Hiểu thế nào là phạm tội lần đầu
Theo giải đáp tại mục 4 phần I Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao ngày 7/4/2017, phạm tội lần đầu được định nghĩa như sau “phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”. Công văn 01/2017 ban hành tại thời điểm BLHS 1999 đang có hiệu lực, giải thích những trường hợp người phạm tội được xem là đã xoá án tích quy định tại bộ luật này mà tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được xem là phạm tội lần đầu. Ngày 24/4/2018, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP. Tại khoản 2 điều 2 của Nghị quyết này quy định: “Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”. Theo quy định của BLHS 2015, người được xoá án tích coi như chưa bị kết án (khoản 1 điều 69). Chỉ có hai trường hợp được coi là “không có án tích” theo quy định của BLHS. Thứ nhất là người đương nhiên được xoá án tích và có yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp thì được xác nhận là không có án tích (khoản 4 điều 70). Thứ hai là người dưới 18 tuổi bị kết án thuộc một số trường hợp quy định tại khoản 1 điều 107. Như vậy đã có sự khác nhau trong định nghĩa “phạm tội lần đầu” ở Công văn giải đáp và Nghị quyết của TANDTC, quy định ở Nghị quyết 01/2018 nhìn chung có lợi hơn cho người phạm tội hơn so với giải thích ở Công văn. Có hai quan điểm chính trong vấn đề này như sau: - Vì Nghị quyết 01/2018 có phạm vi áp dụng đối với các trường hợp tha tù trước thời hạn; còn Công văn 01/2017 giải đáp cụ thể về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đồng thời quy định về tình tiết giảm nhẹ này tại BLHS 1999 và BLHS hiện hành không thay đổi. Vậy nên đề nghị áp dụng quan điểm giải thích về “phạm tội lần đầu” theo Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC. - Về giá trị pháp lý, Nghị quyết của HĐTP TANDTC là văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong khi đó Công văn giải đáp chỉ mang tính tham khảo, hướng dẫn, không có tính bắt buộc. Đồng thời theo chính sách hình sự nước ta, khi có sự xung đột về pháp luật cần áp dụng quy định có lợi hơn cho người phạm tội. Vì vậy cần áp dụng quy định tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP để giải thích khái niệm “phạm tội lần đầu”.
TANDTC giải đáp thắc mắc về lĩnh vực hình sự trong xét xử
Ngày 27/12/2022 TANDTC đã có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Cụ thể, trên cơ sử các vướng mắc và giải đáp của Hội đồng thẩm phán, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc thuộc lĩnh vực hình sự trong công tác xét xử như sau: 1. Giải đáp thắc mắc về hình sự trong công tác xét xử 1.1 Xác định phạm tội lần đầu đối với người đủ 18 tuổi Câu hỏi: “Người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đà bị kể tán khi chưa đủ 16 tuổi thì có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu" hay không?” TANDTC giải đáp: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án được coi là không có án tích. Do vậy, trường hợp người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi thì thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu". 1.2 Xử lý vật chứng là bộ phận của động vật quý, hiếm Câu hỏi: “Trường hợp vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm thì Tòa án xử lý như thế nào?” TANDTC giải đáp: Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 234 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 2015 thì: Việc xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau: - Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành đế trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. - Vật chứng là cả thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành của thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. - Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP nêu trên, đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm Tòa án sẽ tuyên tịch thu hoặc tiêu hủy. 1.3 Xác định tội danh đối với hủy hoại tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên Câu hỏi: “Người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên thì phạm tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 345 Bộ luật Hình sự 2015 hay tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 hay cả hai tội?” TANDTC giải đáp: Trường hợp người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh mà hành vi hủy hoại đã làm cho tài sản của khu di tích bị hư hỏng hoặc mất giá trị sử dụng. Thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. 2. Giải đáp thắc mắc về tố tụng hình sự trong công tác xét xử 2.1 Thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh Câu hỏi: “Bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh. Khi xét xử, Tòa án xét xử các hành vi đã bị truy tố nhưng với 02 tội danh khác nhau thì có vi phạm quy định về giới hạn của việc xét xử hay không?” TANDTC giải đáp: Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này về 01 tội danh thi căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát đế điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Khi xét xử, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ xét xử hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. 2.2 Có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng Câu hỏi: “Bị cáo là đồng phạm trong một vụ án, trong giai đoạn xét xử, bị cáo chết. Bị cáo có tài sản riêng đề bồi thường thiệt hại. Tòa án có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng để giải quyết phần trách nhiệm dân sự không? Nếu có thì xác định tư cách tham tố tụng của những người này như thế nào? Khi tuyên án về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo theo hưởng buộc những người thừa kế của bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do bị cáo để lại trong phạm vi di sản. Hay chỉ cần tuyên buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường và tách yêu cầu hoàn trả của các đồng phạm (đã thực hiện nghĩa vụ liên đời thay cho bị cáo đã chết) đối với những người thừa kế tài sản của bị cáo đề giải quyết thành vụ án dân sự khác?” TANDTC giải đáp: Trường hợp có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì khi giải quyết phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại. Tòa án đưa người thừa kế tài sản của bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường, căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp, không thể giải quyết trong cứng vụ án hình sự thì Tòa án buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Căn cứ quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án tách vụ án dân sự (giải quyết nghĩa vụ bồi thường giữa các bị cáo khác và người thừa kế của bị cáo) theo thủ tục tố tụng dân sự. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022 TANDTC.
