Dự kiến triển khai đầu tư xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ vào năm 2026 - 2028
Ngày 02/10/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ban hành Công văn 746/TTg-CN 2024 cho ý kiến về Đề án nghiên cứu xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Theo Công văn 746/TTg-CN, báo cáo thẩm định của Bộ Giao thông vận tải về Đề án xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ đã nhận được sự quan tâm của Chính phủ. Xét thấy Đề án này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và đã được Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Phó Thủ tướng Trần Hồng hà có ý kiến chỉ đạo như sau: (1) Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: - Khẩn trương hoàn thiện Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030. - Lập Quy hoạch chung xây dựng đến năm 2040 và tầm nhìn đến năm 2060, trình cấp thẩm quyền phê duyệt. - Huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác để hoàn thành công trình hạ tầng kỹ thuật kết nối dự án. - Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo Nghị quyết 98/2023/QH15 và triển khai xây dựng dự án theo quy định. - Xây dựng lộ trình và kế hoạch đầu tư cho hạ tầng giao thông kết nối. - Phát triển phương án cấp điện, nước, thông tin liên lạc phù hợp với tiến trình đầu tư xây dựng cảng. - Xây dựng kế hoạch đầu tư cho các công trình phụ trợ phục vụ hoạt động khai thác cảng. - Xây dựng kế hoạch đầu tư hạ tầng dịch vụ sau cảng phù hợp với lộ trình khai thác. - Phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện các nội dung liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng trong khu vực. - Xác định địa điểm đổ thải vật chất nạo vét. - Phối hợp các cơ quan liên quan xây dựng quy chế khai thác giữa các cảng khu vực Cái Mép và Cần Giờ để nâng cao hiệu quả đầu tư. (2) Bộ Giao thông vận tải: - Chủ trì tổ chức lập và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển. - Chủ trì lập và phê duyệt theo thẩm quyền Quy hoạch chi tiết vùng đất, vùng nước cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh. - Có ý kiến về công nghệ bốc dỡ hàng hóa trong quá trình tham gia ý kiến bước đề xuất chủ trương đầu tư dự án. (3) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: - Chủ trì thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án. - Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo Nghị quyết 98/2023/QH15. - Chủ trì thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. (4) Bộ Xây dựng: Chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thành phố đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060. (5) Bộ Tài nguyên và Môi trường: - Chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025). - Hướng dẫn, kiểm tra việc giao đất, giao mặt biển, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, bảo vệ môi trường và di sản thiên nhiên, cùng phương án và địa điểm đổ thải vật chất nạo vét. (6) Bộ Quốc phòng: Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành liên quan thẩm định vị trí dự án liên quan đến quốc phòng - an ninh. (7) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chủ trì phối hợp các cơ quan liên quan hướng dẫn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và nhà đầu tư quy trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp. (8) Bộ Công Thương: Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong việc đấu nối và cung cấp điện phục vụ hoạt động Dự án. (9) Bộ Tài chính: Chủ trì phối hợp với Bộ Công Thương hướng dẫn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong việc đầu tư khai thác khu phi thuế quan. (10) Các bộ, ngành, địa phương liên quan: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để triển khai thực hiện và xem xét giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền đối với các nội dung liên quan trong quá trình tổ chức nghiên cứu, đầu tư xây dựng Bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Có thể thấy, đây là một Đề án có tầm quan trọng cấp quốc gia, cần sự phối hợp của nhiều Bộ, Ngành liên quan để việc triển khai được diễn ra đúng theo kế hoạch. Theo tiến độ thực hiện được quy định tại Phụ lục của Công văn 746/TTg-CN, năm 2024, việc tổ chức triển khai đầu tư xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ dự kiến diễn ra vào năm 2026 - 2028, sau khi các bước lập kế hoạch và thẩm định được hoàn tất. Xem chi tiết tại Công văn 746/TTg-CN, ngày 04/10/2024.
Mẫu chữ ký của 3 tân Phó Thủ tướng Chính phủ
Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký các Quyết định về việc bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Hòa Bình, đồng chí Hồ Đức Phớc, đồng chí Bùi Thanh Sơn giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của 3 tân Phó Thủ tướng Chính phủ. Mẫu chữ ký của 3 tân Phó Thủ tướng Chính phủ (1) Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình Ngày 30/8/2024, Văn phòng Chính phủ có Văn bản 6231/VPCP-HC về việc giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình với nội dung: Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 842/QĐ-CTN bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình như sau: (2) Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc Ngày 30/8/2024, Văn phòng Chính phủ có Văn bản 6232/VPCP-HC về việc giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc với nội dung: Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 843/QĐ-CTN bổ nhiệm đồng chí Hồ Đức Phớc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí Thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc như sau: (3) Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn Ngày 30/8/2024, Văn phòng Chính phủ có Văn bản 6233/VPCP-HC về việc giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn với nội dung: Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 844/QĐ-CTN bổ nhiệm đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ban cán sự đảng Chính phủ, Bí Thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn như sau: Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn gì? Căn cứ Điều 31 Luật tổ chức Chính phủ 2015 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: - Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. - Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ. Như vậy, Phó Thủ tướng Chính phủ sẽ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và sẽ thay thế khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt. Phó Thủ tướng Chính phủ được bổ nhiệm dưới hình thức nào? Theo khoản 2 Điều 38 Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết 71/2022/QH15 quy định Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ theo trình tự sau đây: - Thủ tướng Chính phủ trình danh sách để Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; - Đại biểu Quốc hội thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội có thể họp với các Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, mời Thủ tướng Chính phủ tham dự để trao đổi về các vấn đề có liên quan; - Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội; - Quốc hội thành lập Ban kiểm phiếu; - Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ bằng hình thức bỏ phiếu kín; - Ban kiểm phiếu báo cáo kết quả kiểm phiếu, kết quả biểu quyết; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội dự thảo nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; - Quốc hội thảo luận; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và chỉnh lý dự thảo nghị quyết; - Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết. Như vậy, Phó Thủ tướng Chính phủ sẽ được bổ nhiệm dưới hình thức bỏ phiếu kín theo danh sách của Thủ tướng Chính phủ đã được Quốc hội Phê chuẩn.
Nhân kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập ngành ngoại giao (28/8/1945-28/8/2024), Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu bài viết của Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. Mỗi khi tháng Tám về, chúng ta lại có dịp kỷ niệm những ngày thu cách mạng lịch sử của đất nước. Hòa chung không khí tươi vui đó, mỗi cán bộ, nhân viên ngành ngoại giao đều tự hào hướng đến ngày thành lập ngành ngoại giao 28/8/1945. Trong suốt 79 năm trưởng thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, ngoại giao Việt Nam luôn phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. Ngoại giao phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Trong 79 năm qua, ngoại giao đã để lại những dấu ấn quan trọng trong những trang lịch sử hào hùng của đất nước. Trong những buổi đầu lập quốc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cách mạng tiền bối, trên cơ sở các nguyên tắc "dĩ bất biến ứng vạn biến" và với những sách lược táo bạo, khôn khéo như "hòa để tiến", "phân hóa kẻ thù", Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 đã góp phần bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ, giúp cách mạng nước ta vượt qua những tình huống hiểm nghèo. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đối ngoại, ngoại giao đã tranh thủ sự ủng hộ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo dựng mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ sự nghiệp giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với những thắng lợi trên mặt trận quân sự, những thắng lợi của mặt trận đối ngoại, ngoại giao trên bàn đàm phán ở Geneve năm 1954 và Paris năm 1973 là những mốc son trên chặng đường giành lại độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà. Sau khi đất nước thống nhất, đối ngoại, ngoại giao là mặt trận tiên phong tạo lối, mở đường, từng bước phá thế bị bao vây cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị. Đồng thời đối ngoại, ngoại giao đi đầu trong việc khơi thông quan hệ với nhiều đối tác, giải quyết các vấn đề tồn tại trong quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng mở ra cục diện mới phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chụp ảnh cùng đoàn đại biểu kiều bào tiêu biểu về dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ tư và Diễn đàn Tri thức và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài. Ngoại giao trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, trong gần 40 năm đổi mới, công tác đối ngoại, ngoại giao đã đạt được "những kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử" như đánh giá của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 tháng 12 năm 2023, góp phần tạo dựng cục diện đối ngoại rộng mở, thành công của đất nước. Quan hệ ngoại giao không ngừng được mở rộng, đi vào chiều sâu. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; đã ký 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới. Việt Nam được Liên Hợp Quốc ghi nhận vai trò tiên phong trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và thúc đẩy quyền con người. Việc nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các đối tác chủ chốt, quan trọng cùng các hoạt động đối ngoại cấp cao sôi động trong những năm qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đã góp phần tạo nên tầm vóc chiến lược mới, đưa hợp tác đi vào chiều sâu, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài và bền vững của các mối quan hệ. Đối ngoại, ngoại giao đa phương đã trưởng thành mạnh mẽ, khẳng định Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như ASEAN, APEC,… ngoại giao còn hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế tại các cơ chế quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, UNESCO,… Đặc biệt đối ngoại, ngoại giao đã chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, tham gia vào giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới, tham gia ngày càng sâu vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ cứu nạn quốc tế. Trong phục vụ phát triển và hội nhập quốc tế, cùng với việc huy động nguồn lực quan trọng cho phát triển như FDI, ODA, đối ngoại, ngoại giao đã góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu với việc ký kết, tham gia các thỏa thuận, khuôn khổ kinh tế quan trọng. Đồng thời, ngành ngoại giao đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong thúc đẩy hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực an ninh-quốc phòng, xã hội, văn hóa, khoa học-công nghệ..., đưa Việt Nam hội nhập vào dòng chảy chung của thế giới. Cùng với quốc phòng, an ninh, đối ngoại, ngoại giao đã góp phần thực hiện nhiệm vụ "trọng yếu, thường xuyên" là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình từ sớm, từ xa. Chúng ta đã nỗ lực để cùng các nước láng giềng xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Chúng ta đã đấu tranh kiên quyết, kiên trì, kịp thời, hiệu quả đối với hoạt động vi phạm chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của chúng ta trên biển; đồng thời chủ động, tích cực thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những vấn đề tồn tại, thực hiện tốt DOC, tích cực tham gia xây dựng COC thực chất, hiệu quả phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại đã góp phần đưa "sức mạnh mềm" Việt Nam, quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, thành tựu đổi mới và bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài góp phần thực hiện chính sách chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, củng cố đại đoàn kết dân tộc, huy động nhiều nguồn lực của cộng đồng cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta cũng đã thực hiện tốt việc bảo hộ công dân ta ở nước ngoài, nhất là khi xảy ra xung đột, chiến tranh, dịch bệnh trên thế giới. Thủ tướng thăm trưng bày ảnh về công tác người Việt Nam ở nước ngoài và kiều bào với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Ngoại giao trong thời đại mới Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến chuyển lớn, cơ hội và thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng nhất của ngoại giao thời gian tới là tranh thủ tối đa và tiếp tục củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, đưa đất nước vào dòng chảy của thời đại, tạo đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và 2045 mà Đại hội XIII đã đề ra. Bước vào "kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", trên cơ sở nghiêm túc tổng kết những bài học đối ngoại của 40 năm đổi mới và trước bối cảnh tình hình mới và các vấn đề lớn đặt ra đối với đất nước, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục đổi mới tư duy và hành động, tham mưu, xây dựng những giải pháp mới bổ sung cho đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng, thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nêu là "bảo đảm quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên". [1] Là động lực quan trọng cho đổi mới, ngành ngoại giao xác định sẽ không ngừng phấn đấu để vừa phục vụ đắc lực các lợi ích an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, vừa góp phần xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, bảo đảm lợi ích chính đáng của các nước, trong đó có Việt Nam. Chúng ta sẽ tiếp tục nâng tầm, nâng cấp và tranh thủ tối đa cơ hội từ các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; phát huy mạnh mẽ vai trò của các phương thức, các kênh đối ngoại như ngoại giao cấp cao, ngoại giao chuyên ngành, đối ngoại địa phương, các kênh học giả và doanh nghiệp…; tham gia chủ động, có trách nhiệm hơn vào việc giải quyết các vấn đề chung của quốc tế và khu vực; thể hiện vai trò nòng cốt, dẫn dắt của đối ngoại đa phương trong những vấn đề, cơ chế quan trọng có tầm chiến lược. Đặc biệt chúng ta cũng sẽ dành ưu tiên cao cho công tác xây dựng ngành, xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và lý tưởng của Đảng. Cùng với đó, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng làm đối ngoại, các trụ cột đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhân dân, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và lợi thế đặc thù của mỗi trụ cột trong chỉnh thể thống nhất của nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp. Phát huy truyền thống vẻ vang và những thành tựu to lớn trong 79 năm qua và hướng tới mốc lớn kỷ niệm 80 năm thành lập ngành, tiếp bước tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước tiến lên, viết tiếp những trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./. Bùi Thanh Sơn Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao [1] Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại cuộc họp ngày 13/8/2024 của Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội 14 của Đảng. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính Phủ) Link bài viết: https://baochinhphu.vn/79-nam-ngoai-giao-viet-nam-phat-huy-truyen-thong-ve-vang-gop-phan-thuc-hien-thang-loi-cac-muc-tieu-chien-luoc-cua-dat-nuoc-102240828083807743.htm
Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì?
Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì? Người được bổ nhiệm chức danh này cần đáp ứng những tiêu chuẩn gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì? Căn cứ Điều 31 Luật tổ chức Chính phủ 2015 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: - Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. - Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ. Bên cạnh đó, tại Điều 6 Nghị định 39/2022/NĐ-CP có quy định về trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: - Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực, địa bàn công tác và phạm vi quyền hạn được Thủ tướng Chính phủ phân công, ủy quyền; - Trong phạm vi lĩnh vực, công việc được phân công, ủy quyền, Phó Thủ tướng Chính phủ thay mặt Thủ tướng Chính phủ có toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện, mọi mặt trước pháp luật, trước Thủ tướng Chính phủ về những quyết định của mình và những nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan được phân công theo dõi, chỉ đạo, bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả và chống tiêu cực, tham nhũng trong giải quyết công việc; - Phó Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm giải quyết và quyết định công việc đã được phân công, ủy quyền; nếu có vấn đề liên quan đến lĩnh vực của Phó Thủ tướng Chính phủ khác thì trực tiếp trao đổi, thống nhất với Phó Thủ tướng Chính phủ đó để giải quyết. Trường hợp có ý kiến khác nhau thì Phó Thủ tướng Chính phủ chủ trì xem xét, quyết định hoặc trực tiếp báo cáo Thủ tướng Chính phủ khi cần thiết. Theo đó, hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn như đã nêu trên. (2) Chức danh Phó Thủ tướng chính phủ cần đáp ứng những tiêu chuẩn cụ thể gì? Bên cạnh những tiêu chuẩn chung về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, uy tín và tiêu chuẩn về sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệm được quy định Quy định 214-QĐ/TW 2020 thì người được bổ nhiệm chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ cần phải đáp ứng được những tiêu chuẩn cụ thể được quy định tại mục 2.12 Phần I Quy định 214-QĐ/TW năm 2020 như sau: - Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Đồng thời, người được bổ nhiệm cần có những phẩm chất, năng lực như sau: - Có năng lực trong hoạch định chiến lược; quyết đoán, quyết liệt, kịp thời để quyết định những vấn đề khó, phức tạp liên quan đến lĩnh vực hành pháp. - Có kiến thức sâu rộng về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; - Hiểu biết sâu về lĩnh vực được phân công. - Có năng lực cụ thể hoá đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng thành cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả. - Có năng lực phát hiện những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực phụ trách và đề xuất các giải pháp khắc phục. - Là Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ, đồng thời kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hoặc chủ chốt các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương. Theo đó, người được bổ nhiệm chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ cần đáp ứng được những tiêu chuẩn cụ thể như đã nêu trên. (3) Ai có thẩm quyền bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ? Căn cứ tại khoản 2 Điều 88 Hiến pháp 2013 quy định thẩm quyền bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: “Điều 88 Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: … 2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;” Như vậy, hiện nay, Chủ tịch nước là người có thẩm quyền bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ dựa trên nghị quyết của Quốc hội.
