Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội?
Phạm tội chưa đạt là gì? Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết về hai thuật ngữ này. Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều là hai khái niệm pháp lý quan trọng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, hai khái niệm này có những điểm khác biệt cơ bản về mặt bản chất và hậu quả pháp lý Hiểu rõ sự khác biệt giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về hành vi phạm tội và trách nhiệm pháp lý của người phạm tội. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh. (1) Điểm giống nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội - Hành vi chưa hoàn thành: Cả hai trường hợp đều liên quan đến những hành vi phạm tội chưa được hoàn thành. Đều có kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. - Ý định phạm tội: Ban đầu, người phạm tội đều có ý định thực hiện hành vi phạm tội. Ý định này có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện một hành vi bị pháp luật cấm. - Quá trình thực hiện hành vi: Trong cả hai trường hợp, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện một phần hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nguyên nhân và hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Dưới đây là phân tích chi tiết về những điểm giống nhau giữa hai khái niệm này và các ví dụ minh họa. (2) Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Phạm tội chưa đạt Tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Căn cứ pháp lý Điều 15 BLHS năm 2015 Điều 16 BLHS năm 2015 Khái niệm Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp một người tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù khách quan không có gì ngăn cản. Bản chất Thực hiện một phần hành vi phạm tội nhưng chưa hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Tự nguyện ngừng hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan, không nằm trong ý muốn của người phạm tội Nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ ý chí của người phạm tội Hậu quả pháp lý Căn cứ theo Điều 15 BLHS năm 2015, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Bên cạnh đó, Điều 57 BLHS năm 2015 quy định như sau: -Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. -Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Căn cứ theo Điều 16 BLHS năm 2015, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ Anh A có ý định trộm cắp tài sản của nhà B. A đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ và đột nhập vào nhà B. Tuy nhiên, khi A đang tìm kiếm tài sản để trộm, B trở về nhà và phát hiện ra hành vi của A. A bị bắt giữ trước khi kịp lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, A đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng chưa hoàn thành do bị phát hiện và ngăn cản bởi B. Đây là phạm tội chưa đạt vì hành vi phạm tội chưa được hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Anh C cũng có ý định trộm cắp tài sản của nhà D. C đã chuẩn bị dụng cụ và đột nhập vào nhà D. Tuy nhiên, sau khi vào nhà D và chuẩn bị lấy tài sản, C tự suy nghĩ lại và quyết định không thực hiện hành vi trộm cắp nữa. C rời khỏi nhà D mà không lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, C đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng tự nguyện ngừng lại và không tiếp tục hành vi. Đây là tự ý chấm dứt phạm tội vì C tự nguyện ngừng thực hiện hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Xem và tải bảng phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội:https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/15/bang-phan-biet-toi-pham-tu-dung-nua-chung.docx Tóm lại, mặc dù phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều có điểm chung là kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này có nhiều điểm khác nhau về khái niệm, bản chất, nguyên nhân và hậu quả pháp lý.
Trách nhiệm pháp lý khi cha bắt con cùng tự tử nhưng không thành
Trách nhiệm pháp lý của người cha ôm con tử tự - Hình minh họa Gần đây, một vụ việc gây xôn xao dư luận đó là người cha ôm hai con xuống sông tư tử 2 lần nhưng không thành. Vẫn biết, trong đằng sau câu truyện trên có nhiều lý do để người cha hành đông như vậy. Nhưng xem xét dưới góc độ pháp lý, hành vi ôm 2 con tự tử thì có phạm tội không? Và nếu phạm tội thì xử lý ra sao? Người cha có thể bị truy cứu hình sự về tội giết người chưa đạt Căn cứ theo Điều 123 Bộ Luật hình sự 2015, hành vi người cha ôm con tự tử có thể sẽ bị truy cứu hình sự với tội danh giết người chưa đạt. Hành động ôm con tự tử của người cha đã thỏa mãn cấu thành của giết người tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 nhưng với kết quả không thành. Cụ thể: “Điều 123. Tội giết người 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết 02 người trở lên; b) Giết người dưới 16 tuổi; c) Giết phụ nữ mà biết là có thai; …” - Điều kiện về chủ thể: Đòi hỏi về chủ thể bao gồm độ tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi. - Về khách thể: hành vi đã xâm phạm tính mạng con người (người con). - Về khách quan: hành vi thực hiện của người cha sẽ dẫn đến hậu quả gây chết người. Trong trường hợp này, dù tự tử không thành nhưng người cha vẫn sẽ bị truy cứu hình sự về tội danh giết người chưa đạt. Vì người cha thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mục đích là cả cha và con cùng chết, nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra vì những nguyên nhân ngoài ý muốn. "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội." Điều 15 Bộ luật hình sự 2015 – Về mặt chủ quan: hành vi có lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết.
