiệm về kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSNDTC nhận thấy việc giải quyết vụ án hành chính về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai "giữa người khởi kiện và người bị kiện là Chủ tịch UBND huyện B, tỉnh Đ của TAND cấp cao tại ĐN tại Bản án hành chính phúc thẩm 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. 1. Tóm tắt nội dung vụ án Gia đình ông Phạm Văn T2 và bà Trần Thị B trú tại tỉnh H có các người con gồm các ông, bà Phạm Văn L, Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và ông Phạm Văn H2 (ông L và ông H2 đã chết). Năm 1980 ông T2, bà B cùng gia đình chuyển vào sinh sống lại thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đ, khai hoang và nhận chuyển nhượng của người dân được 6.160 m2 đất bao gồm các thửa đất số 360, 361, 355a, 359, 378a liền kề nhau thuộc tờ bản đồ số 37 thuộc xã E, huyện B để trồng cà phê, tiêu, lúa và liên tục sử dụng từ năm 1980 đến năm 1999. Năm 1997, ông Phạm Văn L đã kê khai đứng tên toàn bộ diện tích đất nêu trên của ông T2, bà B. Năm 1998, bà B chết; năm 1999, ông T2 chết không để lại di chúc. Khi biết đất của ông T2, bà B đã được UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho hộ ông Phạm Văn L nên ngày 21/10/2014 và ngày 18, 25/7/2016, ông Phạm Văn C đại diện cho các con, cháu của ông T2, bà B có đơn khiếu nại về việc UBND huyện B, tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ trái pháp luật. Đề nghị UBND huyện B thu hồi 02 GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 cấp ngày 30/11/2005 cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V do cấp không đúng đối tượng sử dụng đất, không đủ điều kiện được cấp. Ngày 08/9/2017, Chủ tịch UBND huyện B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND: + Bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C. + Giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ do UBND huyện B cấp ngày 31/5/2005 cho chủ sử dụng đất hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V, trú tại thôn H, xã E cụ thể: GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662. + Hộ gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn. hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ đảm bảo theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật hiện hành. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên, ngày 15/9/2017 đại diện của con, cháu ông T2, bà B đà nộp đơn khởi kiện đề nghị TAND tỉnh Đ hủy quyết định giải quyết khiếu nại số 4524/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện B và trả lại quyền sử dụng đất của ông T2, bà B cho những người thừa kế hợp pháp. 2. Quá trình khởi kiện ra Tòa án (1) Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Đ Không chấp nhận đơn khởi kiện của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q. Phạm Thị H1 và Phạm Văn P về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4524/QĐ-UBND ngày 08/9/2017 của UBND huyện B về việc giải quyết khiếu nại của ông Phạm Văn c trú tại Buôn N, xã E, huyện B, tỉnh Đ. Ngày 28/5/2018, những người khởi kiện có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. (2) Bản án Hành chính phúc thẩm TAND cấp cao tại ĐN Bác kháng cáo của người khởi kiện là các ông, bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn P, Phạm Văn T1 và giữ nguyên bản án sơ thẩm. - Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 07/11/2018 ông Phạm Văn C đại diện cho những người khởi kiện có đơn đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thấm nêu trên. - Ngày 01/10/2021, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TAND cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. (3) Giám đốc thẩm của TAND tối cao Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN và Ban án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. 3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - UBND huyện B, tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AC 975854, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411361 H, thửa đất số 361 tờ bản đồ số 37; GCNQSDĐ số AC 975661, số vào sổ cấp GCNQSDĐ 411360 H, thửa đất số 387a, tờ bản đồ số 37 cho hộ gia đình ông L, bà V dựa trên trích Biên bản họp gia đình ngày 09/10/1999 là không đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003, quy định về giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất. - Để giải quyết đơn khiếu nại của ông Phạm Văn C UBND huyện B đã quyết định thành lập Đoàn xác minh số 4182; ngày 09/3/2017, Đoàn xác minh số 4182 ban hành Báo cáo số 06/BC-ĐXM về Kết quả kiểm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn C trú tại Buôn N, xã E, huyện B đã kết luận: "Việc ông Phạm Văn C cho rằng UBND huyện B cấp GCNQSDĐ cho ông L, bà V (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) trong khi ông L, bà V không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ là đúng. UBND huyện B cấp GCNQSDĐ (thửa đất số 361, 387a tờ bản đồ số 37) cho ông L, bà V là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của bà H1 (người không ký trong trích Biên bàn ngày 09/10/1990) và bà (là người bị giả mạo chữ ký trong trích Biên bản) theo quy định của pháp luật. Báo cáo số 06 của Đoàn xác minh kiến nghị: UBND huyện B chấp nhận một phần nội dung khiếu nại của ông C. Giao cho phòng Tài nguyên và trường huyện tham mưu cho UBND huyện tiến hành làm thủ tục thu hồi: GCNQSDĐ được UBND huyện B cấp ngày 30/11/2005 cho ông L, bà V (thửa đất số 361,387a tờ bản đồ số 37) đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Quyết định giải quyết khiếu nại số 4524 của Chủ tịch UBND huyện B bác bỏ toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Phạm Văn c là không đúng như đã phân tích ở trên. Bên cạnh đó Quyết định số 4524 còn giao cho phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện B tiến hành làm thủ tục thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý các GCNQSDĐ số AC 975854, AC 975661 và số AC 975662 cấp ngày 31/5/2005 đã cấp cho hộ gia đình ông Phạm Văn L và bà Trần Thị V nhưng lại hướng dẫn gia đình bà Trần Thị V liên hệ với UBND xã E để được hướng dẫn, hoàn thiện hồ sơ thủ tục đăng ký cấp lại GCNQSDĐ là không phù hợp. Và mâu thuẫn với nội dung Báo cáo số 06/BC-ĐXM ngày 09/3/2017 của Đoàn xác minh số 4182 sau khi đã xác minh thực tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các ông, bà Phạm Văn C, Phạm Văn T1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, Phạm Thị H1 và Phạm Văn P. -Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST của Tòa án nhân dân Tỉnh Đ và Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT của TAND cấp cao tại ĐN, tuyên xử: Không chấp nhận đơn khởi kiện và bác kháng cáo của ông Phạm Văn C (đại diện cho những người khởi kiện) là không phù hợp với những tình tiết, tài liệu, chứng cứ khách quan của vụ án, áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án không đúng quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 và Luật Đất đai năm 2003. - Quyết định giám đốc thẩm số 10/2022/HC-GĐT ngày 25/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/QĐ-VKSHC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSNDTC; hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 146/2018/HC-PT ngày 04/10/2018 của TTAND Cấp cao tại ĐN và Bản án hành chính sơ thẩm số 16/2018/HC-ST ngày 18/5/2018 của TAND tỉnh Đ. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đ xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. VKSND tỉnh Đ và VKSND cấp cao tại ĐN đều không phát hiện được vi phạm về đánh giá chứng cứ của Tòa án, có quan điểm giải quyết bác yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của của những người khởi kiện bà Phạm Thị H1, Nguyễn Thị M, Phạm Thị D, Phạm Thị Q, ông Phạm Văn C, Phạm Văn Ph, Phạm Văn T1 là không chính xác cần phải rút kinh nghiệm. Xem chi tiết Thông báo 121/TB-VKSNDTC năm 2023 tại đây.
Rút kinh nghiệm đối với vụ án phạm tội “hủy hoại tài sản” ở Đồng Nai phải thực hiện giám đốc thẩm
Qua công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án Phạm Thị H và đồng phạm, phạm tội “hủy hoại tài sản” ở Đồng Nai, VKSNDTC thấy một số vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: Tóm tắt nội dung vụ án (1) Quá trình xảy ra tranh chấp đất đai Ngày 20/7/2016, bà Cao Thị L nhận chuyển nhượng diện tích đất tại phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa từ bà Lù Thị S, diện tích đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, bà L ủy quyền cho anh Nguyễn Đức T (con trai bà L) đứng tên trên các hợp đồng mua bán đối với diện tích đất trên. Cuối năm 2016, anh T đã chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị T một phần diện tích đất khoảng hơn 3000m2 với giá 1.300.000.000 đồng/1000m2. Phần đất giáp mặt tiền đường, bà L giữ lại không chuyển nhượng. Sau khi đặt cọc 03 lần với tổng số tiền 1.000.000.000 đồng, bà T đà tự phân chia đất thành các lô nhỏ để bán lại. Do bà T chưa thanh toán đủ số tiền như thỏa thuận nên bà Lụa chưa làm hợp đồng chuyển nhượng diện tích nêu trên cho bà T. Bà T đã tự làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên, giả chữ ký anh Nguyễn Đức T rồi bán đất cho 30 hộ dân khác nhau, nên đà xảy ra tranh chấp giữa bà L và các hộ dân đà mua đất của bà T. (2) Giai đoạn phá hoại tài sản trên đất tranh chấp Khoảng tháng 12/2018, bà L đã dựng 01 căn chòi có diện tích khoảng 2,5m X 3,5m X 2m, vật liệu bằng khung sắt hộp, lợp tôn, bên ngoài quây bạt màu xanh trên phần đất bà L không chuyển nhượng cho bà T trước đó, để trông coi phần đất còn lại. Khoảng 8h30 ngày 14/6/2020, Hương, Loan, Nam, Mừng, Hà, Tân, Thơm, Ngân, Sót và Lại Văn V (những người có đất đang tranh chấp với bà L) tập trung tại phần đất đang tranh chấp để xây lại bờ ranh của từng lô đất. Tất cả cùng thống nhất xây dựng để xây lại bờ ranh, trong đó, H là người thuê thợ hồ. Do căn chòi của bà L chấn lối đi, không thể đưa vật liệu vào bên trong nên tháo dỡ căn chòi để lấy lối đi. Sau khi hoàn thành thì mọi người cùng nhau xây lại bờ ranh như đã thống nhất trước đó. Sau khi phát hiện căn chòi của mình bị đập phá, tháo dỡ, bà L đã đến Công an phường Tân Phong trình báo. (3) Quá trình xét xử vụ án tranh chấp Tại Bản án hình sự sơ thẩm, TAND thành phố Biên Hòa áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với Hương và Nam), Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt các bị cáo về tội “hủy hoại tài sản”, trong đó xử phạt Hương 1 năm 02 tháng tù; Nam 01 năm tù; mỗi bị cáo Loan, Thơm, Mừng, Hà 10 tháng tù. Ngày 08/07/2020, các bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan, người bị hại có đơn kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND tỉnh Đồng Nai không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và bị hại, tuy nhiên sửa một phần về hình phạt của các bị cáo, theo đó các bị cáo chuyển sang hình phạt tiền, mỗi bị cáo nộp 30.000.000 đồng sung vào công quỹ Nhà nước. Ngày 25/02/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm 47/QĐ- VC3-V1 theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra lại do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự trong việc thu thập các tài liệu chứng cứ, định giá tài sản...gây oan sai cho các bị cáo. Quyết định 38/2022 ngày 5/5/2022 của ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án (1) Về việc xác định người bị hại Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định bà Cao Thị L là người bị hại trong vụ án là chưa đủ căn cứ. Nhận thấy, lời khai của các bị cáo Hương, Loan, Nam thể hiện căn chòi bị phá bỏ được dựng trên phần diện tích 4m X 23m, ở lối đi chung. Phần diện tích này vẫn thuộc quyền sử dụng của anh T do bà T không thực hiện tiếp hợp đồng mua bán đất với anh T. Bà L là mẹ anh T, được ủy quyền giải quyết tranh chấp đất đai với các hộ dân, nên việc bà L dựng căn chòi trên phần diện tích đất không tranh chấp với các hộ dân, không ảnh hưởng đến quyền lợi của các hộ dân. Căn chòi do bà L bỏ tiền mua vật liệu, thuê thợ dựng lên để trông coi khu đất, nên khi căn chòi bị hủy hoại, không sử dụng được thì việc Tòa án hai cấp xác định bà L là người bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật. (2) về việc xác định tội danh Tòa án nhân dân cấp cao cho rằng chưa đủ căn cứ kết luận các bị cáo cố ý hủy hoại tài sản của bà L. Tuy nhiên, theo sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường thì xung quanh căn chòi là khu vực bãi đất trống, vị trí căn chòi không hoàn toàn cản trở việc vận chuyển vật liệu vào phía trong. Tuy nhiên, cột sắt bị bẻ gãy, tấm bạt bị xé rách nát, tấm tôn bị cong vênh, vứt ở nhiều nơi, các đồ vật, vật liệu không còn sử dụng được, đây là hành vi phá bỏ, không phải là