Bà Phương Hằng có được trở lại điều hành Công ty Đại Nam sau khi ra tù không?
Bà Nguyễn Phương Hằng, một trong những nữ doanh nhân nổi tiếng nhất Việt Nam, đã trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời. Sau khi ra tù, liệu bà có được trở lại điều hành Công ty Đại nam không? (1) Bà Phương Hằng có được trở lại điều hành Công ty Đại Nam sau khi ra tù không? Vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng đã để lại nhiều dư luận trái chiều. Sau khi chấp hành xong bản án, nhiều người đặt câu hỏi về tương lai của bà tại Công ty Đại Nam vì bà đã là người có tiền án, tiền sự. Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020, pháp luật chỉ cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp đối với trường hợp: - Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự - Bị tạm giam - Đang chấp hành hình phạt tù - Đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc - Đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Theo đó, ngoài quy định trên, pháp luật không quy định người đại diện theo pháp luật, giám đốc hay chủ tịch của công ty không được phép điều hành, quản lý công ty sau khi chấp hành xong hình phạt tù mà chưa được xóa án tích. Vì vậy, trong trường hợp của nữ doanh nhân Nguyễn Phương Hằng, dù án tích đã được xóa hay chưa, bà Hằng vẫn có quyền tiếp tục điều hành Công ty Đại Nam mà không bị pháp luật cấm đoán. (2) Thời điểm xóa án tích của bà Nguyễn Phương Hằng là khi nào? Theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Hình sự 2015, có 03 hình thức xóa án tích bao gồm: đương nhiên được xóa án tích, xóa án tích do Tòa án quyết định và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt. Theo đó, trường hợp của bà Hằng thuộc diện đương nhiên được xóa án tích do bà Hằng bị kết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh theo quy định Bộ luật Hình sự 2015. Vì bà Phương Hằng thuộc trường hợp bị phạt tù đến 05 năm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015, nữ doanh nhân sẽ được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính, bà hằng đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 02 năm. Như vậy, nếu bà Nguyễn Phương Hằng chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án thì và không thực hiện hành vi phạm tội nào nữa thì sẽ được xóa án tích sau 02 năm. (3) Vì sao bà Nguyễn Phương Hằng bị xử phạt tù? Theo nội dung vụ án, từ tháng 3/2021 đến tháng 3/2022, bà Phương Hằng và 04 bị cáo khác đã lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích hợp pháp của 10 cá nhân. Cụ thể, bà Nguyễn Phương Hằng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đại Nam (tỉnh Bình Dương), là người nổi tiếng trên mạng xã hội được nhiều người quan tâm và biết đến trong đợt dịch Covid-19. Từ tháng 3/2021, bà đã sử dụng điện thoại di động, máy tính xách tay và máy quay phim để đăng nhập vào 12 tài khoản mạng xã hội do mình quản lý. Sau đó, bà Hằng thực hiện nhiều buổi livestream và phát ngôn trực tiếp trên Internet với nội dung bịa đặt, sai sự thật, gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín và danh dự của các cá nhân. Ngoài ra, bà Hằng còn công khai những thông tin thuộc về bí mật cá nhân, gia đình và đời sống riêng tư của nhiều người, vi phạm quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm diễn ra vào ngày 4/4, ngoài bà Hằng, các bị cáo Đặng Anh Quân (43 tuổi, cựu giảng viên Trường đại học Luật TP.HCM) nhận án 2 năm tù (giảm 6 tháng); còn Nguyễn Thị Mai Nhi, Huỳnh Công Tân, Lê Thị Thu Hà (nhân viên Công ty Cổ phần Đại Nam) đều bị xử 1 năm tù (giảm 6 tháng) với tội danh lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bị cáo không kháng cáo thì Tòa có áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được không?
Mới đây, TAND cấp cao TPHCM xét xử phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phương Hằng đã tuyên bố giảm án 3 tháng phạt tù cho bị cáo dù bị cáo không kháng cáo. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm án khi bị cáo không kháng cáo có đúng với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? (1) Khi nào thì được mở phiên tòa phúc thẩm? Theo Điều 27 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo như sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 - Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật - Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về tính chất của phiên xét xử phúc thẩm, khoản 1 Điều 330 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: - Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Căn cứ vào 2 quy định trên, để mở phiên tòa phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng nghị từ đương sự hoặc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị với bản án quyết định sơ thẩm trong thời hạn quy định thì bản án sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực thi hành. Trong vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng, mặc dù bà Hằng cho rằng mức án 3 năm tù đối tội của bà là quá cao, tuy nhiên bà cũng không kháng cáo. Do bà Hằng không kháng cáo trong thời hạn quy định, bản án của tòa cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực, nghĩa là bà Hằng phải thi hành án phạt tù 03 năm theo như bản án quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, các đồng phạm của bà trong vụ việc này đã làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên bản án, quyết định sơ thẩm đối với các bị cáo này là chưa có hiệu lực. Tòa án cấp cao sẽ mở phiên xét xử phúc thẩm để xét xử hoặc xem xét lại quyết định, bản án cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 Do đó, việc tổ chức phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng là hoàn toàn đúng thủ tục tố tụng. (2) Bị cáo không kháng cáo có được giảm nhẹ hình phạt? Theo Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về việc sửa bản án sơ thẩm như sau: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: - Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; - Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; - Giảm hình phạt cho bị cáo; - Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; - Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: - Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; - Tăng mức bồi thường thiệt hại; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; - Không cho bị cáo hưởng án treo. - Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. - Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định trên, HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy có điểm chưa đúng trong bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khi vụ án có thêm tình tiết mới. Trong đó, HĐXX có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo hoặc tăng nặng tùy theo các tình tiết mới mà các bên cung cấp. Tại khoản 3 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng có nhắc đến trường hợp bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo nhưng HĐXX có căn cứ về tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. Do đó, tuy bà Hằng không làm kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, nhưng HĐXX xét thấy bị cáo đã nộp đầy đủ án phí, khắc phục thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Có lẽ với tình tiết giảm nhẹ đó và sự thành khẩn, ăn năn của bà Hằng, HĐXX đã có đủ căn cứ để sửa lại bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Phương Hằng theo quy định tại Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. (3) Sau khi được giảm án, bà Phương Hằng còn phải chấp hành phạt tù đến khi nào? Bà Phương Hằng bị bắt tạm giam vào ngày 24/3/2022. Tính từ ngày bị bắt tạm giam đến nay (5/4), bà Hằng đã chấp hành án được 2 năm 11 ngày. Như vậy, bà Hằng còn phải chấp hành bản án trên đến ngày 24/12/2024, tức còn 8 tháng 19 ngày là hết thời gian phạt tù.