Những trường hợp làm chết người nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự
Ảnh minh họa: Làm chết người nhưng không phải chịu TNHS Mọi hành vi phạm tội đều chịu trách nhiệm trước pháp luật, tuy nhiên BLHS 2015 quy định có những trường hợp ngoại lệ, dù làm chết người cũng không phải chịu TNHS. Cụ thể là các trường hợp dưới đây: 1. Làm chết người trong trường hợp chưa đủ 14 tuổi Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Điều 12 BLHS 2. Sự kiện bất ngờ Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 20 BLHS 3. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 21 BLHS 4. Phòng vệ chính đáng - Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. - Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Khoản 1, Điều 22 BLHS 5. Tình thế cấp thiết - Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. - Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Khoản 1, Điều 23 BLHS 6. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội - Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm. - Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. Khoản 1, Điều 24 BLHS 7. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm. Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 25 BLHS 8. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật Hình sự. Điều 26 BLHS Cần chú ý: - Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. - Trường hợp Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Tội mua bán trái phép chất ma túy có giai đoạn phạm tội chưa đạt hay không ?
Em xin chào các anh chị, Luật sư. Hiện em đang cần các anh chị giải thích trường hợp sau: người phạm tội có hành vi mua ma túy nhằm mục đích bán nhưng chưa bán được thì bị bắt. Trong trường hợp này có xem người này phạm tội mua bán ma túy nhưng chưa đạt (phạm tội chưa đạt) hay không ?. Có ý kiến cho rằng người này tội phạm đã hoàn thành nhưng chưa đạt về mục đích nên khi xét xử sẽ được viện dẫn trường hợp phạm tội chưa đạt, điều đó có đúng không? Em rất cảm ơn các anh chị đã bỏ thời gian giải đáp. Trân trọng.
Phạm tội chưa đạt, hiểu thế nào cho đúng
Phạm tội chưa đạt được hiểu theo Điều 15 Bộ luật hình sự hiện hành là việc cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt theo quy định pháp luật. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, ngoài việc phải áp dụng điểm, khoản, điều luật quy định về tội phạm đó, cần phải áp dụng Điều 57 Bộ luật hình sự hiện hành để quyết định hình phạt, cụ thể: Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Tôi xin giới thiệu với các luật sư đồng nghiệp, những người học luật các bản án về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với các tội danh cụ thể như tội giết người, tội hiếp dâm, tội trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, cướp giật tài sản… 1. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội Giết người: Đa số các bản án về tội Giết người áp dụng tình tiết phạm tội chưa đạt là do bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích với tính chất và mức độ hành vi nguy hiểm có khả năng gây chết người, tuy nhiên hậu quả chết người không xảy ra do khách quan, nằm ngoài ý chí của bị cáo. 2. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội Hiếp dâm: Đối với tội phạm Hiếp dâm nói chung (Hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi…) thì thường Tòa án xác định tội phạm hoàn thành khi thực hiện được hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác đối với nạn nhân. Tại Bản án sơ thẩm số 16/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang, vì nạn nhân khép chặt chân nên hung thủ không cho dương vật vào được nhưng vẫn thực hiện cọ sát và xuất tinh thì vẫn thuộc trường hợp tội phạm đã hoàn thành. Các trường hợp khác mặc dù đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm thực hiện việc giao cấu với nạn nhân nhưng việc giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác chưa được thực hiện thì vẫn thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. 3. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội trộm cắp tài sản: Đối với tội trộm cắp tài sản, tội phạm được hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Đối với vật nhỏ gọn thì được coi là chiếm đoạt từ thời điểm người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người. Trường hợp tài sản chiếm đoạt không phải là vật nhỏ gọn như trên thì thời điểm hoàn thành khi đã mang tài sản ra khỏi nơi bảo quản. 4. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội cướp tài sản, cướp giật tài sản: Đối với tội cướp tài sản được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng bạo lực hoặc đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, bất kể là người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không. Đối với tội cướp giật tài sản được coi là tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội giật được tài sản từ người khác kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản để tẩu thoát.
Phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Khái niệm phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là hai khái niệm dễ bị nhầm lẫn trong quá trình xác định tình tiết phạm tội . Tuy nhiên nếu nắm chắc những đặc điểm dưới đây bạn sẽ dễ dàng phân biệt được. Giống nhau: Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đều là trường hợp tội phạm không được thực hiện đến cùng. Khác nhau: Tiêu chí phân biệt Phạm tội chưa đạt Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Khái niệm Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. (Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.(Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015) Phân tích yếu tố tác động Đối với hành vi phạm tội chưa đạt việc người phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa lại là do nguyên nhân khách quan tác động (chứ không phải do chủ quan như tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) mà không thực hiện được tội phạm đến cùng. Có hai loại phạm tội chưa đạt: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. + Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội ví nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm. + Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu qủa nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra. – Việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của người phạm tội phải “tự nguyện” và “dứt khoát”, có nghĩa người đó phải từ bỏ thực sự ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu, chứ không phải tạm thời dừng lại chốc lát để chờ cơ hội, điều kiện thuận lợi khác hay chuẩn bị kỹ lưỡng và đầy đủ hơn công cụ, phương tiện phạm tội sẽ tiếp tục phạmtội; – Việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải và chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành; – Điều kiện khách quan không có gì ngăn cản việc thực hiện, nếu người phạm tội muốn thực hiện tội phạm, họ hoàn toàn có thể tiến hành được. Như vậy, nếu người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là xuất phát từ do ý muốn chủ quan của bản thân họ quyết định không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa nên ở góc độ nào đó, hành vi này được xem là đã mất tính nguy hiểm cho xã hội. Hậu quả pháp lý Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ minh họa - Người phạm tội giết người mới chỉ bỏ thuốc độc vào ly nước thì bị phát hiện, bắt giữ. - H định giết K, đã bắn một viên đạn, nhưng không trúng rồi không bắn nữa vì sợ pháp luật trừng trị.
