Khi nào người nộp thuế bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản?
Có những biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nào? Khi nào sẽ cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản của người nộp thuế? Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm: - Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản; - Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; - Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; - Ngừng sử dụng hóa đơn; - Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật; - Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ; - Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề. Như vậy, sẽ có 7 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định trên. Khi nào người nộp thuế bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản? Theo khoản 1 Điều 129 Luật Quản lý thuế 2019 quy định cưỡng chế bằng biện pháp trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế như sau: Biện pháp trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản áp dụng đối với đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác. Như vậy, người nộp thuế là đối tượng bị cưỡng chế có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thì sẽ bị áp dụng biện pháp pháp cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản. Người đang bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản có được xuất cảnh? Theo Điều 66 Luật Quản lý thuế 2019 quy định về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh như sau: - Người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. - Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm thông báo cho cơ quan quản lý xuất cảnh, nhập cảnh về cá nhân, người nộp thuế quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Quản lý thuế 2019. Như vậy, người đang bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản tức là đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế mà chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh.
Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế
Khi nào người nộp thuế sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế? Có các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nào? Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo Điều 124 Luật quản lý thuế 2019 quy định trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm: - Người nộp thuế có tiền thuế nợ quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp theo quy định. - Người nộp thuế có tiền thuế nợ khi hết thời hạn gia hạn nộp tiền thuế. - Người nộp thuế có tiền thuế nợ có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn. - Người nộp thuế không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế theo thời hạn ghi trên quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế, trừ trường hợp được hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành quyết định xử phạt. - Chưa thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế đối với trường hợp người nộp thuế được cơ quan quản lý thuế khoanh tiền thuế nợ trong thời hạn khoanh nợ; không tính tiền chậm nộp thuế theo quy định Luật quản lý thuế 2019; được nộp dần tiền thuế nợ trong thời hạn nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày bắt đầu của thời hạn cưỡng chế thuế. Việc nộp dần tiền thuế nợ được thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp người nộp thuế xem xét trên cơ sở đề nghị của người nộp thuế và phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định số lần nộp dần và hồ sơ, thủ tục về nộp dần tiền thuế nợ. - Không thực hiện biện pháp cưỡng chế đối với người nộp thuế có nợ phí hải quan và lệ phí hàng hóa, phương tiện quá cảnh. - Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế trước khi xuất cảnh và có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. Như vậy, có 4 trường hợp người nộp thuế sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm có tiền thuế nợ quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp, có tiền thuế nợ khi hết thời hạn gia hạn nộp, có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn và không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế theo thời hạn quy định. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo khoản 1 Điều Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 quy định biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm: - Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản; - Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; - Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; - Ngừng sử dụng hóa đơn; - Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật; - Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ; - Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề. Như vậy, có 7 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế như trên. Ai có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo Điều 126 Luật Quản lý thuế 2019 quy định thẩm quyền quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế: - Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019. - Việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề quy định tại điểm g khoản 1 Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 được thực hiện theo quy định của pháp luật. Như vậy, ngoại trừ biện pháp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, giấy phép thành lập, giấy phép hành nghề thì các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế còn lại sẽ do Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan ra quyết định.
Trách nhiệm Tòa án phải thụ lý để giải quyết trong vụ kiện hành chính theo Án lệ 27/2019/AL?
Người khởi kiện khởi kiện quyết định hành chính đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thì Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bác yêu cầu khởi kiện? Tìm hiểu nội dung Án lệ số 27/2019/AL về thụ lý, giải quyết vụ án hành chính liên quan đến nhà đất mà nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/7/1991 (được ban hành kèm theo Quyết định 293/QĐ-CA năm 2019 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Nguồn gốc căn nhà số 05 N, khóm 3 phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh là của cụ Hồng Sa R và cụ Trầm Thị N (là bố mẹ của bà Hồng Thị L) mua của cụ Nguyễn Thị K vào năm 1967 với diện tích 505m2. Năm 1969, ngôi nhà được ngăn thành 13 phòng sử dụng làm phòng ngủ lấy tên là Phòng ngủ Thống Nhất. Năm 1972, cụ N và cụ Hồng Sa R xây dựng thêm 01 dãy nhà lầu 03 tầng, 05 căn, 15 phòng ở phía sau với diện tích đất xây dụng là 77m2. Ngày 13-4-1976, cụ N được Ty thương nghiệp tỉnh Cửu Long cấp Giấy phép hành nghề số 548/TN/GP/ĐK về việc cho thuê mướn phòng ngủ. Tháng 8-1978, Công ty Khách sạn ăn uống thị xã Trà Vinh quản lý và tiếp tục kinh doanh phòng ngủ với hình thức chủ nhà làm nhân viên phục vụ và hưởng lương mỗi tháng. Ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 35/QĐ-84 về việc quản lý toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T, tỉnh Trà Vinh của cụ Hồng Sa R với nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T của cụ Hồng Sa R, gồm phần nhà trước và dãy nhà phía sau, đế cho 03 phòng trệt ở dãy phía sau cho cụ Hồng Sa R sử dụng”. Do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, ngày 28-7-1985, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 59/QĐ-85 về việc phân phối nhà với nội dung: “Nay giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất, đường N, phường 2,thị xã T cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh. Năm 1990, Công ty Xuất nhập khẩu thị xã Trà Vinh giải thể, cụ Hồng Sa R vào chiếm lại và sử dụng. Năm 1992, cụ Hồng Sa R có đơn xin lại căn nhà trên. Năm 1993, cụ Hồng Sa R chết, các con của cụ trong đó có bà Hồng Thị L tiếp tục quản lý và sử dụng căn nhà cho đến nay. Bà L có đơn xin được xem xét công nhận quyền sở hũu toàn bộ nhà, đất nêu trên. Ngày 27-7-2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1350/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà L như sau: “Bác đơn khiếu nại của bà L yêu cầu họp thức hóa toàn bộ căn nhà số 05 đường N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Bà L được mua lại căn nhà, đất theo địa chỉ số 05 dường N theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ”. Ngày 13-8-2012, bà L có đơn khởi kiện đối với Quyết định số 1350/QĐ-ƯBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh. Nhận định của Tòa án: [1] Về tố tụng: Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc giải quyết khiếu nại của bà Hồng Thị L được ban hành căn cứ vào quy định tại Điều 1 Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991, theo đó “Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01-7-1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất”. Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có nội dung làm phát sinh, thay đối, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của bà Hồng Thị L. Do đó, theo quy định tại Điều 3 và Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì Quyết định số 1350/QĐ-ƯBND ngày 27-7- 2012 là quyết định hành hình và là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên việc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là đúng thấm quyền. [....] [3] Căn nhà số 05 N, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh mà hiện nay bà L đang quản lý, sử dụng có nguồn gốc là của gia đình bà L. Tuy nhiên, ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh đã ban hành Quyết định số 35/QĐ- 84 với nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường II, thị xã T của cụ Hong Sa R. Gồm phần nhà trước và dãy nhà lầu phía sau. Để cho 03 phòng trệt dãy lầu phía sau cho cụ Hong Sa R sử dụng… ” và ngày 28-7-1985 Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 59/QĐ-85 về việc giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh quản lý. Năm 1988, khi còn sống cụ Hồng Sa R đã có đơn yêu cầu được nhận lại căn nhà nêu trên. Tuy nhiên, tại Công văn số 01/PĐ- 88 ngày 08-01-1988 của Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh và Công văn số 02/TT-NĐ ngày 05-11-1988 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long đã trả lời không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của cụ Hồng Sa R vì nhà thuộc diện cải tạo. Không đồng ý với việc giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long, cụ Hồng Sa R có nhiều đơn khiếu nại. Sau khi cụ Hồng Sa R chết, bà Hồng Thị L tiếp tục khiếu nại. [4] Tại Công văn số 358/BXD-TTr ngày 26-02-2007, Bộ Xây dựng đã có ý kiến đối với trường họp khiếu nại của bà L như sau: “Tuy căn nhà nói trên do cụ Hồng Sa R trực tiếp sử dụng nhưng trước đó Nhà nước đã có quyết định quản lý căn nhà này và thực tế đã bố trí sử dụng từ sau giải phóng cho đến khi gia đình cụ Hông Sa R vào chiếm lại (năm 1990). Vì vậy, Bộ Xây dựng nhất trí với dự kiến của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là cho gia đình cụ Hồng Sa R được ký họp đồng thuê căn nhà sô 05 đường N với Nhà nước, sau đó, nếu gia đình cụ R có nhu cầu thì được mua lại căn nhà này theo Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ”. [5] Như vậy, thông qua việc ban hành Quyết định số 35/QĐ-84 ngày 21-8-1984 và Quyết định số 59/QĐ-85 ngày 28-7-1985 của Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh, xác định: “Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất” theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991. Vì vậy, việc bà L khiếu nại đòi lại căn nhà số 05 đường N là không có cơ sở chấp nhận. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1350/QĐ-ƯBND ngày 27-7-2012 không chấp nhận yêu cầu của bà L là đúng quy định của pháp luật. [6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyết định quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QTI11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thấm quyền, nội dung, trình tự thủ tục thì Tòa án phải thụ lý đế giải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, trong vụ án hành chính này Tòa án cấp sơ thấm bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng Thị L yêu cầu hủy Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là có căn cứ, đúng pháp luật. [7] Quyết định số 1350/QĐ-UBND nêu trên còn quyết định: “Bà Hồng Thị L được mua lại căn nhà, đất địa chỉ số 05 đường N, khóm 3, phường 2,thành pho T, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ. Như vậy, việc cho bà L được mua lại căn nhà, đất nêu trên theo quy định của Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ là đã đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà L. Nội dung của Án lệ: “ [6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thấm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyết định quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục thì Tòa án phải thụ lý để giải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện ” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính…”. Như vậy, trường hợp người khởi kiện khởi kiện quyết định hành chính có nội dung không chấp nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục. Theo án lệ 27/2019/AL, trường hợp này Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bác yêu cầu khởi kiện.
