Nghị định 171/2013 Quy định xử phạt hành chính giao thông đường bộ đường sắt
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, đáng chú ý khoản 4 điều 30 về xử phạt từ 1.000.000 đồng - 4.000.000 đồng không sang tên xe đổi chủ đối với: - Xe ôtô: xử phạt không sang tên xe chính chủ với ôtô từ ngày 1/1/2015 ; - Xe gắn máy: xử phạt không sang tên xe chính chủ với ôtô từ ngày 1/1/2017; Khoản 4, điều 30: 4. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô, từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ôt tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện hành vi không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kêé tài sản là xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô. Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Download hoặc tải toàn bộ nội dung văn bản của Nghị định 171/2013 của Chính phủ trực tiếp tại đây:
Một số mức xử phạt khi vi phạm giao thông đường bộ thường gặp
Theo Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 và Nghị định 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ thì: >> Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô Không bật đèn chiếu sáng vào ban đêm Đối với trường hợp điều khiển xe mô tô, xe gắn máy: Theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 9 Nghị định 71 nêu trên thì khi tham gia giao thông vào ban đêm mà không bật đèn chiếu sáng bị phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng Chuyển không đúng làn đường Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người điều khiển xe mô-tô, gắn máy, kể cả xe máy điện chuyển làn đường không đúng nơi được phép hoặc không có tín hiệu báo trước Sử dụng điện thoại Người đang điều khiển xe sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh, trừ thiết bị trợ thính; người ngồi trên xe sử dụng ô thì bị phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng Không đội mũ bảo hiểm Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe môtô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ Không mang giấy tờ theo quy định Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực, không mang theo Giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe. Không có giấy phép lái xe Đối với xe mô tô, xe máy: Người điều khiển xe mô tô không có Giấy phép lái xe bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000; không có Giấy phép lái xe đối với xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên bị phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng. Ngoài ra, đối với trường hợp người điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe sẽ bị tạm giữ phương tiện đến 10 ngày (Điểm h Khoản 1 Điều 54 Nghị định 71)
Những sai lầm khi bỏ xử phạt xe “không chính chủ”
Theo Nghị định 71 xe “không chính chủ” sẽ bị phạt từ 0.8 – 1.2 triệu đồng đối với chủ xe mô tô, 6 – 10 triệu đồng đối với ô tô. Đồng thời tại Thông tư 11 của Bộ Công an có hướng dẫn cụ thể: Xe đang lưu thông trên đường, không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi “không chính chủ”. Chỉ xử phạt khi thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự nếu phát hiện phương tiện là “không chính chủ”. Quy định trên là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, vừa qua tại Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt nhiều ý kiến đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”. Thật khó lý giải tại sao có đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”, nhưng nếu đề xuất này được chấp nhận sẽ gây ra nhiều hậu quả khó lường. Một là, Ngân sách thất thu: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì các giao dịch mua bán, tặng cho… không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định nhằm né tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ tăng cao. Hai là, Phát sinh nhiều tranh chấp dân sự: khi giao dịch thực tế được thực hiện (trao xe – nhận tiền đã hoàn tất) nhưng các bên không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định pháp luật sẽ rất dễ dẫn đến các tranh chấp dân sự nếu một bên có các hành vi “lật lọng”, không thiện chí trong giao dịch. Ba là, Khó khăn trong việc xác định thủ phạm gây tai nạn: cơ quan công an rất khó khăn trong việc tìm ra người gây tai nạn giao thông rồi bỏ trốn vì phương tiện đã qua rất nhiều đời chủ. Bốn là, Tội phạm gia tăng: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì tội phạm sẽ dùng những phương tiện đã qua nhiều đời chủ để thực hiện hành vi phạm tội, trong trường hợp cần thiết chúng sẵn sàng bỏ lại phương tiện để chạy trốn mà không lo lắng sẽ bị truy ra thông tin.
Dự thảo lần 6 Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt
Tại dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt (dự thảo lần 6), Bộ GTVT đã đề nghị bỏ chế tài phạt xe không chính chủ, mũ bảo hiểm dỏm với lý do “không phù hợp”.
Nghị định 71S: Không xử phạt xe không chính chủ
Hiện tại Nghị định 71/2012/NĐ-CP xử phạt từ 6 – 10 triệu đồng đối với ô tô, 0.8 – 1.2 triệu đồng đối với xe máy nếu không chuyển quyền sở hữu theo quy định. Sắp tới Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt sẽ được ban hành. Theo đó, sẽ không xử phạt xe không chính chủ – Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường cho biết.
Từ 15/5 tới, Đội mũ bảo hiểm giả sẽ bị xử phạt
Kể từ ngày 15/05 thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BKHCN-BCT-BCA-BGTVT chính thức có hiệu lực. > Cài quai MBH không sát cằm sẽ bị xử phạt tới 200 ngàn??? > Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô > Thông tư 11/2013/TT -BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ Thông tư liên tịch quy định trách nhiệm của người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy là Đội mũ bảo hiểm theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời tại khoản 2 điều 10 có quy định “Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy khi tham gia giao thông vi phạm quy định về đội mũ bảo hiểm thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ”. Vậy như thế nào là vi phạm quy định về đội mũ bảo hiểm? Theo khoản 1 điều 3 thì Mũ bảo hiểm cho người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy đội khi tham gia giao thông (sau đây viết tắt là mũ bảo hiểm) là mũ có đủ các tính năng sau: Thứ nhất, có cấu tạo đủ 3 bộ phận: vỏ mũ, đệm hấp thụ xung động bên trong vỏ mũ (đệm bảo vệ) và quai đeo; Thứ hai, Đã được chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 2:2008/BKHCN ban hành kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; được gắn dấu hợp quy CR, ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật. Như vậy, người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy phải đáp ứng hai tiêu chí trên khi đội mũ bảo hiểm. Điều này đồng nghĩa với việc đội mũ bảo hiểm không đạt theo quy chuẩn kỹ thuật QCVN 2:2008/BKHCN (mũ giả) thì sẽ coi là vi phạm. Xét về mặt câu chữ thì kể từ ngày 15/5 tới hành vi đội mũ bảo hiểm giả sẽ bị xử phạt. Tuy nhiên, trên bình diện thực tiễn điều này không mang tính khả thi.
Đúng hay sai chuyện “Phạt xe không chính chủ” ?