Phân biệt phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội
Hai khái niệm phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội nghe qua có vẻ tương đối giống nhau vì vậy mà khi vận dụng pháp luật không ít cách hiểu bị nhầm lẫn. Vì vậy hôm nay mình đã lập bảng so sánh hai khái niệm nêu trên, bạn đọc xem qua có điều gì vướng mắc hoặc bổ sung thì trả lời bên dưới nhé >>> Dự thảo nghị quyết hướng dẫn các tội về hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô, giao cấu >>> "Bóp má", "sờ đầu" trẻ dưới 16 tuổi là dâm ô? Chuẩn bị phạm tội Phạm tội chưa đạt Khái niệm là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, Trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), điểm a khoản 2 Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân) hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 (Tội khủng bố) của Bộ luật Hình sự. Là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Hành vi Chủ thể chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm (có nghĩa là hành vi chưa xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ), mà chỉ mới thực hiện những hành vi tạo ra các điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhanh chóng về sau. Chủ thế đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại, hậu quả đã gây ra cho xã hội, Hành vi trở nên nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ “do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn” ngăn chặn lại việc tiếp tục để hành vi phạm tội đó tiếp diễn. Hậu quả pháp lý Người thực hiện hành vi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội lại không phải chịu trách nhiệm hình sự Trừ: Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc), 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), 110 ( Tội gián điệp), 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ), 112 (Tội bạo loạn ), 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân), 114 (Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), 115 (Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội), 116 ( Tội phá hoại chính sách đoàn kết), 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), 118 (Tội phá rối an ninh), 119 (Tội chống phá cơ sở giam giữ), 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), 121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), 123 (Tội giết người), 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ), 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 207 (Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả), 299 (Tội khủng bố), 300 (Tội tài trợ khủng bố), 301 (Tội bắt cóc con tin), 302 ( Tội cướp biển), 303 (Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) và 324 (Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự) của Bộ luật Hình sự thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.”. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Phân biệt "Chưa gây thiệt hại" và "Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành"
1. Xin các bạn giải thích giùm mình: Tại bài viết trên website của bộ tư pháp: http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1998 có đoạn viết: "Chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện, nhưng thiệt hại không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cần phân biệt với phạm tội chưa đạt (Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội)." -> Mình đọc đến đây thấy chột dạ, vì trước nay mình hiểu phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là 1 trường hợp của phạm tộ chưa đạt, trong đó người phạm tội đã hoàn thành hành vi phạm tội của mình nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn hậu quả đã không xảy ra. Nay bài viết lại nói như thế kia thì mình không sao hình dung được, điều gì đã sai ở đây? Cùng một hành vi trộm cắp xe máy nhưng bị phát hiện thì ở nghị quyết 01/2000/HĐTP coi đây là trường hợp phạm tội chưa đạt, còn ở bài viết này thì coi đây không phải là phạm tội chưa đạt mà là trường hợp chưa gây thiệt hại??? 2. Xin các bạn phân tích giùm mình để mình hiểu sâu hơn trường hợp "Tội phạm cấu thành vật chất trong trường hợp phạm tội chưa đạt". Mình băn khoăn vì tội phạm cấu thành vật chất thì hậu quả là yếu tố bắt buộc trong hành vi khách quan nhưng trường hợp phạm tội chưa đạt thì hậu quả lại không xảy ra. Nếu dùng giấy tờ giả bán nhà lúc ra công chứng thì bị phát hiện, tiền mua bán nhà vẫn chưa chuyển giao thì có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không?. Trên thực tế đã có vụ nào như thế này chưa ạ? Cảm ơn các bạn !
Có được áp dụng tình tiết tăng nặng đối với trường hợp phạm tội chưa đạt
Mọi người giúp em giải đáp thắc mắc trên với ạ! Bởi khi tìm hiểu em thấy có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau: - Quan điểm 1 cho rằng phải thỏa mãn tất cả những dấu hiệu quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản thì mới được áp dụng các tình tiết tăng nặng. Mà để thỏa mãn cấu thành tội phạm cơ bản thì tội phạm đó phải hoàn thành rồi. - Quan điểm 2 thì cho rằng: vẫn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng khi phạm tội chưa đạt. Ví dụ giết người chưa đạt nhưng do có tính chất con đồ nên được vẫn được áp dụng tình tiết tăng nặng này để chuyển khung hình phạt. Điều thứ 2 em muốn hỏi là nếu được áp dụng tình tiết tăng nặng khi phạm tội chưa đạt thì việc xác định mức hình phạt sẽ như thế nào. Vấn áp dụng điều 52 đúng không ạ. Tức = 2/3 * ( khung tăng nặng) đối với hình phạt tù Em cảm ơn!
Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội?