tháo dở như các bị cáo khai. Các bị cáo có thể lựa chọn vận chuyển vật liệu qua khu vực bãi đất trống bên cạnh căn chòi để vào phía trong nhưng các bị cáo lại thống nhất việc phá bỏ căn chòi. Như vậy, Tòa án hai cấp kết án các bị cáo về tội “hủy hoại tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. - Về việc định giá tài sản TAND cấp cao nhận định Hội đồng định giá không tiến hành xác minh vật liệu cấu thành căn chòi để xác định giá trị thiệt hại, chi căn cứ hóa đơn mua vật tư do bà L cung cấp, không khảo sát giá thị trường, kết quả khám nghiệm hiện trường, chủng loại vật liệu cấu tạo nên căn chòi có khả năng khôi phục lại không...là vi phạm trình tự, thủ tục định giá, dẫn đến sai lầm nghiêm trọng khi giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Hội đồng định giá tài sản nhận định tài sản bị hư hỏng do bị tháo dỡ, đổ sập hoàn toàn, không sử dụng lại được. Hơn nữa, việc xác định giá trị tài sản bị thiệt hại không chỉ căn cứ vào hóa đơn mua bán vật tư (do bà L cung cấp) mà còn qua khảo sát giá tài sản cùng loại trên thị trường tại thời điểm xảy ra vụ án, từ đó xác định giá trị tài sản căn chòi khi bị xâm phạm còn lại 80%, tương đương 8.668.000 đồng là có cơ sở. - Về thủ tục tố tụng Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng như: + Biên bản khám nghiệm hiện trường không mô tả chi tiết, cụ thể các vật chứng tại hiện trường; Cơ quan điều tra không tiến hành thu giữ vật chứng tại hiện trường làm ảnh hưởng đến việc định giá tài sản bị thiệt hại. + Cùng một cán bộ điều tra, trong cùng một thời gian, cùng một địa điểm nhưng lại tiến hành các thủ tục tố tụng khác nhau là vi phạm thủ tục tố tụng về lập hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng. + Ngoài ra, Cơ quan điều tra ban hành quyết định khởi tố vụ án vào ngày 26/12/2020 nhưng đến ngày 08/02/2021, VKSND thành phố Biên Hòa mới ban hành quyết định phân công Kiểm sát viên là vi phạm thủ tục tố tụng về chức năng kiểm sát điều tra. Nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án tuy có một số vi phạm về tố tụng nhưng không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án, việc điều tra lại cũng không thay đổi nội dung vụ án. Lời khai của người bị hại, các bị cáo và những người làm chứng phù hợp với biên bản hiện trường cũng như bản ảnh, sơ đồ hiện trường, các giấy tờ, tài liệu thể hiện việc mua bán đất, vị trí mảnh đất, các giấy tờ định giá tài sản bị hủy hoại, do đó, có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “hủy hoại tài sản”, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội và bồi thường thiệt hại cho bà L. Ngày 19/9/2022, Chánh án TANDTC quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận kháng nghị của Chánh án, hủy quyết định giám đốc thẩm của TAND cấp cao và giữ nguyên bản án hình sự phúc thẩm 35/2022/HS-PT ngày 19/01/2022 của TAND tỉnh Đồng Nai. Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm, phúc thẩm cần kịp thời phát hiện các vi phạm, thiếu sót trong quá trình điều tra vụ án đê yêu cầu khắc phục. VKSND cấp cao cần đánh giá chứng cứ phù hợp hơn, mặc dù vụ án có vi phạm nhưng chứng cứ đủ để kết án các bị cáo, việc kháng nghị là chưa cần thiết. VKSNDTC thông báo để các đơn vị cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong toàn ngành. Thông báo 94/TB-VKSTC ngày 17/5/2023 tải về
Rút kinh nghiệm vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản"
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn bà B với bị đơn bà N của Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh H tại Bản án phúc thẩm 14/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. Xem và tải bản án https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/03/22/2023-03-20%20(8).pdf (1) Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 30/10/2011, bà N viết “Giấy vay nợ” có nội dung: “Bà N vay của bà B 4.097.000.000 đồng. Bà B cho rằng bà N đã trả cho 597.000.000 đồng, sau khi khởi kiện thì trả thêm 24.000.000 đồng nên yêu cầu bà N trả số tiền còn lại 3.476.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà N cho rằng Bà đã trả hết cho bà B thông qua tờ giấy có ghi chữ “B mượn Hon” với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng và 8 cuốn sổ có ghi ngày, số tiền, chữ ký của bà B, bà L khi nhận tiền nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của Bản án sơ thẩm 63/2021/DS-ST ngày 5/11/2021 của TAND huyện H, tỉnh H: - Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà B yêu cầu bà N phải trả số tiền 24 triệu đồng. - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà B: Buộc bà N phải trả cho bà B số tiền 3.476.000.000 đồng(Ba tỷ, bốn trăm bảy mươi sáu triệu đồng). Quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm 14/2022/DS-PT ngày 15/6/2022 của TAND tỉnh H: - Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Hoàng Thị cẩm N; giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đến ngày 28/7/2022, bà N đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nói trên. Ngày 22/11/2022, Viện trưởng Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà N; giữ nguyên bản án sơ thẩm VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 75/QĐ-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho TAND huyện H xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Quyết định giám đốc thẩm số 10/2023/DS-GĐT ngày 10/02/2023 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm 75/QĐ-VKS-DS ngày 22/11/2022 của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm Tại phiên hòa giải ngày 02/7/2021, bà N thừa nhận có nợ bà B nhưng không nhớ số tiền nợ và số tiền đã trả, sẽ kiểm tra giấy tờ và cung cấp cho Tòa án. Sau đó, bà N cho ràng số tiền 4.097.000.000 đồng là tổng tiền vay và tiền nợ hụi nhưng đã trả hết cho bà B nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Bà N cung cấp tờ giấy có ghi chữ “B mượn Hon ” (Hon là tên gọi khác của bà N) với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng và 8 cuốn sổ có ghi ngày, số tiền, chữ ký của bà B, bà L khi nhận tiền. Theo đó, các đương sự thống nhất tờ giấy có ghi chữ “B mượn Hon” với tổng số tiền 2.380.000.000 đồng chỉ ghi ngày tháng, không ghi năm là do thói quen ghi ở chợ. Bà N cho rằng số tiền này là tiền trả nợ của “Giấy vay nợ” ngày 30/10/2011. Tại phiên tòa phúc thẩm bà B thừa nhận giấy này là do Bà ghi; là tiên bà N trà nợ năm 2009 nhưng không có chứng cứ chúng minh. Như vậy, đây là ý kiến của bị đơn phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không phải yêu cầu phản tố quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định ý kiến của bà N đối với số tiền 2.380.000.000 đồng là yêu cầu phản tố được đưa ra sau khi công khai chứng cứ và hòa giải nên không xem xét là giải quyết không triệt để vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm này để hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại cho đúng pháp luật. Tại biên bản đối chất ngày 06/10/2021, khi bà N cho ràng số tiền 1.868.200.000 đồng trong 8 cuốn sổ do bà B, bà L ký nhận là tiền trả nợ cho bà B. Lúc này, bà B chỉ yêu cầu thời hạn 01 tuần để bà B, bà N, bà L đối chiếu các khoản đã trả và báo kết quả với Tòa án. Điều này thể hiện, bà B không phản đối việc bà N xác định đã trả nợ bà B thông qua những lần thu tiền nói trên. Sau đó, bà B cho rằng số tiền Bà và chị T (con dâu bà B) ký nhận là tiền trả nợ và bà N còn trả thêm nhiều lần chỉ ghi vào sổ bà B tổng cộng 597.000.000 đồng (cuốn sổ hiện đã bị thất lạc). Bà L khai có chơi hụi với bà N theo hình thức bốc hụi trước, nộp tiền sau; khi thu hại, bà L chỉ ký vào sổ của bà N nhưng không có chứng cứ chứng minh. Tại 08 cuốn sổ này có 13 lần bà B ký nhận tiền, 02 lần ghi chuyển khoản cho bà Phạm Thị B tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, còn lại bà L ký nhận nhưng Tòa án chỉ dựa vào lời khai của bà B, bà L đã xác định số tiền ký sổ của bà L là tiền hụi giữa bà L với bà N để không chấp nhận ý kiến của bà N là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện theo Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ số tiền trong giấy vay nợ là chôt vay hay chốt tiền hụi chưa đóng đủ hay cả tiền vay và tiền hụi; khoản tiền mà bà N cho rằng đã trả nợ cho bà B; có hay không việc bà L là người thu tiền cho bà B để xác định số tiền trong 8 cuốn sổ là tiền gì để làm căn cứ giải quyết vụ án. Ngoài ra Tòa án không đưa chị T vào tham gia tố tụng để xác định số tiền chị T nhận là tiền hụi hay tiền bà N trả nợ cho bà B là chưa đảm bảo cho việc giải quyết vụ án. Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà B buộc bà N phải trả cho bà B số tiền 3.476.000.000 đồng là chưa đủ căn cứ, làm ảnh hướng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà N. Xem và tải bản án https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/03/22/2023-03-20%20(8).pdf
Rút kinh nghiệm vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn bà HC, địa chỉ: xã M, huyện M, tỉnh ĐL với bị đơn chị HD và anh YK, cùng địa chỉ: xã M, huyện M, tỉnh ĐL. Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2022/DS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL, có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm, cụ thể như sau: (1) Tóm tắt nội dung vụ án Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp do gia đình ông YW, bà HU và bà HK (em bà HU) khai hoang. Năm 1983, gia đình bà HU chuyển đến nơi khác và cho gia đình bà HC mượn đất làm nhà ở tạm. Khoảng năm 1993-1994, vợ chồng bà HC chuyển vào xã Đ, huyện Đ làm rẫy, không sử dụng đất nữa. Trong năm 1994, bà HC được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khoảng năm 1995, ông YW, bà HU mua lại căn nhà sàn của gia đình bà HC, giá 5 chỉ vàng (3.000.000 đồng). Từ đó, gia đình ông YW sinh sống ổn định, không ai tranh chấp. Sau khi ông YW, bà HU chết. Theo phong tục người dân tộc Ê đê, tài sản của bố mẹ sau khi chết để lại cho con gái là bà HY. Năm 2014, bà HY cho vợ chồng chị HD xây nhà, canh tác trồng hoa màu sử dụng ổn định cho đến nay. Khi vợ chồng chị HD làm thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện năm 2014, bà HC được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này. Gia đình chị HD đã chấp nhận hỗ trợ cho gia đình HC 01 lô đất khác để làm nhà ở, lúc đó HC đã chấp nhận. Sau khi biết mình được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 2019, bà HC khởi kiện yêu cầu chị HD, anh YK phải trả lại thửa đất này cho Bà. (2) Quá trình giải quyết của Tòa án *Bản án dân sự sơ thẩm: Quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân, huyện Đ, tỉnh ĐL: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà HC về việc buộc bị đơn vợ chồng chị HD, anh YK phải trả diện tích đất 1.063,4m2, tại thửa đất số 78, tờ bản đồ 02. Kiến nghị UBND huyện thu hồi GCNQSDĐ đất số D-0374409 ngày 8/7/1994 cấp cho hộ bà HC. * Bản án dân sự phúc thẩm: Quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 166/2022/DS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà HC. Buộc vợ chồng chị HD, anh YK phải trả diện tích đất 1.063,4m2, tại thửa đất số 78, tờ bản do so 02. Buộc bà HC có trách nhiệm thanh toán số tiền 216.469.000 đồng là giá trị tài sản trên đất cho vợ chồng chị HD và anh YK. Buộc vợ chồng chị HD, anh YK phải bàn giao toàn bộ tài sản trên đất. Ngày 03/9/2022, vợ chồng chị HD, anh YK có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ngày 09/01/2023, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 02/2023/KN-DS đối với bản án dân sự phúc thẩm, đề nghị ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN hủy bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 08/2023/DS-GĐT ngày 10/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN chấp nhận kháng nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN hủy Bản án dân sự phúc thẩm sổ 166/2022/DS-PT ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐL, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DSST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân, huyện Đ, tỉnh ĐL. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Về hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Những người làm chứng, trình bày: Năm 1994, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn được cấp đồng loạt, theo chỉ tiêu, không kiểm tra đo đạc sơ đồ, các hộ không kê khai, ủy ban nhân dân xã không xác minh về nguồn gốc đất cũng như xác nhận của các hộ có đất giáp ranh. Các hộ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không biết diện tích, vị trí đất được cấp. Từ năm 1994 đến nay, gia đình bà HC cũng không sử dụng thửa đất tranh chấp. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất so D0374409 ngày 18/7/1994 cấp cho hộ bà HC có sự sai sót, không đúng nguồn gốc sử dụng, không đúng đối tượng sử dụng đất. Bản án sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của bà HC là có căn cứ, đúng pháp luật, bản án phúc thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của bà HC là thiếu căn cứ. Vì vậy, Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN đã hủy toàn bộ bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Xem và tải Bản án tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/03/16/2023-03-10%20(1).pdf