Xét xử bà Phương Hằng xác định tư cách người tham gia tố tụng ra sao?
Vừa mới đây TAND TP.HCM vừa ra quyết định triệu tập một số người bị cáo buộc đã xâm phạm bí mật đời tư, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của họ trong vụ xét xử của bà Nguyễn Phương Hằng sắp tới đây. Tuy nhiên, quan điểm của VKSND TP.HCM lại có quan điểm khác so với TAND TP.HCM về việc xác định tư cách tham gia của những người được triệu tập là “bị hại” còn Tòa án thì cho rằng đây là “người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”. Việc xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Vậy từ vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng thì việc xác định tư cách người tham gia tố tụng ra sao? (1) Căn cứ xác định người bị hại trong vụ án hình sự Căn cứ Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. * Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền: - Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; - Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; - Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; - Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; - Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; - Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; - Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; - Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. * Bị hại có nghĩa vụ: - Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; - Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Thiệt hại của người này là cơ sở để xác định hành vi có phạm tội hay không, tội gì và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào mức thiệt hại đó để khởi tố, truy tố và xét xử; thiệt hại của bị hại phải được giải quyết luôn trong vụ án hình sự; họ buộc phải tham gia tố tụng, nếu từ chối hoặc trốn tránh thì có thể bị dẫn giải. (2) Căn cứ xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự Căn cứ Điều 65 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ có quyền: - Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; - Tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; - Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có nghĩa vụ: - Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình; - Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. VKSND có thể xác định người này là bị hại nhưng tòa án lại cho rằng đây là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, tuy nhiên quyết định cuối cùng thuộc về tòa án. Nếu xác định sai tư cách tố tụng dẫn đến việc giải quyết không đúng đắn vụ án thì bản án có thể bị hủy, sửa và người ra phán quyết sai phải chịu trách nhiệm. Như vậy, từ những phân tích nêu trên, trong vụ án bà Nguyễn Phương Hằng, cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ để khi tiến hành xét xử vụ án sẽ xác định đúng tư cách tố tụng của từng người. Từ đó, áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đúng đắn.
Bà Phương Hằng có được ở Buồng riêng khi bị tạm giam?
Vừa qua bà Phương Hằng đã chính thức bị tạm giam để điều tra xử lý vi phạm về hành vi “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” quy định tại Điều 331 Bộ Luật hình sự. Vì vậy rất nhiều người tò mò rằng, khi bà Phương Hằng bị tạm giam tại các cơ sở giam giữ như vậy có được những đãi ngộ riêng không, có được phân bố khu buồng riêng hay không? Là những câu hỏi được mọi người bàn luận rất sôi nổi. Cơ sở giam giữ là nơi tổ chức giam giữ, quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bao gồm trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bố trí theo khu và phân loại khác nhau. Trong một số trường hợp nhất định người bị tạm giam, tạm giữ có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Theo quy định, có một số nhóm đố tượng có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Căn cứ Khoản 4 Điều 18 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có quy định, người bị tạm giữ, người bị tạm giam sau đây có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng, cụ thể: - Người đồng tính, người chuyển giới; - Người quy định tại các điểm e, i và m khoản 1 Điều này, bao gồm: + Người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A; + Người bị kết án tử hình; + Người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh. - Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng. Trên đây là những trường hợp người bị tạm giam, tạm giữ có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Cũnng có thể giải đáp những thắc mắc của mọi người về câu hỏi liên quan đến bà Phương Hằng có được ở buồng riêng khi bị tạm giam hay không.
Từ vụ bà Phương Hằng: Khi nào tách, nhập vụ án hình sự?
Ngày 22/4/2022, Công an tỉnh Bình Dương đã khởi tố vụ án liên quan đến bà Nguyễn Phương Hằng để điều tra về cùng hành vi “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” mà Công an TP.HCM đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can trước đó. Vì sao công an tiếp tục khởi tố vụ án liên quan bà Hằng? Quy định nhập/tách vụ án hiện nay ra sao? Về vấn đề này, Luật sư Hồ Quang Khánh (Công ty Luật TNHH HK & Gia Luật) có ý kiến như sau: Khoản 4 điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được hiểu là tội phạm xảy ra ở địa phương nào thì cơ quan CSĐT địa phương đấy tiếp nhận xử lý, không phải theo nơi cư trú. Trong trường hợp này, theo thông tin truyền thông, bà Hằng bị nhiều cá nhân tố giác tội phạm tại Công an TP.HCM và Công an Tỉnh Bình Dương. Vụ án tại Công an Tp HCM, thông tin ban đầu cho biết, bà Hằng bị khởi tố theo đơn tố giác của ca sỹ Vy Oanh, như vậy việc bà Hằng thực hiện tội phạm với ca sỹ Vy Oanh tại các buổi livestream là tại TP.HCM, nên Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM thụ lý, khởi tố và điều tra vụ án là đúng thẩm quyền. Riêng vụ án tại Bình Dương, chắc chắn không liên quan đến đơn tố giác của ca sỹ Vy Oanh, vì Cơ quan CSĐT Tp HCM đã khởi tố rồi, mà có thể liên quan đến các cá nhân khác tố cáo bà Hằng, nhiều khả năng nhắm đến hành vi livestream của bà Hằng và một số cá nhân liên quan tại công ty Đại Nam ở Bình Dương. Hiện Cơ quan CSĐT Công an Tỉnh Bình Dương chưa khởi tố bị can vì có thể trong vụ này không chỉ khởi tố riêng bà Hằng, mà có thể còn có đồng phạm, nên việc thu thập đầy đủ chứng cứ là yếu tố cẩn trọng, để tránh làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Lưu ý: Công an tỉnh Bình Dương cho biết hiện vụ việc của bà Hằng chỉ mới khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thời điểm khởi tố vụ án, khởi