Án lệ 63/2023/AL về xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định 39/QĐ-CA năm 2023 về việc công bố thêm 07 án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. Trong đó có Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện. Cụ thể, nội dung Án lệ 63/2023/AL đã hướng dẫn cho trường hợp người khởi kiện khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính nhưng chỉ có hành vi hành chính còn thời hiệu khởi kiện. Án lệ đưa ra giải pháp pháp lý: Tòa án phải giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính và có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: [1] Theo đơn khởi kiện ngày 31/3/2014, vợ chồng ông Lê Hữu T, bà Lê Thị Ngọc L nêu các vấn đề: [2] Khiếu kiện đối với Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H, do ông T, bà L làm chủ đầu tư xây dựng; ông bà cho rằng quyết định hành chính này là trái pháp luật. [3] Khiếu kiện đối với hành vi cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H và yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế gây ra; ông bà cho rằng hành vi cưỡng chế này là trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng. [4] Xem xét nội dung khởi kiện và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, thấy: [5] 1) Về khiếu kiện đối với quyết định hành chính: [6] Ngày 15/3/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H ban hành Quyết định số 02/QĐ-UBND về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H do ông T, bà L làm chủ đầu tư xây dựng. Ngày 18/3/2013 cán bộ Ủy ban nhân dân phường A tiến hành giao quyết định này cho ông T, bà L. Việc giao quyết định được lập biên bản vào lúc 11 giờ 30 phút với sự có mặt của đại diện Ủy ban nhân dân phường, Mặt trận Tổ quốc, Tổ dân phố, cùng với 02 nhân chứng. Trong biên bản giao nhận thể hiện rõ số, ngày ban hành quyết định, nội dung cưỡng chế, bà L đã xem nội dung quyết định cưỡng chế nhưng không hợp tác, không ký vào biên bản và cho rằng việc cưỡng chế là không đúng pháp luật. [7] Do đó, có cơ sở pháp lý xác định vào ngày 18/3/2013, vợ chồng ông T, bà L biết Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A. [8] Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì thời hạn 1 năm (kể từ ngày biết được quyết định hành chính) để ông T, bà L thực hiện quyền khởi kiện đã kết thúc, nhưng ngày 31/3/2014 ông, bà mới khởi kiện nên Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện Quyết định hành chính số 02 nêu trên đã hết là có căn cứ, đúng pháp luật. [9] 2) Về khiếu kiện đối với hành vi hành chính: [10] Ngày 12/3/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A thực hiện hành vi cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H. [11] Ngày 31/3/2014, ông T, bà L làm đơn khởi kiện đối với hành vi cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A và yêu cầu bồi thường thiệt hại 620.000.000 đồng do hành vi cưỡng chế gây ra. [12] Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì đơn của ông T, bà L còn trong thời hiệu khởi kiện, cần phải được giải quyết theo quy định của pháp luật. [13] Xét thấy: [14] Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính đã hết là đúng pháp luật nhưng không tiếp tục giải quyết khiếu kiện đối với hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A (mà đình chỉ giải quyết vụ án hành chính về yêu cầu khởi kiện đối với Quyết định hành chính số 02/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A và trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện) là không đúng pháp luật, giải quyết như vậy là chưa đầy đủ và toàn diện đối với yêu cầu khởi kiện, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hành chính. Do đó cần chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo số 02/2015/QĐPT-HC ngày 23/7/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 04/2015/QĐST-HC ngày 21/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế để xét xử sơ thẩm lại về khiếu kiện của ông T, bà L đối với hành vi cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế và yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế gây ra nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự. [15] Do hành vi cưỡng chế xuất phát từ quyết định cưỡng chế và có mối liên hệ với nhau nên trong quá trình giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi cưỡng chế, Hội đồng xét xử có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định cưỡng chế nêu trên và các quyết định hành chính khác có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện mà không phụ thuộc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện nhằm đảm bảo vụ án được giải quyết toàn diện, triệt để, đúng pháp luật. Vì các lẽ trên; Căn cứ khoản 3 Điều 272; Điều 277 và Điều 278 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. QUYẾT ĐỊNH: 1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2018/KN-HC ngày 14/6/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. 2. Hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo số 02/2015/QĐPT-HC ngày 23/7/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 04/2015/QĐST-HC ngày 21/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Huế. Chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Huế xét xử sơ thẩm lại về khiếu kiện của ông Lê Hữu T, bà Lê Thị Ngọc L đối với hành vi cưỡng chế nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H và yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế gây ra theo đúng quy định của pháp luật. 3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ra quyết định. NỘI DUNG ÁN LỆ: “[15] Do hành vi cưỡng chế xuất phát từ quyết định cưỡng chế và có mối liên hệ với nhau nên trong quá trình giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi cưỡng chế, Hội đồng xét xử có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định cưỡng chế nêu trên và các quyết định hành chính khác có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện mà không phụ thuộc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện nhằm đảm bảo vụ án được giải quyết toàn diện, triệt để, đúng pháp luật.” Xem thêm Quyết định 39/QĐ-CA ngày 24/02/2023.
Làm sao để chứng minh một quyết định cụ thể là quyết định hành chính?
làm sao để chứng minh một quyết định cụ thể là quyết định hành chính ạ ?mọi người có thể lấy một ví dụ cho em được không ạ
Hỏi về việc khiếu nại quyết định hành chính?
Xin hỏi Luật sư. Gia đình tôi bị thu hồi đất, được UBND tỉnh bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất. Gia đình tôi không đồng ý với mức bồi thường, hỗ trợ do UBND tỉnh ban hành, gia đình tôi làm đơn khiếu nại quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với gia đình tôi. UBND tỉnh ban hành quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại của gia đình tôi. Trong quá trình giải quyết khiếu nại có mời gia đình tôi đối thoại, một thời gian sau gia đình tôi nhận quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại của gia đình tôi với lý do là hết thời hiệu khiếu nại. Cho tôi hỏi Luật sư: Quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại với lý do hết thời hiệu khiếu nại, có phải là quyết định hành chính không? Gia đình tôi có quyền khiếu nại quyết định đình chỉ đó không? Mong Luật sư tư vấn cho tôi vấn đề này, tôi xin cảm ơn.
Quyết định hành chính bị thu hồi khi đang trong quá trình giải quyết khiếu nại?
Kính đề nghị Luật sư tư vấn! Ngày 15/03/2020, UBND huyện Bình K ban hành Quyết định số 1105/QĐ-UBND về việc thu hồi 250m2 đất trồng cây lâu năm và Quyết định số 1106/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường đối với ông Trần Mạnh C để thực hiện Dự án. Ngày 28/4/2020, ông C có đơn khiếu nại Quyết định 1105, 1106 yêu cầu được bồi thường 250m2 là đất ở. Ngày 03/4/2020, UBND huyện Bình K đã có Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu của ông C. * Ngày 18/5/2020, UBND huyện Bình K có Quyết định số 2564/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 1105/QĐ-UBND và Quyết định số 2565/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 1106/QĐ-UBND, trong đó chỉ bổ sung một số căn cứ pháp lý triển khai thực hiện Dự án, các nội dung khác không thay đổi (chủ sử dụng đất, diện tích, loại đất, giá trị bồi thường, hỗ trợ...). Ngày 22/5/2020, ông C tiếp tục có đơn khiếu nại Quyết định 2264, 2265, nội dung khiếu nại không thay đổi so với việc khiếu nại Quyết định 1105, 1106 (UBND huyện Bình K không ban hành Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu đối với đơn khiếu nại này). * Ngày 16/6/2020, UBND huyện Bình K có Quyết định số 3329/QĐ-UBND thu hồi, hủy bỏ các Quyết định số 2264, 2265 với lý do: Dự án chưa được phê duyệt trong Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của UBND huyện Bình K. Ngày 20/6/2020, Chủ tịch UBND huyện Bình K ban hành Quyết định số 3335/QĐ-UBND về việc ĐÌNH CHỈ THỤ LÝ giải quyết khiếu nại của ông Trần Mạnh C với lý do: UBND huyện Bình K có Quyết định số 3329/QĐ-UBND thu hồi, hủy bỏ các quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường đối với hộ ông Trần Mạnh C. Không đồng ý với việc UBND huyện ban hành Quyết định đình chỉ thụ lý giải quyết khiếu nại, ông C yêu cầu UBND huyện phải ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại vì Luật Khiếu nại chỉ cho phép đình chỉ giải quyết khiếu nại khi người khiếu nại xin rút khiếu nại. Như vậy: 1. Việc UBND huyện Bình K không ban hành Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu Quyết định 2264, 2265 có đảm bảo quy định không? 2. Khi đến hết thời hạn giải quyết khiếu nại, UBND huyện Bình K có phải ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đối với việc khiếu nại Quyết định 1105, 1106 không? Nếu có thì nội dung giải quyết như thế nào? 3. Việc UBND huyện Bình K ban hành Quyết định số 3335/QĐ-UBND về việc ĐÌNH CHỈ THỤ LÝ giải quyết khiếu nại của ông Trần Mạnh C có phù hợp không? Nếu không thì hình thức, nội dung văn bản như thế nào? Trân trọng cảm ơn!
Văn bản hành chính có thể bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật?
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định. (Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy pháp luật 2015) Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. (Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015) Nghe qua có vẻ vô lý, khi văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) lại có thể bị bãi bỏ bởi văn bản hành chính. Tuy nhiên, đây lại là sự thật! Cụ thể trong trường hợp này là đối với chỉ thị của UBND các cấp. Trước đây, khoản 2 Điều 1 Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND 2004 quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị". Khi Luật ban hành VBQPPL 2015 được ban hành, chỉ thị của UBND các cấp đã bị loại khỏi hệ thống VBQPPL. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 172 của Luật ban hành VBQPPL 2015 quy định: “... chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác”. Vậy nên, những chỉ thị của UBND các cấp ban hành trước ngày 01/7/2016 vẫn có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế. Câu hỏi đặt ra là: Văn bản nào sẽ được dùng để bãi bỏ chỉ thị? Về vấn đề này, Bộ Tư pháp đã có Công văn 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28/11/2016 hướng dẫn như sau: "...UBND các cấp có thể ban hành quyết định hành chính để bãi bỏ chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành." Ảnh minh họa Như vậy, trong trường hợp này, văn bản hành chính (quyết định hành chính) có thể bãi bỏ VBQPPL là không hề vô lý nhé (mình không nói phết đâu).