Hiểu như thế nào về “phạm tội lần đầu” để được giảm nhẹ TNHS?
Phạm tội lần đầu - Ảnh minh họa Phạm tội lần đầu là một trong những tình tiết để xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên việc áp dụng quy định này vẫn tồn tại vướng mắc. Pháp luật quy định như thế nào về “phạm tội lần đầu” Trước hết, tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 có quy định: “1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: … i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; …” Ta thấy ở đây yếu tố “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” phải đi đôi với nhau, trong đó, tại Điều 4 Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp “trường hợp ít nghiêm trọng” là: - Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; - Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm. Mâu thuẫn khái niệm? Tuy nhiên, việc giải thích “Như thế nào là phạm tội lần đầu?” vẫn còn đang được tranh luận, bởi lẽ, tại Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có quy định những trường hợp được xem là phạm tội lần đầu: - Trước đó chưa phạm tội lần nào; - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; - Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Trong khi đó, Văn bản 01 lại cho rằng: “…Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.” Về khái niệm “không có án tích”, Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 tại các Khoản 2, 3, 4 quy định nếu một người đã chấp hành xong bản án, đã trải qua giai đoạn thử thách để xóa án tích mà không phạm thêm tội mới thì trong lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích. Có thể thấy dù Nghị quyết 01 hướng dẫn xác định tình tiết "phạm tội lần đầu" để xét tha tù trước thời hạn có điều kiện, nhưng cùng một khái niệm trong tố tụng lại được hiểu theo hai hướng khác nhau liệu có hợp lý? Quan điểm của người viết Theo quy tắc ưu tiên áp dụng văn bản, Nghị quyết của HĐTP có hiệu lực cao hơn Công văn của TAND Tối cao, hơn nữa Nghị quyết 01 được ban hành sau, nên việc ưu tiên áp dụng Nghị quyết 01 là hoàn toàn có căn cứ. Xin mời bạn đọc đóng góp ý kiến.