tố bị can như sau: * Thời điểm khởi tố vụ án là khi xác định có dấu hiệu tội phạm do cá nhân, pháp nhân thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định (Khoản 1 Điều 432; Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015). * Thời điểm khởi tố bị can là sau khi thực hiện khởi tố vụ án và có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự 2015 quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can (Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015). Lưu ý, có một số cơ quan điều tra khác của bộ quốc phòng, biên phòng, hải quan, kiểm lâm… có thể thực hiện toàn bộ khâu điều tra vụ án hoặc thực hiện các công đoạn ban đầu, không chỉ duy nhất cơ quan điều tra của bên công an. Căn cứ các quy định nêu trên, dù công an TP.HCM đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì công an tỉnh Bình Dương vẫn có thể khởi tố vụ án liên quan đến bà Hằng. Tuy nhiên, khả năng Công an tỉnh Bình Dương có phối hợp với Công an TP.HCM nhập vụ án để để một nơi xử lý hay không thì còn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan này dựa trên quy định pháp luật. Vậy việc nhập/tách vụ án hình sự được quy định thế nào? Các trường hợp nhập vụ án hình sự Theo khoản 1, Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, khi có một trong những căn cứ sau, Cơ quan CSĐT có thể nhập vụ án để giải quyết: - Bị can phạm nhiều tội; - Bị can phạm tội nhiều lần; - Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có. Trong vụ án này, về pháp lý cơ quan tiến hành tố tụng có thể nhập vụ án để điều tra. Nếu nhập vụ án thì Cơ quan CSĐT Công an Tp Hồ Chí Minh nhiều khả năng sẽ là cơ quan điều tra cuối cùng. Việc nhập vụ án được thực hiện nếu trong quá trình điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng nhận thấy có đủ căn cứ pháp lý như nêu bên trên và xét thấy cần thiết phải nhập để xử lý vụ án một cách toàn diện, chính xác và kịp thời nhất. Tuy nhiên, nếu đặt tính khách quan lên hàng đầu, cơ quan tiến hành tố tụng có thể không nhập vụ án trong giai đoạn điều tra mà vẫn điều tra độc lập, trên cơ sở trao đổi, thông tin chặt chẽ với nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc nhập vụ án có thể được xem xét thực hiện trong giai đoạn xét xử tại TAND có thẩm quyền. Các trường hợp tách vụ án hình sự Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Như vậy, hiện tại không có quy định bắt buộc phải nhập hoặc tách vụ án hình sự mà đây là quy định tùy nghi, phụ thuộc quyết định của cơ quan điều tra. Việc nhập, tách vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra phải thỏa mãn 02 điều kiện: - Thứ nhất, có căn cứ pháp lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; - Thứ 2, phải có tính cần thiết, mà tính cần thiết này do cơ quan CSĐT và VKSND đánh giá trong thực tiễn điều tra vụ án, rồi mới quyết định. Luật không bắt buộc nhưng có hướng dẫn rõ. Mức án khi tách hoặc nhập vụ án hình sự Nếu không nhập vụ án để điều tra thì mức án sẽ là tổng hợp hình phạt của từng bản án. Còn nếu nhập vụ án để điều tra thì có thể bị truy cứu TNHS với với tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên.
Từ vụ bà Phương Hằng, nếu một người mang 2 quốc tịch phạm tội, Pháp luật VN xử lý ra sao?
Trước đây từng có thông tin bà Phương Hằng có thêm một quốc tịch khác do bị rò rỉ hộ chiếu trên mạng, cụ thể theo báo Lao động đưa tin như sau: Vừa qua, bà Nguyễn Phương Hằng livestream phản ánh về việc cuốn hộ chiếu mang quốc tịch nước ngoài của mình bị đưa lên mạng. Bà Phương Hằng cho rằng, sở dĩ cuốn hộ chiếu này được đưa lên mạng là do một vị sư trụ trì một ngôi chùa đã chuyển thông tin cuốn hộ chiếu này cho bà Lê Thị Giàu - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần thực phẩm Bình Tây và bà Giàu đã đưa lên mạng. Tuy nhiên, về vấn đề này bà Lê Thị Giàu cho rằng, cuốn hộ chiều mang quốc tịch nước ngoài của bà Phương Hằng do chính bà Hằng gửi cho bà Giàu, chứ không phải do vị sư trụ trì chuyển sang. Toàn bộ vụ việc này, đã được bà Giàu lập vi bằng và gửi cho tòa án. "Trong lúc chát trên mạng qua lại và nói chuyện với nhau, bà Hằng khoe là có quốc tịch Canada nhưng tôi không tin. Do vậy, bà Hằng đã chụp hình cuốn hộ chiếu mang quốc tịch nước ngoài cho tôi xem. Tuy nhiên, khi tôi xem thì cuốn hộ chiếu này không phải của Canada mà là của Cộng hoà Cyprus (Đảo Síp). Khi gửi khoe cho tôi xem, bà Hằng không có yêu cầu là giữ kín thông tin này, nên tôi đã chia sẻ lại cho bạn bè cùng xem" - bà Giàu nói. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam sẽ áp dụng Bộ luật hình sự (BLHS) của Việt Nam để giải quyết. Trường hợp người phạm tội là người nước ngoài, Khoản 2 Điều 5 Bộ luật quy định: "Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó. Trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao". Như vậy, người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam chỉ được áp dụng điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế khi họ thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế. Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch, người có 2 quốc tịch sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người có một quốc tịch. Do vậy, với trường hợp người Việt Nam có 2 quốc tịch mà phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì nguyên tắc xử lý sẽ được các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam thực hiện như sau: Người phạm tội trước hết vẫn được xác định là công dân Việt Nam nên sẽ áp dụng BLHS Việt Nam để xử lý hành vi phạm tội. Trong trường hợp quốc gia mà người Việt Nam mang quốc tịch thứ 2 có áp dụng chế độ bảo hộ công dân và đồng thời Chính phủ nước đó có ý kiến can thiệp thì lúc này sẽ áp dụng Khoản 2 Điều 5 BLHS để giải quyết. Bà Nguyễn Phương Hằng (SN 1971, Tổng Giám đốc Công ty Đại Nam) vừa bị Công an TP HCM khởi tố và bắt tạm giam do phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Điều 331 BLHS Trường hợp nếu bà Nguyễn Phương Hằng đang có hai quốc tịch và cơ quan Công an TP HCM có đủ căn cứ xác định bà Hằng có hành vi phạm tội của tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" nhưng bà Hằng không thuộc trường hợp được hưởng quyền miễn trừ theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của BLHS thì đương nhiên cơ quan tố tụng sẽ áp dụng BLHS của Việt Nam để xử lý một cách nghiêm minh, khách quan, đúng người, đúng tội. Luật sư Lưu Tấn Anh Toàn (Giám đốc Công ty Luật Lưu Vũ Theo NLĐ/lao động
Bà Phương Hằng cùng ekip sẽ phải chịu mức án nào?