Rút kinh nghiệm xét xử vụ án vận chuyển trái phép chất ma túy theo thủ tục giám đốc thẩm
Ngày 30/11/2022, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao đà xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND tối cao về vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” để xét xử phúc thẩm lại. Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 7) thông báo rút kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật, quyết định hình phạt đối với bị cáo. nhàm bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 27/02/2019, Nguyễn Văn H điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Khoa Vũ N đi từ thành phố Huế đến tỉnh Quảng Trị để vận chuyển ma túy của Lương Đình V và Nguyễn Thị N vào tỉnh Thừa Thiên Huế giao cho Phạm Hoàng M nhận tiền công 20 triệu đồng: Cùng ngày, H gặp V tại bãi đỗ xe của khách sạn Bảo Sơn, V cho H 04 viên ma túy tổng hợp đề sử dụng. H lấy 04 viên ma túy tổng hợp cất giấu vào ngăn đựng phía trước xe ô tô. Ngày 01/3/2019, N đến phòng nghỉ gặp H nói có ma túy rồi xuống khu vực Massage của khách sạn Bảo S để nhận. H và N đi xuống khu vực Massage và bãi đỗ xe, H bảo N vào ngồi trong xe ô tô. Còn H ngồi ở ghế lái, V đi đến mở cửa sau bên trái ô tô biển kiểm soát 75A-095.59 bỏ 01 túi xách phía ghế sau. Sau đó, H điều khiển xe ô tô chở N về thành phố Huế. Quá trình bị lực lượng chức năng kiểm tra Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 01/3/2019, H điều khiển xe ô tô đến quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã Hải Trường, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị thì bị lực lượng chức năng phát hiện kiểm tra bắt quả tang thu giữ tang vật 01 gói ma túy tổng hợp có khối lượng 997,7547 gam Methamphetamine, 04 viên nén màu hồng có khối lượng 0,3947 gam Methamphetamine và một số tài sản khác. Quá trình điều tra, ngày 21/5/2019, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Trị tiến hành khám xét ô tô biển kiểm soát 75A-095.59, Nguyễn Khoa Vũ N giao nộp 10 gói ma túy tổng hợp được cất giấu trên cửa cách nhiệt phía trên trần xe ô tô có khối lượng 198,8713 gam Methamphetamine. Quá trình giải quyết vụ án (1) Bản án sơ thẩm Tại Bản án hình sự sơ thẩm ngày 18/02/2020, TAND tỉnh Quảng Trị áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm a, khoản 1, Điều 55 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 01 năm tù về tội “Tàng trữ' trái phép chất ma túy”; Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội là 21 năm tù. Áp dụng điểm b, khoản 4, Điều 250; điểm r, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt Nguyễn Khoa Vũ N tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. (2) Bản án phúc thẩm Ngày 25/02/2020, Nguyễn Khoa Vũ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 12/3/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Kháng nghị số 12/QĐ-VC2 kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Văn H từ 20 năm tù lên tù chung thân. Tại Bản án hình sự phúc thẩm 154/2021/HSPT ngày 07/4/2021, TAND cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. Theo đó, giữ nguyên tội danh và hình phạt đối với Nguyễn Văn H; chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Khoa Vũ Ngân từ chung thân xuống 20 năm tù. (3) Bản án giám đốc thẩm Ngày 28/02/2022, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Kháng nghị số 03/QĐ-VKSTC-V7 kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên theo hướng đề nghị hủy phần trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn H để xét xử phúc thẩm lại. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không đúng với các tình tiết, nội dung vụ án bởi lẽ: - Chiếc xe ô tô là do H mượn của em trai ruột của H, không phải xe ô tô của Ngân. - Lời khai của N là chính xác, phù hợp với diễn biến và kết quả khám xét ngày 21/5/2019. - Khi lập biên bản niêm phong xe ô tô ngày 01/3/2019 thì H, N đều đã chứng kiến và ký vào biên bản niêm phong. - Khi mở niêm phong xe ô tô ngày 21/5/2019 bảo đảm thực hiện đúng theo quy định tại Điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tại đó, có sự chứng kiến của Kiểm sát viên, Luật sư, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến là ông Nguyễn Đức Hiếu nên việc khám xét xe ô tô bảo đảm tính khách quan, đúng pháp luật. Do đó, có đủ cơ sở xác định Nguyền Văn H cùng Nguyễn Khoa Vũ N tham gia vận chuyển trái phép 1.196,2313 gam Methamphetamine. Thứ hai, bị cáo Nguyễn Văn H giữ vai trò cao hơn bị cáo Nguyễn Khoa Vũ N, là người chủ động, trực tiếp điều khiển xe ô tô vận chuyển ma túy. H hướng dẫn bị cáo N cất giấu ma túy nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá vai trò của hai bị cáo ngang nhau, từ dó quyết định mức hình phạt ngang nhau là không chính xác. Hành vi phạm tội của H thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 250 Bộ luật hình sự 2015, có khung hình phạt từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Khối lượng ma túy vận chuyển cao hơn gần 10 lần so với mức khởi điểm 100 gam và bị cáo H không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Nguyễn Văn H 20 năm tù. Mức án khởi điểm của khung hình phạt là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, không công bằng với các bị cáo khác bị xét xử hình phạt tử hình khi vận chuyển trái phép với khối lượng ma túy tương tự. Kể cả trường hợp bị cáo H chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vận chuyển trái phép 997,7547 gam Methamphetamine nên cần xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đà kịp thời phát hiện và báo cáo đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao ban hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tải bản án tại đây bản án
Rút kinh nghiệm vụ án "làm giả giấy tờ lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo thủ tục giám đốc thẩm
Đây là vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đền bù phần đất giải tỏa, có yếu tố làm giả giấy tờ, con dấu của cơ quan có thẩm quyền mà cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng không nhận ra. Qua thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thấy cần rút kinh nghiệm một số vấn đề về vụ án này như sau: (1) Nội dung vụ án Huỳnh Thị Đ được thừa kế lô đất thuộc thửa đất diện tích 391m2 tại, phường H.X, quận C.L và được cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 18/01/1995. Ngày 03/6/2009, Huỳnh Thị Đ chuyển nhượng QSDĐ cho ông Biện Văn N; ông N chuyển nhượng lô đất cho bà Văn Thị V. Ngày 29/6/2010, bà V lập “hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng QSDĐ” cho vợ chồng ông Phạm L và bà Nguyễn Thị N; do thửa đất trên thuộc diện giải tỏa nên không làm thủ tục sang tên được, bà N cất giữ giấy chứng nhận QSDĐ mang tên bà Văn Thị V. Ngày 24/9/2010, UBND quận C.L thu hồi đất giao cho Công ty quản lý và khai thác đất Đà Nẵng quản lý để thực hiện theo quy hoạch. Nguyên nhân dẫn đến sai phạm Do Trung tâm đo đạc nhầm lẫn quy chủ thửa đất là Huỳnh Thị Đ nên Công ty quản lý khai thác đất giao cho Ban giải tỏa đền bù các dự án đầu tư và xây dựng số 2 (gọi tắt là Ban 2) tiến hành thẩm định, xác định giá trị tiền đền bù cho bà Đ. Ngày 06/7/2011, Ban 2 gửi thông báo cho bà Đ được bố trí 01 lô đất tại khu dân cư Nam cầu C.L. Biết việc quy chủ đất sai, Trung tâm đo đạc bản đồ tại Đà Nẵng có Công văn gửi Ban 2 điều chỉnh chủ sở hữu thửa đất sang hộ vợ chồng bà Nguyễn Thị N nhưng sau khi tiếp nhận, Ban 2 không điều chỉnh thông tin người được bố trí đất tái định cư. Hành vi thực hiện phạm tội của các bị cáo Bà Huỳnh Thị Đ biết rõ Ban 2 gửi nhầm vì lô đất đà được bà Đ chuyển nhượng cho người khác nhưng bà Đ vẫn bàn bạc thống nhất với Hồ Văn K bán lô đất tái định cư lấy tiền tiêu xài. K giao kết với Trần Phước L, nếu làm được thủ tục ra phiếu đất để bán thì số tiền kiếm được sẽ chia đôi, Đào và Lộc mỗi người một nửa. Trần Phước L liên hệ với Đặng Văn T làm giả “biên bản chi tiền đền bù” lần 1. Và trực tiếp gặp ông Trần Vũ T, cán bộ Ban 2, ông T lập biên bản tiếp nhận mặt bằng và ký vào vị trí tô công tác, giao lại cho Lộc. Lộc tiếp tục nhờ Đặng Văn T làm giả “biên bản chi tiền đền bù” lần 1, đóng dấu giả của Ban 2 có nội dung “Ban giải tỏa đền bù các ĐAT XD số 2 ĐN đà chi tiền”, giả chữ ký của kế toán Bùi Thị Hoài L và kế toán trưởng Thái Thị Minh H, rồi đưa Huỳnh Thị Đ ký vào vị trí chủ hộ. Sau đó L cùng Đ, K thỏa thuận chuyển nhượng lô đất trên cho vợ chồng ông Từ D và bà Võ Thị Hồng A với giá 520.000.000 đồng, số tiền bán đất Đ và L chia đôi, mỗi người được hưởng 260.000.000 đồng. (2) Quá trình giải quyết vụ án Ngày 02/4/2018 của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng, khởi tố vụ án hình sự về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; khởi tố Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hồ Văn K. Bản kết luận điều tra vụ, đề nghị truy tố Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hô Văn K về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 4, Điều 174 Bộ luật hình sự 2015. Đồng thời, cáo trạng ngày 14/12/2018 của VKSND thành phố Đà Nẵng, truy tố các bị can Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hồ Văn K về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại Bản án hình sự sơ thẩm ngày 25/01/2019, TAND thành phố Đà Nẵng xử phạt Trần Phước L 07 năm tù. Xử phạt Huỳnh Thị Đ 05 năm tù, Hồ Văn K 02 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đồng thời Toà án kiến nghị UBND thành phố Đà Nẵng có hình thức xử lý đối với cán bộ vi phạm, kiến nghị VKSND thành phố Đà Nẵng tiếp tục yêu cầu Cơ quan điều tra Công an làm rõ hành vi “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” của một số cán bộ ở Ban 2. Ngày 04/12/2019, các bị can kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 24/12/2019, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành kháng nghị phúc thẩm số 05, đề nghị hủy bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra lại. Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND cấp cao tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng cáo và kháng nghị, giữ nguyên Bản án sơ thẩm của TAND thành phố Đà Nẵng. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Trong vụ án này, bị cáo Trần Phước L đã 02 lần nhờ Đặng Văn T làm giả “biên bản chi tiền đền bù” (bản phô tô) và “biên bản chi tiền đền bù” (bản chính), đóng dấu giả của Ban 2, giả chữ ký của kế toán Bùi Thị Hoài L và kế toán trưởng Thái Thị Minh H Sau đó dùng các giấy tờ giả này để lừa dối ông Trương Thanh T, Phó trưởng Ban 2 và vợ chồng ông Từ D và bà Võ Thị Hồng A để chiếm đoạt số tiền 520.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của L có dấu hiệu phạm tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức” nhưng L mới bị điều tra, truy tố, xét xử về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đối với Đặng Văn T có hành vi giúp L làm giả các biên bản chi tiền đền bù đất của Ban 2, nhưng Đặng Văn T đã chết, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự với T. UBND quận C.L đã có sai sót trong cung cấp hồ sơ chính bị giải tỏa đền bù sai đối tượng, nhưng đã sửa sai bằng cách gửi văn bản đề nghị Ban 2 chỉnh sửa. Một số cán bộ Ban 2 đã có hành vi thiếu trách nhiệm, không làm hết nhiệm vụ được giao, cụ thể là không tiến hành kiểm định, xác định vị trí, đo đạc kích thước thửa đất theo hiện trạng thực tế, không phát hiện hành vi làm giả “biên bản chi tiền đền bù” dẫn đến việc ký xác nhận vào biên bản và cấp phiếu bố trí đất sai đối tượng. Ban 2 không điều chỉnh, chỉ lưu công văn trong hồ sơ. Hành vi nêu trên của một số cán bộ Ban 2 tạo điều kiện cho các bị cáo Trần Phước L, Huỳnh Thị Đ, Hồ Văn K lừa đảo chiếm đoạt số tiền 520.000.000 đồng. Quá trình xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung 02 lần “yêu cầu làm rồ 08 vấn đề có liên quan đến vụ án. Nhưng Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng và VKSND thành phố Đà Nẵng giữ nguyên quan điểm không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Phước L về hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan tổ chức và hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của một số cán bộ Ban 2. Xem thêm Thông báo 19/TB-VKSTC ngày 31/01/2023 tải về.