Khởi kiện quyết định hủy bỏ quyết định XPVPHC: Tòa án có thụ lý?
Nhận được vấn đề pháp lý từ một bạn trong cộng đồng Dân luật với nội dung được tóm tắt như sau: Trong quá trình tham gia giao thông A và B có xảy ra va chạm với nhau và cơ quan công an phải vào cuộc qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không khởi tố vụ án hình sự mà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Sau đó, một trong hai bên có thương tích được giám định thương tích tổn hại sức khỏe vượt mức 70% và tiến hành làm đơn yêu cầu các cơ quan tố tụng xử lý hình sự về hành vi nêu trên. Sau đó, Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra Quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính sau đó để khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Hỏi như vậy có đúng không? Giải đáp vấn đề này trên thực tế phải nhìn nhận vấn đề từ nhiều khía cạnh: Thứ nhất, với kết quả điều tra ban đầu để đưa ra quyết định XPVPHC của cơ quan điều tra cần xác định tỷ lệ thương tích, nếu chưa đủ yếu tố cấu thành thì quyết định này của CQĐT là có căn cứ. Nhưng sau khi yêu cầu giám định lại, với tỷ lệ nói trên thì việc đưa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật VN Khoản 2, 3 điều 62 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: 2. Trong quá trình thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu hành vi vi phạm được phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp đã thi hành xong quyết định xử phạt thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. 3. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm xem xét, kết luận vụ việc và trả lời kết quả giải quyết bằng văn bản cho người có thẩm quyền đã chuyển hồ sơ trong thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; trường hợp không khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải trả hồ sơ vụ việc cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, nếu cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có quyết định khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chuyển toàn bộ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tài liệu về việc thi hành quyết định xử phạt cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Quyền của người bị khởi tố: có quyền khiếu nại để xem xét lại các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng các quyết định của cơ quan điều tra xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đối tượng khiếu nại là quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hoặc quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, kết luận giám định. Đối với quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính của CQĐT tuy là quyết định hành chính nhưng quyết định này không làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Do vậy, quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện mà căn cứ Điều 123 Luật Tố tụng hành chính trả lại đơn khởi kiện nếu như người bị khởi tố khiếu nại về việc này. Việc cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can là các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTHS, nếu người bị khởi tố cho rằng các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khiếu nại theo quy định của BLTTHS. Nhưng sẽ có luồng quan điểm thứ hai: Tức là, khi thay đổi nội dung hoặc hủy bỏ các quyết định thì mặc nhiên quyền và lợi ích cũng như trách nhiệm của người có liên quan cũng sẽ thay đổi theo. Vì từ phải đóng phạt hành chính chuyển sang trách nhiệm hình sự nên làm thay đổi vấn đề. Tôi thì đồng tình với quan điểm đầu tiên vì những lập luận nêu trên, còn bạn thì sao? Tham khảo nguồn báo Kiểm sát
Giải quyết quyết định hành chính hành vi hành chính trong hoạt động công chứng chứng thực
Dạ mình hỏi là giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động công chứng, chứng thực là như thế nào ạ?
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là quyết định hành chính không?
Chào Luật sư. Hỏi: Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là quyết định hành chính không (theo quy định của Luật Khiếu nại). Cảm ơn Luật sự.
>>> Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo Khiếu nại, tố cáo là quyền của công dân trong việc quản lý việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết được việc thực hiện hai quyền này như thế nào. Vì vậy, mình sẽ trình bày thủ tục khiếu nại, tố cáo để các bạn biết và thực hiện tốt nhất quyền này của các bạn. 1. Thủ tục khiếu nại Hiện nay, mặc dù việc khởi kiện ra Tòa án được rất nhiều cá nhân, tổ chức sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng đối với vụ việc hành chính, các cá nhân, tổ chức vẫn có thể lựa chọn một hình thức khác song song với khởi kiện ra Tòa án, đó là Khiếu nại. Dưới đây là thủ tục khiếu nại chung đối với các Quyết định hành chính, hành vi hành chính (Sau đây gọi tắt là QĐHC, HVHC) và thủ tục khiếu nại đối với Quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Khiếu nại lần đầu Khiếu nại lần hai Luật áp dụng Luật Khiếu nại 2011 Thẩm quyền Người đã ra quyết định hành chính; Cơ quan có người có hành vi hành chính. Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực Các khiếu nại không được thụ lý giải quyết 1. QĐHC, HVHC trong nội bộ cơ quan nhà nước để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; QĐHC, HVHC trong chỉ đạo điều hành của CQHC cấp trên với CQHC cấp dưới; quyết định hành chính có chứa đựng các quy phạm pháp luật do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định; 2. QĐHC, HVHC bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; 3. Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp; 4. Người đại diện không hợp pháp thực hiện khiếu nại; 5. Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; 6. Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng; 7. Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; 8. Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại; 9. Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án. Trình tự khiếu nại 1. Nộp đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp; 2. Thụ lý giải quyết khiếu nại; 3. Xác minh nội dung khiếu nại; 4. Đối thoại; 5. Ra và gửi quyết định giải quyết khiếu nại; 6. Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại. Hình thức khiếu nại Đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp Đơn khiếu nại kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan Thời hiệu khiếu nại 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu Vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày Rút khiếu nại Bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại Hình thức rút: Đơn rút khiếu nại có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại Thụ lý giải quyết khiếu nại Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu Không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý. Vụ việc phức tạp: không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Vụ việc phức tạp: không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; Vụ việc phức tạp: không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; Vụ việc phức tạp: không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý. Thời hạn gửi quyết định giải quyết khiếu nại Trong vòng 03 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại Trong vòng 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai Chủ thể nhận quyết định giải quyết khiếu nại Người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp. Người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến. Thời điểm có hiệu lực của Quyết định giải quyết khiếu nại Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai. Đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày. Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày. Khiếu nại quyết định kỷ luật Chủ thể khiếu nại Cán bộ, công chức bị quyết định kỷ luật cán bộ, công chức Thẩm quyền giải quyết khiếu nại Người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định kỷ luật Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định kỷ luật. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Bộ trưởng Bộ Nội vụ Thời hiệu khiếu nại Trong vòng 15 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định kỷ luật. Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc: 30 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Hình thức khiếu nại Đơn khiếu nại Thời hạn thụ lý Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại giải quyết khiếu nại Không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý. Vụ việc phức tạp: không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý Hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai Quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án Công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc 2. Thủ tục tố cáo Trong quan hệ xã hội giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan nhà nước, các hoạt động của người, cơ quan có thẩm quyền vi phạm pháp luật luôn có thể xảy ra. Vì vậy, các cá nhân, tổ chức có thể thực hiện quyền tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật đó theo thủ tục sau: Tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn Luật áp dụng Luật Tố cáo 2011 Thẩm quyền giải quyết tố cáo Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm giải quyết Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự đối với cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm Trình tự giải quyết tố cáo 1. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; 2. Xác minh nội dung tố cáo; 3. Kết luận nội dung tố cáo; 4. Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; 5. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Hình thức tố cáo Đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày. Không thuộc thẩm quyền: chuyển đơn tố cáo trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo. Người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo a) Tố cáo về vụ việc đã được người đó giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới; b) Tố cáo về vụ việc mà nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật; c) Tố cáo về vụ việc mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đủ điều kiện để kiểm tra, xác minh hành vi vi phạm pháp luật, người vi phạm. Thời hạn giải quyết tố cáo Trong vòng 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; gia hạn một lần nhưng không quá 30 ngày. Vụ việc phức tạp: 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; gia hạn một lần nhưng không quá 60 ngày. Xử lý tố cáo Không vi phạm: thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo bị xâm phạm do việc tố cáo không đúng sự thật gây ra. Đồng thời xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật. Có vi phạm: áp dụng các biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Có dấu hiệu tội phạm: chuyển ngay hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Gửi kết luận nội dung tố cáo Người bị tố cáo. Người tố cáo (khi có yêu cầu). Cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan cấp trên trực tiếp. Tố cáo tiếp Trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết hoặc có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng pháp luật thì người tố cáo có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo. Thời hạn giải quyết: 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp Tố cáo có dấu hiệu tội phạm Trong vòng 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo hoặc hồ sơ vụ việc tố cáo, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản về việc thụ lý, xử lý cho cơ quan, tổ chức chuyển tố cáo hoặc hồ sơ vụ việc tố cáo biết Trường hợp tố cáo có nội dung phức tạp: không quá 60 ngày. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo a) Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị tố cáo công tác; b) Niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; c) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực Thẩm quyền giải quyết tố cáo Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước liên quan đến tố cáo Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước đối với tố cáo thuộc phạm vi quản lý được giao Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một cơ quan chủ trì giải quyết. Tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Trình tự, thủ tục giải quyết Tương tự như tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; trừ trường hợp có thể xử lý ngày theo Điều 33 Luật Tố cáo.