Phạm tội chưa đạt là gì? Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết về hai thuật ngữ này. Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều là hai khái niệm pháp lý quan trọng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, hai khái niệm này có những điểm khác biệt cơ bản về mặt bản chất và hậu quả pháp lý Hiểu rõ sự khác biệt giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về hành vi phạm tội và trách nhiệm pháp lý của người phạm tội. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh. (1) Điểm giống nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội - Hành vi chưa hoàn thành: Cả hai trường hợp đều liên quan đến những hành vi phạm tội chưa được hoàn thành. Đều có kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. - Ý định phạm tội: Ban đầu, người phạm tội đều có ý định thực hiện hành vi phạm tội. Ý định này có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện một hành vi bị pháp luật cấm. - Quá trình thực hiện hành vi: Trong cả hai trường hợp, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện một phần hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nguyên nhân và hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Dưới đây là phân tích chi tiết về những điểm giống nhau giữa hai khái niệm này và các ví dụ minh họa. (2) Sự khác nhau giữa phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Phạm tội chưa đạt Tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội Căn cứ pháp lý Điều 15 BLHS năm 2015 Điều 16 BLHS năm 2015 Khái niệm Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp một người tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù khách quan không có gì ngăn cản. Bản chất Thực hiện một phần hành vi phạm tội nhưng chưa hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Tự nguyện ngừng hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan, không nằm trong ý muốn của người phạm tội Nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ ý chí của người phạm tội Hậu quả pháp lý Căn cứ theo Điều 15 BLHS năm 2015, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Bên cạnh đó, Điều 57 BLHS năm 2015 quy định như sau: -Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. -Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Căn cứ theo Điều 16 BLHS năm 2015, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ Anh A có ý định trộm cắp tài sản của nhà B. A đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ và đột nhập vào nhà B. Tuy nhiên, khi A đang tìm kiếm tài sản để trộm, B trở về nhà và phát hiện ra hành vi của A. A bị bắt giữ trước khi kịp lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, A đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng chưa hoàn thành do bị phát hiện và ngăn cản bởi B. Đây là phạm tội chưa đạt vì hành vi phạm tội chưa được hoàn thành do nguyên nhân khách quan. Anh C cũng có ý định trộm cắp tài sản của nhà D. C đã chuẩn bị dụng cụ và đột nhập vào nhà D. Tuy nhiên, sau khi vào nhà D và chuẩn bị lấy tài sản, C tự suy nghĩ lại và quyết định không thực hiện hành vi trộm cắp nữa. C rời khỏi nhà D mà không lấy bất kỳ tài sản nào. Phân tích: Trong trường hợp này, C đã có ý định và bắt đầu thực hiện hành vi trộm cắp, nhưng tự nguyện ngừng lại và không tiếp tục hành vi. Đây là tự ý chấm dứt phạm tội vì C tự nguyện ngừng thực hiện hành vi phạm tội mà không bị ngăn cản. Xem và tải bảng phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội:https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/06/15/bang-phan-biet-toi-pham-tu-dung-nua-chung.docx Tóm lại, mặc dù phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội đều có điểm chung là kết quả chung là hậu quả của việc phạm tội không xảy ra. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này có nhiều điểm khác nhau về khái niệm, bản chất, nguyên nhân và hậu quả pháp lý.
Trách nhiệm pháp lý khi cha bắt con cùng tự tử nhưng không thành
Trách nhiệm pháp lý của người cha ôm con tử tự - Hình minh họa Gần đây, một vụ việc gây xôn xao dư luận đó là người cha ôm hai con xuống sông tư tử 2 lần nhưng không thành. Vẫn biết, trong đằng sau câu truyện trên có nhiều lý do để người cha hành đông như vậy. Nhưng xem xét dưới góc độ pháp lý, hành vi ôm 2 con tự tử thì có phạm tội không? Và nếu phạm tội thì xử lý ra sao? Người cha có thể bị truy cứu hình sự về tội giết người chưa đạt Căn cứ theo Điều 123 Bộ Luật hình sự 2015, hành vi người cha ôm con tự tử có thể sẽ bị truy cứu hình sự với tội danh giết người chưa đạt. Hành động ôm con tự tử của người cha đã thỏa mãn cấu thành của giết người tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 nhưng với kết quả không thành. Cụ thể: “Điều 123. Tội giết người 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết 02 người trở lên; b) Giết người dưới 16 tuổi; c) Giết phụ nữ mà biết là có thai; …” - Điều kiện về chủ thể: Đòi hỏi về chủ thể bao gồm độ tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự - năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi. - Về khách thể: hành vi đã xâm phạm tính mạng con người (người con). - Về khách quan: hành vi thực hiện của người cha sẽ dẫn đến hậu quả gây chết người. Trong trường hợp này, dù tự tử không thành nhưng người cha vẫn sẽ bị truy cứu hình sự về tội danh giết người chưa đạt. Vì người cha thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mục đích là cả cha và con cùng chết, nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra vì những nguyên nhân ngoài ý muốn. "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội." Điều 15 Bộ luật hình sự 2015 – Về mặt chủ quan: hành vi có lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhiều khả năng hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong muốn nạn nhân chết.