Phó Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh việc triển khai thí điểm đô thị thông minh
Dựa trên báo cáo của Bộ Xây dựng về tình hình triển khai đô thị thông minh bền vững năm 2023, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã có những ý kiến chỉ đạo về việc triển khai đô thị thông minh trong thời gian sắp tới. Theo Công văn 5802/VPCP-CN, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chỉ đạo Bộ Xây dựng tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện triển khai thực chất, hiệu quả “Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030” tại Quyết định 950/QĐ-TTg năm 2018 theo đúng các mục tiêu phát triển đô thị bền vững theo hướng thông minh tại Nghị quyết 06-NQ/TW năm 2022. Bên cạnh đó cụ thể hóa các nội dung nhiệm vụ về xây dựng và phát triển đô thị thông minh theo đúng Nghị quyết 148/NQ-CP năm 2022 thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW. Theo đó, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Xây dựng ưu tiên tập trung thực hiện một số nhiệm vụ như sau: (1) Xây dựng, ban hành Bộ tiêu chí đô thị thông minh Trước tiên, Phó Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Xây dựng khẩn trương ban hành văn bản đôn đốc các cơ quan liên quan tăng cường thực hiện những nội dung đã được đề xuất trong báo cáo về tình hình triển khai đô thị thông minh bền vững năm 2023. Tiếp theo, Bộ Xây dựng sẽ xây dựng và ban hành Bộ tiêu chí đô thị thông minh bền vững Việt Nam, kết hợp với quá trình chuyển đổi số; đồng thời nghiên cứu và đề xuất các nội dung phù hợp cho Luật Quản lý phát triển đô thị và Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn đang được soạn thảo. Ngoài ra, Phó Thủ tướng giao nhiệm vụ cho Bộ Xây dựng tổ chức Hội thảo toàn quốc nhằm đánh giá kết quả thực hiện Đề án vào cuối năm 2024, cùng với việc lập báo cáo tổng kết Đề án vào năm 2025. Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cũng sẽ tiến hành nghiên cứu và tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ về Định hướng phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam cho giai đoạn 2025-2035, đảm bảo phù hợp với bối cảnh mới. Theo đó, có thể thấy, những chỉ đạo và nhiệm vụ được Phó Thủ tướng giao cho Bộ Xây dựng không chỉ thể hiện quyết tâm trong việc thúc đẩy phát triển đô thị thông minh bền vững tại Việt Nam, mà còn khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng một khung pháp lý và tiêu chí rõ ràng. Qua đó, các cơ quan liên quan sẽ có cơ sở vững chắc để triển khai hiệu quả các hoạt động, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững trong bối cảnh mới. (2) Đẩy mạnh việc triển khai thí điểm đô thị thông minh Việc triển khai các nội dung thí điểm đô thị thông minh đang được đẩy mạnh với mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ người dân. Đầu tiên, cần tiến hành rà soát, đánh giá và lựa chọn các khu vực thí điểm cũng như xây dựng chương trình và kế hoạch thực hiện một cách cụ thể. Đồng thời, nghiên cứu và xử lý các đề xuất từ các bộ, ngành về những vướng mắc trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức là rất quan trọng, đặc biệt khi liên quan đến tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức khi thành lập Trung tâm kết nối công dân gắn với bộ phận một cửa liên thông. Theo đó, Phó Thủ tướng yêu cầu làm rõ mô hình hoạt động của Trung tâm kết nối công dân gắn với bộ phận một cửa liên thông này, phải xác định rõ nó là đơn vị sự nghiệp công lập hay tổ chức hành chính, nhằm đảm bảo tuân thủ, bám sát các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy. Qua đó, việc thực hiện thí điểm sẽ diễn ra hiệu quả, góp phần tạo ra một môi trường đô thị thông minh, thân thiện và tiện lợi cho người dân. Tham khảo thêm: Đô thị thông minh là gì? Đô thị thông minh được giải thích tại tiểu mục 3.4 Mục 3 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 37122:2020 (ISO 37122:2019) như sau: “Đô thị thông minh (smart city) là đô thị gia tăng sự phát triển từ đó mang lại những kết quả mang tính bền vững về xã hội, kinh tế và môi trường. Các đô thị thông minh đáp ứng những thách thức như biến đổi khí hậu, gia tăng dân số và bất ổn chính trị và kinh tế bằng cách cải thiện về cơ bản cách thức thu hút xã hội, áp dụng các phương pháp lãnh đạo cộng tác, làm việc theo nguyên tắc và hệ thống của đô thị và sử dụng thông tin dữ liệu và công nghệ hiện đại để cung cấp dịch vụ tốt hơn và chất lượng cuộc sống cho mọi người trong đô thị (cư dân, doanh nghiệp, khách vãng lai), hiện tại và trong tương lai gần mà không gây ra sự không công bằng của những người khác hoặc sự suy thoái của môi trường tự nhiên. CHÚ THÍCH 1: Một đô thị thông minh cũng phải đối mặt với thách thức việc nhìn nhận các giới hạn và hạn chế mà các ranh giới này áp đặt. CHÚ THÍCH 2: Có rất nhiều định nghĩa về đô thị thông minh, tuy nhiên định nghĩa được sử dụng trong tiêu chuẩn này là định nghĩa chính thức” Như vậy, có thể hiểu, đô thị thông minh (smart city) là mô hình đô thị phát triển bền vững, mang lại lợi ích lâu dài cho xã hội, kinh tế và môi trường. Các đô thị thông minh đối phó với những thách thức như biến đổi khí hậu, gia tăng dân số và bất ổn chính trị, kinh tế bằng cách cải thiện cách thức thu hút cộng đồng, áp dụng các phương pháp lãnh đạo hợp tác, làm việc theo nguyên tắc và hệ thống đô thị. Đồng thời sử dụng dữ liệu và công nghệ hiện đại để cung cấp dịch vụ tốt hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân, doanh nghiệp và khách du lịch hiện tại cũng như trong tương lai gần, mà không gây ra sự bất công cho những người khác hoặc gây suy thoái cho môi trường tự nhiên.
Chính phủ yêu cầu thanh tra thị trường trước cơn sốt giá vàng, không thể chậm trễ hơn nữa
Trước cơn sốt giá vàng, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo 213/TB-VPCP ngày 10/5/2024 thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tại cuộc họp về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Thông báo 213/TB-VPCP nêu rõ: NHNN Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đã triển khai các giải pháp quản lý thị trường vàng, tuy nhiên tình hình chưa có nhiều chuyển biến, giá vàng miếng trong nước tiếp tục tăng, tình trạng chênh lệch cao giữa giá vàng miếng trong nước và giá vàng thế giới chưa được khắc phục. Do đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái yêu cầu NHNN Việt Nam và các Bộ, cơ quan thực hiện quyết liệt, nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp quản lý thị trường vàng theo tinh thần Nghị quyết, Công điện, Chỉ thị và các văn bản có liên quan, nhất là Thông báo 160/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ. Khẩn trương rà soát, thanh tra thị trường vàng NHNN Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến các đại biểu dự họp: Khẩn trương rà soát, đánh giá toàn diện kết quả triển khai các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian qua và diễn biến thị trường trong nước, quốc tế để ổn định, bình ổn thị trường vàng theo mục tiêu đề ra, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn hoạt động của thị trường vàng. Bên cạnh đó, khắc phục ngay tình trạng giá vàng miếng trong nước và giá vàng quốc tế chênh lệch ở mức cao, bảo đảm thị trường vàng hoạt động ổn định, hiệu quả, lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật, không để vàng hóa nền kinh tế và ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh tài chính tiền tệ quốc gia. Ngoài ra cần khẩn trương thực hiện ngay việc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng, việc tuân thủ các quy định liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng. Yêu cầu báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả ngay trong tháng 5/2024, không để chậm trễ hơn nữa. Giao Bộ Công an xử lý vi phạm Phó Thủ tướng giao cho NHNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thị trường vàng theo đúng quy định pháp luật; quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng miếng, kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm trong sản xuất, kinh doanh vàng miếng Đối với các hành vi vi phạm pháp luật, buôn lậu, thẩm lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng, đẩy giá, cạnh tranh không đúng quy định…; trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật kịp thời chuyển ngay hồ sơ đến Bộ Công an và các cơ quan chức năng để xử lý theo quy định. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát kỹ lưỡng, đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, chính sách quản lý thị trường vàng phù hợp với thực tiễn, đúng quy định pháp luật, có công cụ kiểm soát, quản lý hiệu quả, hiệu lực đối với thị trường vàng và có chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật đối với hoạt động kinh doanh vàng. Thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử trong hoạt động kinh doanh, mua, bán vàng theo từng lần Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN Việt Nam và các cơ quan khẩn trương thực hiện ngay các giải pháp quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả yêu cầu các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh vàng thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử trong hoạt động kinh doanh, mua, bán vàng theo từng lần, kiên quyết không để chậm trễ, hoàn thành chậm nhất trong quý II năm 2024. Các Bộ, cơ quan: Công an, Tài chính, Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ, Tư pháp, Thanh tra Chính phủ, lực lượng biên phòng, thuế, hải quan, quản lý thị trường, cơ quan liên quan đến quản lý nhà nước về cạnh tranh và các cơ quan liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, hiệu quả theo thẩm quyền và quy định pháp luật, phối hợp chặt chẽ với NHNN Việt Nam trong việc quản lý, bình ổn thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng theo đúng quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan; kịp thời báo cáo cấp thẩm quyền các vấn đề vượt thẩm quyền, phát sinh. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao. (Nguồn Báo Điện tử Chính phủ)
Thông báo 81/TB-VPCP: Sắp xếp đơn vị hành chính phải tôn trọng kiến nghị của các địa phương
Ngày 06/03/2024, Văn Phòng Chính Phủ ban hành Thông báo 81/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang - Trưởng ban Ban Chỉ đạo tại Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. Theo Thông báo, việc sắp xếp ĐVHC cấp huyện, xã là một trong những nhiệm vụ hệ trọng và phức tạp. Phó Thủ tướng đánh giá cao sự nỗ lực của các Bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện triển khai sắp xếp các đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp huyện, xã giai đoạn 2023-2025. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc cần khẩn trương giải quyết như: - Việc sắp xếp ĐVHC nông thôn với ĐVHC đô thị còn gặp nhiều khó khăn do phải đảm bảo đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định. - Thời gian thực hiện sắp xếp gấp, đồng thời phải tiến hành chặt chẽ, qua nhiều thủ tục nên các địa phương gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo tiến độ thời gian theo yêu cầu. Để có thể tháo gỡ, khắc phục được những vướng mắc, khó khăn nêu trên Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan quán triệt quan điểm chỉ đạo theo Kết luận 48-KL/TW, Nghị quyết 35/ 2023/NQ-UBTVQH15, Nghị quyết 117/NQ-CP và các Công điện của Thủ tướng Chính phủ, theo đó chú trọng thực hiện những nội dung như sau: - Thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, đúng quy định, tôn trọng kiến nghị hợp lý của các địa phương về các đặc thù của từng vùng, miền, địa bàn trong cả nước; rút gọn và thực hiện đồng thời các quy trình, thủ tục để bảo đảm tiến độ sắp xếp ĐVHC cấp huyện, xã. - Các bộ, ngành trung ương cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các địa phương để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong việc xây dựng Đề án sắp xếp của từng địa phương cũng như quá trình thực hiện sắp xếp ĐVHC. Ngoài ra, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang còn nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị như sau: Đơn vị Nhiệm vụ Bộ Nội vụ và Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo - Chủ động hướng dẫn, đôn đốc các địa phương. - Có cơ chế tiếp nhận thông tin từ địa phương, từ đó tổng hợp kết quả, những khó khăn, vướng mắc để kịp thời báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo và các Thành viên Ban Chỉ đạo có liên quan để xử lý, tháo gỡ trong thời gian ngắn và hiệu quả nhất. Bộ trưởng Bộ Nội vụ - Chỉ đạo tổng hợp, tiếp thu ý kiến thảo luận tại cuộc họp, hoàn thiện và ký Báo cáo tình hình thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. - Trình Trưởng Ban Chỉ đạo xem xét, ký ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã của năm 2024 và phân công các Thành viên Ban Chỉ đạo phụ trách địa bàn để làm căn cứ thực hiện. - Chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan tổ chức thẩm định hồ sơ Đề án của các địa phương (ưu tiên các địa phương có ít ĐVHC thực hiện sắp xếp hay đã hoàn thành Đề án sớm so với thời hạn yêu cầu). - Phân nhóm các địa phương trình hồ sơ Đề án thành từng đợt, tránh dồn vào một thời điểm. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Nghiên cứu và đề xuất phương án xử lý các vướng mắc đối với 10 địa phương đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh trước khi có Nghị quyết 35/2023/UBTVQH15. - Hướng dẫn các địa phương về việc bố trí kinh phí thực hiện sắp xếp ĐVHC quy định tại Nghị quyết 35/2023/UBTVQH15. Bộ Tài chính - Khẩn trương trình Chính phủ Nghị định thay thế Nghị định 167/2017/NĐ-CP và Nghị định 67/2021/NĐ-CP quy định về việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công vào cuối Quý I/2024. - Hướng dẫn việc dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, xã theo quy định. Bộ Xây dựng - Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các địa phương tháo gỡ vướng mắc trong công tác quy hoạch và phân loại đô thị để bảo đảm tiến độ xây dựng. - Trình hồ sơ Đề án sắp xếp của các địa phương hoàn thành chậm nhất trong tháng 9/2024. Thành viên Ban Chỉ đạo Nâng cao trách nhiệm, bám sát tình hình triển khai ở các địa phương để bảo đảm tiến độ hoàn thành công tác sắp xếp ĐVHC trong tháng 9/2024. Kết hợp với các cán bộ, công chức chuyên môn được Bộ Nội vụ cắt cử trong việc khảo sát và làm việc với các địa phương được phân công phụ trách.