Bà Nguyễn Phương Hằng (SN 1971, ngụ quận 1, TGĐ Công ty CP Đại Nam, trụ sở tại Bình Dương) vừa bị khởi tố về tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự. Tiến sĩ, luật sư Đặng Văn Cường cho rằng, hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không chỉ do bà Nguyễn Phương Hằng thực hiện, mà đằng sau còn cả một đội ngũ tư vấn, hỗ trợ, và tham gia cùng trên mạng xã hội. Bởi vậy, ngoài việc xử lý với bà Nguyễn Phương Hằng, CQĐT sẽ làm rõ hành vi của các đồng phạm khác nếu có. Trong vụ án này, CQĐT sẽ làm rõ từng buổi phát trực tiếp trên mạng xã hội, hoạt động thu thập thông tin trái phép, đưa tiền trái phép nếu có, những ngôn ngữ, hành động mà nhóm người đứng sau bà Phương Hằng đã thực hiện trên mạng xã hội suốt thời gian qua. CQĐT cũng sẽ đánh giá những hệ lụy đã gây ra đối với xã hội, với Nhà nước, với các tổ chức cá nhân để làm căn cứ giải quyết triệt để vụ án này. Theo luật sư, rất có thể CQĐT sẽ khởi tố đối với nhiều bị can và về nhiều tội danh khác nhau. Trong đó, tội Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân chỉ là khởi đầu của vụ việc. Trong quá trình thực hiện hoạt động phát trực tiếp trên mạng xã hội suốt hai năm qua, có rất nhiều thông tin về tài khoản ngân hàng, thông tin về đời tư cá nhân của nhiều cá nhân, tổ chức đã bị nhóm bà Hằng thu thập, sử dụng trái phép, đưa tin lên mạng xã hội. Sau khi làm rõ các nội dung có liên quan, CQĐT có thể sẽ khởi tố thêm các tội danh như tội Vu khống, Làm nhục người khác, Đưa thông tin trái phép trên mạng internet... Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Hành vi vi phạm đến đâu phải xử lý đến đó. Người nào vi phạm và xúi giục kích động người khác cùng thực hiện hành vi vi phạm sẽ bị xác định là người chủ mưu cầm đầu. Những người có cùng ý chí thực hiện hành vi tội phạm sẽ bị xác định là đồng phạm. Luật sư Nguyễn Thành Công (Công ty Đông Phương Luật, Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng, việc Công an TP.HCM khởi tố bà Hằng về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là có cơ sở khi căn cứ vào hành vi livestream (phát trực tuyến) trên các nền tảng mạng xã hội như youtube, Tiktok…. tuyên truyền thông tin sai sự thật, bịa đặt nhằm mục đích vu khống, xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhiều cá nhân, tổ chức và cả các cơ quan Nhà nước, chính quyền, gần nhất là người đứng đầu chính quyền TP.HCM. Hành vi này đã xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phù hợp với quy định về cấu thành tội phạm của Điều 331. Ngoài ra, theo luật sư Công, bà Hằng còn có dấu hiệu của các tội “làm nhục người khác” theo Điều 155 và tội “vu khống” theo Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. “Hiện tại Công an TP.HCM chỉ khởi tố 1 tội danh ở Điều 331 sau khi đã củng cố đầy đủ chứng cứ, cơ sở cho việc buộc tội vì sự phạm tội này của bà Hằng. Trong quá trình điều tra vụ án thì có thể sẽ khởi tố các tội khác khi có đầy đủ cơ sở, dấu hiệu. Theo tôi, đây là cách làm thận trọng của Cơ quan bảo vệ pháp luật và cũng cần thiết để tránh việc oan, sai”, luật sư Công cho hay. Cũng theo luật sư Công, với tội danh vừa bị khởi tố, bà Hằng có thể bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm theo quy định hình phạt ở khung cơ bản. Tuy nhiên, với hành vi phạm tội kéo dài, ngày càng tăng cấp, tăng số lượng cá nhân, tập thể bị tác động, tăng cả mức độ xâm hại thì được xem là phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cùng tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần thì khả năng bị áp dụng mức hình phạt ở khoản 2, Điều 331 là 7 năm tù. Đồng quan điểm, luật sư Trần Đình Dũng (Đoàn luật sư TP.HCM) cũng cho rằng, Công an TP.HCM khởi tố, bắt tạm giam bà Hằng về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là hoàn toàn phù hợp. Theo luật sư Dũng, việc bà Hằng liên tục livestream đã lôi kéo, kích động nhiều người tham gia. Hành vi này của bà Hằng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, có thể áp dụng mức hình phạt ở khoản 2, Điều 331. Tổng hợp từ Vietnamnet
Bà Phương Hằng có được trở lại điều hành Công ty Đại Nam sau khi ra tù không?