Ths ĐỖ NGỌC BÌNH (Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội) - Sau khi nghiên cứu bài viết “Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” của tác giả Đặng Duy Thanh đăng ngày 6/10/2020, tôi cho rằng quan điểm thứ hai là có cơ sở. Tôi không đồng tình với quan điểm của tác giả khi cho rằng: Trong vụ án cụ thể mà tác giả nêu, A sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và đương nhiên là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong trường hợp cụ thể mà tác giả đưa ra tôi cho rằng quan điểm thứ hai là có cơ sở, đúng pháp luật đó là: A không thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” nên không được hưởng tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Với ngoài những lập luận phân tích mà tác giả đã đưa ra, đồng thời tôi xin được phản biện lại quan điểm thứ nhất cũng như quan điểm của tác giả là chưa phù hợp. Bởi lý do sau: Thứ nhất, theo quy định thì tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” đây là tình tiết được quy định tại tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và nay là điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này phải thỏa mãn hai điều kiện cần và đủ đó là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, cụ thể tại Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.”. Theo đó, “Phạm tội lần đầu” được hiểu thế nào? Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích[1].”. Trở lại vụ án cho ta thấy: Ngày 1/3/2020, Phạm Văn A bị TAND tuyên phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS và xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày 1/3/2020. Đến ngày 1/7/2020, Phạm Văn A dùng dao chém anh Lâm Hoàng H gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 5%. Mặc dù, dữ kiện tác giả nêu không đề cập đến việc Phạm Văn A phạm tội cố ý gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 5%. Vậy, trường hợp này bị hại là anh Lâm Hoàng H có yêu cầu khởi tố không? Theo quy định của pháp luật thì trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội theo khoản 1 Điều 134 BLHS thì thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Vì vậy, theo tôi nếu vụ án này đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại tức là, Phạm Văn A phạm tội trong thời gian chấp hành thời gian thử thách của bản án tuyên ngày 1/3/2020. Điều này, cho thấy Phạm Văn A đã phạm tôi mới trong khi đang chấp hành một bản án đang có hiệu lực pháp luật và trường hợp của Phạm Văn A không thuộc trường hợp khoản 2 Điều 69 BLHS tức là phạm tội trong trường hợp không coi là có án tích. Do đó, trong trường hợp này Phạm Văn A không thỏa mãn điều kiện được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Thứ hai, việc nhận định của quan điểm thứ nhất cho rằng: A được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS là không phù hợp quy định của pháp luật. Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 đã chỉ ra rất rõ, cụ thể, trong khi Phạm Văn A phạm tội trong khi đang chấp hành một bản án đang có hiệu lực pháp luật. Và, như trên tôi đã phân tích trường hợp của Phạm Văn A không thuộc trường hợp khoản 2 Điều 69 BLHS tức là phạm tội trong trường hợp không coi là có án tích. Chính vì vậy, ở lần phạm tội sau Phạm Văn A không thỏa mãn điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo điểm i, khoản 1 Điều 51 BLHS. Trên đây là quan điểm cá nhân của tôi đối với bài “Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Xin được trao đổi với tác giả và bạn đọc./. Theo Tạp chí tòa án
Như thế nào là phạm tội lần đầu
Phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời là căn cứ tha tù trước thời hạn theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán nhân dân tối cao, phạm tội lần đầu được hiểu như sau: Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Trước đó chưa phạm tội lần nào; 2. Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự: - Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá. - Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. 3. Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; 4. Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Các trường hợp được coi là không có án tích - Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn luật định - Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 - Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này. - Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới. Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, để đủ yếu tố trở thành tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội lần đầu phải là trường hợp ít nghiêm trọng. Tức là: – Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; – Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
Phạm tội lần đầu được xem xét đề nghị đặc xá
Người phạm tội lần đầu, lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc phạm tội khi dưới 18 tuổi sẽ được xem xét đề nghị đặc xá. Bộ Công an vừa ban hành dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đặc xá 07/2007/QH12. Cụ thể, một số điều được sửa đổi như dưới đây. Theo yêu cầu của Chủ tịch nước hoặc trong trường hợp xét thấy cần thiết, Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan khác lập tờ trình để Chủ tịch nước xem xét, ban hành Quyết định. Tờ trình của Chính phủ phải đưa lên Chủ tịch nước chậm nhất là 60 ngày trước khi diễn ra sự kiện trọng đại. Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết ở trại giam. Người chấp hành án phạt tù có thời hạn được đề nghị đặc xá khi có các điều kiện sau: - Phạm tội lần đầu. - Chấp hành tốt quy chế của trại giam, tích cực học tập, lao động. Trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo tốt. - Đã chấp hành được 1/2 với án tù có thời hạn và ít nhất 15 năm đối với án tù chung thân. - Đối với người bị kết án tù về tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm thì phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác. - Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn được rút ngắn thời gian cải tạo khi thuộc các trường hợp sau: - Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù. - Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi. - Là người đủ 75 tuổi trở lên. Điều kiện được đề nghị đặc xá đối với người đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù: - Phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng, trừ những người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia. - Chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thời gian được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. - Đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác. - Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Người được tha tù trước thời hạn phải có điều kiện: - Chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thời gian thử thách; - Đã thực hiện ít nhất 1/3 thời gian thử thách.