Chỉ thị 19/QĐ-TTg: Thủ tướng phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng
Ngày 15/01/2023, Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị 19/QĐ-TTg năm 2023 về việc phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, sau khi được bổ nhiệm và kiện toàn các chức danh Phó thủ tướng thì Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phân công nhiệm vụ cho 3 Phó Thủ tướng như sau: (1) Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái Cụ thể, ông Lê Minh Khái có nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác, các cơ quan và làm nhiệm vụ Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo về phân công công tác của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, chỉ đạo giải quyết công việc liên quan đến thương mại - xuất nhập khẩu, dự trữ và cung ứng nguồn cung xăng dầu, dịch vụ logistics; các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. Bên cạnh đó, theo dõi và chỉ đạo Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội. (2) Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà - Theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác: + Giáo dục, đào tạo và dạy nghề. + Khoa học và công nghệ. + Lao động, việc làm và các vấn đề xã hội. + Thông tin và truyền thông. + Văn hóa; du lịch; thể dục, thể thao. + Y tế, dân số, gia đình và trẻ em. - Theo dõi và chỉ đạo: Bộ GD&ĐT; Bộ LĐTBXH; Bộ TTTT; Bộ KH&CN; Bộ Y tế. Bộ VHTTDL; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố HCM. - Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực; Chủ tịch Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Trung ương; Chủ tịch Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch. Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm; Chủ tịch ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan. - Chỉ đạo giải quyết công việc liên quan đến công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường; chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu; quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Bảo đảm năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; các công trình trọng điểm quốc gia; các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo phân cấp của pháp luật và theo dõi, chỉ đạo: Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ GTVT, Bộ TNMT trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. - Làm nhiệm vụ Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo theo lĩnh vực liên quan, Chủ tịch Hội đồng thẩm định các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. - Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ. (3) Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang - Theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác: + Công tác xây dựng thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cải cách tư pháp. + Ngoại giao và quan hệ đối ngoại (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân). + Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vận động vốn vay ưu đãi; viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài. + Hội nhập quốc tế; theo dõi, chỉ đạo đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương; cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; xử lý tranh chấp, khiếu kiện quốc tế. + Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. + Quan hệ của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực; công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông - Hải đảo. + Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và các vấn đề người nước ngoài ở Việt Nam. Các vấn đề về nhân quyền. + Công tác dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo; những vấn đề thường xuyên về thi đua khen thưởng. + Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông. + Phòng, chống tội phạm; phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. + Đặc xá. + Phối hợp công tác giữa Chính phủ với TANDTC và VKSNDTC. - Theo dõi và chỉ đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, ủy ban Dân tộc. - Làm nhiệm vụ: Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; Chủ tịch ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc; Phụ trách ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền; Trưởng Ban Chỉ đạo về Nhân quyền. Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện 03 Chương trình mục tiêu Quốc gia - Chỉ đạo giải quyết công việc liên quan đến nông nghiệp và phát triển nông thôn, công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn và theo dõi, chỉ đạo Bộ NN&PTNT trong thời gian Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vắng mặt. - Làm nhiệm vụ Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo theo lĩnh vực liên quan, Chủ tịch Hội đồng thẩm định các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Chính phú Lê Văn Thành trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. - Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ. Xem thêm Chỉ thị 19/QĐ-TTg năm 2023 có hiệu lực ngày 15/01/2023.
Điểm mới trong nguyên tắc phân công giữa Thủ tướng, các Phó thủ tướng
Thủ tướng và các Phó Thủ tướng - Minh họa Nguyên tắc phân công và quan hệ công tác giữa Thủ tướng Phạm Minh Chính và các Phó thủ tướng kế thừa quy định trước đây, đồng thời bổ sung một số điểm mới. Quyết định số 593 về việc phân công công tác của Thủ tướng và 5 Phó thủ tướng được ban hành ngày 22/4. Quyết định này nêu rõ, Thủ tướng thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ; lãnh đạo toàn diện và điều hành công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND các cấp. Người đứng đầu Chính phủ cũng trực tiếp chỉ đạo, điều hành các công việc lớn, quan trọng, những vấn đề có tính chiến lược trên tất cả các lĩnh vực công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Thủ tướng Phạm Minh Chính phân công các Phó thủ tướng giúp ông theo dõi, chỉ đạo, xử lý các công việc thường xuyên thuộc thẩm quyền của Thủ tướng trong từng lĩnh vực công tác của Chính phủ. Các quy định nêu trên tương tự nguyên tắc phân công trong lãnh đạo Chính phủ các nhiệm kỳ trước và gần đây, như Quyết định số 1527 (tháng 8/2016) của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, hay Quyết định số 476 (tháng 8/2011) của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, so với trước, quyết định 593 lần này bổ sung nội dung mới là "Thủ tướng không xử lý những nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, công việc đã phân công cho Phó thủ tướng". Ngoài ra, các quyết định trước đây giao "Phó thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng; kịp thời báo cáo, xin ý kiến Thủ tướng những vấn đề quan trọng". Lần này, quyết định mới không còn nội dung "kịp thời báo cáo, xin ý kiến Thủ tướng những vấn đề quan trọng"; thay vào đó, các Phó thủ tướng "thay mặt Thủ tướng quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện, mọi mặt trước Thủ tướng, trước Chính phủ và trước pháp luật về nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan được phân công theo dõi, chỉ đạo, đảm bảo tiến độ và chất lượng công việc". Điểm chung của các quyết định là "những công việc liên quan đến các Phó thủ tướng khác thì Phó thủ tướng được phân công chủ trì chủ động phối hợp cùng giải quyết; nếu còn ý kiến khác nhau giữa các Phó Thủ tướng thì báo cáo người đứng đầu Chính phủ xem xét, quyết định". Ngoài một số điểm mới trong nguyên tắc phân công và quan hệ công tác nêu trên, nhiệm vụ của Thủ tướng và các Phó thủ tướng tại quy định lần này cơ bản kế thừa văn bản trước đây. Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, điều hành chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả nước; theo dõi và chỉ đạo các bộ Quốc phòng, Công an... Hai Phó thủ tướng là ông Trương Hòa Bình và ông Vũ Đức Đam vẫn đảm nhiệm các lĩnh vực công tác đã được phân công lâu nay. Hồi đầu nhiệm kỳ, ông Phạm Bình Minh trực tiếp làm nhiệm vụ Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao. Hiện nay, ông Minh chỉ đảm nhiệm chức vụ Phó thủ tướng, vẫn phụ trách các lĩnh vực công tác trước đây. Ngoài ra, ông Minh phụ trách thêm lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (trước đây do nguyên Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng phụ trách). Phó thủ tướng Lê Minh Khái theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực trước đây do nguyên Phó thủ tướng Vương Đình Huệ (nay là Chủ tịch Quốc hội) phụ trách. Trước khi luân chuyển về địa phương làm Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu và sau đó giữ chức Tổng thanh tra Chính phủ, ông Khái từng đảm nhiệm cương vị cấp phó của ông Huệ, là Phó tổng kiểm toán Nhà nước (giai đoạn 2007-2011). Phó thủ tướng Lê Văn Thành đảm nhiệm các lĩnh vực hồi đầu nhiệm kỳ do nguyên Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng phụ trách. Từ góc độ chuyên gia nghiên cứu về hành chính công, TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhận định nguyên tắc phân công trong lãnh đạo Chính phủ lần này "mạch lạc, rõ trách nhiệm, thẩm quyền, dễ thực hiện". Theo ông Dũng, quy định mới "Thủ tướng không xử lý những nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, công việc đã phân công cho Phó thủ tướng", thể hiện tinh thần phân cấp, phân quyền, "không làm thay" đã được Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ ngay từ khi đảm nhiệm cương vị người đứng đầu Chính phủ. "Nguyên tắc đó tạo thuận lợi cho Chính phủ và bộ máy hành chính vận hành thông suốt sau khi kiện toàn. Đồng thời, các Phó thủ tướng chủ động xử lý công việc trong phạm vi được phân công, không phải chờ đợi, xin ý kiến Thủ tướng quyết định thay", TS Nguyễn Sĩ Dũng phân tích. Ông Dũng cũng cho rằng tinh thần "không làm thay" công việc đã phân công cho cấp dưới sẽ giúp cải thiện sức ì của bộ máy hành chính ở nhiều nơi. Bởi nếu trước đây, các bộ, ngành, địa phương có thể còn băn khoăn rằng công việc này có phải thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mình không hay phải trình báo cấp trên, thì nay đã có câu trả lời. "Với tinh thần đó, các bộ, ngành, địa phương không còn lý do để đẩy công việc lên Thủ tướng, Chính phủ", ông Dũng nói. Ngày 16/4, Nghị quyết phiên họp đầu tiên của Chính phủ sau khi kiện toàn nêu rõ Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng chỉ giải quyết những việc thuộc thẩm quyền; không quyết định thay những việc đã phân cấp, ủy quyền hoặc thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan, địa phương. Thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện trong xem xét, quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền hoặc khi được Thủ tướng ủy quyền, phân công, giao nhiệm vụ, không được né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Viết Tuân Nguồn: VnExpress
Kiên quyết không để người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam
Nâng cao cảnh giác, đề cao hơn nữa trách nhiệm đối với cộng đồng, đất nước, kiên quyết không để xảy ra tình trạng có người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam trong thời gian tới. Phó Thủ tướng yêu cầu đề cao cảnh giác và nâng cao trách nhiệm với cộng đồng - Ảnh: Chinhphu.vn Đây là một trong các nội dung thông báo kết luận của Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình - Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ (BCĐ 138) và Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (BCĐ 389 quốc gia) tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2020, phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới của 2 Ban Chỉ đạo này vừa diễn ra trong tuần qua. Trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn biến rất phức tạp ở nhiều nước trên thế giới và qua vụ việc có nhiều người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương tổ chức quán triệt, chỉ đạo các lực lượng chức năng nâng cao cảnh giác, đề cao hơn nữa trách nhiệm đối với cộng đồng, đất nước, kiên quyết không để xảy ra tình trạng có người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam trong thời gian tới. Đặc biệt, Phó Thủ tướng yêu cầu chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ, Công an các địa phương liên quan mở rộng điều tra, xác minh các vụ việc người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam trong thời gian qua. Xác định các đối tượng chủ mưu, cầm đầu, tiếp tay, các đơn vị, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm để xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trước ngày 15-8. Đối với công tác phòng, chống tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, để trong thời gian tới có được chuyển biến căn bản hơn, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó, cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, nếu trên địa bàn, lĩnh vực nào để tội phạm; tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả xảy ra nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài hoặc có cán bộ, công chức dưới quyền tiêu cực, tham nhũng thì phải tổ chức kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu. Thực hiện tốt công tác phòng ngừa xã hội, công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, tăng cường tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện các dấu hiệu tội phạm, vi phạm pháp luật để có biện pháp ngăn chặn, nâng cao chất lượng điều tra khám phá các vụ án. Đáng chú ý, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng Công an triển khai các kế hoạch, biện pháp nghiệp vụ đấu tranh triệt phá các đường dây, băng nhóm tội phạm có tổ chức, tội phạm về môi trường, ma túy, sử dụng công nghệ cao, xâm hại, bạo hành trẻ em, mua bán người...; _ Xử lý nghiêm đối với cán bộ, chiến sỹ có hành vi bao che, dung túng, tiếp tay hoặc thiếu trách nhiệm để tội phạm hoạt động (gắn với trách nhiệm của Giám đốc Công an địa phương). Phó Thủ tướng cũng yêu cầu thực hiện có hiệu quả cao điểm đấu tranh trấn áp mạnh các loại tội phạm bảo vệ đại hội Đảng các cấp, Đại hội lần thứ XIII của Đảng, dịp Quốc khánh 2-9 và dịp tết Nguyên đán Tân Sửu 2021. NGỌC AN Theo Tuổi trẻ
Cảnh sát giao thông Phạt luôn xe Phó Thủ tướng
Người đã từng phạt tài xế lái xe cho Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh vi phạm luật giao thông là Trung tá Lê Hồng Quân. Trung tá Quân kể lại: (Theo http://infonet.vn) Đó là vào năm 1995, lúc đó khoảng 18h, giờ cao điểm, đường đông nghịt các phương tiện cùng tham gia giao thông đổ về nút giao thông Ngã Tư Sở - Trường Chinh. Khi anh Quân đang điều tiết, phân luồng giao thông tại đây, anh ra hiệu cho ô tô phải đi vào một hàng, nối đuôi nhau. Trong khi các xe đang đi theo đúng làn đường theo sự điều tiết giao thông của CSGT, bỗng nhiên, một chiếc xe con đã lách, tách ra làn để cố tình vượt lên. Mặc dù đã ra hiệu lệnh yêu cầu chiếc xe này phải tuân thủ đi đúng làn đường do CSGT đã phân làn, tuy nhiên chiếc xe vẫn cố tình vượt lên, buộc anh Quân phải yêu cầu dừng lại để xử lý lỗi vi phạm. Khi xuống xe, người lái chiếc xe con trên đã xuất trình giấy phép lái xe của mình, tuy nhiên giấy phép này đã hết hạn sử dụng. Trong lúc, anh Quân đang giải thích cho người lái xe hiểu về lỗi vi phạm của mình thì từ trên xe con bước xuống là Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh. “Khi tôi thấy Phó Thủ tướng bước xuống đi đến gần tôi, nói chuyện rất nhẹ nhàng rồi ông yêu cầu tôi lập biên bản xử lý tất cả những lỗi mà người lái xe con chở ông vi phạm. Ông bảo xử lý nghiêm thì lần sau sẽ không dám vi phạm luật giao thông nữa”. Giá mà CSGT luôn lấy Trung tá Lê Hồng Quân làm tấm gương sáng để học hỏi thì quý biết bao.
Lưu ý: Quê Thái Bình và Nam Định
Ngày 10/6 vừa qua, Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Hà Nội Bùi Danh Liên có công văn 18/2013/HH-CV gửi Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội và UBND TP.Hà Nội đề nghị hoãn việc điều chuyển phương tiện nhằm giảm tải cho Bến xe Mỹ Đình nhưng với “lưu ý” hết sức ngô nghê: “Ngoài ra cũng cần phải lưu ý đến các mối quan hệ: Thái Bình là quê của 1 Phó Thủ tướng, 1 Bộ trưởng, 2 Thứ trưởng Công an; Nam Định là quê của 1 Phó Thủ tướng, 3 Bộ trưởng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Phó ban Kinh tế Trung ương…”. Lưu ý này của công văn nhằm “nhắc nhở” TP.Hà Nội “cân nhắc" việc giảm tải bến xe, nhưng ngay lập tức bị dư luận “ném đá” vì lồng ghép chuyện cá nhân vào việc chung, ảnh hưởng đến uy tín của những lãnh đạo cao cấp và trên hết là một văn bản hành chính không thể “chứa” những nội dung, ngôn từ tối kỵ như vậy, chẳng ăn nhập gì với nội dung văn bản. Từ văn bản nêu trên dễ dẫn đến hiện tượng hiểu nhầm rằng: Hà Nội sẽ khó có thể thực hiện Kế hoạch giảm tải Bến xe Mỹ Đình chỉ vì "vướng quê" của một số lãnh đạo. Công văn trên chẳng khác gì lấy Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Trưởng ban Tuyên giáo, Phó ban Kinh tế để uy hiếp TP.Hà nội trong việc giảm tải bến xe Mỹ Đình. Vô hình chung đã bội nhọ các vị lãnh đạo cấp cao. Rất mong nhà chức trách xem lại tư cách đạo đức, trình độ và năng lực của ông Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Hà Nội.