Bà Nguyễn Phương Hằng, một trong những nữ doanh nhân nổi tiếng nhất Việt Nam, đã trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời. Sau khi ra tù, liệu bà có được trở lại điều hành Công ty Đại nam không? (1) Bà Phương Hằng có được trở lại điều hành Công ty Đại Nam sau khi ra tù không? Vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng đã để lại nhiều dư luận trái chiều. Sau khi chấp hành xong bản án, nhiều người đặt câu hỏi về tương lai của bà tại Công ty Đại Nam vì bà đã là người có tiền án, tiền sự. Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020, pháp luật chỉ cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp đối với trường hợp: - Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự - Bị tạm giam - Đang chấp hành hình phạt tù - Đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc - Đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Theo đó, ngoài quy định trên, pháp luật không quy định người đại diện theo pháp luật, giám đốc hay chủ tịch của công ty không được phép điều hành, quản lý công ty sau khi chấp hành xong hình phạt tù mà chưa được xóa án tích. Vì vậy, trong trường hợp của nữ doanh nhân Nguyễn Phương Hằng, dù án tích đã được xóa hay chưa, bà Hằng vẫn có quyền tiếp tục điều hành Công ty Đại Nam mà không bị pháp luật cấm đoán. (2) Thời điểm xóa án tích của bà Nguyễn Phương Hằng là khi nào? Theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Hình sự 2015, có 03 hình thức xóa án tích bao gồm: đương nhiên được xóa án tích, xóa án tích do Tòa án quyết định và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt. Theo đó, trường hợp của bà Hằng thuộc diện đương nhiên được xóa án tích do bà Hằng bị kết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh theo quy định Bộ luật Hình sự 2015. Vì bà Phương Hằng thuộc trường hợp bị phạt tù đến 05 năm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015, nữ doanh nhân sẽ được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính, bà hằng đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 02 năm. Như vậy, nếu bà Nguyễn Phương Hằng chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án thì và không thực hiện hành vi phạm tội nào nữa thì sẽ được xóa án tích sau 02 năm. (3) Vì sao bà Nguyễn Phương Hằng bị xử phạt tù? Theo nội dung vụ án, từ tháng 3/2021 đến tháng 3/2022, bà Phương Hằng và 04 bị cáo khác đã lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích hợp pháp của 10 cá nhân. Cụ thể, bà Nguyễn Phương Hằng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đại Nam (tỉnh Bình Dương), là người nổi tiếng trên mạng xã hội được nhiều người quan tâm và biết đến trong đợt dịch Covid-19. Từ tháng 3/2021, bà đã sử dụng điện thoại di động, máy tính xách tay và máy quay phim để đăng nhập vào 12 tài khoản mạng xã hội do mình quản lý. Sau đó, bà Hằng thực hiện nhiều buổi livestream và phát ngôn trực tiếp trên Internet với nội dung bịa đặt, sai sự thật, gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín và danh dự của các cá nhân. Ngoài ra, bà Hằng còn công khai những thông tin thuộc về bí mật cá nhân, gia đình và đời sống riêng tư của nhiều người, vi phạm quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm diễn ra vào ngày 4/4, ngoài bà Hằng, các bị cáo Đặng Anh Quân (43 tuổi, cựu giảng viên Trường đại học Luật TP.HCM) nhận án 2 năm tù (giảm 6 tháng); còn Nguyễn Thị Mai Nhi, Huỳnh Công Tân, Lê Thị Thu Hà (nhân viên Công ty Cổ phần Đại Nam) đều bị xử 1 năm tù (giảm 6 tháng) với tội danh lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Bị cáo không kháng cáo thì Tòa có áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt được không?
Mới đây, TAND cấp cao TPHCM xét xử phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Phương Hằng đã tuyên bố giảm án 3 tháng phạt tù cho bị cáo dù bị cáo không kháng cáo. Việc Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm án khi bị cáo không kháng cáo có đúng với quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? (1) Khi nào thì được mở phiên tòa phúc thẩm? Theo Điều 27 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo như sau: - Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 - Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì có hiệu lực pháp luật - Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án có hiệu lực pháp luật. - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Về tính chất của phiên xét xử phúc thẩm, khoản 1 Điều 330 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: - Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Căn cứ vào 2 quy định trên, để mở phiên tòa phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng nghị từ đương sự hoặc bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị với bản án quyết định sơ thẩm trong thời hạn quy định thì bản án sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực thi hành. Trong vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng, mặc dù bà Hằng cho rằng mức án 3 năm tù đối tội của bà là quá cao, tuy nhiên bà cũng không kháng cáo. Do bà Hằng không kháng cáo trong thời hạn quy định, bản án của tòa cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực, nghĩa là bà Hằng phải thi hành án phạt tù 03 năm theo như bản án quyết định sơ thẩm. Trong khi đó, các đồng phạm của bà trong vụ việc này đã làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nên bản án, quyết định sơ thẩm đối với các bị cáo này là chưa có hiệu lực. Tòa án cấp cao sẽ mở phiên xét xử phúc thẩm để xét xử hoặc xem xét lại quyết định, bản án cấp sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 Do đó, việc tổ chức phiên tòa phúc thẩm các bị cáo trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng là hoàn toàn đúng thủ tục tố tụng. (2) Bị cáo không kháng cáo có được giảm nhẹ hình phạt? Theo Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về việc sửa bản án sơ thẩm như sau: Khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: - Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; - Áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; - Giảm hình phạt cho bị cáo; - Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; - Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể: - Tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; áp dụng hình phạt bổ sung; áp dụng biện pháp tư pháp; - Tăng mức bồi thường thiệt hại; - Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; - Không cho bị cáo hưởng án treo. - Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại. - Trường hợp có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Theo quy định trên, HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm khi xét thấy có điểm chưa đúng trong bản án, quyết định sơ thẩm hoặc khi vụ án có thêm tình tiết mới. Trong đó, HĐXX có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo hoặc tăng nặng tùy theo các tình tiết mới mà các bên cung cấp. Tại khoản 3 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015 cũng có nhắc đến trường hợp bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo nhưng HĐXX có căn cứ về tình tiết giảm nhẹ hay tăng nặng thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. Do đó, tuy bà Hằng không làm kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, nhưng HĐXX xét thấy bị cáo đã nộp đầy đủ án phí, khắc phục thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới. Có lẽ với tình tiết giảm nhẹ đó và sự thành khẩn, ăn năn của bà Hằng, HĐXX đã có đủ căn cứ để sửa lại bản án sơ thẩm của bà Nguyễn Phương Hằng theo quy định tại Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015. (3) Sau khi được giảm án, bà Phương Hằng còn phải chấp hành phạt tù đến khi nào? Bà Phương Hằng bị bắt tạm giam vào ngày 24/3/2022. Tính từ ngày bị bắt tạm giam đến nay (5/4), bà Hằng đã chấp hành án được 2 năm 11 ngày. Như vậy, bà Hằng còn phải chấp hành bản án trên đến ngày 24/12/2024, tức còn 8 tháng 19 ngày là hết thời gian phạt tù.