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 08/2014/HC-GĐT ngày 19-8-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất” tại tỉnh Vĩnh Long giữa người khởi kiện là bà Võ Thị Lựu với người bị kiện là Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 1 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên. Khái quát nội dung của án lệ: - Tình huống án lệ: Quyết định về việc phê duyệt phương án hỗ trợ và tái định cư của Ủy ban nhân dân tỉnh có nội dung dẫn chiếu đến văn bản khác mà văn bản đó có nội dung tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của người khởi kiện. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, nội dung của văn bản được dẫn chiếu thuộc quyết định hành chính và quyết định hành chính đó là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015); - Các điều 41, 42 Luật đất đai năm 2003; - Nghị định số 197/NĐ-CP ngày 03-12-2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; - Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Từ khóa của án lệ: “Quyết định hành chính”; “Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”; “Thu hồi đất”; “Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi”. NỘI DUNG VỤ ÁN Ngày 07-4-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 567/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tổng thể về bồi thuờng, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, có nội dung: “Phê duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long: Tổng diện tích đất dự kiến thu hồi: 122.909m2 Tổng giá trị bồi thường dự kiến: 7.342.730.000đ”. Ngày 17-9-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1768/QĐ-UBND, nội dung: Thu hồi 117.863,lm2 đất tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm do hộ gia đình, cá nhân và tổ chức quản lý sử dụng để thực hiện dự án xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh và giao cho Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm quyết định thu hồi đất. Ngày 02-10-2008, Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2592/QĐ-UBND, nội dung: Thu hồi 2.353,1m2 đất của bà Võ Thị Lựu, chiết thửa số 222, loại đất trồng lúa thuộc tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại ấp Rạch Cốc, xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm để xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long. Ngày 01-12-2008, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm tiến hành lập tờ khai và kiểm kê về nhà, đất, cây trồng và vật kiến trúc của các hộ bị ảnh hưởng giải tỏa thuộc dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh. Ngày 15-5-2009, Sở Tài chính tỉnh Vĩnh Long có Tờ trình số 177/TTr.STC gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc xin phê duyệt phương án đền bù giải tỏa mặt bằng công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long, theo đó hộ bà Lựu được bồi thường hỗ trợ về đất số tiền là 155.155.000đ (theo quyết định thì giá đất bồi thường cho bà Lựu với giá là 50.000đ/m2); bồi thường hỗ trợ về tài sản trên đất, ổn định cuộc sống và đào tạo nghề số tiền là 19.286.200đ; tổng số tiền là 174.441.200đ. Ngày 04-6-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1216/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, nội dung: “Điều 1. Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh, tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm; 1. Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: 9.467.085.000đ, bao gồm: - Giá trị bồi thường, hỗ trợ về đất: 8.071.914.000đ - Giá trị nhà và vật kiến trúc: 161.560.000đ - Giá trị cây trồng: 273.152.000đ - Các khoản hỗ trợ: 654.600.000đ - Các phí khác (chi phí các hội đồng 2%, chi phí đo đạc): 305.859.000đ 2. Kinh phí: Trong tổng dự toán công trình do chủ đầu tư chi trả; Điều 2. Căn cứ vào Điều 1 của Quyết định này, Giám đốc Sở Tài chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm có trách nhiệm: - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm tổ chức chi trả bồi thường đúng theo quy định hiện hành của Nhà nước và giải phóng mặt bằng cho đơn vị thi công, - Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15/5/2009”. Không đồng ý với quyết định nêu trên, bà Lựu có đơn khiếu nại yêu cầu nâng giá bồi thường. Ngày 28-10-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2023/QĐ-UBND không chấp nhận khiếu nại của bà Lựu. Ngày 08-8-2011, bà Lựu có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long yêu cầu hủy Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với phần áp giá, bồi thường; yêu cầu giải quyết lại nâng giá bồi thường đất bằng với giá thị trường chuyển nhượng ở nơi có đất thu hồi. Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Lựu. Ngày 29-12-2012, bà Lựu có đơn kháng cáo. Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HCPT ngày 25-4-2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HCST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án. Ngày 28-6-2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Công văn số 1816/UBND-NC và ngày 02-8-2013, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Công văn số 547/TAT-HC đề nghị giám đốc thẩm Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định số 05/2014/KN-HC ngày 05-3-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đổc thẩm hủy Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên và giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Theo Điều 2 của Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài chính có quy định phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Lựu về phần bồi thường hỗ trợ cho gia đình bà trong Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét làm rõ mục đích của việc thu hồi đất để xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là cơ sở kinh tế của Nhà nước hay của tư nhân để làm cơ sở giải quyết bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của gia đình bà Lựu theo đúng quy định của pháp luật. Bà Lựu kháng cáo yêu cầu được bồi thường về đất theo giá thị trường. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét đơn kháng cáo của bà Lựu về vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất cho gia đình bà Lựu có đúng quy định của pháp luật không, nhưng lại cho rằng Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long là quyết định mang tính tổng thể, không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên đã xử hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính. Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 3 Điều 219, khoản 3 Điều 225, khoản 1, 2 Điều 227 Luật tố tụng hành chính, QUYẾT ĐỊNH: 1. Chấp nhận Kháng nghị số 05/2014/KN-HC ngày 05-3-2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. 2. Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 cùa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Theo Điều 2 của Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài chính có quy định phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”.
Ai có thẩm quyền hủy bỏ Quyết định hành chính
Chào các bạn Mình có một vấn đề muốn đưa ra để các bạn trao đổi, tư vấn: Theo quy định của pháp luật hiện nay, ngoài Cơ quan ban hành ra chính quyết định hành chính và Tòa án có thẩm quyền hủy bỏ Quyết định hành chính. Thì còn cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khác có thẩm quyền hủy bỏ quyết định hành chính này hay không? Mình xin cảm ơn các bạn.
Nhầm lẫn giữa Quyết định hành chính với Hành vi hành chính?
Học môn Luật hành chính, ắt hẳn nhiều bạn thắc mắc về sự khác nhay giữa hành vi hành chính và quyết định hành chính, làm sao để phân biệt 2 khái niệm này. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn phân biệt rõ thế nào là hành vi hành chính, thế nào là quyết định hành chính. Tiêu chí Quyết định hành chính Hành vi hành chính Khái niệm Là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hay một số đối tượng cụ thể. (Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2010) Là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hay không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật. (Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2010) Ví dụ thực tế Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quyết định giải quyết khiếu nại. Pháp luật quy định chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại, nhưng khi nhận đơn khiếu nại chủ tịch không giải quyết. Đối tượng Văn bản Hành vi Chủ thể Cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền Thực hiện Ban hành, ra quyết định Thực hiện hay không thực hiện Hành vi làm tạm chấm dứt Tạm đình chỉ thi hành quyết định hành chính. Tạm dừng hành vi hành chính Hành vi làm chấm dứt Yêu cầu hủy bỏ quyết định hành chính Yêu cầu chấm dứt hành vi hành chính Từ bảng phân biệt 2 khái niệm trên chúng ta có thể dễ dàng nhận biết đâu là quyết định hành chính, đâu là hành vi hành chính. Tuy nhiên trên thực tế từng xảy ra nhiều vụ việc nhập nhằng về 2 khái niệm trên. Nếu có thiếu sót nào trong bài viết, mong các thành viên Dân Luật góp ý giúp mình nhé. Cám ơn các bạn.
Dự thảo Luật ban hành quyết định hành chính
Quyết định hành chính là những quyết định quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó. Hay nói cách khác, nó không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nhưng có giá trị bắt buộc 1 hay 1 số đối tượng phải thực hiện, nếu không thực hiện sẽ bị cưỡng chế hành chính, chủ yếu là hình thức phạt tiền. Như vậy, tuy không phải là một văn bản quy phạm pháp luật, nhưng quyết định hành chính có giá trị không kém phần quan trọng, nhất là trong tố tụng hành chính. Từ trước đến nay, các quy định liên quan đến quyết định hành chính chỉ được quy định rải rác trong văn bản liên quan đến hành chính như Luật tố tụng hành chính…chưa có văn bản nào quy định về cơ chế ban hành, hiệu lực của chúng. Luật ban hành quyết định hành chính ra đời để tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Hiệu lực của quyết định hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền quyết định Để đảm bảo tính khả thi, hợp lý, cơ quan, người có thẩm quyền phải quyết định hiệu lực của quyết định hành chính. Đồng thời, quyết định hành chính chỉ có hiệu lực trở về trước khi có lợi cho đối tượng thi hành và không ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khác. Quyết định hành chính chấm dứt 01 phần hay toàn bộ hiệu lực trong trường hợp: - Được xác định ngay trong quyết định hành chính. - Bị bãi bỏ, hủy bỏ, thu hồi. - Trường hợp khác theo quy định pháp luật Quyết định hành chính được thi hành khi đã có hiệu lực Nếu quyết định hành chính bất lợi thì được thi hành sau khi đối tượng thi hành nhận được quyết định đó. Nếu có khiếu nại, tố cáo thì quyết định hành chính đó vẫn được thi hành, trừ trường hợp trong quá trình giải quyết khiếu nại, xét thấy việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó. Trình tự chung đối với tất cả các loại quyết định hành chính - Tiếp nhận yêu cầu của tổ chức, cá nhân. - Thu thập thông tin, xác định căn cứ pháp luật ban hành quyết định hành chính. - Tham vấn và lấy ý kiến. - Xây dựng dự thảo quyết định hành chính. - Kiểm tra tính pháp lý của dự thảo quyết định hành chính liên quan đến lợi ích cộng đồng. - Ký ban hành quyết định hành chính. - Gửi, công khai quyết định hành chính. Xem chi tiết dự thảo Luật ban hành quyết định hành chính tại đây.
Khi nào người nộp thuế bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản?
Có những biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nào? Khi nào sẽ cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản của người nộp thuế? Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm: - Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản; - Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; - Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; - Ngừng sử dụng hóa đơn; - Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật; - Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ; - Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề. Như vậy, sẽ có 7 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế theo quy định trên. Khi nào người nộp thuế bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản? Theo khoản 1 Điều 129 Luật Quản lý thuế 2019 quy định cưỡng chế bằng biện pháp trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế như sau: Biện pháp trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản áp dụng đối với đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác. Như vậy, người nộp thuế là đối tượng bị cưỡng chế có tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thì sẽ bị áp dụng biện pháp pháp cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản. Người đang bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản có được xuất cảnh? Theo Điều 66 Luật Quản lý thuế 2019 quy định về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh như sau: - Người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. - Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm thông báo cho cơ quan quản lý xuất cảnh, nhập cảnh về cá nhân, người nộp thuế quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Quản lý thuế 2019. Như vậy, người đang bị cưỡng chế trích tiền từ tài khoản, phong tỏa tài khoản tức là đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế mà chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh.
Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế
Khi nào người nộp thuế sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế? Có các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nào? Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo Điều 124 Luật quản lý thuế 2019 quy định trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm: - Người nộp thuế có tiền thuế nợ quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp theo quy định. - Người nộp thuế có tiền thuế nợ khi hết thời hạn gia hạn nộp tiền thuế. - Người nộp thuế có tiền thuế nợ có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn. - Người nộp thuế không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế theo thời hạn ghi trên quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế, trừ trường hợp được hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành quyết định xử phạt. - Chưa thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế đối với trường hợp người nộp thuế được cơ quan quản lý thuế khoanh tiền thuế nợ trong thời hạn khoanh nợ; không tính tiền chậm nộp thuế theo quy định Luật quản lý thuế 2019; được nộp dần tiền thuế nợ trong thời hạn nhưng không quá 12 tháng kể từ ngày bắt đầu của thời hạn cưỡng chế thuế. Việc nộp dần tiền thuế nợ được thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp người nộp thuế xem xét trên cơ sở đề nghị của người nộp thuế và phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định số lần nộp dần và hồ sơ, thủ tục về nộp dần tiền thuế nợ. - Không thực hiện biện pháp cưỡng chế đối với người nộp thuế có nợ phí hải quan và lệ phí hàng hóa, phương tiện quá cảnh. - Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế trước khi xuất cảnh và có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. Như vậy, có 4 trường hợp người nộp thuế sẽ bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm có tiền thuế nợ quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp, có tiền thuế nợ khi hết thời hạn gia hạn nộp, có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn và không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế theo thời hạn quy định. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo khoản 1 Điều Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 quy định biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm: - Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản; - Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; - Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; - Ngừng sử dụng hóa đơn; - Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật; - Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ; - Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề. Như vậy, có 7 biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế như trên. Ai có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế Theo Điều 126 Luật Quản lý thuế 2019 quy định thẩm quyền quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế: - Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019. - Việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề quy định tại điểm g khoản 1 Điều 125 Luật Quản lý thuế 2019 được thực hiện theo quy định của pháp luật. Như vậy, ngoại trừ biện pháp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, giấy phép thành lập, giấy phép hành nghề thì các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế còn lại sẽ do Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan ra quyết định.
Trách nhiệm Tòa án phải thụ lý để giải quyết trong vụ kiện hành chính theo Án lệ 27/2019/AL?
Người khởi kiện khởi kiện quyết định hành chính đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thì Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bác yêu cầu khởi kiện? Tìm hiểu nội dung Án lệ số 27/2019/AL về thụ lý, giải quyết vụ án hành chính liên quan đến nhà đất mà nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/7/1991 (được ban hành kèm theo Quyết định 293/QĐ-CA năm 2019 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành). Tóm tắt nội dung vụ việc: Nguồn gốc căn nhà số 05 N, khóm 3 phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh là của cụ Hồng Sa R và cụ Trầm Thị N (là bố mẹ của bà Hồng Thị L) mua của cụ Nguyễn Thị K vào năm 1967 với diện tích 505m2. Năm 1969, ngôi nhà được ngăn thành 13 phòng sử dụng làm phòng ngủ lấy tên là Phòng ngủ Thống Nhất. Năm 1972, cụ N và cụ Hồng Sa R xây dựng thêm 01 dãy nhà lầu 03 tầng, 05 căn, 15 phòng ở phía sau với diện tích đất xây dụng là 77m2. Ngày 13-4-1976, cụ N được Ty thương nghiệp tỉnh Cửu Long cấp Giấy phép hành nghề số 548/TN/GP/ĐK về việc cho thuê mướn phòng ngủ. Tháng 8-1978, Công ty Khách sạn ăn uống thị xã Trà Vinh quản lý và tiếp tục kinh doanh phòng ngủ với hình thức chủ nhà làm nhân viên phục vụ và hưởng lương mỗi tháng. Ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 35/QĐ-84 về việc quản lý toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T, tỉnh Trà Vinh của cụ Hồng Sa R với nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T của cụ Hồng Sa R, gồm phần nhà trước và dãy nhà phía sau, đế cho 03 phòng trệt ở dãy phía sau cho cụ Hồng Sa R sử dụng”. Do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, ngày 28-7-1985, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 59/QĐ-85 về việc phân phối nhà với nội dung: “Nay giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất, đường N, phường 2,thị xã T cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh. Năm 1990, Công ty Xuất nhập khẩu thị xã Trà Vinh giải thể, cụ Hồng Sa R vào chiếm lại và sử dụng. Năm 1992, cụ Hồng Sa R có đơn xin lại căn nhà trên. Năm 1993, cụ Hồng Sa R chết, các con của cụ trong đó có bà Hồng Thị L tiếp tục quản lý và sử dụng căn nhà cho đến nay. Bà L có đơn xin được xem xét công nhận quyền sở hũu toàn bộ nhà, đất nêu trên. Ngày 27-7-2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1350/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà L như sau: “Bác đơn khiếu nại của bà L yêu cầu họp thức hóa toàn bộ căn nhà số 05 đường N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Bà L được mua lại căn nhà, đất theo địa chỉ số 05 dường N theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ”. Ngày 13-8-2012, bà L có đơn khởi kiện đối với Quyết định số 1350/QĐ-ƯBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh. Nhận định của Tòa án: [1] Về tố tụng: Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc giải quyết khiếu nại của bà Hồng Thị L được ban hành căn cứ vào quy định tại Điều 1 Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991, theo đó “Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01-7-1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất”. Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có nội dung làm phát sinh, thay đối, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của bà Hồng Thị L. Do đó, theo quy định tại Điều 3 và Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì Quyết định số 1350/QĐ-ƯBND ngày 27-7- 2012 là quyết định hành hình và là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên việc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là đúng thấm quyền. [....] [3] Căn nhà số 05 N, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh mà hiện nay bà L đang quản lý, sử dụng có nguồn gốc là của gia đình bà L. Tuy nhiên, ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh đã ban hành Quyết định số 35/QĐ- 84 với nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường II, thị xã T của cụ Hong Sa R. Gồm phần nhà trước và dãy nhà lầu phía sau. Để cho 03 phòng trệt dãy lầu phía sau cho cụ Hong Sa R sử dụng… ” và ngày 28-7-1985 Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 59/QĐ-85 về việc giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh quản lý. Năm 1988, khi còn sống cụ Hồng Sa R đã có đơn yêu cầu được nhận lại căn nhà nêu trên. Tuy nhiên, tại Công văn số 01/PĐ- 88 ngày 08-01-1988 của Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh và Công văn số 02/TT-NĐ ngày 05-11-1988 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long đã trả lời không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của cụ Hồng Sa R vì nhà thuộc diện cải tạo. Không đồng ý với việc giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long, cụ Hồng Sa R có nhiều đơn khiếu nại. Sau khi cụ Hồng Sa R chết, bà Hồng Thị L tiếp tục khiếu nại. [4] Tại Công văn số 358/BXD-TTr ngày 26-02-2007, Bộ Xây dựng đã có ý kiến đối với trường họp khiếu nại của bà L như sau: “Tuy căn nhà nói trên do cụ Hồng Sa R trực tiếp sử dụng nhưng trước đó Nhà nước đã có quyết định quản lý căn nhà này và thực tế đã bố trí sử dụng từ sau giải phóng cho đến khi gia đình cụ Hông Sa R vào chiếm lại (năm 1990). Vì vậy, Bộ Xây dựng nhất trí với dự kiến của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là cho gia đình cụ Hồng Sa R được ký họp đồng thuê căn nhà sô 05 đường N với Nhà nước, sau đó, nếu gia đình cụ R có nhu cầu thì được mua lại căn nhà này theo Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ”. [5] Như vậy, thông qua việc ban hành Quyết định số 35/QĐ-84 ngày 21-8-1984 và Quyết định số 59/QĐ-85 ngày 28-7-1985 của Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh, xác định: “Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất” theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991. Vì vậy, việc bà L khiếu nại đòi lại căn nhà số 05 đường N là không có cơ sở chấp nhận. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1350/QĐ-ƯBND ngày 27-7-2012 không chấp nhận yêu cầu của bà L là đúng quy định của pháp luật. [6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyết định quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QTI11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thấm quyền, nội dung, trình tự thủ tục thì Tòa án phải thụ lý đế giải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, trong vụ án hành chính này Tòa án cấp sơ thấm bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng Thị L yêu cầu hủy Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là có căn cứ, đúng pháp luật. [7] Quyết định số 1350/QĐ-UBND nêu trên còn quyết định: “Bà Hồng Thị L được mua lại căn nhà, đất địa chỉ số 05 đường N, khóm 3, phường 2,thành pho T, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ. Như vậy, việc cho bà L được mua lại căn nhà, đất nêu trên theo quy định của Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ là đã đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà L. Nội dung của Án lệ: “ [6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thấm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyết định quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục thì Tòa án phải thụ lý để giải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện ” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính…”. Như vậy, trường hợp người khởi kiện khởi kiện quyết định hành chính có nội dung không chấp nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục. Theo án lệ 27/2019/AL, trường hợp này Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bác yêu cầu khởi kiện.