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc báo cáo về tình hình Việt Nam trước khi trả lời chất vấn: Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các vị đại biểu Quốc hội, Thưa đồng bào cử tri cả nước, Được sự phân công của đồng chí Thủ tướng và thay mặt Chính phủ, tôi xin chân thành cảm ơn Quốc hội đã cơ bản đồng tình với các Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội. Tại Kỳ họp này, đã có 74 đại biểu Quốc hội gửi 160 phiếu chất vấn với 241 câu hỏi đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ. Chính phủ trân trọng và nghiêm túc tiếp thu những ý kiến trí tuệ, tâm huyết và có trách nhiệm cao của các vị đại biểu Quốc hội, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến công tác điều hành của Chính phủ, những ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả nước nêu trong Báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các câu hỏi chất vấn đã và đang được các thành viên Chính phủ trả lời bằng văn bản gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Trong hai ngày qua, đã có 3 Bộ trưởng trực tiếp trả lời và 7 thành viên Chính phủ tham gia trả lời chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội. Sau đây, tôi xin báo cáo và giải trình thêm một số vấn đề mà Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm. I. CẬP NHẬT TÌNH HÌNH KINH TẾ - Xà HỘI 5 THÁNG ĐẦU NĂM Trong 5 tháng đầu năm, kinh tế vĩ mô tiếp tục chuyển biến tích cực. Lạm phát được kiểm soát, giá tiêu dùng tháng 5 giảm 0,06%; 5 tháng tăng 2,35%, là mức thấp nhất trong 4 năm qua. Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm[1]; dư nợ tín dụng chuyển dịch theo hướng tốt hơn, tăng 2,98%, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên[2]. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Xuất khẩu tăng 15,1%, nhập khẩu tăng 16,8%. Vốn FDI đăng ký đạt 8,52 tỷ USD, tăng 8,9%; giải ngân đạt 4,58 tỷ USD, tăng 1,6%; giải ngân vốn ODA đạt 1,5 tỷ USD, bằng 31,3% kế hoạch cả năm, cao hơn so với cùng kỳ (25%). An sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; công tác dạy nghề, tạo việc làm được đẩy mạnh. Kịp thời ngăn chặn và giảm thiểu việc xâm nhập, lây truyền dịch bệnh. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được quan tâm, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người mất việc làm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Quốc phòng, đối ngoại được tăng cường; tiếp tục khẳng định và kiên định lập trường bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Tuy nhiên, kinh tế xã hội còn rất nhiều khó khăn, thách thức như báo cáo của Chính phủ và ý kiến của nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nêu. Từ nay đến cuối năm, Chính phủ kiên trì, nhất quán thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; theo dõi sát diễn biến tình hình để điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách, nhất là về tài khóa - tiền tệ, hỗ trợ, tháo gỡ kịp thời cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu quyết liệt hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 mà Quốc hội đã đề ra. II. TẬP TRUNG THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO SẢN XUẤT KINH DOANH Nhiều vị đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm đến các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Tôi xin báo cáo, giải trình bổ sung một số nội dung sau: 1. Về tín dụng, xử lý nợ xấu Triển khai các giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp thông qua tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đơn giản hóa thủ tục, thực thi các chương trình hỗ trợ nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản, thủy sản xuất khẩu chủ lực (lúa gạo, cà phê, cá tra, tôm...). Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, giảm lãi suất đối với các khoản tín dụng đã vay. Tháo gỡ khó khăn, hướng dòng vốn tín dụng vào các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có thị trường, cho vay tiêu dùng cá nhân, kích thích sức mua, góp phần tăng tổng cầu cho nền kinh tế. Thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng đến cuối năm 2013 là 12%, bình quân hàng tháng sẽ có thêm khoảng 40 nghìn tỷ đồng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tiếp tục triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu theo Đề án đã được phê duyệt. Khẩn trương đưa Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam đi vào hoạt động để tập trung xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu cao (trên 3%). Hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức tín dụng thành lập công ty quản lý tài sản của mình để xử lý nợ xấu. Phấn đấu đến cuối năm, sẽ xử lý được khoảng 105 nghìn tỷ đồng nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn vào năm 2015. Tháo gỡ khó khăn trực tiếp cho thị trường bất động sản và tạo điều kiện nhà ở cho nhân dân. Chính phủ đã chỉ đạo triển khai thực hiện hỗ trợ cho vay để mua, thuê mua nhà ở xã hội theo Nghị quyết số02/NQ-CP với tổng số tiền dự kiến khoảng 30 nghìn tỷ đồng, tuy nhiên, việc triển khai còn chậm. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xử lý các vướng mắc để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn này, phấn đấu đến hết năm 2013 giải ngân được khoảng 15 - 20 nghìn tỷ đồng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo bước chuyển mạnh mẽ hơn trong việc giải quyết nhu cầu nhà ở xã hội. 2. Về chính sách thuế và đầu tư phát triển Chính phủ tiếp tục thực hiện việc giãn, hoãn thuế theo thẩm quyền và triển khai các Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Tổng số tiền thuế được giãn, hoãn, miễn, giảm trong năm 2013 ước khoảng 37,7 nghìn tỷ đồng. Tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị1792/CT-TTg khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư công; tập trung đầu tư, bổ sung kịp thời vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành sớm để đưa vào sử dụng. Phê duyệt các dự án và bố trí vốn theo kế hoạch đầu tư trung hạn[3]. Ưu tiên bố trí nguồn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ để góp phần tăng tổng cầu. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành xây dựng phương án ứng trước vốn trong kế hoạch ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ năm 2014 để thanh toán nợ khối lượng hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án trong năm 2013. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA và vốn giải phóng mặt bằng của một số dự án hạ tầng quan trọng. Chính phủ sẽ trình Quốc hội vào Kỳ họp thứ 6 phương án phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ để đầu tư nâng cấp Quốc lộ 1A, Quốc lộ 14 đoạn qua Tây Nguyên và một số công trình thủy lợi, y tế cấp bách. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ và xử lý nghiêm các vi phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn lớn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng; tăng cường thu hút và đẩy mạnh giải ngân vốn ODA[4], phấn đấu tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức 33 - 35% GDP vào năm 2015[5]. 3. Về thị trường và giải quyết hàng tồn kho Thống nhất với ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, thị trường là yếu tố quan trọng, quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp. Chính phủ chỉ đạo triển khai các giải pháp: xử lý nợ xấu, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư, đẩy mạnh cho vay kích thích sức mua, mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho[6]. Hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện mạng lưới phân phối, gắn kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, nhất là các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, sắt thép, xi-măng... Tiếp tục thực hiện chương trình phát triển hệ thống chợ trên phạm vi toàn quốc, nhất là địa bàn nông thôn[7]; phát triển cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại tại đô thị. Triển khai chương trình bình ổn thị trường, giá cả, bảo đảm chất lượng hàng hóa[8]. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đồng thời có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đưa hàng Việt Nam về nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm kích cầu thị trường nội địa, góp phần giảm hàng tồn kho, tăng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tăng cường xúc tiến thương mại theo từng thị trường, sản phẩm; giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan thương vụ, cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài; tiếp tục thu mua tạm trữ nông sản xuất khẩu[9]; từng bước mở rộng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; tổ chức tốt hệ thống thông tin thị trường quốc tế, hỗ trợ trong xử lý tranh chấp quốc tế để thúc đẩy xuất khẩu. Thực hiện nghiêm việc kiểm định chất lượng, xuất xứ hàng hóa xuất khẩu. Tiếp tục rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, đơn giản hóa và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực thuế, hải quan[10], cấp phép... nhằm tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh; nâng cao khả năng cạnh tranh, tìm đầu ra cho sản phẩm, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa. Kiểm soát chặt chẽ hàng hóa nhập khẩu, ngăn chặn hàng nhập lậu; thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại và sử dụng hàng rào kỹ thuật phù hợp để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng không khuyến khích. III. TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ Qua thảo luận, nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Tôi xin báo cáo, giải trình thêm như sau: Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế là một quá trình lâu dài, phức tạp, có phạm vi rộng, liên quan đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Việc triển khai thực hiện cần có thời gian, hiện nay đang trong giai đoạn đầu. Thực hiện nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế và các đề án tái cơ cấu các lĩnh vực trọng tâm; tập trung tạo lập khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện thể chế phục vụ tái cơ cấu. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp tái cơ cấu đã đề ra; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả thực hiện. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ, gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công; nâng cao hiệu quả hoạt động và phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh cổ phần hóa, hoàn thành việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính trước năm 2015; nâng cao năng lực tài chính, khả năng quản trị, chất lượng dịch vụ, sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính, tín dụng. IV. TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU - CHI NGÂN SÁCH Tình hình sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn có ảnh hưởng lớn đến cân đối ngân sách nhà nước. Chính phủ đang chỉ đạo các ngành, địa phương rà soát các lĩnh vực để tăng thêm nguồn thu, nhất là trong khai thác dầu khí, tài nguyên, khoáng sản, lệ phí trước bạ, tiền sử dụng đất và khu vực doanh nghiệp nhà nước. Triển khai quyết liệt các biện pháp chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá, buôn lậu; xử lý nghiêm các vi phạm. Đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong công tác quản lý thu chi ngân sách. Phấn đấu đạt mức cao nhất kế hoạch thu ngân sách năm 2013. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong sử dụng ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiết kiệm 10% chi thường xuyên (không kể phần chi trả lương) trong các tháng còn lại của năm 2013[11]. Tiếp tục rà soát, kịp thời điều chỉnh những cơ chế, chính sách không còn phù hợp; không bổ sung các đề án, chương trình, ban hành các chính sách mới mà chưa xác định được nguồn bảo đảm; hạn chế tối đa việc bổ sung kinh phí ngoài dự toán. Tăng cường kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ[12]. Về trung hạn và dài h���n, Chính phủ chỉ đạo bảo đảm cân đối ngân sách chủ động, tích cực trên cơ sở cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước. Đẩy mạnh xã hội hóa gắn với cải cách hành chính, đổi mới cơ chế cung cấp dịch vụ sự nghiệp công để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách đối với khu vực sự nghiệp công lập, nhất là các lĩnh vực giáo dục, y tế. V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ Xà HỘI Nhiều bộ trưởng đã trả lời chất vấn tại hội trường về các vấn đề xã hội. Tôi xin nhấn mạnh một số nội dung. Thời gian qua, mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nhưng Chính phủ đã rất quan tâm thực hiện các chính sách xã hội. Về giảm nghèo, luôn ưu tiên nguồn lực thực hiện các chính sách giảm nghèo, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số[13], các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo vẫn chưa bền vững, khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư còn lớn. Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; lồng ghép mục tiêu giảm nghèo vào các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan, các chính sách hỗ trợ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở địa bàn đặc biệt khó khăn. Về xây dựng nông thôn mới, đến nay đã đạt được kết quả bước đầu, nhiều xã đã cơ bản đạt các tiêu chí nông thôn mới. Tuy nhiên, việc triển khai còn chậm, lúng túng, chưa tạo được chuyển biến rõ rệt về phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập của người dân. Chính phủ đang chỉ đạo hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm của từng vùng; quan tâm bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước và tăng cường huy động các nguồn lực xã hội, tạo chuyển biến về cơ sở hạ tầng thiết yếu, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, không chạy theo số lượng. Phấn đấu đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Về giải quyết việc làm, trong điều kiện kinh tế khó khăn, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ, tạo việc làm, thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại các doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất. Tuy nhiên, một bộ phận người lao động còn thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định; nhiều sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm; thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, kết nối cung - cầu còn hạn chế; xuất khẩu lao động gặp nhiều khó khăn, công tác quản lý lao động xuất khẩu còn những bất cập. Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tập trung triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề; nâng cao chất lượng đào tạo; đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, nhất là đào tạo đại học. VI. VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG VÀ PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM 1. Về an toàn giao thông Chính phủ đã chỉ đạo triển khai quyết liệt công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và đã đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, tình hình tai nạn giao thông gần đây vẫn diễn biến phức tạp, số vụ tai nạn còn cao, nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng, số người chết do tai nạn tăng hơn so với cùng kỳ[14]. Thực hiện nghiêm Nghị quyết 37 của Quốc hội, Chỉ thị 18 của Ban Bí thư, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt hơn nữa các giải pháp đã đề ra. Tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là vi phạm tốc độ, lấn đường, uống rượu bia, kiểm định phương tiện, đặc biệt là đối với xe khách trên các tuyến quốc lộ trọng điểm. Triển khai hệ thống thiết bị giám sát hành trình phục vụ cho công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm. Tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh vận tải, nhất là các cơ sở để xảy ra tai nạn nghiêm trọng, xử lý nghiêm các vi phạm, kể cả thu hồi giấy phép. Khẩn trương triển khai, hoàn thành các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm. Rà soát, xử lý các điểm đen thường xảy ra tai nạn. Đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu. Đổi mới công tác tuyên truyền về trật tự an toàn giao thông, nhất là đối với vùng nông thôn. Chính phủ đề nghị Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cùng toàn dân tích cực thực hiện phong trào “Toàn dân tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông”. 2. Về phòng chống tội phạm Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ đã rất quyết liệt triển khai thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội. Chỉ đạo lực lượng công an mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm; điều tra, xử lý nghiêm các băng nhóm nguy hiểm, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Qua đấu tranh triệt phá các băng nhóm tội phạm lộng hành trong thời gian dài tại một số địa phương cho thấy có biểu hiện buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm của một số tập thể, cá nhân trong công tác phòng, chống tội phạm. Tình trạng cướp giật tại một số địa bàn chưa được ngăn chặn hiệu quả. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai thực hiện quyết liệt hơn các giải pháp về phòng, chống tội phạm. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phát huy và nhân rộng các mô hình phòng, chống tội phạm có hiệu quả; đẩy mạnh công tác phòng ngừa xã hội; đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và lực lượng công an; tăng cường đầu tư các nguồn lực cho công tác phòng, chống tội phạm. Kiểm tra, làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân có liên quan trong việc để các đối tượng, băng nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen” lộng hành, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội. Theo chinhphu.vn
Dự kiến triển khai đầu tư xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ vào năm 2026 - 2028
Ngày 02/10/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ban hành Công văn 746/TTg-CN 2024 cho ý kiến về Đề án nghiên cứu xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Theo Công văn 746/TTg-CN, báo cáo thẩm định của Bộ Giao thông vận tải về Đề án xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ đã nhận được sự quan tâm của Chính phủ. Xét thấy Đề án này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và đã được Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Phó Thủ tướng Trần Hồng hà có ý kiến chỉ đạo như sau: (1) Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: - Khẩn trương hoàn thiện Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030. - Lập Quy hoạch chung xây dựng đến năm 2040 và tầm nhìn đến năm 2060, trình cấp thẩm quyền phê duyệt. - Huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác để hoàn thành công trình hạ tầng kỹ thuật kết nối dự án. - Tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo Nghị quyết 98/2023/QH15 và triển khai xây dựng dự án theo quy định. - Xây dựng lộ trình và kế hoạch đầu tư cho hạ tầng giao thông kết nối. - Phát triển phương án cấp điện, nước, thông tin liên lạc phù hợp với tiến trình đầu tư xây dựng cảng. - Xây dựng kế hoạch đầu tư cho các công trình phụ trợ phục vụ hoạt động khai thác cảng. - Xây dựng kế hoạch đầu tư hạ tầng dịch vụ sau cảng phù hợp với lộ trình khai thác. - Phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện các nội dung liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng trong khu vực. - Xác định địa điểm đổ thải vật chất nạo vét. - Phối hợp các cơ quan liên quan xây dựng quy chế khai thác giữa các cảng khu vực Cái Mép và Cần Giờ để nâng cao hiệu quả đầu tư. (2) Bộ Giao thông vận tải: - Chủ trì tổ chức lập và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển. - Chủ trì lập và phê duyệt theo thẩm quyền Quy hoạch chi tiết vùng đất, vùng nước cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh. - Có ý kiến về công nghệ bốc dỡ hàng hóa trong quá trình tham gia ý kiến bước đề xuất chủ trương đầu tư dự án. (3) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: - Chủ trì thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án. - Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lựa chọn nhà đầu tư theo Nghị quyết 98/2023/QH15. - Chủ trì thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. (4) Bộ Xây dựng: Chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Thành phố đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060. (5) Bộ Tài nguyên và Môi trường: - Chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025). - Hướng dẫn, kiểm tra việc giao đất, giao mặt biển, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, bảo vệ môi trường và di sản thiên nhiên, cùng phương án và địa điểm đổ thải vật chất nạo vét. (6) Bộ Quốc phòng: Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành liên quan thẩm định vị trí dự án liên quan đến quốc phòng - an ninh. (7) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chủ trì phối hợp các cơ quan liên quan hướng dẫn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và nhà đầu tư quy trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp. (8) Bộ Công Thương: Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong việc đấu nối và cung cấp điện phục vụ hoạt động Dự án. (9) Bộ Tài chính: Chủ trì phối hợp với Bộ Công Thương hướng dẫn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong việc đầu tư khai thác khu phi thuế quan. (10) Các bộ, ngành, địa phương liên quan: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để triển khai thực hiện và xem xét giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền đối với các nội dung liên quan trong quá trình tổ chức nghiên cứu, đầu tư xây dựng Bến cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ. Có thể thấy, đây là một Đề án có tầm quan trọng cấp quốc gia, cần sự phối hợp của nhiều Bộ, Ngành liên quan để việc triển khai được diễn ra đúng theo kế hoạch. Theo tiến độ thực hiện được quy định tại Phụ lục của Công văn 746/TTg-CN, năm 2024, việc tổ chức triển khai đầu tư xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ dự kiến diễn ra vào năm 2026 - 2028, sau khi các bước lập kế hoạch và thẩm định được hoàn tất. Xem chi tiết tại Công văn 746/TTg-CN, ngày 04/10/2024.