Xét xử bà Phương Hằng xác định tư cách người tham gia tố tụng ra sao?
Vừa mới đây TAND TP.HCM vừa ra quyết định triệu tập một số người bị cáo buộc đã xâm phạm bí mật đời tư, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của họ trong vụ xét xử của bà Nguyễn Phương Hằng sắp tới đây. Tuy nhiên, quan điểm của VKSND TP.HCM lại có quan điểm khác so với TAND TP.HCM về việc xác định tư cách tham gia của những người được triệu tập là “bị hại” còn Tòa án thì cho rằng đây là “người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”. Việc xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Vậy từ vụ xét xử bà Nguyễn Phương Hằng thì việc xác định tư cách người tham gia tố tụng ra sao? (1) Căn cứ xác định người bị hại trong vụ án hình sự Căn cứ Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. * Bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền: - Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; - Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; - Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; - Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường; - Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; - Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; - Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; - Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. * Bị hại có nghĩa vụ: - Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải; - Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Thiệt hại của người này là cơ sở để xác định hành vi có phạm tội hay không, tội gì và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào mức thiệt hại đó để khởi tố, truy tố và xét xử; thiệt hại của bị hại phải được giải quyết luôn trong vụ án hình sự; họ buộc phải tham gia tố tụng, nếu từ chối hoặc trốn tránh thì có thể bị dẫn giải. (2) Căn cứ xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự Căn cứ Điều 65 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện của họ có quyền: - Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; - Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; - Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; - Tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; - Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; - Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; - Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có nghĩa vụ: - Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; - Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình; - Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. VKSND có thể xác định người này là bị hại nhưng tòa án lại cho rằng đây là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, tuy nhiên quyết định cuối cùng thuộc về tòa án. Nếu xác định sai tư cách tố tụng dẫn đến việc giải quyết không đúng đắn vụ án thì bản án có thể bị hủy, sửa và người ra phán quyết sai phải chịu trách nhiệm. Như vậy, từ những phân tích nêu trên, trong vụ án bà Nguyễn Phương Hằng, cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ để khi tiến hành xét xử vụ án sẽ xác định đúng tư cách tố tụng của từng người. Từ đó, áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đúng đắn.
Bà Phương Hằng có được ở Buồng riêng khi bị tạm giam?
Vừa qua bà Phương Hằng đã chính thức bị tạm giam để điều tra xử lý vi phạm về hành vi “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” quy định tại Điều 331 Bộ Luật hình sự. Vì vậy rất nhiều người tò mò rằng, khi bà Phương Hằng bị tạm giam tại các cơ sở giam giữ như vậy có được những đãi ngộ riêng không, có được phân bố khu buồng riêng hay không? Là những câu hỏi được mọi người bàn luận rất sôi nổi. Cơ sở giam giữ là nơi tổ chức giam giữ, quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bao gồm trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bố trí theo khu và phân loại khác nhau. Trong một số trường hợp nhất định người bị tạm giam, tạm giữ có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Theo quy định, có một số nhóm đố tượng có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Căn cứ Khoản 4 Điều 18 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 có quy định, người bị tạm giữ, người bị tạm giam sau đây có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng, cụ thể: - Người đồng tính, người chuyển giới; - Người quy định tại các điểm e, i và m khoản 1 Điều này, bao gồm: + Người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A; + Người bị kết án tử hình; + Người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh. - Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng. Trên đây là những trường hợp người bị tạm giam, tạm giữ có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng. Cũnng có thể giải đáp những thắc mắc của mọi người về câu hỏi liên quan đến bà Phương Hằng có được ở buồng riêng khi bị tạm giam hay không.
Từ vụ bà Phương Hằng: Khi nào tách, nhập vụ án hình sự?