Án lệ 63/2023/AL về xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định 39/QĐ-CA năm 2023 về việc công bố thêm 07 án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. Trong đó có Án lệ số 63/2023/AL về xem xét quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện. Cụ thể, nội dung Án lệ 63/2023/AL đã hướng dẫn cho trường hợp người khởi kiện khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính nhưng chỉ có hành vi hành chính còn thời hiệu khởi kiện. Án lệ đưa ra giải pháp pháp lý: Tòa án phải giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi hành chính và có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện. NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: [1] Theo đơn khởi kiện ngày 31/3/2014, vợ chồng ông Lê Hữu T, bà Lê Thị Ngọc L nêu các vấn đề: [2] Khiếu kiện đối với Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H, do ông T, bà L làm chủ đầu tư xây dựng; ông bà cho rằng quyết định hành chính này là trái pháp luật. [3] Khiếu kiện đối với hành vi cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H và yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế gây ra; ông bà cho rằng hành vi cưỡng chế này là trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng. [4] Xem xét nội dung khởi kiện và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, thấy: [5] 1) Về khiếu kiện đối với quyết định hành chính: [6] Ngày 15/3/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H ban hành Quyết định số 02/QĐ-UBND về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H do ông T, bà L làm chủ đầu tư xây dựng. Ngày 18/3/2013 cán bộ Ủy ban nhân dân phường A tiến hành giao quyết định này cho ông T, bà L. Việc giao quyết định được lập biên bản vào lúc 11 giờ 30 phút với sự có mặt của đại diện Ủy ban nhân dân phường, Mặt trận Tổ quốc, Tổ dân phố, cùng với 02 nhân chứng. Trong biên bản giao nhận thể hiện rõ số, ngày ban hành quyết định, nội dung cưỡng chế, bà L đã xem nội dung quyết định cưỡng chế nhưng không hợp tác, không ký vào biên bản và cho rằng việc cưỡng chế là không đúng pháp luật. [7] Do đó, có cơ sở pháp lý xác định vào ngày 18/3/2013, vợ chồng ông T, bà L biết Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A. [8] Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì thời hạn 1 năm (kể từ ngày biết được quyết định hành chính) để ông T, bà L thực hiện quyền khởi kiện đã kết thúc, nhưng ngày 31/3/2014 ông, bà mới khởi kiện nên Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện Quyết định hành chính số 02 nêu trên đã hết là có căn cứ, đúng pháp luật. [9] 2) Về khiếu kiện đối với hành vi hành chính: [10] Ngày 12/3/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A thực hiện hành vi cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị tại nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H. [11] Ngày 31/3/2014, ông T, bà L làm đơn khởi kiện đối với hành vi cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A và yêu cầu bồi thường thiệt hại 620.000.000 đồng do hành vi cưỡng chế gây ra. [12] Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 thì đơn của ông T, bà L còn trong thời hiệu khởi kiện, cần phải được giải quyết theo quy định của pháp luật. [13] Xét thấy: [14] Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính đã hết là đúng pháp luật nhưng không tiếp tục giải quyết khiếu kiện đối với hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A (mà đình chỉ giải quyết vụ án hành chính về yêu cầu khởi kiện đối với Quyết định hành chính số 02/QĐ-UBND ngày 15/3/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A và trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện) là không đúng pháp luật, giải quyết như vậy là chưa đầy đủ và toàn diện đối với yêu cầu khởi kiện, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hành chính. Do đó cần chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo số 02/2015/QĐPT-HC ngày 23/7/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 04/2015/QĐST-HC ngày 21/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế để xét xử sơ thẩm lại về khiếu kiện của ông T, bà L đối với hành vi cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế và yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế gây ra nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự. [15] Do hành vi cưỡng chế xuất phát từ quyết định cưỡng chế và có mối liên hệ với nhau nên trong quá trình giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi cưỡng chế, Hội đồng xét xử có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định cưỡng chế nêu trên và các quyết định hành chính khác có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện mà không phụ thuộc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện nhằm đảm bảo vụ án được giải quyết toàn diện, triệt để, đúng pháp luật. Vì các lẽ trên; Căn cứ khoản 3 Điều 272; Điều 277 và Điều 278 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. QUYẾT ĐỊNH: 1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2018/KN-HC ngày 14/6/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. 2. Hủy Quyết định giải quyết việc kháng cáo số 02/2015/QĐPT-HC ngày 23/7/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 04/2015/QĐST-HC ngày 21/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Huế. Chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Huế xét xử sơ thẩm lại về khiếu kiện của ông Lê Hữu T, bà Lê Thị Ngọc L đối với hành vi cưỡng chế nhà số 45/266 đường P, phường A, thành phố H của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, thành phố H và yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế gây ra theo đúng quy định của pháp luật. 3. Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ra quyết định. NỘI DUNG ÁN LỆ: “[15] Do hành vi cưỡng chế xuất phát từ quyết định cưỡng chế và có mối liên hệ với nhau nên trong quá trình giải quyết yêu cầu khởi kiện đối với hành vi cưỡng chế, Hội đồng xét xử có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định cưỡng chế nêu trên và các quyết định hành chính khác có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện mà không phụ thuộc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện nhằm đảm bảo vụ án được giải quyết toàn diện, triệt để, đúng pháp luật.” Xem thêm Quyết định 39/QĐ-CA ngày 24/02/2023.
Làm sao để chứng minh một quyết định cụ thể là quyết định hành chính?
làm sao để chứng minh một quyết định cụ thể là quyết định hành chính ạ ?mọi người có thể lấy một ví dụ cho em được không ạ
Hỏi về việc khiếu nại quyết định hành chính?
Xin hỏi Luật sư. Gia đình tôi bị thu hồi đất, được UBND tỉnh bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất. Gia đình tôi không đồng ý với mức bồi thường, hỗ trợ do UBND tỉnh ban hành, gia đình tôi làm đơn khiếu nại quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với gia đình tôi. UBND tỉnh ban hành quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại của gia đình tôi. Trong quá trình giải quyết khiếu nại có mời gia đình tôi đối thoại, một thời gian sau gia đình tôi nhận quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại của gia đình tôi với lý do là hết thời hiệu khiếu nại. Cho tôi hỏi Luật sư: Quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại với lý do hết thời hiệu khiếu nại, có phải là quyết định hành chính không? Gia đình tôi có quyền khiếu nại quyết định đình chỉ đó không? Mong Luật sư tư vấn cho tôi vấn đề này, tôi xin cảm ơn.
Quyết định hành chính bị thu hồi khi đang trong quá trình giải quyết khiếu nại?
Kính đề nghị Luật sư tư vấn! Ngày 15/03/2020, UBND huyện Bình K ban hành Quyết định số 1105/QĐ-UBND về việc thu hồi 250m2 đất trồng cây lâu năm và Quyết định số 1106/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường đối với ông Trần Mạnh C để thực hiện Dự án. Ngày 28/4/2020, ông C có đơn khiếu nại Quyết định 1105, 1106 yêu cầu được bồi thường 250m2 là đất ở. Ngày 03/4/2020, UBND huyện Bình K đã có Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu của ông C. * Ngày 18/5/2020, UBND huyện Bình K có Quyết định số 2564/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 1105/QĐ-UBND và Quyết định số 2565/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 1106/QĐ-UBND, trong đó chỉ bổ sung một số căn cứ pháp lý triển khai thực hiện Dự án, các nội dung khác không thay đổi (chủ sử dụng đất, diện tích, loại đất, giá trị bồi thường, hỗ trợ...). Ngày 22/5/2020, ông C tiếp tục có đơn khiếu nại Quyết định 2264, 2265, nội dung khiếu nại không thay đổi so với việc khiếu nại Quyết định 1105, 1106 (UBND huyện Bình K không ban hành Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu đối với đơn khiếu nại này). * Ngày 16/6/2020, UBND huyện Bình K có Quyết định số 3329/QĐ-UBND thu hồi, hủy bỏ các Quyết định số 2264, 2265 với lý do: Dự án chưa được phê duyệt trong Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của UBND huyện Bình K. Ngày 20/6/2020, Chủ tịch UBND huyện Bình K ban hành Quyết định số 3335/QĐ-UBND về việc ĐÌNH CHỈ THỤ LÝ giải quyết khiếu nại của ông Trần Mạnh C với lý do: UBND huyện Bình K có Quyết định số 3329/QĐ-UBND thu hồi, hủy bỏ các quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường đối với hộ ông Trần Mạnh C. Không đồng ý với việc UBND huyện ban hành Quyết định đình chỉ thụ lý giải quyết khiếu nại, ông C yêu cầu UBND huyện phải ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại vì Luật Khiếu nại chỉ cho phép đình chỉ giải quyết khiếu nại khi người khiếu nại xin rút khiếu nại. Như vậy: 1. Việc UBND huyện Bình K không ban hành Thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu Quyết định 2264, 2265 có đảm bảo quy định không? 2. Khi đến hết thời hạn giải quyết khiếu nại, UBND huyện Bình K có phải ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đối với việc khiếu nại Quyết định 1105, 1106 không? Nếu có thì nội dung giải quyết như thế nào? 3. Việc UBND huyện Bình K ban hành Quyết định số 3335/QĐ-UBND về việc ĐÌNH CHỈ THỤ LÝ giải quyết khiếu nại của ông Trần Mạnh C có phù hợp không? Nếu không thì hình thức, nội dung văn bản như thế nào? Trân trọng cảm ơn!
Văn bản hành chính có thể bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật?
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định. (Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy pháp luật 2015) Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. (Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015) Nghe qua có vẻ vô lý, khi văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) lại có thể bị bãi bỏ bởi văn bản hành chính. Tuy nhiên, đây lại là sự thật! Cụ thể trong trường hợp này là đối với chỉ thị của UBND các cấp. Trước đây, khoản 2 Điều 1 Luật ban hành VBQPPL của HĐND, UBND 2004 quy định: "Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân được ban hành dưới hình thức quyết định, chỉ thị". Khi Luật ban hành VBQPPL 2015 được ban hành, chỉ thị của UBND các cấp đã bị loại khỏi hệ thống VBQPPL. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 172 của Luật ban hành VBQPPL 2015 quy định: “... chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thì tiếp tục có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác”. Vậy nên, những chỉ thị của UBND các cấp ban hành trước ngày 01/7/2016 vẫn có hiệu lực cho đến khi có văn bản bãi bỏ hoặc bị thay thế. Câu hỏi đặt ra là: Văn bản nào sẽ được dùng để bãi bỏ chỉ thị? Về vấn đề này, Bộ Tư pháp đã có Công văn 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28/11/2016 hướng dẫn như sau: "...UBND các cấp có thể ban hành quyết định hành chính để bãi bỏ chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành." Ảnh minh họa Như vậy, trong trường hợp này, văn bản hành chính (quyết định hành chính) có thể bãi bỏ VBQPPL là không hề vô lý nhé (mình không nói phết đâu).