Mẫu chữ ký của 3 tân Phó Thủ tướng Chính phủ
Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký các Quyết định về việc bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Hòa Bình, đồng chí Hồ Đức Phớc, đồng chí Bùi Thanh Sơn giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của 3 tân Phó Thủ tướng Chính phủ. Mẫu chữ ký của 3 tân Phó Thủ tướng Chính phủ (1) Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình Ngày 30/8/2024, Văn phòng Chính phủ có Văn bản 6231/VPCP-HC về việc giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình với nội dung: Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 842/QĐ-CTN bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Hòa Bình như sau: (2) Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc Ngày 30/8/2024, Văn phòng Chính phủ có Văn bản 6232/VPCP-HC về việc giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc với nội dung: Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 843/QĐ-CTN bổ nhiệm đồng chí Hồ Đức Phớc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí Thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc như sau: (3) Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn Ngày 30/8/2024, Văn phòng Chính phủ có Văn bản 6233/VPCP-HC về việc giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn với nội dung: Ngày 26/8/2024, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 844/QĐ-CTN bổ nhiệm đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ban cán sự đảng Chính phủ, Bí Thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026. Theo đó, Văn phòng Chính phủ giới thiệu chữ ký của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn như sau: Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn gì? Căn cứ Điều 31 Luật tổ chức Chính phủ 2015 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: - Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. - Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ. Như vậy, Phó Thủ tướng Chính phủ sẽ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và sẽ thay thế khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt. Phó Thủ tướng Chính phủ được bổ nhiệm dưới hình thức nào? Theo khoản 2 Điều 38 Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết 71/2022/QH15 quy định Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ theo trình tự sau đây: - Thủ tướng Chính phủ trình danh sách để Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; - Đại biểu Quốc hội thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội có thể họp với các Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, mời Thủ tướng Chính phủ tham dự để trao đổi về các vấn đề có liên quan; - Thủ tướng Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội; - Quốc hội thành lập Ban kiểm phiếu; - Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ bằng hình thức bỏ phiếu kín; - Ban kiểm phiếu báo cáo kết quả kiểm phiếu, kết quả biểu quyết; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội dự thảo nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; - Quốc hội thảo luận; - Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và chỉnh lý dự thảo nghị quyết; - Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết. Như vậy, Phó Thủ tướng Chính phủ sẽ được bổ nhiệm dưới hình thức bỏ phiếu kín theo danh sách của Thủ tướng Chính phủ đã được Quốc hội Phê chuẩn.
Nhân kỷ niệm 79 năm Ngày thành lập ngành ngoại giao (28/8/1945-28/8/2024), Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu bài viết của Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. Mỗi khi tháng Tám về, chúng ta lại có dịp kỷ niệm những ngày thu cách mạng lịch sử của đất nước. Hòa chung không khí tươi vui đó, mỗi cán bộ, nhân viên ngành ngoại giao đều tự hào hướng đến ngày thành lập ngành ngoại giao 28/8/1945. Trong suốt 79 năm trưởng thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, ngoại giao Việt Nam luôn phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. Ngoại giao phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Trong 79 năm qua, ngoại giao đã để lại những dấu ấn quan trọng trong những trang lịch sử hào hùng của đất nước. Trong những buổi đầu lập quốc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cách mạng tiền bối, trên cơ sở các nguyên tắc "dĩ bất biến ứng vạn biến" và với những sách lược táo bạo, khôn khéo như "hòa để tiến", "phân hóa kẻ thù", Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 đã góp phần bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ, giúp cách mạng nước ta vượt qua những tình huống hiểm nghèo. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đối ngoại, ngoại giao đã tranh thủ sự ủng hộ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, tạo dựng mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ sự nghiệp giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với những thắng lợi trên mặt trận quân sự, những thắng lợi của mặt trận đối ngoại, ngoại giao trên bàn đàm phán ở Geneve năm 1954 và Paris năm 1973 là những mốc son trên chặng đường giành lại độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà. Sau khi đất nước thống nhất, đối ngoại, ngoại giao là mặt trận tiên phong tạo lối, mở đường, từng bước phá thế bị bao vây cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị. Đồng thời đối ngoại, ngoại giao đi đầu trong việc khơi thông quan hệ với nhiều đối tác, giải quyết các vấn đề tồn tại trong quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng mở ra cục diện mới phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chụp ảnh cùng đoàn đại biểu kiều bào tiêu biểu về dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ tư và Diễn đàn Tri thức và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài. Ngoại giao trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, trong gần 40 năm đổi mới, công tác đối ngoại, ngoại giao đã đạt được "những kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử" như đánh giá của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 tháng 12 năm 2023, góp phần tạo dựng cục diện đối ngoại rộng mở, thành công của đất nước. Quan hệ ngoại giao không ngừng được mở rộng, đi vào chiều sâu. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước; có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; đã ký 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới. Việt Nam được Liên Hợp Quốc ghi nhận vai trò tiên phong trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và thúc đẩy quyền con người. Việc nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các đối tác chủ chốt, quan trọng cùng các hoạt động đối ngoại cấp cao sôi động trong những năm qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đã góp phần tạo nên tầm vóc chiến lược mới, đưa hợp tác đi vào chiều sâu, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài và bền vững của các mối quan hệ. Đối ngoại, ngoại giao đa phương đã trưởng thành mạnh mẽ, khẳng định Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Không chỉ tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn như ASEAN, APEC,… ngoại giao còn hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế tại các cơ chế quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, UNESCO,… Đặc biệt đối ngoại, ngoại giao đã chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, tham gia vào giải quyết các vấn đề chung của khu vực và thế giới, tham gia ngày càng sâu vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ cứu nạn quốc tế. Trong phục vụ phát triển và hội nhập quốc tế, cùng với việc huy động nguồn lực quan trọng cho phát triển như FDI, ODA, đối ngoại, ngoại giao đã góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu với việc ký kết, tham gia các thỏa thuận, khuôn khổ kinh tế quan trọng. Đồng thời, ngành ngoại giao đã tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong thúc đẩy hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực an ninh-quốc phòng, xã hội, văn hóa, khoa học-công nghệ..., đưa Việt Nam hội nhập vào dòng chảy chung của thế giới. Cùng với quốc phòng, an ninh, đối ngoại, ngoại giao đã góp phần thực hiện nhiệm vụ "trọng yếu, thường xuyên" là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình từ sớm, từ xa. Chúng ta đã nỗ lực để cùng các nước láng giềng xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Chúng ta đã đấu tranh kiên quyết, kiên trì, kịp thời, hiệu quả đối với hoạt động vi phạm chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của chúng ta trên biển; đồng thời chủ động, tích cực thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những vấn đề tồn tại, thực hiện tốt DOC, tích cực tham gia xây dựng COC thực chất, hiệu quả phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại đã góp phần đưa "sức mạnh mềm" Việt Nam, quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, thành tựu đổi mới và bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài góp phần thực hiện chính sách chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, củng cố đại đoàn kết dân tộc, huy động nhiều nguồn lực của cộng đồng cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta cũng đã thực hiện tốt việc bảo hộ công dân ta ở nước ngoài, nhất là khi xảy ra xung đột, chiến tranh, dịch bệnh trên thế giới. Thủ tướng thăm trưng bày ảnh về công tác người Việt Nam ở nước ngoài và kiều bào với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Ngoại giao trong thời đại mới Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến chuyển lớn, cơ hội và thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, mục tiêu và nhiệm vụ quan trọng nhất của ngoại giao thời gian tới là tranh thủ tối đa và tiếp tục củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, đưa đất nước vào dòng chảy của thời đại, tạo đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và 2045 mà Đại hội XIII đã đề ra. Bước vào "kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", trên cơ sở nghiêm túc tổng kết những bài học đối ngoại của 40 năm đổi mới và trước bối cảnh tình hình mới và các vấn đề lớn đặt ra đối với đất nước, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục đổi mới tư duy và hành động, tham mưu, xây dựng những giải pháp mới bổ sung cho đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng, thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nêu là "bảo đảm quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên". [1] Là động lực quan trọng cho đổi mới, ngành ngoại giao xác định sẽ không ngừng phấn đấu để vừa phục vụ đắc lực các lợi ích an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, vừa góp phần xây dựng một trật tự quốc tế công bằng, bảo đảm lợi ích chính đáng của các nước, trong đó có Việt Nam. Chúng ta sẽ tiếp tục nâng tầm, nâng cấp và tranh thủ tối đa cơ hội từ các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; phát huy mạnh mẽ vai trò của các phương thức, các kênh đối ngoại như ngoại giao cấp cao, ngoại giao chuyên ngành, đối ngoại địa phương, các kênh học giả và doanh nghiệp…; tham gia chủ động, có trách nhiệm hơn vào việc giải quyết các vấn đề chung của quốc tế và khu vực; thể hiện vai trò nòng cốt, dẫn dắt của đối ngoại đa phương trong những vấn đề, cơ chế quan trọng có tầm chiến lược. Đặc biệt chúng ta cũng sẽ dành ưu tiên cao cho công tác xây dựng ngành, xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên, nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và lý tưởng của Đảng. Cùng với đó, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các lực lượng làm đối ngoại, các trụ cột đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhân dân, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và lợi thế đặc thù của mỗi trụ cột trong chỉnh thể thống nhất của nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp. Phát huy truyền thống vẻ vang và những thành tựu to lớn trong 79 năm qua và hướng tới mốc lớn kỷ niệm 80 năm thành lập ngành, tiếp bước tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước tiến lên, viết tiếp những trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./. Bùi Thanh Sơn Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao [1] Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại cuộc họp ngày 13/8/2024 của Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội 14 của Đảng. (Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Chính Phủ) Link bài viết: https://baochinhphu.vn/79-nam-ngoai-giao-viet-nam-phat-huy-truyen-thong-ve-vang-gop-phan-thuc-hien-thang-loi-cac-muc-tieu-chien-luoc-cua-dat-nuoc-102240828083807743.htm
Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì?
Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì? Người được bổ nhiệm chức danh này cần đáp ứng những tiêu chuẩn gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây. (1) Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn gì? Căn cứ Điều 31 Luật tổ chức Chính phủ 2015 có quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: - Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công. - Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ. Bên cạnh đó, tại Điều 6 Nghị định 39/2022/NĐ-CP có quy định về trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: - Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực, địa bàn công tác và phạm vi quyền hạn được Thủ tướng Chính phủ phân công, ủy quyền; - Trong phạm vi lĩnh vực, công việc được phân công, ủy quyền, Phó Thủ tướng Chính phủ thay mặt Thủ tướng Chính phủ có toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện, mọi mặt trước pháp luật, trước Thủ tướng Chính phủ về những quyết định của mình và những nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan được phân công theo dõi, chỉ đạo, bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả và chống tiêu cực, tham nhũng trong giải quyết công việc; - Phó Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm giải quyết và quyết định công việc đã được phân công, ủy quyền; nếu có vấn đề liên quan đến lĩnh vực của Phó Thủ tướng Chính phủ khác thì trực tiếp trao đổi, thống nhất với Phó Thủ tướng Chính phủ đó để giải quyết. Trường hợp có ý kiến khác nhau thì Phó Thủ tướng Chính phủ chủ trì xem xét, quyết định hoặc trực tiếp báo cáo Thủ tướng Chính phủ khi cần thiết. Theo đó, hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn như đã nêu trên. (2) Chức danh Phó Thủ tướng chính phủ cần đáp ứng những tiêu chuẩn cụ thể gì? Bên cạnh những tiêu chuẩn chung về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, uy tín và tiêu chuẩn về sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệm được quy định Quy định 214-QĐ/TW 2020 thì người được bổ nhiệm chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ cần phải đáp ứng được những tiêu chuẩn cụ thể được quy định tại mục 2.12 Phần I Quy định 214-QĐ/TW năm 2020 như sau: - Bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn chung của Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư hoặc Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Đồng thời, người được bổ nhiệm cần có những phẩm chất, năng lực như sau: - Có năng lực trong hoạch định chiến lược; quyết đoán, quyết liệt, kịp thời để quyết định những vấn đề khó, phức tạp liên quan đến lĩnh vực hành pháp. - Có kiến thức sâu rộng về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; - Hiểu biết sâu về lĩnh vực được phân công. - Có năng lực cụ thể hoá đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng thành cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả. - Có năng lực phát hiện những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực phụ trách và đề xuất các giải pháp khắc phục. - Là Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương trọn một nhiệm kỳ, đồng thời kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hoặc chủ chốt các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương. Theo đó, người được bổ nhiệm chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ cần đáp ứng được những tiêu chuẩn cụ thể như đã nêu trên. (3) Ai có thẩm quyền bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ? Căn cứ tại khoản 2 Điều 88 Hiến pháp 2013 quy định thẩm quyền bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ như sau: “Điều 88 Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: … 2. Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ;” Như vậy, hiện nay, Chủ tịch nước là người có thẩm quyền bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ dựa trên nghị quyết của Quốc hội.