Vừa qua có luồng ý kiến cho rằng, việc quy định phạt xe không chính chủ là trái với quy định của Luật , bởi Luật không hề có quy định về việc bắt buộc phải đăng ký sở hữu cho xe máy. Tuy nhiên, nếu theo tư duy logic này thì có thể nói nhiều Luật của Việt Nam cũng vi hiến vì quy định những vấn đề mà Hiến pháp không đề cập. Về lý luận, khái niệm “trái” và “khác” hoàn toàn khác nhau và hệ quả pháp lý của nó không hề giống nhau. “Trái” là việc ban hành văn bản quy định những vấn đề ngược với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Hệ quả pháp lý của văn bản trái này là bị hủy bỏ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. “Khác” là việc ban hành văn bản quy định những vấn đề chưa có, hoặc làm rõ hơn, hoặc không giống nhưng không ngược với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Trên thực tế loại văn bản này rất nhiều; nên mới xuất hiện khái niệm nếu một sự việc phát sinh mà có hai văn bản điều chỉnh khác nhau thì áp dụng văn bản chuyên ngành cho sự việc đó. Quay lại vấn đề về việc “xử phạt xe không chính chủ”, xin khoan đề cập đến chuyện Nghị định34/2010/NĐ-CP , 71/2012/NĐ-CP; thông tư36/2010/TT-BCA , 11/2013/TT-BCA là “trái” hay “khác” với Luật mà hãy xem nó có phù hợp với thực tiễn hay không? Một chân lý không thể phủ nhận “Xã hội là dòng sông luôn vận động, phát triển không ngừng; còn Pháp luật là bờ đê để định hướng và xuôi dòng nước chảy”. Bởi vậy, quy định của pháp luật cần phải phù hợp với thực tiễn. Theo điều 623 Bộ Luật Dân sự 2005 thì xe máy, ô tô được xem là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo đó, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nếu không quy định chuyển quyền sở hữu xe máy, ô tô khi mua, bán, tặng, cho … liệu rằng có hợp lý hay không? Như vậy, sẽ rất khó khăn trong việc điều tra tìm ra người gây tai nạn giao thông trong trường hợp họ mua xe mà không chuyển quyền sở hữu. Ví dụ: Ông A mua xe máy của bà B rồi sau đó bán cho anh C (quá trình mua bán diễn ra theo kiểu “tiền trao cháo múc”, không có đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu). Rồi một khi anh C gây ra tai nạn chết người (anh C bỏ trốn). Vậy ai sẽ là người bồi thường thiệt hại cho nạn nhân? Tất nhiên C gây ra tai nạn thì phải là người bồi thường, nhưng làm sao xác định được C là người gây ra tai nạn. Khi đấy cơ quan công an điều tra bằng cách xem ai đang đứng tên xe này, đó là bà B; trên giấy tờ bà B vẫn là chủ sở hữu của xe máy này. Vậy bà B sẽ bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm hình sự (nếu có) do vụ tai nạn giao thông nói trên chăng? Sẽ không, vì B phải khai ra mình đã bán xe cho ai để chứng minh mình vô can, và từ đó công an tìm ra đường đi cho việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong thực tế thì rất nhiều trường hợp bán xe qua rất nhiều đời chủ thì rõ thật khó khăn cho công tác điều tra. Ngoài ra, việc mua bán theo hình thức trao tay nên dễ xảy ra tranh chấp tài sản và người ngay sẽ không được pháp luật bảo vệ vì không có chứng cứ. Bởi lẽ, chẳng có giấy tờ nào chứng minh xe đó là của họ, dẫu rằng họ đã bỏ tiền mua xe. Và tình hình trộm, cướp xe máy, ô tô sẽ xảy ra nhiều hơn; vì câu chuyện bán xe máy, ô tô trở nên dễ dàng như chuyện bán con gà, con vịt. Từ phân tích nêu trên, xin không kết luận ai đúng ai sai, nhưng chắc mỗi người đã có được đáp án cho mình. Nguồn: http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat-gop-y-thao-luan/4401/dung-hay-sai-chuyen-%E2%80%9Cphat-xe-khong-chinh-chu%E2%80%9D
Thông tư 11/2013/TT-BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ
Bộ Công an ban hành Thông tư 11/2013/TT-BCA ngày 01 tháng 03 năm 2013 hướng dẫn Nghị định 34/2010/NĐ-CP và Nghị định 71/2012/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Xem thêm: - Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô - Các mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012 - Làm gì để xe không chính chủ thành chính chủ? Theo đó: - Không xử phạt "xe không chính chủ" khi xe đang lưu thông. - Việc xử phạt phương tiện không sang tên đổi chủ khi lực lương chức năng trong quá trình: + đăng ký cấp biển số; + điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; + qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; + tạm giữ phương tiện vi phạm hoặc qua điều tra các vụ án hình sự mà phát hiện người mua hoặc người bán không làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe. + quá thời gian 30 ngày kể từ ngày làm giấy tờ mua, bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên, di chuyển thay đổi đăng ký xe theo quy định. - Xử phạt hành vi người điều khiển xe không mang theo các giấy tờ sau: + giấy đăng ký xe; + giấy phép lái xe; bằng ( hoặc chứng chỉ) điều khiển; + giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; + giấy bảo hiểm xe còn hiệu lực. - Quy định cụ thể về việc tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe: + người điều khiển phương tiện vi phạm mà Nghị định số 34 quy định hành vi đó bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe để bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính. + Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định xử phạt, người đã ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan cấp Giấy phép lái xe đó. + Trường hợp người bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, mà người đó có Giấy phép lái xe hạng thấp hơn so với loại xe đang điều khiển, thì vẫn ra quyết định tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe đó; đồng thời, bổ sung xử phạt về hành vi có Giấy phép lái xe nhưng không phù hợp với loại xe đang điều khiển. + ... - Việc tạm giữ giấy tờ áp dụng cho các trường hợp vi phạm cụ thể thực hiện như sau: + áp dụng hình thức phạt tiền có thể tạm giữ một trong các loại giấy tờ theo thứ tự: Giấy phép lái xe; Giấy đăng ký xe; Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; Giấy bảo hiểm xe còn hiệu lực. + Xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép lái xe. Nếu không có Giấy phép lái xe thì phải tạm giữ phương tiện vi phạm. - Khi kiểm soát người lái xe vi phạm xuất trình biên bản vi phạm hành chính do các đơn vị, địa phương đã lập và tạm giữ giấy tờ: + Trường hợp quá thời hạn hẹn đến giải quyết ghi trong biên bản vi phạm hành chính và đã bị tạm giữ các giấy tờ thì sẽ bị xử phạt như hành vi không có giấy tờ. Nếu tiếp tục vi phạm hành vi mới thì phải lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi không có giấy tờ và hành vi vi phạm mới. Tiến hành tạm giữ một trong các loại giấy tờ còn lại hoặc tạm giữ phương tiện và xử lý vi phạm theo quy định. + Trường hợp đang trong thời gian hẹn giải quyết ghi trong biên bản vi phạm hành chính và đã bị tạm giữ hết các giấy tờ, mà người điều khiển phương tiện lại tiếp tục vi phạm hành vi mới thì phải lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi vi phạm mới, tạm giữ phương tiện vi phạm và xử lý vi phạm theo quy định. Thông t�� 11 của BCA này có có hi��u lực kể từ ngày 15/4/2013. Xem toàn văn thông tư 11 năm 2013 của BCA tại TVPL
Xe không chính chủ: Xử phạt là... phạm luật ?
Xe không chính chủ: Xử phạt là... phạm luật Không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành qui định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng. >> Vẽ chính sách kiểu 'trên mây', do đâu? >> Những chính sách trong phòng máy lạnh >> Phạt mũ rởm, nhưng tư duy quản lý có…'xịn'? Hiến pháp và pháp luật nước ta thừa nhận quyền sở hữu của nhân nhân đối với tài sản của mình, nhưng không có bất cứ một luật nào do Quốc hội ban hành (như Bộ Luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao thông đường bộ, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ... ) bắt buộc người dân phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với một loại tài sản nào đó của mình. Không tìm thấy ở đâu Đó là chưa kể, có loại tài sản, luật còn qui định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu khi dân có yêu cầu. Chẳng hạn, Luật Nhà ở (khoản 1 Điều 9) qui định "trường hợp chủ sở hữu nhà ở có yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở cho họ". Tuy nhiên, có một số loại tài sản tuy luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn thực hiện một số hành vi nhất định, hay thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định liên quan đến tài sản, luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu trước khi thực hiện hành vi đó hay thực hiện giao dịch đó. Chẳng hạn: Dân xây nhà hay mua một ngôi nhà không bị luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn đem bán ngôi nhà đã xây, đã mua đó thì phải đăng ký quyền sở hữu trước khi bán. Tàu biển không bị luật buộc phải đang ký quyền sở hữu, nhưng muốn neo đậu, đi lại trên biển, phải đăng