Khởi kiện quyết định hủy bỏ quyết định XPVPHC: Tòa án có thụ lý?
Nhận được vấn đề pháp lý từ một bạn trong cộng đồng Dân luật với nội dung được tóm tắt như sau: Trong quá trình tham gia giao thông A và B có xảy ra va chạm với nhau và cơ quan công an phải vào cuộc qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không khởi tố vụ án hình sự mà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Sau đó, một trong hai bên có thương tích được giám định thương tích tổn hại sức khỏe vượt mức 70% và tiến hành làm đơn yêu cầu các cơ quan tố tụng xử lý hình sự về hành vi nêu trên. Sau đó, Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra Quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính sau đó để khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Hỏi như vậy có đúng không? Giải đáp vấn đề này trên thực tế phải nhìn nhận vấn đề từ nhiều khía cạnh: Thứ nhất, với kết quả điều tra ban đầu để đưa ra quyết định XPVPHC của cơ quan điều tra cần xác định tỷ lệ thương tích, nếu chưa đủ yếu tố cấu thành thì quyết định này của CQĐT là có căn cứ. Nhưng sau khi yêu cầu giám định lại, với tỷ lệ nói trên thì việc đưa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật VN Khoản 2, 3 điều 62 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định: 2. Trong quá trình thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu hành vi vi phạm được phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp đã thi hành xong quyết định xử phạt thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. 3. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm xem xét, kết luận vụ việc và trả lời kết quả giải quyết bằng văn bản cho người có thẩm quyền đã chuyển hồ sơ trong thời hạn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; trường hợp không khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải trả hồ sơ vụ việc cho người có thẩm quyền xử phạt đã chuyển hồ sơ đến. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, nếu cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có quyết định khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính và chuyển toàn bộ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tài liệu về việc thi hành quyết định xử phạt cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Quyền của người bị khởi tố: có quyền khiếu nại để xem xét lại các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng các quyết định của cơ quan điều tra xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đối tượng khiếu nại là quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hoặc quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, kết luận giám định. Đối với quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính của CQĐT tuy là quyết định hành chính nhưng quyết định này không làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Do vậy, quyết định hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên Tòa án không thụ lý đơn khởi kiện mà căn cứ Điều 123 Luật Tố tụng hành chính trả lại đơn khởi kiện nếu như người bị khởi tố khiếu nại về việc này. Việc cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can là các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTHS, nếu người bị khởi tố cho rằng các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khiếu nại theo quy định của BLTTHS. Nhưng sẽ có luồng quan điểm thứ hai: Tức là, khi thay đổi nội dung hoặc hủy bỏ các quyết định thì mặc nhiên quyền và lợi ích cũng như trách nhiệm của người có liên quan cũng sẽ thay đổi theo. Vì từ phải đóng phạt hành chính chuyển sang trách nhiệm hình sự nên làm thay đổi vấn đề. Tôi thì đồng tình với quan điểm đầu tiên vì những lập luận nêu trên, còn bạn thì sao? Tham khảo nguồn báo Kiểm sát
Giải quyết quyết định hành chính hành vi hành chính trong hoạt động công chứng chứng thực
Dạ mình hỏi là giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động công chứng, chứng thực là như thế nào ạ?
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là quyết định hành chính không?
Chào Luật sư. Hỏi: Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là quyết định hành chính không (theo quy định của Luật Khiếu nại). Cảm ơn Luật sự.
>>> Phân biệt giữa khiếu nại và tố cáo Khiếu nại, tố cáo là quyền của công dân trong việc quản lý việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết được việc thực hiện hai quyền này như thế nào. Vì vậy, mình sẽ trình bày thủ tục khiếu nại, tố cáo để các bạn biết và thực hiện tốt nhất quyền này của các bạn. 1. Thủ tục khiếu nại Hiện nay, mặc dù việc khởi kiện ra Tòa án được rất nhiều cá nhân, tổ chức sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng đối với vụ việc hành chính, các cá nhân, tổ chức vẫn có thể lựa chọn một hình thức khác song song với khởi kiện ra Tòa án, đó là Khiếu nại. Dưới đây là thủ tục khiếu nại chung đối với các Quyết định hành chính, hành vi hành chính (Sau đây gọi tắt là QĐHC, HVHC) và thủ tục khiếu nại đối với Quyết định kỷ luật cán bộ, công chức. Khiếu nại lần đầu Khiếu nại lần hai Luật áp dụng Luật Khiếu nại 2011 Thẩm quyền Người đã ra quyết định hành chính; Cơ quan có người có hành vi hành chính. Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quản lý ngành, lĩnh vực Các khiếu nại không được thụ lý giải quyết 1. QĐHC, HVHC trong nội bộ cơ quan nhà nước để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; QĐHC, HVHC trong chỉ đạo điều hành của CQHC cấp trên với CQHC cấp dưới; quyết định hành chính có chứa đựng các quy phạm pháp luật do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định; 2. QĐHC, HVHC bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; 3. Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp; 4. Người đại diện không hợp pháp thực hiện khiếu nại; 5. Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; 6. Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng; 7. Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai; 8. Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại; 9. Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án. Trình tự khiếu nại 1. Nộp đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp; 2. Thụ lý giải quyết khiếu nại; 3. Xác minh nội dung khiếu nại; 4. Đối thoại; 5. Ra và gửi quyết định giải quyết khiếu nại; 6. Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại. Hình thức khiếu nại Đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp Đơn khiếu nại kèm theo quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan Thời hiệu khiếu nại 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu Vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày Rút khiếu nại Bất cứ thời điểm nào trong quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại Hình thức rút: Đơn rút khiếu nại có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại Thụ lý giải quyết khiếu nại Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu Không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý. Vụ việc phức tạp: không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Vụ việc phức tạp: không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; Vụ việc phức tạp: không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; Vụ việc phức tạp: không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý. Thời hạn gửi quyết định giải quyết khiếu nại Trong vòng 03 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại Trong vòng 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai Chủ thể nhận quyết định giải quyết khiếu nại Người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp. Người khiếu nại, người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến. Thời điểm có hiệu lực của Quyết định giải quyết khiếu nại Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai. Đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày. Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai. Đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn: không quá 45 ngày. Khiếu nại quyết định kỷ luật Chủ thể khiếu nại Cán bộ, công chức bị quyết định kỷ luật cán bộ, công chức Thẩm quyền giải quyết khiếu nại Người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định kỷ luật Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đã ban hành quyết định kỷ luật. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Bộ trưởng Bộ Nội vụ Thời hiệu khiếu nại Trong vòng 15 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định kỷ luật. Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc: 30 ngày, kể từ ngày cán bộ, công chức nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Hình thức khiếu nại Đơn khiếu nại Thời hạn thụ lý Trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại giải quyết khiếu nại Không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý. Vụ việc phức tạp: không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý Hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không khiếu nại lần hai Sau 30 ngày, kể từ ngày ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai Quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án Công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc 2. Thủ tục tố cáo Trong quan hệ xã hội giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan nhà nước, các hoạt động của người, cơ quan có thẩm quyền vi phạm pháp luật luôn có thể xảy ra. Vì vậy, các cá nhân, tổ chức có thể thực hiện quyền tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật đó theo thủ tục sau: Tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn Luật áp dụng Luật Tố cáo 2011 Thẩm quyền giải quyết tố cáo Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm Người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm giải quyết Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự đối với cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm Trình tự giải quyết tố cáo 1. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo; 2. Xác minh nội dung tố cáo; 3. Kết luận nội dung tố cáo; 4. Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo; 5. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Hình thức tố cáo Đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày. Không thuộc thẩm quyền: chuyển đơn tố cáo trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo. Người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo a) Tố cáo về vụ việc đã được người đó giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới; b) Tố cáo về vụ việc mà nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật; c) Tố cáo về vụ việc mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đủ điều kiện để kiểm tra, xác minh hành vi vi phạm pháp luật, người vi phạm. Thời hạn giải quyết tố cáo Trong vòng 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; gia hạn một lần nhưng không quá 30 ngày. Vụ việc phức tạp: 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; gia hạn một lần nhưng không quá 60 ngày. Xử lý tố cáo Không vi phạm: thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố cáo bị xâm phạm do việc tố cáo không đúng sự thật gây ra. Đồng thời xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật. Có vi phạm: áp dụng các biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Có dấu hiệu tội phạm: chuyển ngay hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Gửi kết luận nội dung tố cáo Người bị tố cáo. Người tố cáo (khi có yêu cầu). Cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan cấp trên trực tiếp. Tố cáo tiếp Trường hợp quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết hoặc có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo là không đúng pháp luật thì người tố cáo có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm giải quyết tố cáo. Thời hạn giải quyết: 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo tiếp Tố cáo có dấu hiệu tội phạm Trong vòng 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo hoặc hồ sơ vụ việc tố cáo, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải thông báo bằng văn bản về việc thụ lý, xử lý cho cơ quan, tổ chức chuyển tố cáo hoặc hồ sơ vụ việc tố cáo biết Trường hợp tố cáo có nội dung phức tạp: không quá 60 ngày. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo a) Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị tố cáo công tác; b) Niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; c) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực Thẩm quyền giải quyết tố cáo Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước liên quan đến tố cáo Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong cơ quan quản lý nhà nước đối với tố cáo thuộc phạm vi quản lý được giao Tố cáo có nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của nhiều cơ quan thì các cơ quan có trách nhiệm phối hợp để xác định thẩm quyền giải quyết hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước cấp trên quyết định giao cho một cơ quan chủ trì giải quyết. Tố cáo có nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Trình tự, thủ tục giải quyết Tương tự như tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; trừ trường hợp có thể xử lý ngày theo Điều 33 Luật Tố cáo.