Hiểu thế nào là phạm tội lần đầu
Theo giải đáp tại mục 4 phần I Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của Toà án nhân dân tối cao ngày 7/4/2017, phạm tội lần đầu được định nghĩa như sau “phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”. Công văn 01/2017 ban hành tại thời điểm BLHS 1999 đang có hiệu lực, giải thích những trường hợp người phạm tội được xem là đã xoá án tích quy định tại bộ luật này mà tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được xem là phạm tội lần đầu. Ngày 24/4/2018, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP. Tại khoản 2 điều 2 của Nghị quyết này quy định: “Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”. Theo quy định của BLHS 2015, người được xoá án tích coi như chưa bị kết án (khoản 1 điều 69). Chỉ có hai trường hợp được coi là “không có án tích” theo quy định của BLHS. Thứ nhất là người đương nhiên được xoá án tích và có yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp thì được xác nhận là không có án tích (khoản 4 điều 70). Thứ hai là người dưới 18 tuổi bị kết án thuộc một số trường hợp quy định tại khoản 1 điều 107. Như vậy đã có sự khác nhau trong định nghĩa “phạm tội lần đầu” ở Công văn giải đáp và Nghị quyết của TANDTC, quy định ở Nghị quyết 01/2018 nhìn chung có lợi hơn cho người phạm tội hơn so với giải thích ở Công văn. Có hai quan điểm chính trong vấn đề này như sau: - Vì Nghị quyết 01/2018 có phạm vi áp dụng đối với các trường hợp tha tù trước thời hạn; còn Công văn 01/2017 giải đáp cụ thể về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đồng thời quy định về tình tiết giảm nhẹ này tại BLHS 1999 và BLHS hiện hành không thay đổi. Vậy nên đề nghị áp dụng quan điểm giải thích về “phạm tội lần đầu” theo Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC. - Về giá trị pháp lý, Nghị quyết của HĐTP TANDTC là văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong khi đó Công văn giải đáp chỉ mang tính tham khảo, hướng dẫn, không có tính bắt buộc. Đồng thời theo chính sách hình sự nước ta, khi có sự xung đột về pháp luật cần áp dụng quy định có lợi hơn cho người phạm tội. Vì vậy cần áp dụng quy định tại Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP để giải thích khái niệm “phạm tội lần đầu”.
TANDTC giải đáp thắc mắc về lĩnh vực hình sự trong xét xử
Ngày 27/12/2022 TANDTC đã có Công văn 206/TANDTC-PC thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Cụ thể, trên cơ sử các vướng mắc và giải đáp của Hội đồng thẩm phán, TANDTC thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc thuộc lĩnh vực hình sự trong công tác xét xử như sau: 1. Giải đáp thắc mắc về hình sự trong công tác xét xử 1.1 Xác định phạm tội lần đầu đối với người đủ 18 tuổi Câu hỏi: “Người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đà bị kể tán khi chưa đủ 16 tuổi thì có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu" hay không?” TANDTC giải đáp: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án được coi là không có án tích. Do vậy, trường hợp người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16 tuổi thì thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu". 1.2 Xử lý vật chứng là bộ phận của động vật quý, hiếm Câu hỏi: “Trường hợp vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm thì Tòa án xử lý như thế nào?” TANDTC giải đáp: Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 234 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự 2015 thì: Việc xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện như sau: - Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành đế trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. - Vật chứng là cả thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành của thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. - Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 05/2018/NQ-HĐTP nêu trên, đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm Tòa án sẽ tuyên tịch thu hoặc tiêu hủy. 1.3 Xác định tội danh đối với hủy hoại tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên Câu hỏi: “Người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên thì phạm tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 345 Bộ luật Hình sự 2015 hay tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 hay cả hai tội?” TANDTC giải đáp: Trường hợp người có hành vi hủy hoại tài sản thuộc khu di tích lịch sử văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh mà hành vi hủy hoại đã làm cho tài sản của khu di tích bị hư hỏng hoặc mất giá trị sử dụng. Thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 nếu có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. 2. Giải đáp thắc mắc về tố tụng hình sự trong công tác xét xử 2.1 Thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh Câu hỏi: “Bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này nhưng chỉ truy tố về 01 tội danh. Khi xét xử, Tòa án xét xử các hành vi đã bị truy tố nhưng với 02 tội danh khác nhau thì có vi phạm quy định về giới hạn của việc xét xử hay không?” TANDTC giải đáp: Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này về 01 tội danh thi căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát đế điều tra bổ sung. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Khi xét xử, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ xét xử hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. 2.2 Có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng Câu hỏi: “Bị cáo là đồng phạm trong một vụ án, trong giai đoạn xét xử, bị cáo chết. Bị cáo có tài sản riêng đề bồi thường thiệt hại. Tòa án có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố tụng để giải quyết phần trách nhiệm dân sự không? Nếu có thì xác định tư cách tham tố tụng của những người này như thế nào? Khi tuyên án về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bị cáo theo hưởng buộc những người thừa kế của bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do bị cáo để lại trong phạm vi di sản. Hay chỉ cần tuyên buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường và tách yêu cầu hoàn trả của các đồng phạm (đã thực hiện nghĩa vụ liên đời thay cho bị cáo đã chết) đối với những người thừa kế tài sản của bị cáo đề giải quyết thành vụ án dân sự khác?” TANDTC giải đáp: Trường hợp có thể giải quyết trong cùng một vụ án thì khi giải quyết phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại. Tòa án đưa người thừa kế tài sản của bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường, căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Trường hợp, không thể giải quyết trong cứng vụ án hình sự thì Tòa án buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. Căn cứ quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Tòa án tách vụ án dân sự (giải quyết nghĩa vụ bồi thường giữa các bị cáo khác và người thừa kế của bị cáo) theo thủ tục tố tụng dân sự. Xem thêm Công văn 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022 TANDTC.