ký quyền sở hữu. Phương tiện giao thông thủy nội địa không bị luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn hoạt động, Luật Giao thông đường thủy nội địa qui định phải đăng ký quyền sở hữu. Và nếu đã sang tên đổi chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Máy bay, cảng hàng không không buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn đưa vào khai thác thì Luật Hàng không dân dụng Việt Nam qui định phải đăng ký quyền sở hữu..., Cũng vậy, không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành qui định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng. Luật Giao thông đường bộ, tại điểm a khoản 2 Điều 58, qui định người lái xe khi điều khiển phương tiện "phải mang theo đăng ký xe", không đồng nghĩa là qui định bắt buộc người dân phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu khi xe được mua bán, cho, tặng. Đành rằng, để có được bản "đăng ký xe", người dân phải mang xe đi đăng ký. Bản "đăng ký xe" chỉ là điều kiện cho xe được tham gia giao thông. Muốn thỏa mãn điều kiện này, dân phải đăng ký quyền sở hữu cho xe. Nhưng việc dân có làm việc này hay không là do dân tự quyết định chứ Luật Giao thông đường bộ nói riêng, luật do Quốc hội ban hành nói chung không bắt buộc. Tiện đây xin lưu ý thêm, khoản 2 Điều 58 nêu trên không bắt buộc người lái xe phải là người có tên trong "đăng ký xe". Điều này có nghĩa là Luật Giao thông đường bộ chỉ bắt buộc xe cơ giới muốn tham gia giao thông chỉ cần có bản "đăng ký xe" đi kèm mà không lệ thuộc vào người đứng tên trong "đăng ký xe". Và do đó, muốn tham gia giao thông, xe chỉ cần một lần đăng ký, hay nói cách khác là chỉ cần đăng ký lần đầu, để xe có được bản "đăng ký xe" đi kèm. Đã sang tên đổi chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Ảnh minh họa Và không đúng thẩm quyền Và, cũng không tìm thấy bất cứ một qui định nào trong những luật do Quốc hội ban hành (như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Công an nhân dân, Luật Giao thông đường bộ,...) có trao quyền cho Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ được đặt ra qui định này. Đó là bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản này hay kia của mình nói chung, đối với tài sản là xe cơ giới nói riêng. a) Bởi vậy, việc đặt ra qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới như tại Điều 6 Thông tư số36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an qui định về đăng ký xe là không đúng thẩm quyền. Bộ Công an chỉ có quyền, có trách nhiệm qui định về thủ tục đăng ký xe cơ giới. Còn dân có đi đăng ký xe hay không là thuộc quyền lựa chọn của dân. Dân muốn có bản "đăng ký xe" thì dân phải đi đăng ký xe. b) Chiểu theo qui định tại khoản 2 Điều 1 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật rằng, văn bản do cơ quan Nhà nước ban hành không đúng thẩm quyền, không phải là văn bản qui phạm pháp luật thì qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới tại Thông tư36/2010/TT-BCA nêu trên không được coi là một qui định của pháp luật. Vì nó không đúng thẩm quyền như đã nêu ở điểm (a) trên đây. c) Theo qui định tại Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành, rằng hành vi vi phạm hành chính trước hết phải là hành vi vi phạm qui định của pháp luật, thì việc người dân không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là hành vi vi phạm hành chính. Vì nó không phải là hành vi vi phạm qui định của pháp luật do qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu xe cơ giới của Bộ Công an, không phải là một qui định của pháp luật như đã nêu ở Điểm (b) trên đây. Theo khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như theo điểm d khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính rằng người dân chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có vi phạm hành chính, thì việc cơ quan chức năng xử phạt người dân do họ không thực hiện đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới là sự vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành. Vì việc không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là một hành vi vi phạm hành chính như đã nêu ở điểm (c) trên đây. Nói một cách khác, việc Điều 33 Nghị định34/2010/NDD-CP (được sửa đổi bởi Nghị định71/2012/NĐ-CP) của Chính phủ đặt ra qui định xử phạt người dân về việc người dân không chuyển quyền sở hữu ô tô, xe máy theo qui định; hay nói nôm na là không thực hiện sang tên, đổi chủ khi mua bán, cho, tặng ô tô, xe máy là vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành. Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản. Nên qui định này cần phải được đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ hay bãi bỏ theo qui định tại những điều khoản có liên quan của Chương XI Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Chiểu theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như Luật Xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực, Chính phủ chỉ có quyền qui định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không mang theo "đăng ký xe" khi xe tham gia giao thông mà không có quyền qui định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không đăng ký quyền sở hữu xe. Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản. Chẳng hạn như, nếu xe không chính chủ thì không thể đem xe làm đảm bảo cho các giao dịch dân sự; không thể đem cầm cố, thế chấp để vay tiền ngân hàng. Đặc biệt, để pháp luật bảo hộ quyền sở hữu, nhất là đối với những xe có giá trị lớn. Đối với người bán, cho, tặng xe đã đăng ký quyền sở hữu theo tên mình, vì Luật Giao thông đường bộ có những qui định, như khoản 5 Điều 4, khoản 4, 5, 10, 13, 14, 16, 22, 23 Điều 8, khiến người có tên trong "đăng ký xe" có thể rơi vào phiền toái, rơi vào trách nhiệm pháp lý, thậm trí là trách nhiệm hình sự khi có vi phạm qui định của pháp luật về xe, về người lái xe. Thì để tránh điều này, người bán, cho, tặng xe hãy buộc người mua xe, người được cho, được tặng xe thực hiện ngay việc đăng ký quyền sở hữu để mình hết trách nhiệm. Vì, khi không chứng minh được việc xe đã được bán, cho, tặng thì người có tên trong "đăng ký xe" vẫn là chủ sở hữu của chiếc xe. Hồ Sỹ Thụy Nguồn : VietNamNet
Xử phạt xe không chính chủ: Báo chí đã hiểu sai về thông tư 11
(TVPL) – Gần đây có một số nguồn tin cho rằng Thông tư 11/2013/TT-BCA mới ban hành sẽ chỉ có hiệu lực trong hơn 2 tháng. Liệu kết luận này có đúng hay không? Theo lập luận của nguồn tin này, Thông tư 11 hướng dẫn cho các nghị định 71/2012/NĐ-CP, 34/2010/NĐ-CP, mà những nghị định này sắp hết hiệu lực nên Thông tư 11 cũng sẽ hết hiệu lực cùng với các Nghị định này. Mặt khác, thông tư căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi các năm 2007, 2008), nhưng vào ngày 1/7 tới Pháp lệnh sẽ hết hiệu lực một phần, điều này đồng nghĩa với thông tư 11 sẽ có hiệu lực đến hết ngày 30/6/2013. Tuy nhiên, cách hiểu này hoàn toàn sai với quy định của pháp luật hiện hành. Bởi rằng chỉ có “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân hết hiệu lực thi hành thì văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản đó cũng hết hiệu lực” (Khoản 2 điều 53 Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND 2004). Còn đối với những văn bản ở Trung ương thì trong Luật ban hành văn bản QPPL 2008 không nhắc đến. Như vậy, không có cơ sở pháp lý nào để đồng nhất môt cách hiểu đối với văn bản của cấp tỉnh và trung ương trong trường hợp này. Về lý luận cũng thực tiễn áp dụng văn bản pháp luật thì không phải mọi trường hợp văn bản ở cấp trung ương hết hiệu lực thì văn bản hướng dẫn hay căn cứ nó hết hiệu lực. Bởi rằng khi một văn bản được hướng dẫn, được căn cứ bị thay thế bằng một văn bản khác, rõ ràng những văn bản này hết hiệu lực, nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa kịp ban hành văn bản để hướng dẫn chi tiết thi hành những quy định mới. Để giải quyết vấn đề đó, những văn bản hướng dẫn, căn cứ vào văn bản cũ vẫn còn hiệu lực nếu không trái với quy định của văn bản mới. Ví dụ: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 đã hết hiệu lực vào ngày 01/01/2006 tuy nhiên Nghị quyết04/2003/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế do Hội đồng thẩm phán-Toà án nhân dân tối cao ban hành cho đến hiện tại vẫn còn hiệu lực. Như vậy, tới ngày 1/7 Thông tư 11 vẫn còn hiệu lực dù cho Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hết hiệu lực, Nghị định 71 và 34 bị thay thế; nếu thông tư 11 không bị một văn bản nào chỉ định thay thế. Tuy nhiên, nếu một phần nội dung của Thông tư 11 trái với Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định mới (Nghị định thay thế Nghị định 71 và 34) thì chỉ có phần đó hết hiệu lực.
Xung quanh việc xử phạt xe không chính chủ - Khó phục!