Ngày 22/4/2022, Công an tỉnh Bình Dương đã khởi tố vụ án liên quan đến bà Nguyễn Phương Hằng để điều tra về cùng hành vi “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” mà Công an TP.HCM đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can trước đó. Vì sao công an tiếp tục khởi tố vụ án liên quan bà Hằng? Quy định nhập/tách vụ án hiện nay ra sao? Về vấn đề này, Luật sư Hồ Quang Khánh (Công ty Luật TNHH HK & Gia Luật) có ý kiến như sau: Khoản 4 điều 163 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được hiểu là tội phạm xảy ra ở địa phương nào thì cơ quan CSĐT địa phương đấy tiếp nhận xử lý, không phải theo nơi cư trú. Trong trường hợp này, theo thông tin truyền thông, bà Hằng bị nhiều cá nhân tố giác tội phạm tại Công an TP.HCM và Công an Tỉnh Bình Dương. Vụ án tại Công an Tp HCM, thông tin ban đầu cho biết, bà Hằng bị khởi tố theo đơn tố giác của ca sỹ Vy Oanh, như vậy việc bà Hằng thực hiện tội phạm với ca sỹ Vy Oanh tại các buổi livestream là tại TP.HCM, nên Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM thụ lý, khởi tố và điều tra vụ án là đúng thẩm quyền. Riêng vụ án tại Bình Dương, chắc chắn không liên quan đến đơn tố giác của ca sỹ Vy Oanh, vì Cơ quan CSĐT Tp HCM đã khởi tố rồi, mà có thể liên quan đến các cá nhân khác tố cáo bà Hằng, nhiều khả năng nhắm đến hành vi livestream của bà Hằng và một số cá nhân liên quan tại công ty Đại Nam ở Bình Dương. Hiện Cơ quan CSĐT Công an Tỉnh Bình Dương chưa khởi tố bị can vì có thể trong vụ này không chỉ khởi tố riêng bà Hằng, mà có thể còn có đồng phạm, nên việc thu thập đầy đủ chứng cứ là yếu tố cẩn trọng, để tránh làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Lưu ý: Công an tỉnh Bình Dương cho biết hiện vụ việc của bà Hằng chỉ mới khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về thời điểm khởi tố vụ án, khởi tố bị can như sau: * Thời điểm khởi tố vụ án là khi xác định có dấu hiệu tội phạm do cá nhân, pháp nhân thực hiện thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định (Khoản 1 Điều 432; Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015). * Thời điểm khởi tố bị can là sau khi thực hiện khởi tố vụ án và có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự 2015 quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can (Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015). Lưu ý, có một số cơ quan điều tra khác của bộ quốc phòng, biên phòng, hải quan, kiểm lâm… có thể thực hiện toàn bộ khâu điều tra vụ án hoặc thực hiện các công đoạn ban đầu, không chỉ duy nhất cơ quan điều tra của bên công an. Căn cứ các quy định nêu trên, dù công an TP.HCM đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì công an tỉnh Bình Dương vẫn có thể khởi tố vụ án liên quan đến bà Hằng. Tuy nhiên, khả năng Công an tỉnh Bình Dương có phối hợp với Công an TP.HCM nhập vụ án để để một nơi xử lý hay không thì còn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan này dựa trên quy định pháp luật. Vậy việc nhập/tách vụ án hình sự được quy định thế nào? Các trường hợp nhập vụ án hình sự Theo khoản 1, Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, khi có một trong những căn cứ sau, Cơ quan CSĐT có thể nhập vụ án để giải quyết: - Bị can phạm nhiều tội; - Bị can phạm tội nhiều lần; - Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có. Trong vụ án này, về pháp lý cơ quan tiến hành tố tụng có thể nhập vụ án để điều tra. Nếu nhập vụ án thì Cơ quan CSĐT Công an Tp Hồ Chí Minh nhiều khả năng sẽ là cơ quan điều tra cuối cùng. Việc nhập vụ án được thực hiện nếu trong quá trình điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng nhận thấy có đủ căn cứ pháp lý như nêu bên trên và xét thấy cần thiết phải nhập để xử lý vụ án một cách toàn diện, chính xác và kịp thời nhất. Tuy nhiên, nếu đặt tính khách quan lên hàng đầu, cơ quan tiến hành tố tụng có thể không nhập vụ án trong giai đoạn điều tra mà vẫn điều tra độc lập, trên cơ sở trao đổi, thông tin chặt chẽ với nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc nhập vụ án có thể được xem xét thực hiện trong giai đoạn xét xử tại TAND có thẩm quyền. Các trường hợp tách vụ án hình sự Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong trường hợp cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Như vậy, hiện tại không có quy định bắt buộc phải nhập hoặc tách vụ án hình sự mà đây là quy định tùy nghi, phụ thuộc quyết định của cơ quan điều tra. Việc nhập, tách vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra phải thỏa mãn 02 điều kiện: - Thứ nhất, có căn cứ pháp lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; - Thứ 2, phải có tính cần thiết, mà tính cần thiết này do cơ quan CSĐT và VKSND đánh giá trong thực tiễn điều tra vụ án, rồi mới quyết định. Luật không bắt buộc nhưng có hướng dẫn rõ. Mức án khi tách hoặc nhập vụ án hình sự Nếu không nhập vụ án để điều tra thì mức án sẽ là tổng hợp hình phạt của từng bản án. Còn nếu nhập vụ án để điều tra thì có thể bị truy cứu TNHS với với tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên.
Từ vụ bà Phương Hằng, nếu một người mang 2 quốc tịch phạm tội, Pháp luật VN xử lý ra sao?
Trước đây từng có thông tin bà Phương Hằng có thêm một quốc tịch khác do bị rò rỉ hộ chiếu trên mạng, cụ thể theo báo Lao động đưa tin như sau: Vừa qua, bà Nguyễn Phương Hằng livestream phản ánh về việc cuốn hộ chiếu mang quốc tịch nước ngoài của mình bị đưa lên mạng. Bà Phương Hằng cho rằng, sở dĩ cuốn hộ chiếu này được đưa lên mạng là do một vị sư trụ trì một ngôi chùa đã chuyển thông tin cuốn hộ chiếu này cho bà Lê Thị Giàu - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần thực phẩm Bình Tây và bà Giàu đã đưa lên mạng. Tuy nhiên, về vấn đề này bà Lê Thị Giàu cho rằng, cuốn hộ chiều mang quốc tịch nước ngoài của bà Phương Hằng do chính bà Hằng gửi cho bà Giàu, chứ không phải do vị sư trụ trì chuyển sang. Toàn bộ vụ việc này, đã được bà Giàu lập vi bằng và gửi cho tòa án. "Trong lúc chát trên mạng qua lại và nói chuyện với nhau, bà Hằng khoe là có quốc tịch Canada nhưng tôi không tin. Do vậy, bà Hằng đã chụp hình cuốn hộ chiếu mang quốc tịch nước ngoài cho tôi xem. Tuy nhiên, khi tôi xem thì cuốn hộ chiếu này không phải của Canada mà là của Cộng hoà Cyprus (Đảo Síp). Khi gửi khoe cho tôi xem, bà Hằng không có yêu cầu là giữ kín thông tin này, nên tôi đã chia sẻ lại cho bạn bè cùng xem" - bà Giàu nói. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam sẽ áp dụng Bộ luật hình sự (BLHS) của Việt Nam để giải quyết. Trường hợp người phạm tội là người nước ngoài, Khoản 2 Điều 5 Bộ luật quy định: "Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó. Trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao". Như vậy, người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam chỉ được áp dụng điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế khi họ thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế. Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch, người có 2 quốc tịch sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người có một quốc tịch. Do vậy, với trường hợp người Việt Nam có 2 quốc tịch mà phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì nguyên tắc xử lý sẽ được các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam thực hiện như sau: Người phạm tội trước hết vẫn được xác định là công dân Việt Nam nên sẽ áp dụng BLHS Việt Nam để xử lý hành vi phạm tội. Trong trường hợp quốc gia mà người Việt Nam mang quốc tịch thứ 2 có áp dụng chế độ bảo hộ công dân và đồng thời Chính phủ nước đó có ý kiến can thiệp thì lúc này sẽ áp dụng Khoản 2 Điều 5 BLHS để giải quyết. Bà Nguyễn Phương Hằng (SN 1971, Tổng Giám đốc Công ty Đại Nam) vừa bị Công an TP HCM khởi tố và bắt tạm giam do phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Điều 331 BLHS Trường hợp nếu bà Nguyễn Phương Hằng đang có hai quốc tịch và cơ quan Công an TP HCM có đủ căn cứ xác định bà Hằng có hành vi phạm tội của tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" nhưng bà Hằng không thuộc trường hợp được hưởng quyền miễn trừ theo quy định tại khoản 2 Điều 5 của BLHS thì đương nhiên cơ quan tố tụng sẽ áp dụng BLHS của Việt Nam để xử lý một cách nghiêm minh, khách quan, đúng người, đúng tội. Luật sư Lưu Tấn Anh Toàn (Giám đốc Công ty Luật Lưu Vũ Theo NLĐ/lao động
Bà Phương Hằng cùng ekip sẽ phải chịu mức án nào?