Rút kinh nghiệm kiểm sát vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về "Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn X với bị đơn ông M, bà H của TAND thị xã B, tỉnh Đ tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 55/2021/QĐST-DS ngày 16/6/2021 có vi phạm. Theo đó, cần thông báo rút kinh nghiệm như sau: (1) Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 21/6/2016, ông M và bà H ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng X. Nội dung như sau: - Ngày 21/6/2019, ông M và bà H vay số tiền: 755.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng. - Để bảo đảm khoản vay, ông và đã thế chấp quyền sử dụng đất theo GCN QSDĐ số CĐ 315589 thuộc thửa đất số 09, tờ bản đồ số 39, diện tích 19.920 m2 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 11/5/2016 mang tên ông S được xác nhận chuyển nhượng cho ông M, bà H vào ngày 23/6/2016. Ngân hàng X yêu cầu ông M, bà H trả toàn bộ số nợ là 913.485.357 đồng (Nợ gốc 730.050.000đ, lãi vay trong hạn 132.574.891 đ, lãi quá hạn 33.534.925đ, lãi chậm trả đối với lãi 17.325.541đ) tính đến ngày 12/4/2021. Đồng thời, tiếp tục trả lãi vay, lãi quá hạn, phí chậm trả lãi phát sinh từ ngày 13/4/2021 cho đến khi ông M và bà H thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền vay đối với Ngân hàng X được quy định tại Hợp đồng tín dụng. Trường hợp, ông M và bà H không trả nợ cho Ngân hàng X thì Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất để thu hồi nợ. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 55/2021/QĐST- DS ngày 16/6/2021 của TAND thị xã B, tỉnh Đ quyết định: - Chấp nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự như trên, cụ thể: + Về số nợ và nghĩa vụ trả nợ: Ông M và bà H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày 12/4/2021 là: 913.485.357 đồng gồm tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, lãi chậm trả… + Trường hợp ông M và bà H không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông bà theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã ký giữa ông bà với Ngân hàng để thu hồi nợ. Ngày 13/9/2021, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đ có Văn bản số 1362/CCTHADS đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên. Ngày 24/6/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 50/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên. Quyết định giám đốc thẩm số 59/2022/DS-GĐT ngày 01/12/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nằng xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nằng, hủy toàn bộ Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. (3) Vấn đề cần rút kinh nghiệm - Quá trình tổ chức thi hành Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Chi cục Thi hành án dân sự huyện K đã kết hợp với UBND xã c, Phòng tài nguyên và Môi trường huyện K, Vãn phòng đăng ký đất đại huyện K tổ chức xem xét thực địa thửa đất số 09 phát hiện: “Hiện thửa đất này do ông C, bà H đang chăm sóc, bảo quản; thực trạng thửa đất có hình trạng thửa đất không giống với thực trạng, tình trạng thửa đất trong GCNQSDĐ sổ CĐ 315589" và "qua kiểm tra thực tế cũng như bản đồ số hỏa thì hiện tại thửa đất nói trên thuộc tờ bản đồ số hóa 75 và đã được cấp GCNQSDĐ cho 05 người. - Qua thực tế xác minh tài sản thế chấp thửa đất số 09 hiện đang do người khác quản lý và sử dụng, tài sản trên đang có tranh chấp (Hiện do ông S1 và ông C cùng địa chỉ xã C, huyện K quản lý và sử dụng)... - Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đ đã bỏ qua Biên bản làm việc ngày 17/01/2021 giữa Ngân hàng với ông M, bà H và không thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp, từ đó không phát hiện ra những sự thay đổi, biến động của tài sản thế chấp nên không thể tổ chức thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã có hiệu lực pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Trên đây là rút kinh nghiệm từ những vi phạm nghiêm trọng tố tụng trong việc giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng tín dụng” bị cấp giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Xem chi tiết tại đây https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2023/01/11/2023-01-05%20(12).pdf
Rút kinh nghiệm vụ án hình sự bỏ sót tội phạm giết người theo thủ tục giám đốc thẩm
Ngày 25/7/2022, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ Bản án hình sự phúc thẩm ngày 18/9/2020 của TAND cấp cao tại ĐN và Bản án hình sự sơ của TAND tỉnh QB đối với PQB để điều tra lại. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự thông báo rút kinh nghiệm trong việc bỏ lọt tội phạm; nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không bó lọt tội phạm, đúng quy định của pháp luật. Nội dung vụ án hình sự Tối ngày 04/02/2019, nhiều thanh niên ở các thôn thuộc xã HP, huyện BT, tỉnh QT dụng rạp tổ chức liên hoan hát tất niên. Đến 22 giờ cùng ngày, HVD và PQB ở rạp của thôn TL đến rạp của thôn TH để giao lưu. Lúc này, PVH ở thôn NH khoác vai PQB cùng nhảy múa và có chạm tay vào đầu B và PQB cho rằng H đã xoa đầu là xúc phạm mình, nên B tát vào mặt H và nói "Tau từ nhỏ đến lớn không ai dám xoa đầu tau". Lúc này, LVT đứng gần đó thấy B xông vào định đánh tiếp nên can ngăn. Khi thấy B đánh nhau, HVD xông đến thì nhiều thanh niên của thôn TH và thôn NH đang ở trong rạp xông vào đánh B và D làm D bị thương ở ngực và môi dưới. Sau đó, B và D chạy về rạp của nhóm thôn NH bảo mọi người đi đánh trả thù, nhiều người đồng ý trong đó có: HVL, HDC, PHN, HVN (đều ở thôn NH). HQH, ĐGT, PVD, NTA, NV (đều ở NH). PQB điện thoại cho HVL ở thôn TL đến rạp TH đánh nhau, nhiều người nghe và đi cùng L. Trong đó có, NT, PTD, HMH, LVH, LHQ, HQT, HVT, LTK, NVL. NTA cầm theo 01 cưa xếp, HVD cầm theo 01 cái kéo cán màu đỏ, HVL cầm theo 01 bình xịt hơi cay… Bản thân B vào nhà bà VTH ở thôn NH lấy 01 con dao bản rộng khoảng 05 cm, mũi không nhọn. Khi đến gần rạp thôn TH hô hào lên đánh. Lúc này, TQT ở trong rạp thôn TH chạy ra cùng với PDH và PCS thì gặp HVL và NTA xông tới. NTA cầm cưa inox dài 25 cm chém một nhát theo hướng từ trên xuống dưới vào vùng đầu của TQT. T dùng gậy tre đánh vào đầu NTA, TA tiếp tục cầm cưa chém nhát thứ hai theo hướng từ trên xuống trúng vào vai TQT. T dùng gậy đánh lại HVL và NTA. NV ném đá và cầm gậy gỗ xông vào TQT, sau đó cả bọn bỏ chạy. Lúc này, HVD từ đường liên thôn xông vào rạp TH, cầm kéo cán màu đỏ dài 22,5 cm, khi thấy T cầm gậy xông ra D xông tới ghì đầu T xuống rồi dùng kéo đâm nhiều nhát. Thấy nhiều người trong rạp TH rượt đuổi thì D đẩy H ra bỏ chạy. ĐGT ném đá vào trong rạp và dùng tay đấm vào mặt một người từ trong rạp TH xông ra. HMH, PTD, HVL, PHN, HVN, HVL và NV ném đá vào rạp TH. NT, HQH, PVD, HDC cầm đá, gậy nhưng chưa sử dụng. HVD sau khi đâm PDH, mang theo kéo đi đến ngõ hẻm vào chùa VP gặp PQB cách vị trí đâm PDH 78m về phía Tây, thì D nói với PQB: "Cụ ơi, cháu mới đâm thằng nớ mấy nhát, không biết chết hay sống”. Hậu quả, PDH bị tử vong sau khi đưa đi cấp cứu, TQT bị đa chấn thương tổn hại sức khỏe 12%, tình hình an ninh trật tự khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Quá trình giải quyết vụ án Tại Bản án hình sự sơ thẩm 11/2020/HS-ST ngày 13/5/2020, TAND tỉnh QB áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt PQB 30 tháng tù về tội "Gây rối trật tự công cộng". Tòa án xử phạt 14 bị cáo khác từ 24 tháng tù đến 15 năm tù về các tội "Giết người", "Cố ý gây thương tích” và ”Gây rối trật tự công cộng". Trong thời hạn luật định, các bị cáo HVD, HVL kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; các bị cáo PTD và HMH xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo. Bà PTMH là đại diện hợp pháp cho bị hại PDH kháng cáo yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với HVD về tội "Gây rối trật tự công cộng"; tăng hình phạt đối với bị cáo D về tội "Giết người". VKSND cấp cao tại ĐN đề nghị hủy phần hình phạt đối với bị cáo NTA và PQB tại bản án hình sự sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử thêm về tội "Gây rối trật tự công cộng". Tại Bản án hình sự phúc thẩm, TAND cấp cao không chấp nhận kháng cáo của bị cáo HVD; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo HVL, PTD, HMH; chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện bị hại. Không chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại ĐN; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm cho các bị cáo HVL, PTD và HMH được hưởng án treo. Ngày 19/8/2021, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm 26/QĐ-VKSTC-V7 đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC huỷ phần trách nhiệm hình sự của Bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại ĐN; Bản án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh QB đối với PQB để điều tra lại. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Trong vụ án này, ban đầu PQB dùng tay đánh H vì cho rằng H xoa đầu, xúc phạm B, dẫn đến một số thanh niên xông vào đánh B và D. Sau đó, B thông báo cho nhóm thanh niên thôn NH là bị thanh niên nhóm TH đánh và bảo mọi người đi đánh trả thù. B nói mọi người mang theo hung khí, bản thân B cùng mang theo một con dao bản rộng để đi đánh nhau. Đến rạp thôn TH, Bảo hô đồng bọn "xông lên đập bọn TH". Khi D đâm H xong gặp B thì D thông báo mình vừa thực hiện hành vi đâm H cho B nghe. B không nói gì, chấp nhận hậu quả xảy ra. Như vậy, B là người khởi xướng, chủ mưu, cầm đầu trong nhóm người tìm đánh thanh niên thôn TH. B là người phải chịu trách nhiệm về hành vi, hậu quả của sự việc này, trong đó có người bị thương tích, có người tử vong. Một số đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội "Gây rối trật tự công cộng", "Cố ý gây thương tích", "Giết người". Hành vi của B có đủ dấu hiệu của tội "Giết người" theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Các cơ quan tố tụng chỉ truy cứu đối với B về tội "Gây rối trật tự công cộng", không truy cứu đối với Bảo về tội "Giết người" là sai lầm nghiêm trọng. Mặt khác, tại án lệ số 17/2018/AL ngày 17/10/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC có hướng dẫn, trường hợp người xúi giục đồng bọn đánh nhau, có mang theo hung khí. Dù không có mặt khi thực hiện tội phạm, không biết đồng bọn dùng mã tấu chém chết người, thì vẫn phải truy cứu về tội "Giết người"; thực tế người này đã để mặc hậu quả xảy ra thì hậu quả đến đâu phải chịu trách nhiệm đến đó. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự VKSNDTC thông báo để VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, rút kinh nghiệm chung, nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra, truy tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm các vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” bị ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Yêu cầu của nguyên đơn ông D: Khởi kiện buộc ông L trả số tiền 4.450.000.000 đồng gốc và tiền lãi 10%/năm theo Giấy vay tiền ngày 10/4/2020, thời hạn vay 36 tháng. Chứng cứ ông D khởi kiện là Giấy vay tiền ngày 10/4/2020, có chữ ký, ghi rõ họ tên của ông L và các dấu lăn tay vào 02 trang giấy. Bị đơn ông L trình bày: Ông không vay tiền của ông D mà ông D là nhân viên điện lực đã lợi dụng việc ký hợp đồng mua bán điện giữa ông với Điện lực Y nên lừa ông ký và lăn tay vào Giấy vay tiền ngày 10/4/2020 (02 tờ) được lồng vào hợp đồng mua bán điện. (2) Quá trình giải quyết vụ án Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2020/DSST ngày 17/12/2020 của TAND thành phố H xử: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu tính lãi của nguyên đơn ông D. Buộc bị đơn ông L phải trả cho ông D với tổng số tiền 4.754.098.162 đồng (Bốn tỷ bảy trăm năm mươi bốn triệu không trăm chín mươi tám nghìn một trăm sáu mươi hai đồng). ” Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2022/DSPT ngày 16/02/2022 của TAND tỉnh Y xử: - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và yêu cầu tính lãi của nguyên đơn ông D về việc buộc bị đơn ông L phải trả cho ông D với tổng số tiền 4.754.098.162 đồng Sau khi xét xử phúc thẩm, ông D có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 10/6/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 48/QĐ-VKS-DS theo hướng hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2022/DSPT ngày 16/02/2022 của TAND tỉnh Y và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2020/DSST ngày 17/12/2020 của TAND thành phố H, tỉnh Y. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 49/2022/DS-GĐT ngày 09/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy bản án dân sự phúc thẩm và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định ông L đã ký và lăn tay vào từng trang của Giấy vay tiền ngày 10/4/2020 trong trạng thái tinh thần ổn định và không bị cưỡng ép, lừa dối, đã nhận tiền như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Theo đó, Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2020/DSST ngày 17/12/2020 của TAND thành phố H chấp nhận yêu cầu khởi kiện, buộc bị đơn ông L phải trả cho ông D tổng số tiền gốc và lãi 4.754.098.162 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2022/DSPT ngày 16/02/2022 của TAND tỉnh Y không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Trên đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm. VKSND cấp cao tại ĐN thông báo để VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà"
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao (Vụ 9) thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm trong vụ án “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà", giữa nguyên đơn là bà N với bị đơn là ông C và bà S. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Ngày 05/6/2015, bà N ký hợp đồng thuê của vợ chồng ông C, bà S một phần nhà diện tích 90m² tại địa chỉ 83 đường AC, tổ 51, phường KB, quận LC, thành phố ĐN, mục đích mở quán cafe, nước giải khát; thời hạn thuê 04 năm, 7 tháng, kể từ ngày 01/6/2015; Trong đó, giá thuê mỗi tháng là 13.000.000 đồng (sau 02 năm giá thuê sẽ tăng không quá 10%/năm); phương thức thanh toán 01 năm 01 lần vào tháng 12 hàng năm. Bà N đã thanh toán đầy đủ tiền thuê trong năm 2015 và 2016. Tuy nhiên, đến tháng 3 năm 2017, do bà N chưa thanh toán tiền thuê nhà năm 2017 nên ngày 20/3/2017, ông C nhờ con rể là ông T nhắn tin cho bà N về việc bà N chuyển tiền không theo nội dung hợp đồng, nên đề nghị bà vào ngay giải quyết, nếu ngày 22/3/2017, bà N không có mặt để thanh toán tiền thuê nhà thì gia đình ông sẽ đóng cửa quán. Bà N đã chuyển vào tài khoản của ông T 140.000.000 đồng để nhờ trả tiền nhà cho vợ chồng ông C, bà S (chuyển 60.000.000 đồng vào ngày 20/3/2017; 30.000.000 đồng vào ngày 23/3/2017; 50.000.000 đồng vào ngày 28/4/2017). Ngày 23/3/2017, gia đình ông C, bà S mời Công an phường KB, ông MH tổ trưởng tổ dân phố và ông NT là hàng xóm chứng kiến việc ông, bà khóa cửa quán của bà N. Cùng ngày, ông C, bà S lập bản Cam kết thông báo cho bà N trong hạn 7 ngày phải có mặt để thanh lý hợp đồng, nếu không thực hiện, ông bà sẽ tự thanh lý hợp đồng, đồng thời lập biên bản kiểm kê tài sản của bà N tại quán. Yêu cầu của nguyên đơn: Trước sự việc trên, bà N cho rằng ông C, bà S đã đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà nên đã khởi kiện yêu cầu ông C, bà S bồi thường thiệt hại tổng số tiền 1.420.000.000 đồng gồm: - Doanh thu bị mất do không bán được hàng là 1.320.000.000 đồng (mỗi ngày 4.000.000 đồng, tính từ tháng 2/2017 đến tháng 12/2017); - Thiệt hại do mất, giảm sút về chất lượng, hàng hóa hết hạn sử dụng: 100.000.000 đồng. Tuy nhiên phía ông C, bà S lại cho rằng bà N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê nhà theo thỏa thuận, trong quá trình thuê, quán của bà N đã làm mất trật tự công cộng nhiều lần nên ông, bà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà trên. Yêu cầu của bị đơn: Ông C, bà S có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án buộc bà N phải thanh toán số tiền thuê nhà từ 01/01/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm 13/8/2019 là 408.633.000 đồng và tiếp tục đến ngày bàn giao mặt bằng với giá thuê 13.000.000 đồng/tháng. (2) Quá trình giải quyết vụ án 1. Quyết định của Tòa án nhân dân (TAND) quận LC, thành phố ĐN đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DSST ngày 13/8/20190: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và khởi kiện bổ sung của nguyên đơn - bà N với ông C và bà S. - Về quan hệ hợp đồng: Chấm dứt hợp đồng thuê nhà giữa bà N với ông C được ký kết ngày 05/6/2015 tại Văn phòng công chứng NY thành phố ĐN. Buộc bà N dịch chuyển tất cả tài sản của bà có tại tầng trệt và vỉa hè nhà số 83 AC, tổ 51 phường KB ra khỏi vị trí hiện tại và bàn giao mặt bằng cho ông c kể từ ngày tuyên án. - Về yêu cầu phản tố: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố và yêu cầu phản tố bổ sung của ông C bà S, buộc bà N bồi thường cho ông C, bà S số tiền 408.633.000 đồng. Trường hợp sau ngày 13 tháng 8 năm 2019 nếu bà N vẫn chưa bàn giao mặt bằng thì ngoài số tiền lãi bà N phải trả do chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 thì bà N còn phải bồi thường số tiền thuê nhà tính từ ngày 14 tháng 8 năm 2019 đến ngày bàn giao mặt bằng với số tiền mỗi tháng 13.000.000 đồng: Cụ thể mỗi ngày 433.333 đồng....Ngoài ra, tòa án còn quyết định về phần lãi suất chậm thi hành án, án phí, lệ phí và quyền kháng cáo của các đương sự. (Ngày 27/8/2019, VKSND quận LC ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐKNPT-VKS-DS đề nghị hủy toàn bộ bản án DSST nêu trên.) 2. Quyết định của Tòa án nhân dân thành phố ĐN đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2019/DSPT ngày 30/11/2019: Không chấp nhận kháng cáo của bà N; Không chấp nhận Kháng nghị phúc thẩm của VKSND quận LC; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DSST ngày 13/8/2019 của TAND quận LC. 3. Quyết định giám đốc thẩm số 38/2020/DS-GĐT ngày 06/7/2020: Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN quyết định: Không chấp nhận kháng nghị GĐT nêu trên của VKSND cấp cao tại ĐN, giữ nguyên bản án phúc thẩm. - Ngày 24/8/2020, VKSND cấp cao tại ĐN có báo cáo đề nghị kháng nghị đối với Quyết định GĐT nêu trên. - Ngày 14/3/2022, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quyết định kháng nghị số 05/QĐ-VKS-DS đề nghị Hội đồng Thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết định giám đốc thẩm số 38/2020/DS-GĐT ngày 6/7/2020 của TAND cấp cao tại ĐN, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2019/DS-PT ngày 30/11/2019 của TAND thành phố ĐN và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DS-ST ngày 13/8/2019 của TAND quận LC, thành phố ĐN. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm - Về việc ông C, bà S đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà và nghĩa vụ thông báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng: Theo nội dung hợp đồng nêu trên, tại Điều 4 khoản 2, hai bên thỏa thuận phương thức thanh toán thì bà N đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Đồng thời ông C, bà S có thực hiện nghĩa vụ báo trước thông qua bà H (người được bà N nhờ trông coi quán) và ông T đôn đốc bà N trả tiền cũng như thông báo, yêu cầu bà N có mặt để giải quyết, tuy nhiên bà N đã không có mặt. Như vậy, ông C, bà S đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là đúng theo thỏa thuận của hai bên tại hợp đồng thuê nhà. - Xác định thiệt hại do đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét đến những thiệt hại thực tế của bà N, xác định lỗi hoàn toàn thuộc về bà N và buộc bà N phải bồi thường thiệt hại trên cơ sở phát sinh thiệt hại xảy ra cũng chính bằng khoản tiền thuê nhà hàng tháng từ thời điểm chấm dứt thực hiện hợp đồng đến thời điểm xét xử là không phù hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bà N. Do đó, Quyết định giám đốc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2019/DS-PT ngày 30/11/2019 của TAND thành phố ĐN là không đúng. Về việc VKSND quận LC, VKSND thành phố ĐN và VKSND cấp cao tại ĐN xác định bà N có vi phạm nghĩa vụ thanh toán nhưng chưa đủ 03 tháng nên ông C, bà S không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà và thu hồi nhà ở đang cho thuê là chưa nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, VKSND các cấp đã phát hiện vi phạm khác của Tòa án và kịp thời ban hành kháng nghị theo thẩm quyền. Từ vụ án trên, VKSND tối cao thông báo để các VKSND các cấp nghiên cứu cùng rút kinh nghiệm chung, nhằm nhận diện được các vi phạm tương tự để thực hiện tốt chức năng kiểm sát của Ngành theo quy định của pháp luật.