Những trường hợp làm chết người nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự
Ảnh minh họa: Làm chết người nhưng không phải chịu TNHS Mọi hành vi phạm tội đều chịu trách nhiệm trước pháp luật, tuy nhiên BLHS 2015 quy định có những trường hợp ngoại lệ, dù làm chết người cũng không phải chịu TNHS. Cụ thể là các trường hợp dưới đây: 1. Làm chết người trong trường hợp chưa đủ 14 tuổi Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Điều 12 BLHS 2. Sự kiện bất ngờ Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 20 BLHS 3. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 21 BLHS 4. Phòng vệ chính đáng - Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. - Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Khoản 1, Điều 22 BLHS 5. Tình thế cấp thiết - Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. - Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Khoản 1, Điều 23 BLHS 6. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội - Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm. - Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. Khoản 1, Điều 24 BLHS 7. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm. Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 25 BLHS 8. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật Hình sự. Điều 26 BLHS Cần chú ý: - Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. - Trường hợp Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Tội mua bán trái phép chất ma túy có giai đoạn phạm tội chưa đạt hay không ?
Em xin chào các anh chị, Luật sư. Hiện em đang cần các anh chị giải thích trường hợp sau: người phạm tội có hành vi mua ma túy nhằm mục đích bán nhưng chưa bán được thì bị bắt. Trong trường hợp này có xem người này phạm tội mua bán ma túy nhưng chưa đạt (phạm tội chưa đạt) hay không ?. Có ý kiến cho rằng người này tội phạm đã hoàn thành nhưng chưa đạt về mục đích nên khi xét xử sẽ được viện dẫn trường hợp phạm tội chưa đạt, điều đó có đúng không? Em rất cảm ơn các anh chị đã bỏ thời gian giải đáp. Trân trọng.
Phạm tội chưa đạt, hiểu thế nào cho đúng
Phạm tội chưa đạt được hiểu theo Điều 15 Bộ luật hình sự hiện hành là việc cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt theo quy định pháp luật. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, ngoài việc phải áp dụng điểm, khoản, điều luật quy định về tội phạm đó, cần phải áp dụng Điều 57 Bộ luật hình sự hiện hành để quyết định hình phạt, cụ thể: Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Tôi xin giới thiệu với các luật sư đồng nghiệp, những người học luật các bản án về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với các tội danh cụ thể như tội giết người, tội hiếp dâm, tội trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, cướp giật tài sản… 1. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội Giết người: Đa số các bản án về tội Giết người áp dụng tình tiết phạm tội chưa đạt là do bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích với tính chất và mức độ hành vi nguy hiểm có khả năng gây chết người, tuy nhiên hậu quả chết người không xảy ra do khách quan, nằm ngoài ý chí của bị cáo. 2. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội Hiếp dâm: Đối với tội phạm Hiếp dâm nói chung (Hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi…) thì thường Tòa án xác định tội phạm hoàn thành khi thực hiện được hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác đối với nạn nhân. Tại Bản án sơ thẩm số 16/2019/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang, vì nạn nhân khép chặt chân nên hung thủ không cho dương vật vào được nhưng vẫn thực hiện cọ sát và xuất tinh thì vẫn thuộc trường hợp tội phạm đã hoàn thành. Các trường hợp khác mặc dù đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm thực hiện việc giao cấu với nạn nhân nhưng việc giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác chưa được thực hiện thì vẫn thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. 3. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội trộm cắp tài sản: Đối với tội trộm cắp tài sản, tội phạm được hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Đối với vật nhỏ gọn thì được coi là chiếm đoạt từ thời điểm người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người. Trường hợp tài sản chiếm đoạt không phải là vật nhỏ gọn như trên thì thời điểm hoàn thành khi đã mang tài sản ra khỏi nơi bảo quản. 4. Về tình tiết phạm tội chưa đạt đối với tội cướp tài sản, cướp giật tài sản: Đối với tội cướp tài sản được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng bạo lực hoặc đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, bất kể là người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản hay không. Đối với tội cướp giật tài sản được coi là tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội giật được tài sản từ người khác kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản để tẩu thoát.