Em mạn phép trích một bài báo từ báo sài gòn giải phóng của tác giả Nguyễn Quốc, share cho mọi người trong diễn đàn cùng xem : Trong khi dư luận còn rất băn khoăn trước thông tin cơ quan chức năng sẽ tiến hành xử phạt bằng tiền đối với người điều khiển xe máy đội nón bảo hiểm giả thì mới đây, Bộ Công an bất ngờ ban hành Thông tư 11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 34/2010 và Nghị định 71/2012 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Một trong những nội dung đáng chú ý nhất của Thông tư 11 là kể từ ngày 15-4 sẽ thực hiện kiểm tra, xử phạt đối với lỗi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”. Tuy nhiên để bảo đảm cho việc quản lý, xử phạt đi xe không chính chủ không gây phiền hà cho người dân, Thông tư 11 quy định đối với các xe đang lưu thông trên đường, lực lượng công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”. Việc xem xét xử phạt đối với hành vi đi xe không chính chủ được thực hiện thông qua công tác đăng ký, cấp biển số, điều tra, giải quyết tai nạn giao thông, các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định hay qua điều tra các vụ án hình sự. Phạt đội nón bảo hiểm giả và đi xe không chính chủ là những quy định có tác động rất lớn tới đời sống vì cả 2 quy định này đều liên quan tới chuyện sinh hoạt đi lại hàng ngày của người dân. Đáng chú ý, quy định về việc xử phạt đi xe không chính chủ đã được đề cập từ cuối năm 2012 khi Nghị định 71 có hiệu lực. Nhưng trước nhiều ý kiến phản ánh của dư luận xã hội, Chính phủ đã yêu cầu tạm dừng việc thực hiện quy định xử phạt đi xe không chính chủ để các bộ, ngành liên quan gồm công an, GTVT, tài chính soạn thảo thông tư hướng dẫn thực hiện liên quan tới các quy định Nghị định 71/CP. Hơn nữa, theo kế hoạch của cơ quan chức năng, phải sau ngày 1-7-2013, mới áp dụng quy định về việc xử phạt đi xe không chính chủ. Thế nhưng, việc Bộ Công an bất ngờ cho ra đời Thông tư 11 có hiệu lực thi hành từ ngày 15-4, trong khi Bộ GTVT mới chỉ đang lấy kiến đóng góp, còn Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành thông tư về giảm phí liên quan tới việc sang tên đổi chủ phương tiện đã khiến cho người dân cảm thấy rất khó hiểu, hoang mang và thậm chí bức xúc về công tác quản lý của các bộ, ngành chức năng. Trong khi đó, quy định về bắt buộc người điều khiển xe gắn máy, mô tô khi tham gia giao thông phải đội nón bảo hiểm đã thực hiện từ 5 năm qua và người dân đã chấp hành khá nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, nhiều năm qua, quy định yêu cầu người dân phải đội nón bảo hiểm thật, hay quy chuẩn về nón bảo hiểm an toàn, bảo đảm chất lượng lại không được các bộ ngành chức năng đề cập tới, cũng như triển khai thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm túc. Vì vậy mà người dân khi đi xe máy ra đường chỉ biết đội nón bảo hiểm, chứ đâu biết được chiếc nón họ đội là thật hay giả, có đảm bảo an toàn bảo vệ tính mạng hay không. Trong khi đó, trên thị trường khắp cả nước lại tràn lan hàng trăm ngàn loại nón bảo hiểm loại khác nhau, chất lượng cũng khác nhau nhưng chẳng mấy khi bị lực lượng chức năng kiểm tra và xử lý. Rõ ràng, bấy lâu nay, để xảy ra tình trạng nhiều phương tiện giao thông không chính chủ, hay không sang tên đổi chủ mỗi khi trao đổi mua bán, cũng như việc để hơn 70% số người đội nón bảo hiểm hiện nay là nón kém chất lượng có trách nhiệm rất lớn từ nhiều bộ, ngành chức năng trong công tác quản lý. Chính việc quản lý lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm và ban hành các chính sách “vênh” nhau giữa các cơ quan chức năng khiến người dân phải gánh chịu nhiều hậu quả và làm khó dân. Xử phạt là một trong những biện pháp quản lý hành chính nhưng thực tế quy định về việc phạt người, xe không chính chủ và đội nón bảo hiểm giả lại bộc lộ sự bó tay và bất lực của nhiều cơ quan chức năng trong công tác quản lý các lĩnh vực khó nên tìm cách đẩy trách nhiệm, hậu quả cho dân chịu. Hơn nữa, quy định phạt tiền người, xe không chính chủ và đội nón bảo hiểm giả chỉ là cách thức xử lý giải quyết vấn đề ở phần ngọn, không phải là biện pháp xử lý triệt để từ gốc nên nếu quy định được áp dụng sẽ khiến cho người dân khó có thể tâm phục khẩu phục. Bộ Công an ban hành Thông tư số11/2013/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số điều về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Theo đó, cảnh sát giao thông cả nước không được dừng xe đang lưu thông trên đường để kiểm soát, xử lý hành vi không sang tên đổi chủ. Hành vi này sẽ được xác minh, làm rõ thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự. Những trường hợp bị phát hiện đã quá 30 ngày kể từ ngày làm giấy tờ mua, bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên, di chuyển thay đổi đăng ký xe theo quy định sẽ bị xử phạt. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15-4-2013.
Thông tư 11/2013: Không phạt xe “không chính chủ” đang lưu thông
(TVPL) Đó là quy định chính thức của Bộ Công an về việc xử lý xe “không chính chủ”, được ghi nhận tại Thông tư 11/2013/TT-BCA Chỉ trong một số trường hợp như khi đem xe đi đăng ký, cấp biển số; xe bị tạm giữ liên quan tới vụ án hình sự mà phát hiện chưa đăng ký sang tên đúng thời hạn… thì mới bị xử phạt về hành vi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”. Thông tư cũng hướng dẫn về việc xử lý đối với một số hành vi khác như: không mang theo giấy tờ xe, chở quá số người quy định, dừng, đỗ gần đường sắt… Thông tư có hiệu lực từ ngày 15/4/2013 Xem thêm nội dung văn bản: Thông tư 11/2013/TT-BCA
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ? Mấy ngày nay người dân "ồn ào" thậm chí bức xúc với quy định tăng mức xử phạt tiền đối với người vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với phương tiện giao thông cá nhân theo quy định tại Điều 33 Nghị định 34/2010/NĐ-CP. Theo đó, theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP thì mức phạt tiền đối với trường hợp không chuyển quyền sở hữu phương tiện xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; đối với xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô là từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Theo khoản 2 Điều 439 Bộ luật Dân sự thì “Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Đồng thời, theo 36/2010/TT-BCA thì “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua bán, cho, tặng, thừa kế xe, người mua hoặc nhận xe phải đến cơ quan đăng ký xe đang quản lý xe đó làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe.” Như vậy, quy định phải đăng ký xe là cần thiết, pháp luật cần quy định việc đăng ký để xác lập quyền sở hữu, đảm bảo quản lý các phương tiện giao thông, có cơ sở để xác định chủ sở hữu của phương tiện tham gia giao thông trong các trường hợp rủi ro, gây tai nạn ... để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan ... Tuy nhiên, sự phản ứng mạnh mẽ của người dân đối với số tiền phạt được đẩy lên rất cao đối với việc vi phạm vấn đề đăng ký quyền sở hữu xe là có cơ sở, bởi lẽ quy định xử phạt này từ Nghị định34/2010/NĐ-CP đến nay là Nghị định số 71/2012/NĐ-CP nâng số tiền phạt lên thì đều chỉ là việc cố gắng đuổi theo một nếp sống, một thực tiễn đang diễn ra trong xã hội nhưng khó lòng theo kịp. Từ câu chuyện nâng số tiền phạt lên hòng siết chặt công tác quản lý việc đăng ký xe nói riêng trong vấn đề quản lý giao thông sẽ đặt ra những giả thiết của người dân về sự không khả thi của pháp luật. Như việc, cho dù đã có sự chuyển nhượng, tặng cho ... tài sản là các phương tiện nói trên thì khi kiểm tra, xử lý người dân có thể lách luật để chứng minh rằng mình mượn xe của người thân, bạn bè đi thì xử lý thế nào? Còn nếu cứ gọi lại người đi đường để kiểm tra xem có chính chủ hay không để tìm cách xử phạt, thu tiền thì chắc chắn sẽ dẫn đến một vướng mắc liên quan đến thời gian, sự phiền phức cho người dân và cho cả những người thi hành nhiệm vụ tìm người để phạt. Những mâu thuẫn đó dấy lên sự không an tâm của người dân về khả năng áp dụng vào thực tế của các quy định xử lý hành chính đối với sai phạm. Tất nhiên, người dân cũng cần hiểu là Chính phủ ban hành các quy định nói trên để xử lý các trường hợp đã chuyển nhượng phương tiện mà không đăng ký quyền sở hữu theo quy định, chứ không thể nào được phép phạt người dân sử dụng xe không thuộc quyền sở hữu của mình. Mọi hành vi lạm dụng quy định để bắt xe, kiểm tra sự chính chủ hay không của người điều khiển phương tiện giao thông sẽ là hoạt động cản trở giao thông ngược trở lại từ phía chính quyền. Lạm dụng chuyện chính chủ hay không chính chủ của người điều khiển phương tiện là cách sớm nhất và hiệu quả nhất để cấm cản khả năng ra khỏi nhà, hòa vào dòng chảy không ngừng nghỉ của người dân trong một xã hội mà phương tiện giao thông cá nhân là chủ yếu và phổ biến. Ngoài ra, Nghị định71/2012/NĐ-CP được ban hành chỉ cho thấy những điểm mới chủ đạo chỉ là ở mức tiền phạt tiền được tăng lên gấp nhiều lần so với mức phạt cũ. Đánh vào túi tiền của người dân, từ chuyện thu phí vận hành đến chuyện xử lý hành chính các trường hợp vi phạm đang cho thấy khả năng Chính phủ đang đổ lên đầu người dân trách nhiệm cho mọi sự rối rắm của câu chuyện giao thông hiện nay. Dòng chảy tiền từ túi dân sẽ cuồn cuộn hơn chảy vào ngân sách Chính phủ nếu mức phạt được tăng lên, thế nhưng số tiền này lại được đầu tư thiếu hiệu quả, bị cắt xén bởi hiện trạng tham nhũng nhiều, bị uổng phí bởi việc quy hoạch ngớ ngẩn và hiện trạng giao thông tồi tệ của nước nhà càng tồi tệ hơn ... Đó đâu phải là giải pháp! Cho nên, người dân lại lãnh đủ. Từ chuyện phải bỏ thêm nhiều tiền, đến chuyện phải chịu đựng một hiện trạng giao thông tắc nghẽn ô nhiễm và không an toàn. Phạt, phạt nữa, phạt mãi, phạt nhiều, để làm gì, thưa Chính phủ? Lê Cao
Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô
Các bảng nêu bên dưới là tổng hợp các mức phạt vi phạm giao thông đối với một số lỗi phổ biến thường gặp trong thực tế áp dụng cho xe mô tô (ví dụ: lỗi vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, chở ba, rẽ không xi nhan, đi xe đi trên hè phố; để xe trên lòng đường, hè phố…) quy định tại Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (có hiệu lực từ ngày 10/11/2012). Lưu ý: Một số lỗi nếu vi phạm ở khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt thì không áp dụng mức phạt chung mà áp dụng mức phạt riêng, cao hơn bình thường. Xem thêm: - Các mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012 - Làm gì để xe không chính chủ thành chính chủ? - Thông tư 11/2013 của BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ - Dự thảo sửa đổi Nghị định 71/2012 Các lỗi và mức phạt như sau: Mức phạt các lỗi thường gặp dành cho xe ô tô Mức phạt đối với các lỗi: lái xe uống rượu (say rượu), sử dụng ma túy Mức phạt các lỗi quá tốc độ, đua xe trái phép, lạng lách đánh võng Mức phạt đối với các lỗi đi sai làn, chuyển hướng, vượt, nhường đường không đúng quy định Mức phạt các lỗi liên quan phổ biến khác Mức phạt các lỗi thường gặp dành cho xe ô tô: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) 1 Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường 100.000 – 200.000 2 Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường 100.000 – 200.000 3 Khi đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy. 100.000 – 200.000 4 Chở người ngồi hàng ghế phía trước trong xe ô tô có trang bị dây an toàn mà không thắt dây an toàn khi xe đang chạy. 100.000 – 200.000 5 Chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc không có tín hiệu báo trước. 300.000 – 500.000 6 Để người ngồi trên buồng lái quá số lượng quy định; 300.000 – 500.000 7 Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường rộng; dừng xe, đỗ xe không sát mép đường phía bên phải theo chiều đi ở nơi đường có lề đường hẹp hoặc không có lề đường; đỗ xe trên dốc không chèn bánh; mở cửa xe, để cửa xe mở không bảo đảm an toàn. 300.000 – 500.000 8 Dừng xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 mét; dừng xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; dừng xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước, nơi có biển cấm dừng; rời vị trí lái, tắt máy khi dừng xe; dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở những đoạn có bố trí nơi dừng xe, đỗ xe; dừng xe, đỗ xe trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường. 300.000 – 500.000 9 Quay đầu xe ở phần đường dành cho người đi bộ qua đường, trên cầu, đầu cầu, gầm cầu vượt, ngầm, đường hẹp, đường dốc, đoạn đường cong tầm nhìn bị che khuất, nơi có biển báo “cấm quay đầu xe”; 300.000 – 500.000 10 300.000 – 500.000 11 Lùi xe ở đường một chiều, ở khu vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất; lùi xe không quan sát hoặc không có tín hiệu báo trước. 300.000 – 500.000 12 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h; 600.000 – 800.000 13 Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định; 600.000 – 800.000 14 Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ; 600.000 – 800.000 15 Quay đầu xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt; 600.000 – 800.000 16 Dừng xe, đỗ xe tại vị trí: Bên trái đường một chiều; trên đoạn đường cong hoặc gần đầu dốc nơi tầm nhìn bị che khuất; trên cầu, gầm cầu vượt, song song với một xe khác đang dừng, đỗ; nơi đường bộ giao nhau hoặc trong phạm vi 05 mét tính từ mép đường giao nhau; điểm dừng đón, trả khách của xe buýt; trước cổng hoặc trong phạm vi 05 mét hai bên cổng trụ sở cơ quan, tổ chức có bố trí đường cho xe ô tô ra vào; nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe; che khuất biển báo hiệu đường bộ; 600.000 – 800.000 17 Đỗ xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 mét; đỗ xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; đỗ xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; đỗ xe nơi có biển cấm dừng hoặc biển cấm đỗ; đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật; 600.000 – 800.000 18 Không sử dụng đủ đèn chiếu sáng về ban đêm hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn; sử dụng đèn chiếu xa khi tránh nhau; 600.000 – 800.000 19 Chạy trong hầm đường bộ không sử dụng đèn chiếu sáng gần; lùi xe, quay đầu xe trong hầm đường bộ; dừng xe, đỗ xe, vượt xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định; 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 20 Đi vào đường cấm, khu vực cấm, đi ngược chiều của đường một chiều; trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 30 ngày 21 Điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường hoặc làn đường quy định. 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 30 ngày 22 Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông. 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 30 ngày 23 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h. 2 triệu – 3 triệu 24 Vượt trong các trường hợp cấm vượt; vượt bên phải xe khác trong trường hợp không được phép; không có báo hiệu trước khi vượt; 2 triệu – 3 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 25 Không tuân thủ hướng dẫn của người điều khiển giao thông khi qua phà, cầu phao hoặc nơi ùn tắc giao thông; không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông. 2 triệu – 3 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 26 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h đến 35 km/h; 4 triệu – 6 triệu Giam GPLX 30 ngày 27 Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường; bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn. 4 triệu – 6 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 28 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 35 km/h 8 triệu – 10 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 29 Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở. 8 triệu – 10 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 30 Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; 10 triệu -15 triệu 31 Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự ô tô. 1 triệu – 3 triệu Mức phạt các lỗi thường gặp dành cho xe mô tô - xe máy: Mức phạt đối với các lỗi: lái xe uống rượu (say rượu), sử dụng ma túy: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) 1 Điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở 500.000 - 1 triệu 2 Điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở 2 - 3 triệu 3 Điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy 2 - 3 triệu 4 Không chấp hành yêu cầu kiểm tra chất ma túy, nồng độ cồn của người kiểm soát giao thông hoặc người thi hành công vụ 2 - 3 triệu Mức phạt các lỗi quá tốc độ, đua xe trái phép, lạng lách đánh võng: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) 1 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h 100.000 - 200.000 2 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h 500.000 - 1 triệu 3 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h 2 - 3 triệu 4 Không chú ý quan sát, điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định gây TNGT 2 - 3 triệu 5 Điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 3 xe trở lên 80.000 - 100.000 (100.000 - 200.000 nếu là đô thị ĐB) 6 Điều khiển xe thành đoàn gây cản trở giao thông 200.000 - 400.000 7 Điều khiển xe lạng lách, đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị 5 - 7 triệu 8 Điều khiển xe thành nhóm từ 2 xe trở lên chạy quá tốc độ quy định 5 - 7 triệu Mức phạt đối với các lỗi đi sai làn, chuyển hướng, vượt, nhường đường không đúng quy định: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) Khu vực nội thành đô thị đặc biệt 1 Không có báo hiệu xin vượt trước khi vượt 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 2 Không giữ khoảng cách an toàn để va chạm với xe trước 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 3 Không giữ khoảng cách theo quy định của biển “cự ly tối thiểu giữa hai xe” 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 4 Chuyển hướng không nhường quyền đi trước cho người đi bộ, xe lăn người khuyết tật qua đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ; xe thô sơ đang đi trên phần đường dành cho xe thô sơ 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 5 Chuyển hướng không nhường đường các xe đi ngược chiều; người đi bộ, xe lăn người khuyết tật đang qua đường tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 6 Dùng đèn chiếu xa khi tránh nhau 40.000 - 60.000 Áp dụng chung 7 Chuyển làn đường không đúng nơi được phép 80.000 - 100.000 100.000 - 200.000 8 Chuyển làn đường không có tín hiệu báo trước 80.000 - 100.000 100.000 - 200.000 9 Điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường, làn đường 200.000 - 400.000 400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày 10 Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 11 Không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 12 Tránh xe không đúng quy định; không nhường đường cho xe đi ngược chiều theo quy định tại nơi đường hẹp, đường dốc, nơi có chướng ngại vật 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 13 Quay đầu xe tại nơi cấm quay đầu xe 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 14 Không giảm tốc độ hoặc không nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đường nhánh ra đường chính 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 15 Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 16 Không nhường đường hoặc gây cản trở xe ưu tiên 200.000 - 400.000; giữ GPLX 30 ngày 300.000 - 500.000; giữ GPLX 30 ngày 17 Vượt bên phải trong các trường hợp không được phép 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 18 Vượt xe hoặc chuyển làn đường trái quy định gây tai nạn giao thông 2 - 3 triệu; giữ GPLX 60 ngày Áp dụng chung 19 Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường; 100.000 - 200.000 300.000 - 500.000; giữ GPLX 30 ngày Mức phạt các lỗi liên quan phổ biến khác: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) Mức phạt khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt 1 Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường 60.000 - 80.000 100.000 - 200.000 2 Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông (vượt đèn đỏ, tiến vào ngã tư khi đang có đèn đỏ hoặc đèn vàng) 200.000 - 400.000 300.000 - 500.000 3 Đi ngược chiều của đường một chiều trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 4 Đi vào đường cấm, khu vực cấm trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 5 Không đi bên ph���i theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường, làn đường quy định 200.000 - 400.000 400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày 6 Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 7 Chở người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người vi phạm pháp luật 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 8 Chở theo 2 người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người vi phạm pháp luật 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 9 Chở theo từ 3 người trở lên trên xe 200.000 - 400.000; Tước GPLX 30 ngày Áp dụng chung 10 Điều khiển xe đi trên hè phố 200.000 - 400.000 400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày 11 Dừng, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông; đỗ, để xe ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định pháp luật 100.000 - 200.000 300.000 - 500.000 12 Không sử dụng đèn chiếu sáng về ban đêm hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 13 Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ 200.000 - 400.000 Áp dụng chung
NĐ Số: 71/2012/NĐ-CP_Ra đường phải hết sức cẩn thận !!!