Hiểu như thế nào về “phạm tội lần đầu” để được giảm nhẹ TNHS?
Phạm tội lần đầu - Ảnh minh họa Phạm tội lần đầu là một trong những tình tiết để xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên việc áp dụng quy định này vẫn tồn tại vướng mắc. Pháp luật quy định như thế nào về “phạm tội lần đầu” Trước hết, tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 có quy định: “1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: … i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; …” Ta thấy ở đây yếu tố “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” phải đi đôi với nhau, trong đó, tại Điều 4 Văn bản 01/2017/GĐ-TANDTC giải đáp “trường hợp ít nghiêm trọng” là: - Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; - Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm. Mâu thuẫn khái niệm? Tuy nhiên, việc giải thích “Như thế nào là phạm tội lần đầu?” vẫn còn đang được tranh luận, bởi lẽ, tại Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có quy định những trường hợp được xem là phạm tội lần đầu: - Trước đó chưa phạm tội lần nào; - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; - Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; - Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Trong khi đó, Văn bản 01 lại cho rằng: “…Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.” Về khái niệm “không có án tích”, Điều 70 Bộ luật hình sự 2015 tại các Khoản 2, 3, 4 quy định nếu một người đã chấp hành xong bản án, đã trải qua giai đoạn thử thách để xóa án tích mà không phạm thêm tội mới thì trong lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích. Có thể thấy dù Nghị quyết 01 hướng dẫn xác định tình tiết "phạm tội lần đầu" để xét tha tù trước thời hạn có điều kiện, nhưng cùng một khái niệm trong tố tụng lại được hiểu theo hai hướng khác nhau liệu có hợp lý? Quan điểm của người viết Theo quy tắc ưu tiên áp dụng văn bản, Nghị quyết của HĐTP có hiệu lực cao hơn Công văn của TAND Tối cao, hơn nữa Nghị quyết 01 được ban hành sau, nên việc ưu tiên áp dụng Nghị quyết 01 là hoàn toàn có căn cứ. Xin mời bạn đọc đóng góp ý kiến.