Phó Thủ tướng yêu cầu đẩy mạnh việc triển khai thí điểm đô thị thông minh
Dựa trên báo cáo của Bộ Xây dựng về tình hình triển khai đô thị thông minh bền vững năm 2023, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã có những ý kiến chỉ đạo về việc triển khai đô thị thông minh trong thời gian sắp tới. Theo Công văn 5802/VPCP-CN, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chỉ đạo Bộ Xây dựng tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương thực hiện triển khai thực chất, hiệu quả “Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030” tại Quyết định 950/QĐ-TTg năm 2018 theo đúng các mục tiêu phát triển đô thị bền vững theo hướng thông minh tại Nghị quyết 06-NQ/TW năm 2022. Bên cạnh đó cụ thể hóa các nội dung nhiệm vụ về xây dựng và phát triển đô thị thông minh theo đúng Nghị quyết 148/NQ-CP năm 2022 thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW. Theo đó, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu Bộ Xây dựng ưu tiên tập trung thực hiện một số nhiệm vụ như sau: (1) Xây dựng, ban hành Bộ tiêu chí đô thị thông minh Trước tiên, Phó Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Xây dựng khẩn trương ban hành văn bản đôn đốc các cơ quan liên quan tăng cường thực hiện những nội dung đã được đề xuất trong báo cáo về tình hình triển khai đô thị thông minh bền vững năm 2023. Tiếp theo, Bộ Xây dựng sẽ xây dựng và ban hành Bộ tiêu chí đô thị thông minh bền vững Việt Nam, kết hợp với quá trình chuyển đổi số; đồng thời nghiên cứu và đề xuất các nội dung phù hợp cho Luật Quản lý phát triển đô thị và Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn đang được soạn thảo. Ngoài ra, Phó Thủ tướng giao nhiệm vụ cho Bộ Xây dựng tổ chức Hội thảo toàn quốc nhằm đánh giá kết quả thực hiện Đề án vào cuối năm 2024, cùng với việc lập báo cáo tổng kết Đề án vào năm 2025. Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cũng sẽ tiến hành nghiên cứu và tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ về Định hướng phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam cho giai đoạn 2025-2035, đảm bảo phù hợp với bối cảnh mới. Theo đó, có thể thấy, những chỉ đạo và nhiệm vụ được Phó Thủ tướng giao cho Bộ Xây dựng không chỉ thể hiện quyết tâm trong việc thúc đẩy phát triển đô thị thông minh bền vững tại Việt Nam, mà còn khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng một khung pháp lý và tiêu chí rõ ràng. Qua đó, các cơ quan liên quan sẽ có cơ sở vững chắc để triển khai hiệu quả các hoạt động, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững trong bối cảnh mới. (2) Đẩy mạnh việc triển khai thí điểm đô thị thông minh Việc triển khai các nội dung thí điểm đô thị thông minh đang được đẩy mạnh với mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ người dân. Đầu tiên, cần tiến hành rà soát, đánh giá và lựa chọn các khu vực thí điểm cũng như xây dựng chương trình và kế hoạch thực hiện một cách cụ thể. Đồng thời, nghiên cứu và xử lý các đề xuất từ các bộ, ngành về những vướng mắc trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức là rất quan trọng, đặc biệt khi liên quan đến tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức khi thành lập Trung tâm kết nối công dân gắn với bộ phận một cửa liên thông. Theo đó, Phó Thủ tướng yêu cầu làm rõ mô hình hoạt động của Trung tâm kết nối công dân gắn với bộ phận một cửa liên thông này, phải xác định rõ nó là đơn vị sự nghiệp công lập hay tổ chức hành chính, nhằm đảm bảo tuân thủ, bám sát các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy. Qua đó, việc thực hiện thí điểm sẽ diễn ra hiệu quả, góp phần tạo ra một môi trường đô thị thông minh, thân thiện và tiện lợi cho người dân. Tham khảo thêm: Đô thị thông minh là gì? Đô thị thông minh được giải thích tại tiểu mục 3.4 Mục 3 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 37122:2020 (ISO 37122:2019) như sau: “Đô thị thông minh (smart city) là đô thị gia tăng sự phát triển từ đó mang lại những kết quả mang tính bền vững về xã hội, kinh tế và môi trường. Các đô thị thông minh đáp ứng những thách thức như biến đổi khí hậu, gia tăng dân số và bất ổn chính trị và kinh tế bằng cách cải thiện về cơ bản cách thức thu hút xã hội, áp dụng các phương pháp lãnh đạo cộng tác, làm việc theo nguyên tắc và hệ thống của đô thị và sử dụng thông tin dữ liệu và công nghệ hiện đại để cung cấp dịch vụ tốt hơn và chất lượng cuộc sống cho mọi người trong đô thị (cư dân, doanh nghiệp, khách vãng lai), hiện tại và trong tương lai gần mà không gây ra sự không công bằng của những người khác hoặc sự suy thoái của môi trường tự nhiên. CHÚ THÍCH 1: Một đô thị thông minh cũng phải đối mặt với thách thức việc nhìn nhận các giới hạn và hạn chế mà các ranh giới này áp đặt. CHÚ THÍCH 2: Có rất nhiều định nghĩa về đô thị thông minh, tuy nhiên định nghĩa được sử dụng trong tiêu chuẩn này là định nghĩa chính thức” Như vậy, có thể hiểu, đô thị thông minh (smart city) là mô hình đô thị phát triển bền vững, mang lại lợi ích lâu dài cho xã hội, kinh tế và môi trường. Các đô thị thông minh đối phó với những thách thức như biến đổi khí hậu, gia tăng dân số và bất ổn chính trị, kinh tế bằng cách cải thiện cách thức thu hút cộng đồng, áp dụng các phương pháp lãnh đạo hợp tác, làm việc theo nguyên tắc và hệ thống đô thị. Đồng thời sử dụng dữ liệu và công nghệ hiện đại để cung cấp dịch vụ tốt hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cư dân, doanh nghiệp và khách du lịch hiện tại cũng như trong tương lai gần, mà không gây ra sự bất công cho những người khác hoặc gây suy thoái cho môi trường tự nhiên.
Chính phủ yêu cầu thanh tra thị trường trước cơn sốt giá vàng, không thể chậm trễ hơn nữa
Trước cơn sốt giá vàng, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo 213/TB-VPCP ngày 10/5/2024 thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái tại cuộc họp về các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian tới. Thông báo 213/TB-VPCP nêu rõ: NHNN Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đã triển khai các giải pháp quản lý thị trường vàng, tuy nhiên tình hình chưa có nhiều chuyển biến, giá vàng miếng trong nước tiếp tục tăng, tình trạng chênh lệch cao giữa giá vàng miếng trong nước và giá vàng thế giới chưa được khắc phục. Do đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái yêu cầu NHNN Việt Nam và các Bộ, cơ quan thực hiện quyết liệt, nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp quản lý thị trường vàng theo tinh thần Nghị quyết, Công điện, Chỉ thị và các văn bản có liên quan, nhất là Thông báo 160/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ. Khẩn trương rà soát, thanh tra thị trường vàng NHNN Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến các đại biểu dự họp: Khẩn trương rà soát, đánh giá toàn diện kết quả triển khai các giải pháp quản lý thị trường vàng trong thời gian qua và diễn biến thị trường trong nước, quốc tế để ổn định, bình ổn thị trường vàng theo mục tiêu đề ra, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn hoạt động của thị trường vàng. Bên cạnh đó, khắc phục ngay tình trạng giá vàng miếng trong nước và giá vàng quốc tế chênh lệch ở mức cao, bảo đảm thị trường vàng hoạt động ổn định, hiệu quả, lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng quy định pháp luật, không để vàng hóa nền kinh tế và ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh tài chính tiền tệ quốc gia. Ngoài ra cần khẩn trương thực hiện ngay việc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng, việc tuân thủ các quy định liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng. Yêu cầu báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả ngay trong tháng 5/2024, không để chậm trễ hơn nữa. Giao Bộ Công an xử lý vi phạm Phó Thủ tướng giao cho NHNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thị trường vàng theo đúng quy định pháp luật; quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng miếng, kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các vi phạm trong sản xuất, kinh doanh vàng miếng Đối với các hành vi vi phạm pháp luật, buôn lậu, thẩm lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng, đẩy giá, cạnh tranh không đúng quy định…; trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật kịp thời chuyển ngay hồ sơ đến Bộ Công an và các cơ quan chức năng để xử lý theo quy định. Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát kỹ lưỡng, đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định 24/2012/NĐ-CP để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, chính sách quản lý thị trường vàng phù hợp với thực tiễn, đúng quy định pháp luật, có công cụ kiểm soát, quản lý hiệu quả, hiệu lực đối với thị trường vàng và có chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật đối với hoạt động kinh doanh vàng. Thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử trong hoạt động kinh doanh, mua, bán vàng theo từng lần Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN Việt Nam và các cơ quan khẩn trương thực hiện ngay các giải pháp quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả yêu cầu các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh vàng thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử trong hoạt động kinh doanh, mua, bán vàng theo từng lần, kiên quyết không để chậm trễ, hoàn thành chậm nhất trong quý II năm 2024. Các Bộ, cơ quan: Công an, Tài chính, Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin và Truyền thông, Khoa học và Công nghệ, Tư pháp, Thanh tra Chính phủ, lực lượng biên phòng, thuế, hải quan, quản lý thị trường, cơ quan liên quan đến quản lý nhà nước về cạnh tranh và các cơ quan liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao chủ động thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, hiệu quả theo thẩm quyền và quy định pháp luật, phối hợp chặt chẽ với NHNN Việt Nam trong việc quản lý, bình ổn thị trường vàng, bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng theo đúng quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan; kịp thời báo cáo cấp thẩm quyền các vấn đề vượt thẩm quyền, phát sinh. Văn phòng Chính phủ theo dõi, đôn đốc theo chức năng, nhiệm vụ được giao. (Nguồn Báo Điện tử Chính phủ)
Thông báo 81/TB-VPCP: Sắp xếp đơn vị hành chính phải tôn trọng kiến nghị của các địa phương
Ngày 06/03/2024, Văn Phòng Chính Phủ ban hành Thông báo 81/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang - Trưởng ban Ban Chỉ đạo tại Phiên họp thứ nhất Ban Chỉ đạo thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. Theo Thông báo, việc sắp xếp ĐVHC cấp huyện, xã là một trong những nhiệm vụ hệ trọng và phức tạp. Phó Thủ tướng đánh giá cao sự nỗ lực của các Bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện triển khai sắp xếp các đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp huyện, xã giai đoạn 2023-2025. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc cần khẩn trương giải quyết như: - Việc sắp xếp ĐVHC nông thôn với ĐVHC đô thị còn gặp nhiều khó khăn do phải đảm bảo đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định. - Thời gian thực hiện sắp xếp gấp, đồng thời phải tiến hành chặt chẽ, qua nhiều thủ tục nên các địa phương gặp nhiều khó khăn trong việc đảm bảo tiến độ thời gian theo yêu cầu. Để có thể tháo gỡ, khắc phục được những vướng mắc, khó khăn nêu trên Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan quán triệt quan điểm chỉ đạo theo Kết luận 48-KL/TW, Nghị quyết 35/ 2023/NQ-UBTVQH15, Nghị quyết 117/NQ-CP và các Công điện của Thủ tướng Chính phủ, theo đó chú trọng thực hiện những nội dung như sau: - Thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, đúng quy định, tôn trọng kiến nghị hợp lý của các địa phương về các đặc thù của từng vùng, miền, địa bàn trong cả nước; rút gọn và thực hiện đồng thời các quy trình, thủ tục để bảo đảm tiến độ sắp xếp ĐVHC cấp huyện, xã. - Các bộ, ngành trung ương cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các địa phương để kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong việc xây dựng Đề án sắp xếp của từng địa phương cũng như quá trình thực hiện sắp xếp ĐVHC. Ngoài ra, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang còn nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị như sau: Đơn vị Nhiệm vụ Bộ Nội vụ và Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo - Chủ động hướng dẫn, đôn đốc các địa phương. - Có cơ chế tiếp nhận thông tin từ địa phương, từ đó tổng hợp kết quả, những khó khăn, vướng mắc để kịp thời báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo và các Thành viên Ban Chỉ đạo có liên quan để xử lý, tháo gỡ trong thời gian ngắn và hiệu quả nhất. Bộ trưởng Bộ Nội vụ - Chỉ đạo tổng hợp, tiếp thu ý kiến thảo luận tại cuộc họp, hoàn thiện và ký Báo cáo tình hình thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030. - Trình Trưởng Ban Chỉ đạo xem xét, ký ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã của năm 2024 và phân công các Thành viên Ban Chỉ đạo phụ trách địa bàn để làm căn cứ thực hiện. - Chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan tổ chức thẩm định hồ sơ Đề án của các địa phương (ưu tiên các địa phương có ít ĐVHC thực hiện sắp xếp hay đã hoàn thành Đề án sớm so với thời hạn yêu cầu). - Phân nhóm các địa phương trình hồ sơ Đề án thành từng đợt, tránh dồn vào một thời điểm. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Nghiên cứu và đề xuất phương án xử lý các vướng mắc đối với 10 địa phương đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh trước khi có Nghị quyết 35/2023/UBTVQH15. - Hướng dẫn các địa phương về việc bố trí kinh phí thực hiện sắp xếp ĐVHC quy định tại Nghị quyết 35/2023/UBTVQH15. Bộ Tài chính - Khẩn trương trình Chính phủ Nghị định thay thế Nghị định 167/2017/NĐ-CP và Nghị định 67/2021/NĐ-CP quy định về việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công vào cuối Quý I/2024. - Hướng dẫn việc dự toán, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, xã theo quy định. Bộ Xây dựng - Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các địa phương tháo gỡ vướng mắc trong công tác quy hoạch và phân loại đô thị để bảo đảm tiến độ xây dựng. - Trình hồ sơ Đề án sắp xếp của các địa phương hoàn thành chậm nhất trong tháng 9/2024. Thành viên Ban Chỉ đạo Nâng cao trách nhiệm, bám sát tình hình triển khai ở các địa phương để bảo đảm tiến độ hoàn thành công tác sắp xếp ĐVHC trong tháng 9/2024. Kết hợp với các cán bộ, công chức chuyên môn được Bộ Nội vụ cắt cử trong việc khảo sát và làm việc với các địa phương được phân công phụ trách.