Hôm nay, ngày 10/11/2012, ngày NĐ 71/2012/NĐ-CP sẽ chính thức có hiệu lực. Chính phủ ban hành Nghị định số 71/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, theo đó, Nghị định mới đã nâng mức phạt lên nhiều lần đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ, điều chỉnh các vấn đề bất hợp lý trong quá trình xử phạt hành vi vi phạm. Xin trích dẫn 1 trong các qui định của NĐ này, điều mà khiến nhiều người, đặc biệt là những sinh viên có thể bị bị nhồi máu cơ tim 8. Sửa đổi, bổ sung Điều 33 như sau: “Điều 33. Xử phạt chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ 1. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự mô tô tự ý thay đổi nhãn hiệu, màu sơn của xe không đúng với Giấy đăng ký xe. 2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây: a) Lắp kính chắn gió, kính cửa của xe không phải là loại kính an toàn; b) Tự ý thay đổi màu sơn của xe không đúng với màu sơn ghi trong Giấy đăng ký xe; không thực hiện đúng quy định về biển số, quy định về kẻ chữ trên thành xe và cửa xe; trừ hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 41 của Nghị định này. 3. Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng đối với chủ xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây: a) Tự ý đục lại số khung, số máy; b) Tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ đăng ký xe; c) Tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước của xe; d) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe; đ) Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông; e) Không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định; g) Không mua hoặc nộp phí cho phương tiện khi tham gia giao thông theo quy định. Có lẽ, trong thời gian tới thành viên Dân Luật sẽ có nhiều việc để làm, đặc biệt là topic "Hỏi về đăng ký mới, sang tên đổi chủ, di chuyển, cấp lại đăng ký xe Môt tô thì vào đây" Với những câu hỏi đại loại như: "Em mua xe cũ của Bác của bạn thằng bạn, Bác của bạn thằng bạn em lại mua xe của Chú bác ấy. Hiện nay, người Chú của bác ấy hiện đang sống ở Mỹ, Còn bác của bạn thằng bạn em sống ở Sài Gòn, Em thì hiện đang học ở Hà Nội. vậy thủ tục để chuyển quyền sở hữu như thế nào. Em vần còn đầy đủ các giấy tờ liên quan." Đấy là chưa kể trường hợp mất giấy này, giấy khác. Có lẽ, theo sau NĐ này sẽ là một núi thông tư,... đi kèm Các công dân của dân luật có ý kiến gì về vấn đề này.!!! Xem thêm: Dự thảo sửa đổi Nghị định 71/2012
Nghị định 71/2012/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm giao thông đường bộ
Nghị định số 71/2012/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/09/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm giao thông đường bộ. Xem thêm: - Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô - Các mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012 - Thông tư 11/2013 của BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ - Làm gì để xe không chính chủ thành chính chủ? Sau đây là một số nội dung mới của Nghị định 71: Nâng mức phạt đối với xe ô tô chở quá số người quy định: Theo Nghị định mới, phạt tiền từ 300.000 - 500.000 đồng (hiện nay mức phạt là từ 200.000-300.000 đồng) trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện đối với người điều khiển ô tô chở hành khách, ô tô chở người (trừ xe buýt) vi phạm hành vi: Chở quá từ 2 người trở lên trên xe đến 9 chỗ ngồi, chở quá từ 3 người trở lên trên xe 10-15 chỗ ngồi, chở quá từ 4 người trở lên trên xe 16-30 chỗ ngồi, chở quá từ 5 người trở lên trên xe trên 30 chỗ ngồi. Đối với người điều khiển xe ô tô chở hành khách chạy tuyến có cự ly hơn 300 km, sẽ bị phạt từ 800.000 - 1.000.000 đồng (hiện nay từ 300.000-500.000 đồng) trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện nếu chở quá từ 2 người trở lên trên xe đến 9 chỗ ngồi, chở quá từ 3 người trở lên trên xe 10-15 chỗ ngồi, chở quá từ 4 người trở lên trên xe 16-30 chỗ ngồi, chở quá từ 5 người trở lên trên xe trên 30 chỗ ngồi. Tăng mức phạt đối với người điều khiển xe khi nồng độ cồn vượt quá quy định. Mức phạt tối đa theo quy định là 15 triệu đồng, bị tước bằng lái xe không thời hạn nếu gây tai nạn nghiêm trọng. Cụ thể: Người điều khiển xe ô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 - 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 - 0,4 miligam/1 lít khí thở thì sẽ bị phạt tiền từ 8-10 triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với mức phạt hiện nay từ 2-3 triệu đồng. Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy thì bị phạt từ 500.000 - 1.000.000 đồng (mức phạt hiện nay từ 200.000-400.000 đồng). Trường hợp người điều khiển xe ô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ 10 - 15 triệu đồng (mức phạt hiện nay từ 4-6 triệu đồng). Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, hành vi vi phạm này bị phạt từ 2 - 3 triệu đồng, thay cho mức phạt hiện nay là từ 500.000-1.000.000 đồng. Ngoài việc phạt tiền, lái xe uống rượu bia còn bị phạt bổ sung như tước giấy phép lái xe 60 ngày nếu nồng độ cồn cao hoặc tước giấy phép không thời hạn nếu gây tai nạn nghiêm trọng. Phạt nặng đối với các lỗi chạy xe quá tốc độ: Phạt tiền từ 600.000 đồng - 800.000 đồng (thay cho mức phạt hiện nay 300.000 - 500.00 đồng) đồng đối với người điều khiển xe ô tô chạy quá tốc độ quy định từ 5 km/h đến dưới 10 km/h. Trường hợp điều khiển xe ô tô chạy quá tốc độ quy định từ 10-20 km/h sẽ bị phạt tiền từ 2 - 3 triệu đồng (mức phạt hiện nay là từ 800.000 - 1.200.000 đồng). Phạt tiền từ 8 - 10 triệu đồng (hiện nay 4-6 triệu đồng) đối với người điều khiển xe ô tô chạy quá tốc độ quy định trên 35 km/h, ngoài ra còn bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 60 ngày. Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy chạy quá tốc độ quy định từ 10 -20 km/h (hiện nay trên 20km/h) sẽ bị phạt tiền từ 500.000 - 1.000.000 đồng. Trường hợp người điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h sẽ bị phạt tiền từ 2 - 3 triệu đồng (mức hiện nay là 500.000 - 1.000.000 đồng) Quy định mức phạt tăng nặng với các hành vi vi phạm an toàn giao thông (áp dụng riêng trong khu vực nội thành) tại các thành phố trực thuộc Trung ương (Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội...) Với lỗi dừng ôtô không sát lề đường, nơi có biển cấm dừng, dời khỏi vị trí lái, tắt máy khi dừng xe, hoặc dừng xe không đúng quy định tại những khu vực cho đỗ xe, sẽ bị phạt từ 600.000 - 1 triệu đồng. Ngoài ra, chủ xe còn phải đưa phương tiện ra khỏi nơi vi phạm, bị tước giấy phép 30 ngày. Nếu đỗ ôtô không sát lề đường, đỗ tại nơi có biển cấm dừng đỗ, để xe trên hè phố trái quy định, đỗ bên trái đường một chiều sẽ bị phạt từ 1 - 1,4 triệu đồng; tước giấy phép lái xe 30 ngày. Ngoài ra, nếu cố tình lái ôtô vào đường cấm, dừng đỗ, quay đầu xe trái quy định gây tai nạn hoặc ùn tắc giao thông, chạy xe dưới tốc độ quy định, đi không đúng làn đường hoặc phần đường... sẽ bị phạt từ 1,4 - 2 triệu đồng; tước giấy phép lái xe 30 ngày. Người đi bộ vi phạm một số quy định an toàn giao thông đường bộ có thể bị phạt từ 60.000 - 80.000 đồng. Đối với hành vi "Không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định" (không chính chủ): Phạt từ 6-10 triệu đồng với ôtô và 800.000 đến 1,2 triệu đồng với xe máy. Quy định này tăng mức phạt nhiều lần so với quy định nghị định 34/2010. Download - tải nghị định 71/2012 của chính phủ tại đây: Văn Bản Gốc, Văn Bản Liên Quan của nghị định 71/2012 cũng có tại www.ThuVienPhapLuat.vn Bạn có thể đăng ký thành viên để xem hơn 300.000 văn bản khác tại www.ThuVienPhapLuat.vn ;