Ths ĐỖ NGỌC BÌNH (Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội) - Sau khi nghiên cứu bài viết “Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” của tác giả Đặng Duy Thanh đăng ngày 6/10/2020, tôi cho rằng quan điểm thứ hai là có cơ sở. Tôi không đồng tình với quan điểm của tác giả khi cho rằng: Trong vụ án cụ thể mà tác giả nêu, A sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và đương nhiên là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong trường hợp cụ thể mà tác giả đưa ra tôi cho rằng quan điểm thứ hai là có cơ sở, đúng pháp luật đó là: A không thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” nên không được hưởng tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Với ngoài những lập luận phân tích mà tác giả đã đưa ra, đồng thời tôi xin được phản biện lại quan điểm thứ nhất cũng như quan điểm của tác giả là chưa phù hợp. Bởi lý do sau: Thứ nhất, theo quy định thì tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” đây là tình tiết được quy định tại tại điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và nay là điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này phải thỏa mãn hai điều kiện cần và đủ đó là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, cụ thể tại Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.”. Theo đó, “Phạm tội lần đầu” được hiểu thế nào? Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn: Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Trước đó chưa phạm tội lần nào; b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích[1].”. Trở lại vụ án cho ta thấy: Ngày 1/3/2020, Phạm Văn A bị TAND tuyên phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS và xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày 1/3/2020. Đến ngày 1/7/2020, Phạm Văn A dùng dao chém anh Lâm Hoàng H gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 5%. Mặc dù, dữ kiện tác giả nêu không đề cập đến việc Phạm Văn A phạm tội cố ý gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 5%. Vậy, trường hợp này bị hại là anh Lâm Hoàng H có yêu cầu khởi tố không? Theo quy định của pháp luật thì trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội theo khoản 1 Điều 134 BLHS thì thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Vì vậy, theo tôi nếu vụ án này đã được khởi tố theo yêu cầu của bị hại tức là, Phạm Văn A phạm tội trong thời gian chấp hành thời gian thử thách của bản án tuyên ngày 1/3/2020. Điều này, cho thấy Phạm Văn A đã phạm tôi mới trong khi đang chấp hành một bản án đang có hiệu lực pháp luật và trường hợp của Phạm Văn A không thuộc trường hợp khoản 2 Điều 69 BLHS tức là phạm tội trong trường hợp không coi là có án tích. Do đó, trong trường hợp này Phạm Văn A không thỏa mãn điều kiện được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Thứ hai, việc nhận định của quan điểm thứ nhất cho rằng: A được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS là không phù hợp quy định của pháp luật. Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP ngày 24/4/2018 đã chỉ ra rất rõ, cụ thể, trong khi Phạm Văn A phạm tội trong khi đang chấp hành một bản án đang có hiệu lực pháp luật. Và, như trên tôi đã phân tích trường hợp của Phạm Văn A không thuộc trường hợp khoản 2 Điều 69 BLHS tức là phạm tội trong trường hợp không coi là có án tích. Chính vì vậy, ở lần phạm tội sau Phạm Văn A không thỏa mãn điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” theo điểm i, khoản 1 Điều 51 BLHS. Trên đây là quan điểm cá nhân của tôi đối với bài “Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Xin được trao đổi với tác giả và bạn đọc./. Theo Tạp chí tòa án
Như thế nào là phạm tội lần đầu
Phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời là căn cứ tha tù trước thời hạn theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán nhân dân tối cao, phạm tội lần đầu được hiểu như sau: Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Trước đó chưa phạm tội lần nào; 2. Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự: - Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá. - Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. 3. Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; 4. Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Các trường hợp được coi là không có án tích - Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn luật định - Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 - Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này. - Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xóa án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới. Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, để đủ yếu tố trở thành tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội lần đầu phải là trường hợp ít nghiêm trọng. Tức là: – Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; – Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
Phạm tội lần đầu được xem xét đề nghị đặc xá
Người phạm tội lần đầu, lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc phạm tội khi dưới 18 tuổi sẽ được xem xét đề nghị đặc xá. Bộ Công an vừa ban hành dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đặc xá 07/2007/QH12. Cụ thể, một số điều được sửa đổi như dưới đây. Theo yêu cầu của Chủ tịch nước hoặc trong trường hợp xét thấy cần thiết, Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan khác lập tờ trình để Chủ tịch nước xem xét, ban hành Quyết định. Tờ trình của Chính phủ phải đưa lên Chủ tịch nước chậm nhất là 60 ngày trước khi diễn ra sự kiện trọng đại. Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết ở trại giam. Người chấp hành án phạt tù có thời hạn được đề nghị đặc xá khi có các điều kiện sau: - Phạm tội lần đầu. - Chấp hành tốt quy chế của trại giam, tích cực học tập, lao động. Trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo tốt. - Đã chấp hành được 1/2 với án tù có thời hạn và ít nhất 15 năm đối với án tù chung thân. - Đối với người bị kết án tù về tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm thì phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác. - Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn được rút ngắn thời gian cải tạo khi thuộc các trường hợp sau: - Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù. - Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi. - Là người đủ 75 tuổi trở lên. Điều kiện được đề nghị đặc xá đối với người đang được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù: - Phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng, trừ những người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia. - Chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thời gian được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. - Đã thực hiện xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác. - Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Người được tha tù trước thời hạn phải có điều kiện: - Chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thời gian thử thách; - Đã thực hiện ít nhất 1/3 thời gian thử thách.