Phân biệt phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Khái niệm phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là hai khái niệm dễ bị nhầm lẫn trong quá trình xác định tình tiết phạm tội . Tuy nhiên nếu nắm chắc những đặc điểm dưới đây bạn sẽ dễ dàng phân biệt được. Giống nhau: Phạm tội chưa đạt và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đều là trường hợp tội phạm không được thực hiện đến cùng. Khác nhau: Tiêu chí phân biệt Phạm tội chưa đạt Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội Khái niệm Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. (Điều 15 Bộ luật Hình sự 2015) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.(Điều 16 Bộ luật Hình sự 2015) Phân tích yếu tố tác động Đối với hành vi phạm tội chưa đạt việc người phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa lại là do nguyên nhân khách quan tác động (chứ không phải do chủ quan như tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) mà không thực hiện được tội phạm đến cùng. Có hai loại phạm tội chưa đạt: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. + Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội ví nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm. + Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu qủa nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra. – Việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của người phạm tội phải “tự nguyện” và “dứt khoát”, có nghĩa người đó phải từ bỏ thực sự ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu, chứ không phải tạm thời dừng lại chốc lát để chờ cơ hội, điều kiện thuận lợi khác hay chuẩn bị kỹ lưỡng và đầy đủ hơn công cụ, phương tiện phạm tội sẽ tiếp tục phạmtội; – Việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải và chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành; – Điều kiện khách quan không có gì ngăn cản việc thực hiện, nếu người phạm tội muốn thực hiện tội phạm, họ hoàn toàn có thể tiến hành được. Như vậy, nếu người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là xuất phát từ do ý muốn chủ quan của bản thân họ quyết định không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa nên ở góc độ nào đó, hành vi này được xem là đã mất tính nguy hiểm cho xã hội. Hậu quả pháp lý Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ minh họa - Người phạm tội giết người mới chỉ bỏ thuốc độc vào ly nước thì bị phát hiện, bắt giữ. - H định giết K, đã bắn một viên đạn, nhưng không trúng rồi không bắn nữa vì sợ pháp luật trừng trị.