Chỉ thị 19/QĐ-TTg: Thủ tướng phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng
Ngày 15/01/2023, Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị 19/QĐ-TTg năm 2023 về việc phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, sau khi được bổ nhiệm và kiện toàn các chức danh Phó thủ tướng thì Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phân công nhiệm vụ cho 3 Phó Thủ tướng như sau: (1) Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái Cụ thể, ông Lê Minh Khái có nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác, các cơ quan và làm nhiệm vụ Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo về phân công công tác của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, chỉ đạo giải quyết công việc liên quan đến thương mại - xuất nhập khẩu, dự trữ và cung ứng nguồn cung xăng dầu, dịch vụ logistics; các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. Bên cạnh đó, theo dõi và chỉ đạo Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội. (2) Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà - Theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác: + Giáo dục, đào tạo và dạy nghề. + Khoa học và công nghệ. + Lao động, việc làm và các vấn đề xã hội. + Thông tin và truyền thông. + Văn hóa; du lịch; thể dục, thể thao. + Y tế, dân số, gia đình và trẻ em. - Theo dõi và chỉ đạo: Bộ GD&ĐT; Bộ LĐTBXH; Bộ TTTT; Bộ KH&CN; Bộ Y tế. Bộ VHTTDL; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố HCM. - Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực; Chủ tịch Hội đồng Giáo dục quốc phòng - an ninh Trung ương; Chủ tịch Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch. Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm; Chủ tịch ủy ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan. - Chỉ đạo giải quyết công việc liên quan đến công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường; chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu; quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Bảo đảm năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; các công trình trọng điểm quốc gia; các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo phân cấp của pháp luật và theo dõi, chỉ đạo: Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ GTVT, Bộ TNMT trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. - Làm nhiệm vụ Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo theo lĩnh vực liên quan, Chủ tịch Hội đồng thẩm định các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. - Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ. (3) Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang - Theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác: + Công tác xây dựng thể chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cải cách tư pháp. + Ngoại giao và quan hệ đối ngoại (bao gồm đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân). + Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vận động vốn vay ưu đãi; viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài. + Hội nhập quốc tế; theo dõi, chỉ đạo đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương; cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; xử lý tranh chấp, khiếu kiện quốc tế. + Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. + Quan hệ của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực; công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông - Hải đảo. + Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và các vấn đề người nước ngoài ở Việt Nam. Các vấn đề về nhân quyền. + Công tác dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo; những vấn đề thường xuyên về thi đua khen thưởng. + Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông. + Phòng, chống tội phạm; phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. + Đặc xá. + Phối hợp công tác giữa Chính phủ với TANDTC và VKSNDTC. - Theo dõi và chỉ đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, ủy ban Dân tộc. - Làm nhiệm vụ: Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế; Chủ tịch ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc; Phụ trách ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền; Trưởng Ban Chỉ đạo về Nhân quyền. Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện 03 Chương trình mục tiêu Quốc gia - Chỉ đạo giải quyết công việc liên quan đến nông nghiệp và phát triển nông thôn, công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn và theo dõi, chỉ đạo Bộ NN&PTNT trong thời gian Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vắng mặt. - Làm nhiệm vụ Chủ tịch các Hội đồng, ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo theo lĩnh vực liên quan, Chủ tịch Hội đồng thẩm định các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Chính phú Lê Văn Thành trong thời gian Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vắng mặt. - Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ. Xem thêm Chỉ thị 19/QĐ-TTg năm 2023 có hiệu lực ngày 15/01/2023.
Điểm mới trong nguyên tắc phân công giữa Thủ tướng, các Phó thủ tướng
Thủ tướng và các Phó Thủ tướng - Minh họa Nguyên tắc phân công và quan hệ công tác giữa Thủ tướng Phạm Minh Chính và các Phó thủ tướng kế thừa quy định trước đây, đồng thời bổ sung một số điểm mới. Quyết định số 593 về việc phân công công tác của Thủ tướng và 5 Phó thủ tướng được ban hành ngày 22/4. Quyết định này nêu rõ, Thủ tướng thực hiện đầy đủ nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ; lãnh đạo toàn diện và điều hành công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND các cấp. Người đứng đầu Chính phủ cũng trực tiếp chỉ đạo, điều hành các công việc lớn, quan trọng, những vấn đề có tính chiến lược trên tất cả các lĩnh vực công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Thủ tướng Phạm Minh Chính phân công các Phó thủ tướng giúp ông theo dõi, chỉ đạo, xử lý các công việc thường xuyên thuộc thẩm quyền của Thủ tướng trong từng lĩnh vực công tác của Chính phủ. Các quy định nêu trên tương tự nguyên tắc phân công trong lãnh đạo Chính phủ các nhiệm kỳ trước và gần đây, như Quyết định số 1527 (tháng 8/2016) của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, hay Quyết định số 476 (tháng 8/2011) của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, so với trước, quyết định 593 lần này bổ sung nội dung mới là "Thủ tướng không xử lý những nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, công việc đã phân công cho Phó thủ tướng". Ngoài ra, các quyết định trước đây giao "Phó thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng; kịp thời báo cáo, xin ý kiến Thủ tướng những vấn đề quan trọng". Lần này, quyết định mới không còn nội dung "kịp thời báo cáo, xin ý kiến Thủ tướng những vấn đề quan trọng"; thay vào đó, các Phó thủ tướng "thay mặt Thủ tướng quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp, toàn diện, mọi mặt trước Thủ tướng, trước Chính phủ và trước pháp luật về nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan được phân công theo dõi, chỉ đạo, đảm bảo tiến độ và chất lượng công việc". Điểm chung của các quyết định là "những công việc liên quan đến các Phó thủ tướng khác thì Phó thủ tướng được phân công chủ trì chủ động phối hợp cùng giải quyết; nếu còn ý kiến khác nhau giữa các Phó Thủ tướng thì báo cáo người đứng đầu Chính phủ xem xét, quyết định". Ngoài một số điểm mới trong nguyên tắc phân công và quan hệ công tác nêu trên, nhiệm vụ của Thủ tướng và các Phó thủ tướng tại quy định lần này cơ bản kế thừa văn bản trước đây. Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo, điều hành chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả nước; theo dõi và chỉ đạo các bộ Quốc phòng, Công an... Hai Phó thủ tướng là ông Trương Hòa Bình và ông Vũ Đức Đam vẫn đảm nhiệm các lĩnh vực công tác đã được phân công lâu nay. Hồi đầu nhiệm kỳ, ông Phạm Bình Minh trực tiếp làm nhiệm vụ Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao. Hiện nay, ông Minh chỉ đảm nhiệm chức vụ Phó thủ tướng, vẫn phụ trách các lĩnh vực công tác trước đây. Ngoài ra, ông Minh phụ trách thêm lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (trước đây do nguyên Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng phụ trách). Phó thủ tướng Lê Minh Khái theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực trước đây do nguyên Phó thủ tướng Vương Đình Huệ (nay là Chủ tịch Quốc hội) phụ trách. Trước khi luân chuyển về địa phương làm Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu và sau đó giữ chức Tổng thanh tra Chính phủ, ông Khái từng đảm nhiệm cương vị cấp phó của ông Huệ, là Phó tổng kiểm toán Nhà nước (giai đoạn 2007-2011). Phó thủ tướng Lê Văn Thành đảm nhiệm các lĩnh vực hồi đầu nhiệm kỳ do nguyên Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng phụ trách. Từ góc độ chuyên gia nghiên cứu về hành chính công, TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhận định nguyên tắc phân công trong lãnh đạo Chính phủ lần này "mạch lạc, rõ trách nhiệm, thẩm quyền, dễ thực hiện". Theo ông Dũng, quy định mới "Thủ tướng không xử lý những nhiệm vụ, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, công việc đã phân công cho Phó thủ tướng", thể hiện tinh thần phân cấp, phân quyền, "không làm thay" đã được Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ ngay từ khi đảm nhiệm cương vị người đứng đầu Chính phủ. "Nguyên tắc đó tạo thuận lợi cho Chính phủ và bộ máy hành chính vận hành thông suốt sau khi kiện toàn. Đồng thời, các Phó thủ tướng chủ động xử lý công việc trong phạm vi được phân công, không phải chờ đợi, xin ý kiến Thủ tướng quyết định thay", TS Nguyễn Sĩ Dũng phân tích. Ông Dũng cũng cho rằng tinh thần "không làm thay" công việc đã phân công cho cấp dưới sẽ giúp cải thiện sức ì của bộ máy hành chính ở nhiều nơi. Bởi nếu trước đây, các bộ, ngành, địa phương có thể còn băn khoăn rằng công việc này có phải thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mình không hay phải trình báo cấp trên, thì nay đã có câu trả lời. "Với tinh thần đó, các bộ, ngành, địa phương không còn lý do để đẩy công việc lên Thủ tướng, Chính phủ", ông Dũng nói. Ngày 16/4, Nghị quyết phiên họp đầu tiên của Chính phủ sau khi kiện toàn nêu rõ Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng chỉ giải quyết những việc thuộc thẩm quyền; không quyết định thay những việc đã phân cấp, ủy quyền hoặc thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan, địa phương. Thành viên Chính phủ chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện trong xem xét, quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền hoặc khi được Thủ tướng ủy quyền, phân công, giao nhiệm vụ, không được né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Viết Tuân Nguồn: VnExpress
Kiên quyết không để người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam
Nâng cao cảnh giác, đề cao hơn nữa trách nhiệm đối với cộng đồng, đất nước, kiên quyết không để xảy ra tình trạng có người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam trong thời gian tới. Phó Thủ tướng yêu cầu đề cao cảnh giác và nâng cao trách nhiệm với cộng đồng - Ảnh: Chinhphu.vn Đây là một trong các nội dung thông báo kết luận của Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình - Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ (BCĐ 138) và Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (BCĐ 389 quốc gia) tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2020, phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới của 2 Ban Chỉ đạo này vừa diễn ra trong tuần qua. Trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn biến rất phức tạp ở nhiều nước trên thế giới và qua vụ việc có nhiều người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương tổ chức quán triệt, chỉ đạo các lực lượng chức năng nâng cao cảnh giác, đề cao hơn nữa trách nhiệm đối với cộng đồng, đất nước, kiên quyết không để xảy ra tình trạng có người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam trong thời gian tới. Đặc biệt, Phó Thủ tướng yêu cầu chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ, Công an các địa phương liên quan mở rộng điều tra, xác minh các vụ việc người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam trong thời gian qua. Xác định các đối tượng chủ mưu, cầm đầu, tiếp tay, các đơn vị, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm để xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trước ngày 15-8. Đối với công tác phòng, chống tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, để trong thời gian tới có được chuyển biến căn bản hơn, Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó, cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, nếu trên địa bàn, lĩnh vực nào để tội phạm; tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả xảy ra nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài hoặc có cán bộ, công chức dưới quyền tiêu cực, tham nhũng thì phải tổ chức kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu. Thực hiện tốt công tác phòng ngừa xã hội, công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, tăng cường tuần tra, kiểm soát, kịp thời phát hiện các dấu hiệu tội phạm, vi phạm pháp luật để có biện pháp ngăn chặn, nâng cao chất lượng điều tra khám phá các vụ án. Đáng chú ý, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng Công an triển khai các kế hoạch, biện pháp nghiệp vụ đấu tranh triệt phá các đường dây, băng nhóm tội phạm có tổ chức, tội phạm về môi trường, ma túy, sử dụng công nghệ cao, xâm hại, bạo hành trẻ em, mua bán người...; _ Xử lý nghiêm đối với cán bộ, chiến sỹ có hành vi bao che, dung túng, tiếp tay hoặc thiếu trách nhiệm để tội phạm hoạt động (gắn với trách nhiệm của Giám đốc Công an địa phương). Phó Thủ tướng cũng yêu cầu thực hiện có hiệu quả cao điểm đấu tranh trấn áp mạnh các loại tội phạm bảo vệ đại hội Đảng các cấp, Đại hội lần thứ XIII của Đảng, dịp Quốc khánh 2-9 và dịp tết Nguyên đán Tân Sửu 2021. NGỌC AN Theo Tuổi trẻ
Cảnh sát giao thông Phạt luôn xe Phó Thủ tướng
Người đã từng phạt tài xế lái xe cho Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh vi phạm luật giao thông là Trung tá Lê Hồng Quân. Trung tá Quân kể lại: (Theo http://infonet.vn) Đó là vào năm 1995, lúc đó khoảng 18h, giờ cao điểm, đường đông nghịt các phương tiện cùng tham gia giao thông đổ về nút giao thông Ngã Tư Sở - Trường Chinh. Khi anh Quân đang điều tiết, phân luồng giao thông tại đây, anh ra hiệu cho ô tô phải đi vào một hàng, nối đuôi nhau. Trong khi các xe đang đi theo đúng làn đường theo sự điều tiết giao thông của CSGT, bỗng nhiên, một chiếc xe con đã lách, tách ra làn để cố tình vượt lên. Mặc dù đã ra hiệu lệnh yêu cầu chiếc xe này phải tuân thủ đi đúng làn đường do CSGT đã phân làn, tuy nhiên chiếc xe vẫn cố tình vượt lên, buộc anh Quân phải yêu cầu dừng lại để xử lý lỗi vi phạm. Khi xuống xe, người lái chiếc xe con trên đã xuất trình giấy phép lái xe của mình, tuy nhiên giấy phép này đã hết hạn sử dụng. Trong lúc, anh Quân đang giải thích cho người lái xe hiểu về lỗi vi phạm của mình thì từ trên xe con bước xuống là Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh. “Khi tôi thấy Phó Thủ tướng bước xuống đi đến gần tôi, nói chuyện rất nhẹ nhàng rồi ông yêu cầu tôi lập biên bản xử lý tất cả những lỗi mà người lái xe con chở ông vi phạm. Ông bảo xử lý nghiêm thì lần sau sẽ không dám vi phạm luật giao thông nữa”. Giá mà CSGT luôn lấy Trung tá Lê Hồng Quân làm tấm gương sáng để học hỏi thì quý biết bao.
Lưu ý: Quê Thái Bình và Nam Định
Ngày 10/6 vừa qua, Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Hà Nội Bùi Danh Liên có công văn 18/2013/HH-CV gửi Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội và UBND TP.Hà Nội đề nghị hoãn việc điều chuyển phương tiện nhằm giảm tải cho Bến xe Mỹ Đình nhưng với “lưu ý” hết sức ngô nghê: “Ngoài ra cũng cần phải lưu ý đến các mối quan hệ: Thái Bình là quê của 1 Phó Thủ tướng, 1 Bộ trưởng, 2 Thứ trưởng Công an; Nam Định là quê của 1 Phó Thủ tướng, 3 Bộ trưởng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Phó ban Kinh tế Trung ương…”. Lưu ý này của công văn nhằm “nhắc nhở” TP.Hà Nội “cân nhắc" việc giảm tải bến xe, nhưng ngay lập tức bị dư luận “ném đá” vì lồng ghép chuyện cá nhân vào việc chung, ảnh hưởng đến uy tín của những lãnh đạo cao cấp và trên hết là một văn bản hành chính không thể “chứa” những nội dung, ngôn từ tối kỵ như vậy, chẳng ăn nhập gì với nội dung văn bản. Từ văn bản nêu trên dễ dẫn đến hiện tượng hiểu nhầm rằng: Hà Nội sẽ khó có thể thực hiện Kế hoạch giảm tải Bến xe Mỹ Đình chỉ vì "vướng quê" của một số lãnh đạo. Công văn trên chẳng khác gì lấy Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Trưởng ban Tuyên giáo, Phó ban Kinh tế để uy hiếp TP.Hà nội trong việc giảm tải bến xe Mỹ Đình. Vô hình chung đã bội nhọ các vị lãnh đạo cấp cao. Rất mong nhà chức trách xem lại tư cách đạo đức, trình độ và năng lực của ông Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Hà Nội.