Rút kinh nghiệm vụ án “cố ý làm trái quy định Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Cao Sơn N cùng đồng phạm, phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nhận thấy một số vấn đề cần rút kinh nghiệm như sau: 1. Tóm tắt vụ án Ngày 18/11/2003, UBND huyện T quyết định thành lập Ban Quản lý dự án Đầu tư và xây dựng công trình huyện T, có con dấu và tài khoản riêng. Trong đó: - Cao Sơn N được bổ nhiệm làm Trưởng ban, - Dương Thị T.H làm Kế toán trưởng, - Nguyễn Thiên D làm Phó trưởng ban - Đỗ Tú T làm cán bộ kỹ thuật kiêm thủ quỹ. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, các đối tượng trên đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng. Gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng và cổ ý làm trái chi sai số tiền 3.123.581.697 đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý. 2. Bản án sơ thẩm Ngày 28/5/2019, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST, TAND tỉnh N áp dụng khoản 3, Điều 165 Bộ luật hình sự 1999 xử phạt đối với các bị cáo như sau: - Cao Sơn N 06 năm tù. - Dương Thị T.H 04 năm tù. - Nguyễn Thiên D 03 năm tù. - Đỗ Tú T 02 năm tù cùng. Về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Sau đó, các bị cáo kháng cáo kêu oan trong hạn luật định. 3. Bản án phúc thẩm Ngày 15/9/2020, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 532/2020/HSPT, TAND cấp cao tại TP. M chấp nhận một phần đơn kháng cáo của các bị cáo. Sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm, áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999, miễn trách nhiệm hình sự đối với Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T. Ngày 09/9/2021, Viện trưởng VKSNDTC quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Ngày 04/10/2022, Hội đồng thẩm phán TANDTC chấp nhận Kháng nghị của VKSNDTC, hủy Bản án hình sự phúc thẩm của TAND cấp cao TP. M, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh N đối với các bị cáo nêu trên. 4. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm (1) Sai phạm của các bị cáo Lợi dụng nhiệm vụ được giao các bị cáo đã làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chi tạm ứng không đúng đối tượng thụ hưởng 8 tỷ đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 10.943.838.614 đồng, cụ thể: - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 500 triệu đồng cho Công ty D: Ngày 22/01/2009, Cty D được Cao Sơn N chi tạm ứng số tiền 500 triệu đồng (nguồn tiền ngân sách của UBND huyện) để thi công công trình đường 797 là không đúng đối tượng, đúng nội dung thanh toán. Ngày 30/5/2009 công trình đường 797 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đến ngày 27/11/2009, BQLDA đã thanh toán 4 lần tổng số tiền 4.369.658.000 đồng nhưng N và đồng phạm không thu hồi tiền tạm ứng theo phụ lục hợp đồng là vi phạm phụ lục. Trong năm 2012, 2013, UBND huyện T đã 06 lần yêu cầu N và đồng phạm thu hồi số tiền tạm ứng này nhưng đến sau khi khởi tố vụ án hơn 03 tháng, Cty D mới nộp trả số tiền trên vào ngày 10/11/2015. Như vậy, các bị cáo cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về chi tạm ứng gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước số tiền 500 triệu đồng trong thời gian từ ngày 01/01/2010 - ngày 03/8/2015 (Điểm 1, Phần I Thông tư số 108/2008/TT-BTC, ngày 18/11/2018 của Bộ Tài chính “Thời hạn chi, tạm ứng ngân sách kể cả tạm ứng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối với các nhiệm vụ được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm được thực hiện chậm nhất đến ngày 31/12”). Ngoài việc gây thiệt hại số tiền này, các bị cáo còn gây thiệt hại cho Nhà nước bằng tiền lãi của số tiền 500 triệu đồng là 247.410.956 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 02 tỷ đồng cho Cty P: Cty P chưa phải đối tượng nhận thầu, UBND huyện T không đề nghị tạm ứng tiền thi công 03 công trình, nhưng ngày 10/11/2010 N và đồng phạm đã chi 02 tỷ đồng tạm ứng cho Công ty Hiệp phát (là cty gia đình của Nguyễn Thiên D). Đến ngày 27/12/2010 Cty P mới được chỉ định và ký 03 hợp đồng xây dựng với Ban QLDA về việc thi công các hạng mục, mua sắm thiết bị 03 công trình phát sinh tại trụ sở UBND huyện T. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bị cáo lại tiếp tục chi 50% tạm ứng giá trị hợp đồng cho Cty P số tiền 1.089.000.000 đồng, tổng cộng N và đồng phạm đã chi tạm ứng cho Cty P là 3.089.000.000 đồng, trong khi giá trị thi công chỉ là 2.179.670.000 đồng. Ngày 17/01/2011, Ban QLDA đà thanh toán khối lượng 03 công trình cho Cty P đều đạt 90% tổng giá trị công trình nhưng các bị cáo chỉ thu hồi được 1.089.000.000 đồng. Khi các công trình này được phê duyệt quyết toán xong toàn bộ giá trị 03 công trình vào ngày 19/9/2013 thì số tiền 02 tỷ đồng vẫn không được thu hồi. Sau 07 lần yêu cầu, ngày 07/8/2014, Cty P mới nộp hoàn trả 02 tỷ đồng. Như vậy các bị cáo đã cố ý chi sai cho Cty P dẫn đến không thu hồi được tiền tạm ứng trong thời gian 03 năm 09 tháng, gây thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước sách Nhà nước 02 tỷ đồng cùng số tiền lãi là 648.493.151 đồng. - Cố ý chi tạm ứng sai số tiền 5,5 tỷ đồng cho Cty H: Công trình trụ sở Huyện ủy UBND huyện T và Trường THCS V do Ban QLDA ký thuê nhà thầu nhận thi công và ký hợp đồng xây dựng với Cty cổ phần phát triển đô thị N. Theo Hợp đồng xây dựng năm 2007 giá trị thi công công trình là 19.238.179.000 đồng, thời gian hoàn thành là ngày 31/12/2010 và Hợp đồng số 11 ngày 09/6/2009 giá trị thi công công trình là 9.212.209.000 đồng, thời gian hoàn thành vào ngày 31/12/2010. Hợp đồng còn quy định rất chi tiết, cụ thể về nghĩa vụ các bên khi thực hiện hợp đồng này như nội dung vấn đề hoàn ứng: theo nội dung tạm ứng tại Điều 8 Hợp đồng số 76 và Điều 9 Hợp đồng số 11 có nội dung “Bên A (Ban QLDA) sẽ tạm ứng cho Bên B”, và quy định về việc thu hồi tạm ứng này rất cụ thể: “vốn tạm ứng được thu hồi qua các lần thanh toán, việc thu hồi vốn tạm ứng được bắt đầu ngay khi thanh toán lần đầu và kết thúc khi khối lượng đã thanh toán đạt 80% giá trị hợp đồng”. Trên cơ sở hai hợp đồng này, Công ty N đã ký 02 hợp đồng thi công với ông D cũng là Đội trưởng Đội thi công của Cty N, giữa ông D và Cty N không có bất kỳ thỏa thuận nào ủy quyền cho ông D được đề nghị tạm ứng tiền thi công hai công trình nêu trên. Do D nợ tiền mua vật liệu của Cty P.H và N muốn thu hồi tiền nợ cho Cty P.H (công ty gia đình của N) nên N đã lập các tờ trình xin UBND huyện tạm ứng tiền thi công 02 công trình nêu trên. Cụ thể - Ngày 09/12/2010, UBND huyện đã chi 3 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA. - Ngày 03/3/2011, UBND huyện chi 2,5 tỷ tiền tạm ứng cho Ban QLDA để chi thi công công trình trụ sở UBND huyện T. Sau khi có tiền trong tài khoản của Ban QLDA, N và H không thông báo để Cty N xin tạm ứng mà hướng dẫn D lập lại 02 hợp đồng mua bán vật tư khống giữa D và Cty P.H để D làm đề nghị tạm ứng để có tiền trả nợ cho Cty P.H. S và H đã ký ủy nhiệm chi, tiền tạm ứng được chuyển trực tiếp vào tài khoản của Cty P.H, trong khi Cty P.H không có ký kết hợp đồng xây dựng với Ban QLDA, việc chi này là hoàn toàn sai đối tượng, sai mục đích sử dụng. Việc thanh toán khối lượng thi công công trình trụ sở UBND huyện: Từ ngày 31/12/2007 - tháng 26/7/2010, Cty N đã được Ban QLDA thanh toán 08 lần tổng số tiền 16.809.209.600 đồng đạt hơn 84% tổng giá trị khối lượng công trình trụ sở UBND huyện theo nguyên tắc và cam kết trong hợp đồng là phải thu hồi 08 tỷ tiền tạm ứng theo từng lần thanh toán giai đoạn ngay từ lần thanh toán đầu tiên. Đến ngày 26/7/2010, công trình trụ sở UBND huyện hết khối lượng thanh toán nhưng vẫn không được nghiệm thu thanh toán 4,2 tỷ vì các bị cáo không hoàn ứng số tiền 04 tỷ đồng cho Ngân sách. Các bị cáo cố tình không thu hồi gây thiệt hại cho ngân sách số tiền 4 tỷ đồng. Ngày 31/12/2011, công trình Trường THCS V đã gần hoàn thành nhưng không thu hồi số tiền tạm ứng 1,5 tỷ đồng gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước số tiền này. Từ việc không thu hồi được số tiền 5,5 tỷ đồng, ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại tiền lãi suất của số tiền này là: tiền lãi của 3 tỷ đồng từ ngày 01/01/2011 đến ngày 03/8/2015 là 1.239.780.822 đồng; tiền lãi của 2,5 tỷ từ ngày 01/01/2012 đến ngày 03/8/2015 là 808.150.685 đồng. Cty P và Cty P.H đều không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để nhận 02 khoản tiền trên (02 tỷ và 5,5 tỷ đồng) nhưng từ khi chuyển tiền đến thời điểm hiện tại, không có tài liệu nào thể hiện các bị cáo tiến hành thu hồi, đòi trả về cho UBND huyện. Trong khi UBND huyện có 07 văn bản liên tục (từ năm 2012 đến năm 2013) yêu cầu thu hồi đều không có kết quả. Từ hành vi làm trái chi tiền sai đối tượng, sử dụng sai mục đích, không đúng nội dung tạm ứng dẫn đến hậu quả gần 07 năm mới khắc phục được 5,5 tỷ đồng từ các nguồn khác nhau như: - Quyết toán trụ sở huyện ủy - ủy ban được 4.207.094.083 đồng, còn lại 1.292.905.917 đồng Ban QLDA kế nhiệm phải đi xin và luân chuyển từ các nguồn khác. - Còn đối tượng nhận tiền sai quy định là Cty P.H - Cty gia đình của bị cáo N lại không trả. (2) Cố ý làm trái chi sai số tiền 3 tỷ đồng tạm giữ, bảo hành công trình do Ban QLDA huyện T quản lý: Từ 18/6/2006 - 04/2/2012, các bị cáo Cao Sơn N, Dương Thị T.H, Nguyễn Thiên D, Đỗ Tú T lập 33 phiếu rút tiền mặt tổng cộng 4.043.633.000 đồng tiền tạm giữ bảo hành của 75 công trình xây dựng trên địa bàn huyện sau đó cho Lâm Tấn D mượn 3.973.295.000 đồng không có chứng từ, thủ tục theo quy định. Trong khi ông D không ký hợp đồng xây dựng với Ban QLDA và không được ủy quyền từ các đơn vị thi công để nhận tiền. Đến khi vụ án khởi tố, Lâm Tấn D mới trả được 849.713.303 đồng, Ban ALDA vẫn chưa thu hồi 3.123.581.697 đồng, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước 3.123.581.697 đồng. Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo là cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây thiệt hại cho Ngân sách số tiền 14.067.420.311 đồng, nhưng bản án phúc thẩm lại cho rằng hành vi trên của các bị cáo có dấu hiệu tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Việc thu hồi tiền tạm ứng ảnh hưởng đến việc điều tiết khoản chi ngân sách huyện cho hoạt động chung, khoản tiền 08 tỷ đồng tạm ứng để thi công các hạng mục công trình đà được thu hồi, không có thiệt hại số tiền trên. Ban quản lý dự án xác định số tiền tạm giữ bảo hành công trình đã được thanh toán cho đơn vị thi công, đơn vị thi công không có khiếu nại gì với Ban quản lý về số tiền bảo hành công trình chậm thanh toán. Các hạng mục công trình vẫn đảm bảo chất lượng, đã đưa vào sử dụng, hậu quả thiệt hại không xảy ra, tính chất nguy hiểm của hành vi không còn nên áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 để miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật. Vì các bị cáo cố ý phạm tội vì lợi ích của cty gia đình nhưng bản án phúc thẩm cho rằng các bị cáo phạm tội với lỗi vô ý để chuyển tội danh, hậu quả vật chất đã xảy ra và tội phạm đã hoàn thành, việc khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ chứ không phải thiệt hại chưa xảy ra như bản án phúc thẩm nhận định đề từ đó miễn trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại TP M kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo phạm tội là không có căn cứ và cho rằng các bị cáo có dấu hiệu của tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chuyển từ tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trong” sang tội “Thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và đề nghị miễn hình phạt đối với tất cả các bị cáo là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật nên cần phải rút kinh nghiệm. VKSNDTC thông báo để các đơn vị cùng rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong toàn ngành.