Bà Nguyễn Phương Hằng (SN 1971, ngụ quận 1, TGĐ Công ty CP Đại Nam, trụ sở tại Bình Dương) vừa bị khởi tố về tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự. Tiến sĩ, luật sư Đặng Văn Cường cho rằng, hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không chỉ do bà Nguyễn Phương Hằng thực hiện, mà đằng sau còn cả một đội ngũ tư vấn, hỗ trợ, và tham gia cùng trên mạng xã hội. Bởi vậy, ngoài việc xử lý với bà Nguyễn Phương Hằng, CQĐT sẽ làm rõ hành vi của các đồng phạm khác nếu có. Trong vụ án này, CQĐT sẽ làm rõ từng buổi phát trực tiếp trên mạng xã hội, hoạt động thu thập thông tin trái phép, đưa tiền trái phép nếu có, những ngôn ngữ, hành động mà nhóm người đứng sau bà Phương Hằng đã thực hiện trên mạng xã hội suốt thời gian qua. CQĐT cũng sẽ đánh giá những hệ lụy đã gây ra đối với xã hội, với Nhà nước, với các tổ chức cá nhân để làm căn cứ giải quyết triệt để vụ án này. Theo luật sư, rất có thể CQĐT sẽ khởi tố đối với nhiều bị can và về nhiều tội danh khác nhau. Trong đó, tội Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân chỉ là khởi đầu của vụ việc. Trong quá trình thực hiện hoạt động phát trực tiếp trên mạng xã hội suốt hai năm qua, có rất nhiều thông tin về tài khoản ngân hàng, thông tin về đời tư cá nhân của nhiều cá nhân, tổ chức đã bị nhóm bà Hằng thu thập, sử dụng trái phép, đưa tin lên mạng xã hội. Sau khi làm rõ các nội dung có liên quan, CQĐT có thể sẽ khởi tố thêm các tội danh như tội Vu khống, Làm nhục người khác, Đưa thông tin trái phép trên mạng internet... Về nguyên tắc, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Hành vi vi phạm đến đâu phải xử lý đến đó. Người nào vi phạm và xúi giục kích động người khác cùng thực hiện hành vi vi phạm sẽ bị xác định là người chủ mưu cầm đầu. Những người có cùng ý chí thực hiện hành vi tội phạm sẽ bị xác định là đồng phạm. Luật sư Nguyễn Thành Công (Công ty Đông Phương Luật, Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng, việc Công an TP.HCM khởi tố bà Hằng về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là có cơ sở khi căn cứ vào hành vi livestream (phát trực tuyến) trên các nền tảng mạng xã hội như youtube, Tiktok…. tuyên truyền thông tin sai sự thật, bịa đặt nhằm mục đích vu khống, xúc phạm danh dự nhân phẩm của nhiều cá nhân, tổ chức và cả các cơ quan Nhà nước, chính quyền, gần nhất là người đứng đầu chính quyền TP.HCM. Hành vi này đã xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phù hợp với quy định về cấu thành tội phạm của Điều 331. Ngoài ra, theo luật sư Công, bà Hằng còn có dấu hiệu của các tội “làm nhục người khác” theo Điều 155 và tội “vu khống” theo Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. “Hiện tại Công an TP.HCM chỉ khởi tố 1 tội danh ở Điều 331 sau khi đã củng cố đầy đủ chứng cứ, cơ sở cho việc buộc tội vì sự phạm tội này của bà Hằng. Trong quá trình điều tra vụ án thì có thể sẽ khởi tố các tội khác khi có đầy đủ cơ sở, dấu hiệu. Theo tôi, đây là cách làm thận trọng của Cơ quan bảo vệ pháp luật và cũng cần thiết để tránh việc oan, sai”, luật sư Công cho hay. Cũng theo luật sư Công, với tội danh vừa bị khởi tố, bà Hằng có thể bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm theo quy định hình phạt ở khung cơ bản. Tuy nhiên, với hành vi phạm tội kéo dài, ngày càng tăng cấp, tăng số lượng cá nhân, tập thể bị tác động, tăng cả mức độ xâm hại thì được xem là phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cùng tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần thì khả năng bị áp dụng mức hình phạt ở khoản 2, Điều 331 là 7 năm tù. Đồng quan điểm, luật sư Trần Đình Dũng (Đoàn luật sư TP.HCM) cũng cho rằng, Công an TP.HCM khởi tố, bắt tạm giam bà Hằng về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là hoàn toàn phù hợp. Theo luật sư Dũng, việc bà Hằng liên tục livestream đã lôi kéo, kích động nhiều người tham gia. Hành vi này của bà Hằng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, có thể áp dụng mức hình phạt ở khoản 2, Điều 331. Tổng hợp từ Vietnamnet