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc báo cáo về tình hình Việt Nam trước khi trả lời chất vấn: Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thưa các vị đại biểu Quốc hội, Thưa đồng bào cử tri cả nước, Được sự phân công của đồng chí Thủ tướng và thay mặt Chính phủ, tôi xin chân thành cảm ơn Quốc hội đã cơ bản đồng tình với các Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội. Tại Kỳ họp này, đã có 74 đại biểu Quốc hội gửi 160 phiếu chất vấn với 241 câu hỏi đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ. Chính phủ trân trọng và nghiêm túc tiếp thu những ý kiến trí tuệ, tâm huyết và có trách nhiệm cao của các vị đại biểu Quốc hội, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến công tác điều hành của Chính phủ, những ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả nước nêu trong Báo cáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các câu hỏi chất vấn đã và đang được các thành viên Chính phủ trả lời bằng văn bản gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Trong hai ngày qua, đã có 3 Bộ trưởng trực tiếp trả lời và 7 thành viên Chính phủ tham gia trả lời chất vấn của các vị đại biểu Quốc hội. Sau đây, tôi xin báo cáo và giải trình thêm một số vấn đề mà Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm. I. CẬP NHẬT TÌNH HÌNH KINH TẾ - Xà HỘI 5 THÁNG ĐẦU NĂM Trong 5 tháng đầu năm, kinh tế vĩ mô tiếp tục chuyển biến tích cực. Lạm phát được kiểm soát, giá tiêu dùng tháng 5 giảm 0,06%; 5 tháng tăng 2,35%, là mức thấp nhất trong 4 năm qua. Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm[1]; dư nợ tín dụng chuyển dịch theo hướng tốt hơn, tăng 2,98%, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên[2]. Tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định. Xuất khẩu tăng 15,1%, nhập khẩu tăng 16,8%. Vốn FDI đăng ký đạt 8,52 tỷ USD, tăng 8,9%; giải ngân đạt 4,58 tỷ USD, tăng 1,6%; giải ngân vốn ODA đạt 1,5 tỷ USD, bằng 31,3% kế hoạch cả năm, cao hơn so với cùng kỳ (25%). An sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; công tác dạy nghề, tạo việc làm được đẩy mạnh. Kịp thời ngăn chặn và giảm thiểu việc xâm nhập, lây truyền dịch bệnh. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được quan tâm, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người mất việc làm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Quốc phòng, đối ngoại được tăng cường; tiếp tục khẳng định và kiên định lập trường bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của Việt Nam trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Tuy nhiên, kinh tế xã hội còn rất nhiều khó khăn, thách thức như báo cáo của Chính phủ và ý kiến của nhiều vị đại biểu Quốc hội đã nêu. Từ nay đến cuối năm, Chính phủ kiên trì, nhất quán thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; theo dõi sát diễn biến tình hình để điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách, nhất là về tài khóa - tiền tệ, hỗ trợ, tháo gỡ kịp thời cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu quyết liệt hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 mà Quốc hội đã đề ra. II. TẬP TRUNG THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO SẢN XUẤT KINH DOANH Nhiều vị đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm đến các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh. Tôi xin báo cáo, giải trình bổ sung một số nội dung sau: 1. Về tín dụng, xử lý nợ xấu Triển khai các giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp thông qua tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đơn giản hóa thủ tục, thực thi các chương trình hỗ trợ nhất là đối với các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản, thủy sản xuất khẩu chủ lực (lúa gạo, cà phê, cá tra, tôm...). Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, giảm lãi suất đối với các khoản tín dụng đã vay. Tháo gỡ khó khăn, hướng dòng vốn tín dụng vào các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có thị trường, cho vay tiêu dùng cá nhân, kích thích sức mua, góp phần tăng tổng cầu cho nền kinh tế. Thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng đến cuối năm 2013 là 12%, bình quân hàng tháng sẽ có thêm khoảng 40 nghìn tỷ đồng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tiếp tục triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu theo Đề án đã được phê duyệt. Khẩn trương đưa Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam đi vào hoạt động để tập trung xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu cao (trên 3%). Hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức tín dụng thành lập công ty quản lý tài sản của mình để xử lý nợ xấu. Phấn đấu đến cuối năm, sẽ xử lý được khoảng 105 nghìn tỷ đồng nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn vào năm 2015. Tháo gỡ khó khăn trực tiếp cho thị trường bất động sản và tạo điều kiện nhà ở cho nhân dân. Chính phủ đã chỉ đạo triển khai thực hiện hỗ trợ cho vay để mua, thuê mua nhà ở xã hội theo Nghị quyết số02/NQ-CP với tổng số tiền dự kiến khoảng 30 nghìn tỷ đồng, tuy nhiên, việc triển khai còn chậm. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương xử lý các vướng mắc để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn này, phấn đấu đến hết năm 2013 giải ngân được khoảng 15 - 20 nghìn tỷ đồng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo bước chuyển mạnh mẽ hơn trong việc giải quyết nhu cầu nhà ở xã hội. 2. Về chính sách thuế và đầu tư phát triển Chính phủ tiếp tục thực hiện việc giãn, hoãn thuế theo thẩm quyền và triển khai các Nghị quyết của Quốc hội về miễn, giảm thuế, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Tổng số tiền thuế được giãn, hoãn, miễn, giảm trong năm 2013 ước khoảng 37,7 nghìn tỷ đồng. Tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị1792/CT-TTg khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư công; tập trung đầu tư, bổ sung kịp thời vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành sớm để đưa vào sử dụng. Phê duyệt các dự án và bố trí vốn theo kế hoạch đầu tư trung hạn[3]. Ưu tiên bố trí nguồn để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ để góp phần tăng tổng cầu. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành xây dựng phương án ứng trước vốn trong kế hoạch ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ năm 2014 để thanh toán nợ khối lượng hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án trong năm 2013. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA và vốn giải phóng mặt bằng của một số dự án hạ tầng quan trọng. Chính phủ sẽ trình Quốc hội vào Kỳ họp thứ 6 phương án phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ để đầu tư nâng cấp Quốc lộ 1A, Quốc lộ 14 đoạn qua Tây Nguyên và một số công trình thủy lợi, y tế cấp bách. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ và xử lý nghiêm các vi phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn lớn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng; tăng cường thu hút và đẩy mạnh giải ngân vốn ODA[4], phấn đấu tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt mức 33 - 35% GDP vào năm 2015[5]. 3. Về thị trường và giải quyết hàng tồn kho Thống nhất với ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, thị trường là yếu tố quan trọng, quyết định sự sống còn đối với doanh nghiệp. Chính phủ chỉ đạo triển khai các giải pháp: xử lý nợ xấu, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư, đẩy mạnh cho vay kích thích sức mua, mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho[6]. Hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện mạng lưới phân phối, gắn kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, nhất là các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, sắt thép, xi-măng... Tiếp tục thực hiện chương trình phát triển hệ thống chợ trên phạm vi toàn quốc, nhất là địa bàn nông thôn[7]; phát triển cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại tại đô thị. Triển khai chương trình bình ổn thị trường, giá cả, bảo đảm chất lượng hàng hóa[8]. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đồng thời có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đưa hàng Việt Nam về nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm kích cầu thị trường nội địa, góp phần giảm hàng tồn kho, tăng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Tăng cường xúc tiến thương mại theo từng thị trường, sản phẩm; giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan thương vụ, cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài; tiếp tục thu mua tạm trữ nông sản xuất khẩu[9]; từng bước mở rộng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; tổ chức tốt hệ thống thông tin thị trường quốc tế, hỗ trợ trong xử lý tranh chấp quốc tế để thúc đẩy xuất khẩu. Thực hiện nghiêm việc kiểm định chất lượng, xuất xứ hàng hóa xuất khẩu. Tiếp tục rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, đơn giản hóa và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực thuế, hải quan[10], cấp phép... nhằm tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh; nâng cao khả năng cạnh tranh, tìm đầu ra cho sản phẩm, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa. Kiểm soát chặt chẽ hàng hóa nhập khẩu, ngăn chặn hàng nhập lậu; thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại và sử dụng hàng rào kỹ thuật phù hợp để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng không khuyến khích. III. TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ Qua thảo luận, nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Tôi xin báo cáo, giải trình thêm như sau: Tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế là một quá trình lâu dài, phức tạp, có phạm vi rộng, liên quan đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Việc triển khai thực hiện cần có thời gian, hiện nay đang trong giai đoạn đầu. Thực hiện nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế và các đề án tái cơ cấu các lĩnh vực trọng tâm; tập trung tạo lập khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện thể chế phục vụ tái cơ cấu. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp tái cơ cấu đã đề ra; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả thực hiện. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ, gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công; nâng cao hiệu quả hoạt động và phát huy hơn nữa vai trò của doanh nghiệp nhà nước; đẩy mạnh cổ phần hóa, hoàn thành việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính trước năm 2015; nâng cao năng lực tài chính, khả năng quản trị, chất lượng dịch vụ, sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính, tín dụng. IV. TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU - CHI NGÂN SÁCH Tình hình sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn có ảnh hưởng lớn đến cân đối ngân sách nhà nước. Chính phủ đang chỉ đạo các ngành, địa phương rà soát các lĩnh vực để tăng thêm nguồn thu, nhất là trong khai thác dầu khí, tài nguyên, khoáng sản, lệ phí trước bạ, tiền sử dụng đất và khu vực doanh nghiệp nhà nước. Triển khai quyết liệt các biện pháp chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá, buôn lậu; xử lý nghiêm các vi phạm. Đề cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong công tác quản lý thu chi ngân sách. Phấn đấu đạt mức cao nhất kế hoạch thu ngân sách năm 2013. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong sử dụng ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiết kiệm 10% chi thường xuyên (không kể phần chi trả lương) trong các tháng còn lại của năm 2013[11]. Tiếp tục rà soát, kịp thời điều chỉnh những cơ chế, chính sách không còn phù hợp; không bổ sung các đề án, chương trình, ban hành các chính sách mới mà chưa xác định được nguồn bảo đảm; hạn chế tối đa việc bổ sung kinh phí ngoài dự toán. Tăng cường kiểm soát chi qua Kho bạc Nhà nước, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ[12]. Về trung hạn và dài h���n, Chính phủ chỉ đạo bảo đảm cân đối ngân sách chủ động, tích cực trên cơ sở cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước. Đẩy mạnh xã hội hóa gắn với cải cách hành chính, đổi mới cơ chế cung cấp dịch vụ sự nghiệp công để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách đối với khu vực sự nghiệp công lập, nhất là các lĩnh vực giáo dục, y tế. V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ Xà HỘI Nhiều bộ trưởng đã trả lời chất vấn tại hội trường về các vấn đề xã hội. Tôi xin nhấn mạnh một số nội dung. Thời gian qua, mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nhưng Chính phủ đã rất quan tâm thực hiện các chính sách xã hội. Về giảm nghèo, luôn ưu tiên nguồn lực thực hiện các chính sách giảm nghèo, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số[13], các địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo vẫn chưa bền vững, khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư còn lớn. Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; lồng ghép mục tiêu giảm nghèo vào các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan, các chính sách hỗ trợ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở địa bàn đặc biệt khó khăn. Về xây dựng nông thôn mới, đến nay đã đạt được kết quả bước đầu, nhiều xã đã cơ bản đạt các tiêu chí nông thôn mới. Tuy nhiên, việc triển khai còn chậm, lúng túng, chưa tạo được chuyển biến rõ rệt về phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập của người dân. Chính phủ đang chỉ đạo hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm của từng vùng; quan tâm bố trí nguồn vốn ngân sách Nhà nước và tăng cường huy động các nguồn lực xã hội, tạo chuyển biến về cơ sở hạ tầng thiết yếu, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, không chạy theo số lượng. Phấn đấu đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Về giải quyết việc làm, trong điều kiện kinh tế khó khăn, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ, tạo việc làm, thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động tại các doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất. Tuy nhiên, một bộ phận người lao động còn thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định; nhiều sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm; thị trường lao động phát triển chưa đồng bộ, kết nối cung - cầu còn hạn chế; xuất khẩu lao động gặp nhiều khó khăn, công tác quản lý lao động xuất khẩu còn những bất cập. Thời gian tới, Chính phủ chỉ đạo tập trung triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề; nâng cao chất lượng đào tạo; đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, nhất là đào tạo đại học. VI. VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG VÀ PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM 1. Về an toàn giao thông Chính phủ đã chỉ đạo triển khai quyết liệt công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông và đã đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, tình hình tai nạn giao thông gần đây vẫn diễn biến phức tạp, số vụ tai nạn còn cao, nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng, số người chết do tai nạn tăng hơn so với cùng kỳ[14]. Thực hiện nghiêm Nghị quyết 37 của Quốc hội, Chỉ thị 18 của Ban Bí thư, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục triển khai đồng bộ, quyết liệt hơn nữa các giải pháp đã đề ra. Tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là vi phạm tốc độ, lấn đường, uống rượu bia, kiểm định phương tiện, đặc biệt là đối với xe khách trên các tuyến quốc lộ trọng điểm. Triển khai hệ thống thiết bị giám sát hành trình phục vụ cho công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm. Tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh vận tải, nhất là các cơ sở để xảy ra tai nạn nghiêm trọng, xử lý nghiêm các vi phạm, kể cả thu hồi giấy phép. Khẩn trương triển khai, hoàn thành các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm. Rà soát, xử lý các điểm đen thường xảy ra tai nạn. Đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu. Đổi mới công tác tuyên truyền về trật tự an toàn giao thông, nhất là đối với vùng nông thôn. Chính phủ đề nghị Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên cùng toàn dân tích cực thực hiện phong trào “Toàn dân tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông”. 2. Về phòng chống tội phạm Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ đã rất quyết liệt triển khai thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội. Chỉ đạo lực lượng công an mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm; điều tra, xử lý nghiêm các băng nhóm nguy hiểm, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng. Qua đấu tranh triệt phá các băng nhóm tội phạm lộng hành trong thời gian dài tại một số địa phương cho thấy có biểu hiện buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm của một số tập thể, cá nhân trong công tác phòng, chống tội phạm. Tình trạng cướp giật tại một số địa bàn chưa được ngăn chặn hiệu quả. Trong thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai thực hiện quyết liệt hơn các giải pháp về phòng, chống tội phạm. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phát huy và nhân rộng các mô hình phòng, chống tội phạm có hiệu quả; đẩy mạnh công tác phòng ngừa xã hội; đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và lực lượng công an; tăng cường đầu tư các nguồn lực cho công tác phòng, chống tội phạm. Kiểm tra, làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân có liên quan trong việc để các đối tượng, băng nhóm hoạt động theo kiểu “xã hội đen” lộng hành, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự xã hội. Theo chinhphu.vn