Nghị định 171/2013 Quy định xử phạt hành chính giao thông đường bộ đường sắt
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, đáng chú ý khoản 4 điều 30 về xử phạt từ 1.000.000 đồng - 4.000.000 đồng không sang tên xe đổi chủ đối với: - Xe ôtô: xử phạt không sang tên xe chính chủ với ôtô từ ngày 1/1/2015 ; - Xe gắn máy: xử phạt không sang tên xe chính chủ với ôtô từ ngày 1/1/2017; Khoản 4, điều 30: 4. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô, từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ôt tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện hành vi không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kêé tài sản là xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng, các loại xe tương tự xe ô tô. Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Download hoặc tải toàn bộ nội dung văn bản của Nghị định 171/2013 của Chính phủ trực tiếp tại đây:
Một số mức xử phạt khi vi phạm giao thông đường bộ thường gặp
Theo Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 và Nghị định 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ thì: >> Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô Không bật đèn chiếu sáng vào ban đêm Đối với trường hợp điều khiển xe mô tô, xe gắn máy: Theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 9 Nghị định 71 nêu trên thì khi tham gia giao thông vào ban đêm mà không bật đèn chiếu sáng bị phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng Chuyển không đúng làn đường Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người điều khiển xe mô-tô, gắn máy, kể cả xe máy điện chuyển làn đường không đúng nơi được phép hoặc không có tín hiệu báo trước Sử dụng điện thoại Người đang điều khiển xe sử dụng ô, điện thoại di động, thiết bị âm thanh, trừ thiết bị trợ thính; người ngồi trên xe sử dụng ô thì bị phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng Không đội mũ bảo hiểm Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển, người ngồi trên xe môtô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ Không mang giấy tờ theo quy định Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực, không mang theo Giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe. Không có giấy phép lái xe Đối với xe mô tô, xe máy: Người điều khiển xe mô tô không có Giấy phép lái xe bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000; không có Giấy phép lái xe đối với xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên bị phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng. Ngoài ra, đối với trường hợp người điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe sẽ bị tạm giữ phương tiện đến 10 ngày (Điểm h Khoản 1 Điều 54 Nghị định 71)
Những sai lầm khi bỏ xử phạt xe “không chính chủ”
Theo Nghị định 71 xe “không chính chủ” sẽ bị phạt từ 0.8 – 1.2 triệu đồng đối với chủ xe mô tô, 6 – 10 triệu đồng đối với ô tô. Đồng thời tại Thông tư 11 của Bộ Công an có hướng dẫn cụ thể: Xe đang lưu thông trên đường, không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi “không chính chủ”. Chỉ xử phạt khi thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự nếu phát hiện phương tiện là “không chính chủ”. Quy định trên là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, vừa qua tại Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt nhiều ý kiến đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”. Thật khó lý giải tại sao có đề xuất bỏ xử phạt xe “không chính chủ”, nhưng nếu đề xuất này được chấp nhận sẽ gây ra nhiều hậu quả khó lường. Một là, Ngân sách thất thu: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì các giao dịch mua bán, tặng cho… không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định nhằm né tránh nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ tăng cao. Hai là, Phát sinh nhiều tranh chấp dân sự: khi giao dịch thực tế được thực hiện (trao xe – nhận tiền đã hoàn tất) nhưng các bên không thực hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định pháp luật sẽ rất dễ dẫn đến các tranh chấp dân sự nếu một bên có các hành vi “lật lọng”, không thiện chí trong giao dịch. Ba là, Khó khăn trong việc xác định thủ phạm gây tai nạn: cơ quan công an rất khó khăn trong việc tìm ra người gây tai nạn giao thông rồi bỏ trốn vì phương tiện đã qua rất nhiều đời chủ. Bốn là, Tội phạm gia tăng: một khi dung túng cho xe “không chính chủ” thì tội phạm sẽ dùng những phương tiện đã qua nhiều đời chủ để thực hiện hành vi phạm tội, trong trường hợp cần thiết chúng sẵn sàng bỏ lại phương tiện để chạy trốn mà không lo lắng sẽ bị truy ra thông tin.
Dự thảo lần 6 Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt
Tại dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt (dự thảo lần 6), Bộ GTVT đã đề nghị bỏ chế tài phạt xe không chính chủ, mũ bảo hiểm dỏm với lý do “không phù hợp”.
Nghị định 71S: Không xử phạt xe không chính chủ
Hiện tại Nghị định 71/2012/NĐ-CP xử phạt từ 6 – 10 triệu đồng đối với ô tô, 0.8 – 1.2 triệu đồng đối với xe máy nếu không chuyển quyền sở hữu theo quy định. Sắp tới Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt sẽ được ban hành. Theo đó, sẽ không xử phạt xe không chính chủ – Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hồng Trường cho biết.
Từ 15/5 tới, Đội mũ bảo hiểm giả sẽ bị xử phạt
Kể từ ngày 15/05 thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BKHCN-BCT-BCA-BGTVT chính thức có hiệu lực. > Cài quai MBH không sát cằm sẽ bị xử phạt tới 200 ngàn??? > Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô > Thông tư 11/2013/TT -BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ Thông tư liên tịch quy định trách nhiệm của người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy là Đội mũ bảo hiểm theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời tại khoản 2 điều 10 có quy định “Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy khi tham gia giao thông vi phạm quy định về đội mũ bảo hiểm thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ”. Vậy như thế nào là vi phạm quy định về đội mũ bảo hiểm? Theo khoản 1 điều 3 thì Mũ bảo hiểm cho người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), xe đạp máy đội khi tham gia giao thông (sau đây viết tắt là mũ bảo hiểm) là mũ có đủ các tính năng sau: Thứ nhất, có cấu tạo đủ 3 bộ phận: vỏ mũ, đệm hấp thụ xung động bên trong vỏ mũ (đệm bảo vệ) và quai đeo; Thứ hai, Đã được chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 2:2008/BKHCN ban hành kèm theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BKHCN ngày 28 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; được gắn dấu hợp quy CR, ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật. Như vậy, người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy phải đáp ứng hai tiêu chí trên khi đội mũ bảo hiểm. Điều này đồng nghĩa với việc đội mũ bảo hiểm không đạt theo quy chuẩn kỹ thuật QCVN 2:2008/BKHCN (mũ giả) thì sẽ coi là vi phạm. Xét về mặt câu chữ thì kể từ ngày 15/5 tới hành vi đội mũ bảo hiểm giả sẽ bị xử phạt. Tuy nhiên, trên bình diện thực tiễn điều này không mang tính khả thi.
Đúng hay sai chuyện “Phạt xe không chính chủ” ?