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao nhận thấy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2019/QĐ-PT ngày 08/5/2019, giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND” giữa nguyên đơn bà H với bị đơn là bà C của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại thành phố M có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Nguyên đơn Bà H trình bày: Bà H cho rằng diện tích 1.962m² đất tranh chấp là thửa đất số 72 (thửa cũ 56), tờ bản đồ số 17, tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN, có nguồn gốc của cha mẹ chồng bà là cụ K và cụ H. Khi cụ K, cụ H chết thì chồng bà là ông Th, quản lý, sử dụng đất. Năm 1987, gia đình bà C có khó khăn, ông Th đã cho bà C tạm thời canh tác 2,5 sào. Quá trình canh tác, bà C đã lấn chiếm thêm, đồng thời xây dựng nhà kiên cố trên đất. Mặc dù, đất tranh chấp từ năm 1992, nhưng đến năm 1993 bà C vẫn kê khai nộp được thuế. Ngày 09/10/1998, bà C làm đơn xin cấp GCN QSDĐ. Diện tích đất bà C xin cấp GCN QSDĐ là bà C mượn của gia đình bà canh tác, nhưng Hội đồng xét duyệt cấp GCN xã QTr lại xác nhận nguồn gốc đất của bà C có “nguồn gốc ông Th cho năm 1987 và bà C sử dụng ổn định phù hợp với quy hoạch ”. Ngày 09/8/2002, ủy ban nhân dân (UBND) huyện ThNh cấp GCN QSDĐ cho bà C và ngày 21/12/2006 UBND huyện ThNh cấp lại GCN QSDĐ cho bà C diện tích 1.962m2 đất. Bà đã nhiều lần yêu cầu bà C trả đất, nhưng bà C không trả. Bị đơn bà C trình bày: Năm 1975, gia đình bà vào lập nghiệp tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Thời điểm đó, gia đình bà gồm có bà, bà H (là em gái của bà) và anh L (là con của bà). Gia đình bà phát cỏ, canh tác trồng hoa màu (khoai lang, đậu, bắp...) trên diện tích đất tranh chấp. Lúc đó, ông Th sinh sống ở thành phố H thỉnh thoảng có về trông coi đất và nói với bà là đất gia đình bà đang canh tác là đất của ông Th nên bà có ngỏ lời xin phần đất này đề canh tác và được ông Th đồng ý. Ngày 08/12/1987, ông Th viết “Giấy xác nhận” cho bà diện tích đất trên. Do có tranh chấp nên ngày 21/11/2000 UBND huyện ThNh ban hành Quyết định số 1627/QĐ và ngày 19/12/2001, UBND tỉnh ĐN ban hành Quyết định 4835/QĐ bác đơn khiếu nại về việc tranh chấp diện tích đất và cấp cho gia đình bà. Do đó, bà không đồng ý với yêu cầu của bà H về việc đòi lại thửa đất nêu trên. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của TAND tỉnh ĐN về quyết định dân sự sơ thẩm số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018: I. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 41/2015/TLST-DS ngày 14/10/2015 về việc “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND ” giữa: - Nguyên đơn: Bà H, sinh năm 1953; địa chỉ: 271/8 T, Phường 10, quận PhNh, thành phố H. Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Ông Kh, sinh nám 1973 (theo văn bản và quyền ngày 22/12/2014); hộ khẩu thường trú: 1/5J Ch, Phường 14, quận GV, thành phố H. - Bị đơn: Bà C, sinh năm 1939; địa chỉ: F3/113 ấp NS, xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Bà M, sinh năm 1960 (theo văn bản ủy quyền ngày 01/7/2015); địa chỉ: P505 nhà D5A phổ TrThT, phường DVH, quận CGi, thành phố H. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1. UBND tỉnh ĐN; địa chỉ: số 02 NgVTr, phường ThB, thành phố BH, tỉnh ĐN. 2. UBND huyện ThNh, tỉnh ĐN; địa chỉ: Tập LTh, xã XTh, huyện ThNh, tỉnh ĐN. 3. Anh L, sinh năm 1961; 4. Bà Thị H, sinh năm 1957; Cùng địa chỉ: số nhà F3/113 ấp NS, xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. II. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án: Đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự này. Sau khi có Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm, ngày 12/12/2018 bà H có đơn kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm nêu trên. Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2019/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bà H, hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Do có kiến nghị của Chánh án TAND tỉnh ĐN, ngày 14/3/2022, người có thẩm quyền đã ban hành Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số 06/2022/KN-DS đối với Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2012/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M. Tại phiên tòa xét xử giám đốc thẩm ngày 28/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã xác định, phân tích, làm rõ vi phạm đề nghị hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 154/2014/QĐ-PT ngày 08/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố M, giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự 55/2018/QDST-DS ngày 31/10/2018 của TAND tỉnh ĐN và được Hội đồng xét xử chấp nhận. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - Diện tích đất tranh chấp 1.962m2 giữa các đương sự là thửa đất số 72, tờ bản đồ số 17 (thửa cũ số 56, tờ bản đồ số 12) tọa lạc tại xã QTr, huyện ThNh, tỉnh ĐN. Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định thửa đất này năm 1995 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đó ông Th (chồng bà H) đã có tranh chấp quyền sử dụng thửa đất với bà C, nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND huyện ThNh theo quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật đất đai năm 1993 là đúng theo quy định của pháp luật. - Diện tích đất bà H tranh chấp với bà C đã được giải quyết tại Quyết định số 4835/QĐ-CTUBT ngày 19/12/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh ĐN là quyết định có hiệu lực thi hành. - Tòa án nhân dân tỉnh ĐN ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 là đúng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. TAND cấp cao tại thành phố M hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 55/2018/QĐST-DS ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh ĐN tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật là không có cơ sở. Kiểm sát viên kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm đã nghiên cứu hồ sơ chưa toàn diện nên không phát hiện ra vi phạm nêu trên của Tòa án. Trên đây là vi phạm của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại của UBND” mà Kiểm sát viên VKSND không phát hiện kịp thời để thực hiện chức năng, nhiệm vụ khi kiểm sát xét xử phúc thẩm và thông báo phát hiện vi phạm đề nghị cấp có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND tối cao (Vụ 9) thông báo để các VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự tương tự.
Rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế”
Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN nhận thấy việc giải quyết vụ án dân sự về “Tranh chấp chia di sản thừa kế'’ giữa nguyên đơn bà Đ với bị đơn ông T, ông Th của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố X, tỉnh Y tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 có vi phạm, cần thông báo rút kinh nghiệm. (1) Tóm tắt nội dung vụ án dân sự Yêu cầu nguyên đơn: - Bà Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án chia phần di sản thừa kế của ông N (chồng của bà, chết năm 1995) để lại trong khối tài sản chung của vợ chồng là 1/2 ngôi nhà và tài sản khác gắn liền diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất số 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b cho hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm bà và 06 người con: Bà NT, ông NT, bà M, bà MT, ông Th, ông T (riêng bà Tr đã được chia trước 40m2 đất và xây dựng nhà ở ổn định nên từ chối không hưởng phần di sản còn lại). - Bà Đ đề nghị được nhận nhà đất bằng hiện vật, tiếp tục sở hữu, sử dụng nhà đất để ở và trả lại giá trị bằng tiền cho các đồng thừa kế khác. Bị đơn: - Bị đơn ông Th thống nhất yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xin nhận kỷ phần bằng giá trị. - Bị đơn ông T, hiện đang ở trên nhà đất tranh chấp, không đồng ý chia thừa kế, ông muốn giữ nguyên nhà đất như hiện nay để ở và làm nơi thờ tự. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của TAND thành phố X, tỉnh Y về bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018: - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đ và sự tự nguyện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà NT, ông NT, bà M, bà MT giao lại kỷ phần của mỗi người được hưởng cho mẹ (bà Đ) toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt. - Bà Đ được quyền tiếp tục sở hữu, sử dụng căn nhà cấp 4 cùng các công trình kiến trúc khác và các cây trồng trên đất gắn liền với diện tích đất 287,6m2, thuộc thửa đất sổ 394, tờ bản đồ D4-IV-D-b... - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đổi với các kỷ phần cho ông Th được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng; ông T được hưởng từ di sản là 216.442.562 đồng. - Bà Đ phải trả lại giá trị bằng tiền đối với giá trị tài sản phát sinh của vợ chồng ông T, bà N là 22.655.593 đồng. - Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai Ngày 11/12/2018, TAND thành phố X ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018. Ngày 15/02/2022, VKSND thành phổ X, tỉnh Y có Báo cáo số 04/BC-VKS- DS đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X. Ngày 01/6/2022, bà Đ có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Ngày 30/8/2022, Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 63/2022/QĐKNGĐT-VKS-DS đề nghị ủy ban thẩm phán TAND cấp cao tại ĐN xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ-SCBSBA ngày 11/12/2018 của TAND thành phố X, tỉnh Y. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 58/2022/DS-GĐT ngày 25/9/2022 của TAND cấp cao tại ĐN đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại ĐN, hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DSST ngày 27/4/2018 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 01/2018/QĐ- SCBSBA ngày 11/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. (3) Những vấn đề rút kinh nghiệm Tại phần quyết định của các bản án mà Tòa án nhân dân thành phố X gửi cho bà Đ và VKSND thành phố X lại ghi thêm nội dung: “vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N đế tạo lập nơi ở khác. ” Đồng thời, ngày 11/12/2018, TAND thành phố X lại ban hành Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm có nội dung: “Tại dòng thứ 9 từ trên xuống, trang số 6 của bản án đã ghi: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Nay sửa chữa, bổ sung như sau: “Bà Đ có nghĩa vụ kê khai, làm thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vợ chồng ông T, bà N được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bà Đ thi hành án đủ sổ tiền 239.098.155 đồng (216.442.562 đồng + 22.655.593 đồng) cho vợ chồng ông T, bà N để tạo lập nơi ở khác. ” . Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm sửa chữa, bổ sung vào phần quyết định của bản án sơ thẩm nội dung hoàn toàn mới so với Biên bản nghị án và bản án được tuyên tại phiên tòa là không đúng quy định tại Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thực tế, tồn tại nhiều Bản án sơ thẩm cùng số 26/2018/DSST cùng ngày 27/4/2018 và Quyết định số 01/2018/QĐ-SCBSBA về việc sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm của TAND thành phố X có nội dung tại phần quyết định khác nhau dẫn đến không thể thi hành án. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh Y trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp chia di sản thừa kế” bị cấp giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, VKSND cấp cao tại ĐN thông báo đến VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.