Phân biệt phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội
Hai khái niệm phạm tội chưa đạt và chuẩn bị phạm tội nghe qua có vẻ tương đối giống nhau vì vậy mà khi vận dụng pháp luật không ít cách hiểu bị nhầm lẫn. Vì vậy hôm nay mình đã lập bảng so sánh hai khái niệm nêu trên, bạn đọc xem qua có điều gì vướng mắc hoặc bổ sung thì trả lời bên dưới nhé >>> Dự thảo nghị quyết hướng dẫn các tội về hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô, giao cấu >>> "Bóp má", "sờ đầu" trẻ dưới 16 tuổi là dâm ô? Chuẩn bị phạm tội Phạm tội chưa đạt Khái niệm là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, Trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), điểm a khoản 2 Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân) hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 (Tội khủng bố) của Bộ luật Hình sự. Là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Hành vi Chủ thể chưa bắt tay vào việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm (có nghĩa là hành vi chưa xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ), mà chỉ mới thực hiện những hành vi tạo ra các điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhanh chóng về sau. Chủ thế đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại, hậu quả đã gây ra cho xã hội, Hành vi trở nên nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ “do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn” ngăn chặn lại việc tiếp tục để hành vi phạm tội đó tiếp diễn. Hậu quả pháp lý Người thực hiện hành vi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội lại không phải chịu trách nhiệm hình sự Trừ: Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc), 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), 110 ( Tội gián điệp), 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ), 112 (Tội bạo loạn ), 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân), 114 (Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), 115 (Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội), 116 ( Tội phá hoại chính sách đoàn kết), 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), 118 (Tội phá rối an ninh), 119 (Tội chống phá cơ sở giam giữ), 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), 121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), 123 (Tội giết người), 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ), 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 207 (Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả), 299 (Tội khủng bố), 300 (Tội tài trợ khủng bố), 301 (Tội bắt cóc con tin), 302 ( Tội cướp biển), 303 (Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) và 324 (Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự) của Bộ luật Hình sự thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.”. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Phân biệt "Chưa gây thiệt hại" và "Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành"
1. Xin các bạn giải thích giùm mình: Tại bài viết trên website của bộ tư pháp: http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1998 có đoạn viết: "Chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện, nhưng thiệt hại không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cần phân biệt với phạm tội chưa đạt (Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội)." -> Mình đọc đến đây thấy chột dạ, vì trước nay mình hiểu phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là 1 trường hợp của phạm tộ chưa đạt, trong đó người phạm tội đã hoàn thành hành vi phạm tội của mình nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn hậu quả đã không xảy ra. Nay bài viết lại nói như thế kia thì mình không sao hình dung được, điều gì đã sai ở đây? Cùng một hành vi trộm cắp xe máy nhưng bị phát hiện thì ở nghị quyết 01/2000/HĐTP coi đây là trường hợp phạm tội chưa đạt, còn ở bài viết này thì coi đây không phải là phạm tội chưa đạt mà là trường hợp chưa gây thiệt hại??? 2. Xin các bạn phân tích giùm mình để mình hiểu sâu hơn trường hợp "Tội phạm cấu thành vật chất trong trường hợp phạm tội chưa đạt". Mình băn khoăn vì tội phạm cấu thành vật chất thì hậu quả là yếu tố bắt buộc trong hành vi khách quan nhưng trường hợp phạm tội chưa đạt thì hậu quả lại không xảy ra. Nếu dùng giấy tờ giả bán nhà lúc ra công chứng thì bị phát hiện, tiền mua bán nhà vẫn chưa chuyển giao thì có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không?. Trên thực tế đã có vụ nào như thế này chưa ạ? Cảm ơn các bạn !
Có được áp dụng tình tiết tăng nặng đối với trường hợp phạm tội chưa đạt
Mọi người giúp em giải đáp thắc mắc trên với ạ! Bởi khi tìm hiểu em thấy có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau: - Quan điểm 1 cho rằng phải thỏa mãn tất cả những dấu hiệu quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản thì mới được áp dụng các tình tiết tăng nặng. Mà để thỏa mãn cấu thành tội phạm cơ bản thì tội phạm đó phải hoàn thành rồi. - Quan điểm 2 thì cho rằng: vẫn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng khi phạm tội chưa đạt. Ví dụ giết người chưa đạt nhưng do có tính chất con đồ nên được vẫn được áp dụng tình tiết tăng nặng này để chuyển khung hình phạt. Điều thứ 2 em muốn hỏi là nếu được áp dụng tình tiết tăng nặng khi phạm tội chưa đạt thì việc xác định mức hình phạt sẽ như thế nào. Vấn áp dụng điều 52 đúng không ạ. Tức = 2/3 * ( khung tăng nặng) đối với hình phạt tù Em cảm ơn!