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 08/2014/HC-GĐT ngày 19-8-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất” tại tỉnh Vĩnh Long giữa người khởi kiện là bà Võ Thị Lựu với người bị kiện là Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 1 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên. Khái quát nội dung của án lệ: - Tình huống án lệ: Quyết định về việc phê duyệt phương án hỗ trợ và tái định cư của Ủy ban nhân dân tỉnh có nội dung dẫn chiếu đến văn bản khác mà văn bản đó có nội dung tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của người khởi kiện. - Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, nội dung của văn bản được dẫn chiếu thuộc quyết định hành chính và quyết định hành chính đó là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ: - Khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015); - Các điều 41, 42 Luật đất đai năm 2003; - Nghị định số 197/NĐ-CP ngày 03-12-2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; - Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13-8-2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Từ khóa của án lệ: “Quyết định hành chính”; “Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”; “Thu hồi đất”; “Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi”. NỘI DUNG VỤ ÁN Ngày 07-4-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 567/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tổng thể về bồi thuờng, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, có nội dung: “Phê duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long: Tổng diện tích đất dự kiến thu hồi: 122.909m2 Tổng giá trị bồi thường dự kiến: 7.342.730.000đ”. Ngày 17-9-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1768/QĐ-UBND, nội dung: Thu hồi 117.863,lm2 đất tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm do hộ gia đình, cá nhân và tổ chức quản lý sử dụng để thực hiện dự án xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh và giao cho Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm quyết định thu hồi đất. Ngày 02-10-2008, Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2592/QĐ-UBND, nội dung: Thu hồi 2.353,1m2 đất của bà Võ Thị Lựu, chiết thửa số 222, loại đất trồng lúa thuộc tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại ấp Rạch Cốc, xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm để xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long. Ngày 01-12-2008, Ban bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm tiến hành lập tờ khai và kiểm kê về nhà, đất, cây trồng và vật kiến trúc của các hộ bị ảnh hưởng giải tỏa thuộc dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh. Ngày 15-5-2009, Sở Tài chính tỉnh Vĩnh Long có Tờ trình số 177/TTr.STC gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc xin phê duyệt phương án đền bù giải tỏa mặt bằng công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long, theo đó hộ bà Lựu được bồi thường hỗ trợ về đất số tiền là 155.155.000đ (theo quyết định thì giá đất bồi thường cho bà Lựu với giá là 50.000đ/m2); bồi thường hỗ trợ về tài sản trên đất, ổn định cuộc sống và đào tạo nghề số tiền là 19.286.200đ; tổng số tiền là 174.441.200đ. Ngày 04-6-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1216/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, nội dung: “Điều 1. Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh, tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm; 1. Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: 9.467.085.000đ, bao gồm: - Giá trị bồi thường, hỗ trợ về đất: 8.071.914.000đ - Giá trị nhà và vật kiến trúc: 161.560.000đ - Giá trị cây trồng: 273.152.000đ - Các khoản hỗ trợ: 654.600.000đ - Các phí khác (chi phí các hội đồng 2%, chi phí đo đạc): 305.859.000đ 2. Kinh phí: Trong tổng dự toán công trình do chủ đầu tư chi trả; Điều 2. Căn cứ vào Điều 1 của Quyết định này, Giám đốc Sở Tài chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm có trách nhiệm: - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm tổ chức chi trả bồi thường đúng theo quy định hiện hành của Nhà nước và giải phóng mặt bằng cho đơn vị thi công, - Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15/5/2009”. Không đồng ý với quyết định nêu trên, bà Lựu có đơn khiếu nại yêu cầu nâng giá bồi thường. Ngày 28-10-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2023/QĐ-UBND không chấp nhận khiếu nại của bà Lựu. Ngày 08-8-2011, bà Lựu có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long yêu cầu hủy Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với phần áp giá, bồi thường; yêu cầu giải quyết lại nâng giá bồi thường đất bằng với giá thị trường chuyển nhượng ở nơi có đất thu hồi. Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Lựu. Ngày 29-12-2012, bà Lựu có đơn kháng cáo. Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HCPT ngày 25-4-2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HCST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án. Ngày 28-6-2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Công văn số 1816/UBND-NC và ngày 02-8-2013, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Công văn số 547/TAT-HC đề nghị giám đốc thẩm Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên. Tại Quyết định số 05/2014/KN-HC ngày 05-3-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đổc thẩm hủy Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên và giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Theo Điều 2 của Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài chính có quy định phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Lựu về phần bồi thường hỗ trợ cho gia đình bà trong Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét làm rõ mục đích của việc thu hồi đất để xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là cơ sở kinh tế của Nhà nước hay của tư nhân để làm cơ sở giải quyết bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của gia đình bà Lựu theo đúng quy định của pháp luật. Bà Lựu kháng cáo yêu cầu được bồi thường về đất theo giá thị trường. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét đơn kháng cáo của bà Lựu về vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất cho gia đình bà Lựu có đúng quy định của pháp luật không, nhưng lại cho rằng Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long là quyết định mang tính tổng thể, không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên đã xử hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính. Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 3 Điều 219, khoản 3 Điều 225, khoản 1, 2 Điều 227 Luật tố tụng hành chính, QUYẾT ĐỊNH: 1. Chấp nhận Kháng nghị số 05/2014/KN-HC ngày 05-3-2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. 2. Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 cùa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. NỘI DUNG ÁN LỆ “Theo Điều 2 của Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài chính có quy định phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”.
Ai có thẩm quyền hủy bỏ Quyết định hành chính
Chào các bạn Mình có một vấn đề muốn đưa ra để các bạn trao đổi, tư vấn: Theo quy định của pháp luật hiện nay, ngoài Cơ quan ban hành ra chính quyết định hành chính và Tòa án có thẩm quyền hủy bỏ Quyết định hành chính. Thì còn cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khác có thẩm quyền hủy bỏ quyết định hành chính này hay không? Mình xin cảm ơn các bạn.
Nhầm lẫn giữa Quyết định hành chính với Hành vi hành chính?
Học môn Luật hành chính, ắt hẳn nhiều bạn thắc mắc về sự khác nhay giữa hành vi hành chính và quyết định hành chính, làm sao để phân biệt 2 khái niệm này. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn phân biệt rõ thế nào là hành vi hành chính, thế nào là quyết định hành chính. Tiêu chí Quyết định hành chính Hành vi hành chính Khái niệm Là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hay một số đối tượng cụ thể. (Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2010) Là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hay không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật. (Căn cứ Khoản 2 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2010) Ví dụ thực tế Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quyết định giải quyết khiếu nại. Pháp luật quy định chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết khiếu nại, nhưng khi nhận đơn khiếu nại chủ tịch không giải quyết. Đối tượng Văn bản Hành vi Chủ thể Cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hay người có thẩm quyền Thực hiện Ban hành, ra quyết định Thực hiện hay không thực hiện Hành vi làm tạm chấm dứt Tạm đình chỉ thi hành quyết định hành chính. Tạm dừng hành vi hành chính Hành vi làm chấm dứt Yêu cầu hủy bỏ quyết định hành chính Yêu cầu chấm dứt hành vi hành chính Từ bảng phân biệt 2 khái niệm trên chúng ta có thể dễ dàng nhận biết đâu là quyết định hành chính, đâu là hành vi hành chính. Tuy nhiên trên thực tế từng xảy ra nhiều vụ việc nhập nhằng về 2 khái niệm trên. Nếu có thiếu sót nào trong bài viết, mong các thành viên Dân Luật góp ý giúp mình nhé. Cám ơn các bạn.
Dự thảo Luật ban hành quyết định hành chính
Quyết định hành chính là những quyết định quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó. Hay nói cách khác, nó không phải là văn bản quy phạm pháp luật, nhưng có giá trị bắt buộc 1 hay 1 số đối tượng phải thực hiện, nếu không thực hiện sẽ bị cưỡng chế hành chính, chủ yếu là hình thức phạt tiền. Như vậy, tuy không phải là một văn bản quy phạm pháp luật, nhưng quyết định hành chính có giá trị không kém phần quan trọng, nhất là trong tố tụng hành chính. Từ trước đến nay, các quy định liên quan đến quyết định hành chính chỉ được quy định rải rác trong văn bản liên quan đến hành chính như Luật tố tụng hành chính…chưa có văn bản nào quy định về cơ chế ban hành, hiệu lực của chúng. Luật ban hành quyết định hành chính ra đời để tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Hiệu lực của quyết định hành chính do cơ quan, người có thẩm quyền quyết định Để đảm bảo tính khả thi, hợp lý, cơ quan, người có thẩm quyền phải quyết định hiệu lực của quyết định hành chính. Đồng thời, quyết định hành chính chỉ có hiệu lực trở về trước khi có lợi cho đối tượng thi hành và không ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khác. Quyết định hành chính chấm dứt 01 phần hay toàn bộ hiệu lực trong trường hợp: - Được xác định ngay trong quyết định hành chính. - Bị bãi bỏ, hủy bỏ, thu hồi. - Trường hợp khác theo quy định pháp luật Quyết định hành chính được thi hành khi đã có hiệu lực Nếu quyết định hành chính bất lợi thì được thi hành sau khi đối tượng thi hành nhận được quyết định đó. Nếu có khiếu nại, tố cáo thì quyết định hành chính đó vẫn được thi hành, trừ trường hợp trong quá trình giải quyết khiếu nại, xét thấy việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó. Trình tự chung đối với tất cả các loại quyết định hành chính - Tiếp nhận yêu cầu của tổ chức, cá nhân. - Thu thập thông tin, xác định căn cứ pháp luật ban hành quyết định hành chính. - Tham vấn và lấy ý kiến. - Xây dựng dự thảo quyết định hành chính. - Kiểm tra tính pháp lý của dự thảo quyết định hành chính liên quan đến lợi ích cộng đồng. - Ký ban hành quyết định hành chính. - Gửi, công khai quyết định hành chính. Xem chi tiết dự thảo Luật ban hành quyết định hành chính tại đây.