Rút kinh nghiệm "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ"
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) là hợp đồng theo đó người sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho người được chuyển nhượng (gọi là bên nhận quyền sử dụng đất) theo các điều kiện, nội dung, hình thức được quy định trong Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai. Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cấp cao tại ĐN thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ” giữa nguyên đơn ông H và bị đơn ông K, ông VH. (1) Tóm tắt nội dung vụ án Năm 2000 ông K có chuyển nhượng cho ông H diện tích đất 2000m2 bằng giấy viết tay với nội dung: Chuyển nhượng lâu dài, nếu có thay đổi chính sách cũng không tranh chấp, giá chuyển nhượng 2.500.000 đồng. Hai bên giao nhận tiền, ông H canh tác ổn định và nộp thuế đầy đủ, tuy nhiên ông H chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Năm 2007, ông K làm hợp đồng tặng cho diện tích đất trên cho ông VH, bà L (con ông K). Năm 2015, ông VH đòi đất, cản trở không cho ông H tiếp tục canh tác. (2) Quá trình giải quyết vụ án Quyết định của Tòa án qua bản án dân sự sơ thẩm 13/2022/DSDT ngày 18/05/2022. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H về việc “Yêu cầu công nhận đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 01/11/2000 giữa ông K và ông H và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ số H00985/2 UBND huyện TH cấp ngày 30/9/2007 đứng tên ông VH và bà L. Vì không có căn cứ pháp luật. Cụ thể: - Tuyên bố đơn xin chuyển nhượng QSDĐ ngày 01/11/2000 giữa ông H và ông K bị vô hiệu. - Buộc ông K phải có trách nhiệm trả cho ông H số tiền 2.500.000 đồng về khoản tiền chuyển nhượng đất đã nhận và phải bồi thường cho ông H số tiền phạt vi phạm tương ứng với mức độ lỗi là 178.500.000d. Tổng cộng hai khoản là 181.000.000 đồng. Đổi với diện tích đất thửa số 189, tờ bản đồ 4D, diện tích 2000m2 (đo đạc thực tế 1.977,7m2), đất HNK tọa lạc tại thôn Lễ Lộc Bình, xã STĐ, huyện TH, tỉnh PY theo Giấy chứng nhận QSDĐ số H0098512 do UBND huyện TH cấp ngày 30/9/2007 đứng tên VH, KL đã được ông H giao cho bị đơn năm 2016… Ngày 18/5/2022, nguyên đơn ông H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên. Ngày 31/5/2022, Viện trưởng VKSND tỉnh PY ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 03/QĐ-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2022/DSST ngày 18/5/2022 của TAND tỉnh PY, theo hướng sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Quyết định của TAND cấp cao tại ĐN qua bản án dân sự phúc thẩm số 204/2022/DSPT ngày 14/9/2022: Chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh PY và kháng cáo của ông H, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. (3) Những vấn đề cần rút kinh nghiệm - Tại đơn chuyển nhượng QSDĐ chỉ có chữ ký chủ đất là ông K, vợ chồng ông VH (con ông K), bà L (vợ ông VH), còn các thành viên khác trong gia đình không ký. Tuy nhiên, sau khi nhận chuyển nhượng vợ chồng ông H đã giao đủ tiền và nhận đất canh tác từ năm 2000 đến năm 2015 và cũng không ai tranh chấp. Vợ và các con ông K đều cư trú tại nơi có diện tích đất chuyển nhượng này, biết vợ chồng ông H sản xuất nhưng không có ý kiến gì là mặc nhiên thừa nhận, phù hợp với tinh thần Án lệ số 04/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua ngày 04/6/2016. - Đất nông nghiệp được cân đối theo Nghị định 64/CP cho 09 nhân khẩu của hộ gia đình ông Khanh với tổng diện tích là 11.829m2; bình quân mỗi nhân khẩu là 1.314m2. Do đó, việc ông K và ông VH là 02 nhân khẩu trong hộ gia đình chuyển nhượng 2.000m2 đất cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình; Do đó, có đủ cơ sở để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/11/2000 được ký kết giữa ông K, ông VH với ông H. - TAND tỉnh PY xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật không đúng. Trên đây là vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh PY trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, huỷ Giấy chứng nhận QSDĐ”. VKSND cấp cao tại ĐN thông báo để VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.
Rút kinh nghiệm khiếu kiện tranh chấp QSDĐ, di dời tài sản theo thủ tục giám đốc thẩm
Đây là một vụ án tranh chấp phức tạp với nhiều người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan từ năm 1985 đến năm 2020. Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, VKSNDTC thông báo rút kinh nghiệm về những sai sót, vi phạm đối với vụ án: "Tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu di dời tài sản, vật kiến trúc trên đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là bà Lâm Thị C với bị đơn là bà Nguyễn Thị Bích L, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ủy ban nhân dân huyện PQ, ông Nguyễn Việt D, Công ty LT và một số người khác. 1. Tóm tắt vụ án Năm 1975 huyện ủy PQ cấp cho bố mẹ bà Lâm Thị C là cụ Lâm Văn M và cụ Trần Thị H diện tích đất 40.000 m2 (trong đó có diện tích 11.420,9 m2 đang tranh chấp) tại ấp SĐ, xã DT, huyện PQ, tỉnh KG. Trên đất có trồng một số cây lâu năm như: Dừa, Mít, Tràm bông vàng... Năm 1985, UBND huyện PQ đã mượn một phần đất trên để xây dựng lò gốm, việc mượn không lập văn bản, giấy tờ. Năm 1993, do không không hiệu quả nên đã sang nhượng cho ông Huỳnh Văn M. Năm 1996, ông M cho người chặt phá cây do gia đình bà trồng nên đã xảy ra tranh chấp. Năm 1998, ông Huỳnh Văn M được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trong đó có cả đất tranh chấp). Quá trình khiếu nại UBND huyện PQ ra Quyết định 488/1999/QĐ-UB ngày 09/7/1999, không công nhận khiếu nại của bà C, ngày 22/8/2000 Thanh tra tỉnh KG công nhận quyết định trên. Bà C cho rằng việc giải quyết trên là trái quy định pháp luật, tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà và ông M chưa được cơ quan có thẩm quyền nào giải quyết. Việc ông M chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho Công ty cổ phần LT vào năm 2004, năm 2015 Công ty cổ phần LT chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Bích L, năm 2020 bà L chuyển nhượng cho anh Nguyễn Việt D là không đúng quy định pháp luật. Yêu cầu khởi kiện ra Tòa án Đơn kiện của bà C có những yêu cầu như sau: Buộc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện PQ cấp cho ông Huỳnh Văn M. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông M với Công ty công phần LT và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND tỉnh KG đã cấp cho Công ty cổ phần LT. Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Công chứng ngày 07/8/2015 giữa Công tỵ cổ phần LT với bà Nguyễn Thị Bích L. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện PQ đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bích L ngày 03/9/2015. Hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được công chứng ngày 06/01/2020. Hủy đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho anh Nguyền Việt D ngày 09/01/2020. Giữ nguyên hiện trạng quyền sử dụng diện tích đất 11.420,9m2 tọa lạc tại ấp SĐ, xà DT, huyện PQ cho bà và công nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà. 2. Quá trình giải quyết tại Tòa án Bản án sơ thẩm tại TAND tỉnh KG - Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị C - Chấp nhận yêu cầu độc lập anh Nguyễn Việt D. Theo đó, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyền Việt D được công chứng, chứng thực ngày 06/01/2020, đăng ký biến động quyền sử dụng đất ngày 09/01/2020 tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện PQ. - Buộc bà Lâm Thị C giao trả cho anh Nguyễn Việt D diện tích đất 11.420,9 m2 thực hiện giao dịch cho bà Nguyễn Thị Bích L. - Buộc bà Lâm Thị C phải di dời toàn bộ tài sản, công trình, vật kiến trúc, cây trồng ra khỏi diện tích 11.420,9 m2 đất. - Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Nguyễn Thị Bích L cho lại bà Lâm Thị C giá trị cây trồng trên đất với số tiền 12.714.000 đồng. Bản án phúc thẩm tại TAND cấp cao thành phố H - Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Lâm Thị C. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm của TAND tỉnh KG. - Ngày 15/1/2021, bà Lâm Thị C có đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm trên. - Ngày 04/11/2021, TAND tối cao có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm của TAND cấp cao tại Thành phố H, đề nghị: Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh KG. 3. Rút kinh nghiệm trong công tác kiểm sát vụ án Thứ nhất: UBND huyện bán đấu giá toàn bộ xí nghiệp cho ông M nhưng không có nội dung giao đất. Ngày 12/12/1995, ông M có đơn xin cấp 27.852m2 đất trong đó có diện tích đất đang tranh chấp. Ngày 20/11/1998, UBND huyện PQ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M trong khi đất đang có tranh chấp chưa được giải quyết là không đúng với quy định tại khoản 3 Điều 30 Luật Đất đai 1993. Thứ hai: UBND huyện PQ không công nhận khiếu nại của bà C. Thanh tra tỉnh KG công nhận Quyết định của UBND huyện PQ là không đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai 1993. Thứ ba: Căn cứ vào Biên bản xác minh hoa màu và cây trái trên phần đất giao thì trên đất tranh chấp có một số cây trồng lâu năm, bà C cho rằng những cây trồng lâu năm này do bà trồng từ năm 1975 và năm 1996. Các cấp Tòa án chưa xác minh làm rõ diện tích đất có cây trồng lâu năm có phải do bà C trồng để xem xét công nhận quyền sử dụng phần đất này cho bà C. Tòa án các cấp căn cứ vào Quyết định của UBND huyện PQ và Thanh tra tỉnh KG giải quyết không đúng thẩm quyền đề giải quyết vụ án, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà C là không có căn cứ, không đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn. Thứ tư: Các quyết định giải quyết khiếu nại mà bà C muốn được giao quyền sử dụng đất gồm 0,65 ha thì bà C phải lập thủ tục đề nghị giao đất theo quy định, nếu muốn giao thêm diện tích đất để canh tác thì sẽ được UBND huyện xem xét giao đất tại vị trí khác ngoài thửa đất 0,65 ha đang tranh chấp. Tuy nhiên, sau khi có Quyết định giải quyết khiếu nại thì bà C có đơn đề nghị giao thêm đất hay không? Đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét hay chưa? Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cũng chưa xác minh làm rõ để có căn cứ giải quyết vụ án nhằm đảm bảo quyền lợi cho bà C. Thứ năm: Về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Bích L với anh Nguyễn Việt D được Văn phòng Công chứng N K. tỉnh KG công chứng, chứng thực ngày 06/01/2020 đà vi phạm điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013. do đất chuyển nhượng có tranh chấp, đang được TAND tỉnh KG thụ lý, giải quyết nên không công nhận hợp đồng công chứng trên. Từ vụ án trên, VKSNDTC thông báo để các VKSND các cấp nghiên cứu cùng rút kinh nghiệm chung, nhằm nhận diện được các vi phạm tương tự ặê thực hiện tốt chức năng kiểm sát của Ngành theo quy định của pháp luật.