Vừa qua có luồng ý kiến cho rằng, việc quy định phạt xe không chính chủ là trái với quy định của Luật , bởi Luật không hề có quy định về việc bắt buộc phải đăng ký sở hữu cho xe máy. Tuy nhiên, nếu theo tư duy logic này thì có thể nói nhiều Luật của Việt Nam cũng vi hiến vì quy định những vấn đề mà Hiến pháp không đề cập. Về lý luận, khái niệm “trái” và “khác” hoàn toàn khác nhau và hệ quả pháp lý của nó không hề giống nhau. “Trái” là việc ban hành văn bản quy định những vấn đề ngược với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Hệ quả pháp lý của văn bản trái này là bị hủy bỏ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. “Khác” là việc ban hành văn bản quy định những vấn đề chưa có, hoặc làm rõ hơn, hoặc không giống nhưng không ngược với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Trên thực tế loại văn bản này rất nhiều; nên mới xuất hiện khái niệm nếu một sự việc phát sinh mà có hai văn bản điều chỉnh khác nhau thì áp dụng văn bản chuyên ngành cho sự việc đó. Quay lại vấn đề về việc “xử phạt xe không chính chủ”, xin khoan đề cập đến chuyện Nghị định34/2010/NĐ-CP , 71/2012/NĐ-CP; thông tư36/2010/TT-BCA , 11/2013/TT-BCA là “trái” hay “khác” với Luật mà hãy xem nó có phù hợp với thực tiễn hay không? Một chân lý không thể phủ nhận “Xã hội là dòng sông luôn vận động, phát triển không ngừng; còn Pháp luật là bờ đê để định hướng và xuôi dòng nước chảy”. Bởi vậy, quy định của pháp luật cần phải phù hợp với thực tiễn. Theo điều 623 Bộ Luật Dân sự 2005 thì xe máy, ô tô được xem là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo đó, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nếu không quy định chuyển quyền sở hữu xe máy, ô tô khi mua, bán, tặng, cho … liệu rằng có hợp lý hay không? Như vậy, sẽ rất khó khăn trong việc điều tra tìm ra người gây tai nạn giao thông trong trường hợp họ mua xe mà không chuyển quyền sở hữu. Ví dụ: Ông A mua xe máy của bà B rồi sau đó bán cho anh C (quá trình mua bán diễn ra theo kiểu “tiền trao cháo múc”, không có đăng ký chuyển nhượng quyền sở hữu). Rồi một khi anh C gây ra tai nạn chết người (anh C bỏ trốn). Vậy ai sẽ là người bồi thường thiệt hại cho nạn nhân? Tất nhiên C gây ra tai nạn thì phải là người bồi thường, nhưng làm sao xác định được C là người gây ra tai nạn. Khi đấy cơ quan công an điều tra bằng cách xem ai đang đứng tên xe này, đó là bà B; trên giấy tờ bà B vẫn là chủ sở hữu của xe máy này. Vậy bà B sẽ bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm hình sự (nếu có) do vụ tai nạn giao thông nói trên chăng? Sẽ không, vì B phải khai ra mình đã bán xe cho ai để chứng minh mình vô can, và từ đó công an tìm ra đường đi cho việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong thực tế thì rất nhiều trường hợp bán xe qua rất nhiều đời chủ thì rõ thật khó khăn cho công tác điều tra. Ngoài ra, việc mua bán theo hình thức trao tay nên dễ xảy ra tranh chấp tài sản và người ngay sẽ không được pháp luật bảo vệ vì không có chứng cứ. Bởi lẽ, chẳng có giấy tờ nào chứng minh xe đó là của họ, dẫu rằng họ đã bỏ tiền mua xe. Và tình hình trộm, cướp xe máy, ô tô sẽ xảy ra nhiều hơn; vì câu chuyện bán xe máy, ô tô trở nên dễ dàng như chuyện bán con gà, con vịt. Từ phân tích nêu trên, xin không kết luận ai đúng ai sai, nhưng chắc mỗi người đã có được đáp án cho mình. Nguồn: http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat-gop-y-thao-luan/4401/dung-hay-sai-chuyen-%E2%80%9Cphat-xe-khong-chinh-chu%E2%80%9D
Thông tư 11/2013/TT-BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ
Bộ Công an ban hành Thông tư 11/2013/TT-BCA ngày 01 tháng 03 năm 2013 hướng dẫn Nghị định 34/2010/NĐ-CP và Nghị định 71/2012/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Xem thêm: - Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô - Các mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012 - Làm gì để xe không chính chủ thành chính chủ? Theo đó: - Không xử phạt "xe không chính chủ" khi xe đang lưu thông. - Việc xử phạt phương tiện không sang tên đổi chủ khi lực lương chức năng trong quá trình: + đăng ký cấp biển số; + điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; + qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; + tạm giữ phương tiện vi phạm hoặc qua điều tra các vụ án hình sự mà phát hiện người mua hoặc người bán không làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe. + quá thời gian 30 ngày kể từ ngày làm giấy tờ mua, bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên, di chuyển thay đổi đăng ký xe theo quy định. - Xử phạt hành vi người điều khiển xe không mang theo các giấy tờ sau: + giấy đăng ký xe; + giấy phép lái xe; bằng ( hoặc chứng chỉ) điều khiển; + giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; + giấy bảo hiểm xe còn hiệu lực. - Quy định cụ thể về việc tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe: + người điều khiển phương tiện vi phạm mà Nghị định số 34 quy định hành vi đó bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe để bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính. + Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định xử phạt, người đã ra quyết định xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan cấp Giấy phép lái xe đó. + Trường hợp người bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, mà người đó có Giấy phép lái xe hạng thấp hơn so với loại xe đang điều khiển, thì vẫn ra quyết định tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe đó; đồng thời, bổ sung xử phạt về hành vi có Giấy phép lái xe nhưng không phù hợp với loại xe đang điều khiển. + ... - Việc tạm giữ giấy tờ áp dụng cho các trường hợp vi phạm cụ thể thực hiện như sau: + áp dụng hình thức phạt tiền có thể tạm giữ một trong các loại giấy tờ theo thứ tự: Giấy phép lái xe; Giấy đăng ký xe; Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; Giấy bảo hiểm xe còn hiệu lực. + Xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép lái xe. Nếu không có Giấy phép lái xe thì phải tạm giữ phương tiện vi phạm. - Khi kiểm soát người lái xe vi phạm xuất trình biên bản vi phạm hành chính do các đơn vị, địa phương đã lập và tạm giữ giấy tờ: + Trường hợp quá thời hạn hẹn đến giải quyết ghi trong biên bản vi phạm hành chính và đã bị tạm giữ các giấy tờ thì sẽ bị xử phạt như hành vi không có giấy tờ. Nếu tiếp tục vi phạm hành vi mới thì phải lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi không có giấy tờ và hành vi vi phạm mới. Tiến hành tạm giữ một trong các loại giấy tờ còn lại hoặc tạm giữ phương tiện và xử lý vi phạm theo quy định. + Trường hợp đang trong thời gian hẹn giải quyết ghi trong biên bản vi phạm hành chính và đã bị tạm giữ hết các giấy tờ, mà người điều khiển phương tiện lại tiếp tục vi phạm hành vi mới thì phải lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi vi phạm mới, tạm giữ phương tiện vi phạm và xử lý vi phạm theo quy định. Thông t�� 11 của BCA này có có hi��u lực kể từ ngày 15/4/2013. Xem toàn văn thông tư 11 năm 2013 của BCA tại TVPL
Xe không chính chủ: Xử phạt là... phạm luật ?
Xe không chính chủ: Xử phạt là... phạm luật Không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành qui định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng. >> Vẽ chính sách kiểu 'trên mây', do đâu? >> Những chính sách trong phòng máy lạnh >> Phạt mũ rởm, nhưng tư duy quản lý có…'xịn'? Hiến pháp và pháp luật nước ta thừa nhận quyền sở hữu của nhân nhân đối với tài sản của mình, nhưng không có bất cứ một luật nào do Quốc hội ban hành (như Bộ Luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao thông đường bộ, Bộ Luật Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ... ) bắt buộc người dân phải thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với một loại tài sản nào đó của mình. Không tìm thấy ở đâu Đó là chưa kể, có loại tài sản, luật còn qui định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu khi dân có yêu cầu. Chẳng hạn, Luật Nhà ở (khoản 1 Điều 9) qui định "trường hợp chủ sở hữu nhà ở có yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở cho họ". Tuy nhiên, có một số loại tài sản tuy luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn thực hiện một số hành vi nhất định, hay thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định liên quan đến tài sản, luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu trước khi thực hiện hành vi đó hay thực hiện giao dịch đó. Chẳng hạn: Dân xây nhà hay mua một ngôi nhà không bị luật bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng muốn đem bán ngôi nhà đã xây, đã mua đó thì phải đăng ký quyền sở hữu trước khi bán. Tàu biển không bị luật buộc phải đang ký quyền sở hữu, nhưng muốn neo đậu, đi lại trên biển, phải đăng ký quyền sở hữu. Phương tiện giao thông thủy nội địa không bị luật buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn hoạt động, Luật Giao thông đường thủy nội địa qui định phải đăng ký quyền sở hữu. Và nếu đã sang tên đổi chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Máy bay, cảng hàng không không buộc phải đăng ký quyền sở hữu nhưng muốn đưa vào khai thác thì Luật Hàng không dân dụng Việt Nam qui định phải đăng ký quyền sở hữu..., Cũng vậy, không tìm thấy bất cứ một điều khoản nào của luật do Quốc hội ban hành qui định người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới (ô tô, xe máy, ...) khi xe được mua bán, cho, tặng. Luật Giao thông đường bộ, tại điểm a khoản 2 Điều 58, qui định người lái xe khi điều khiển phương tiện "phải mang theo đăng ký xe", không đồng nghĩa là qui định bắt buộc người dân phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu khi xe được mua bán, cho, tặng. Đành rằng, để có được bản "đăng ký xe", người dân phải mang xe đi đăng ký. Bản "đăng ký xe" chỉ là điều kiện cho xe được tham gia giao thông. Muốn thỏa mãn điều kiện này, dân phải đăng ký quyền sở hữu cho xe. Nhưng việc dân có làm việc này hay không là do dân tự quyết định chứ Luật Giao thông đường bộ nói riêng, luật do Quốc hội ban hành nói chung không bắt buộc. Tiện đây xin lưu ý thêm, khoản 2 Điều 58 nêu trên không bắt buộc người lái xe phải là người có tên trong "đăng ký xe". Điều này có nghĩa là Luật Giao thông đường bộ chỉ bắt buộc xe cơ giới muốn tham gia giao thông chỉ cần có bản "đăng ký xe" đi kèm mà không lệ thuộc vào người đứng tên trong "đăng ký xe". Và do đó, muốn tham gia giao thông, xe chỉ cần một lần đăng ký, hay nói cách khác là chỉ cần đăng ký lần đầu, để xe có được bản "đăng ký xe" đi kèm. Đã sang tên đổi chủ thì phải thực hiện đăng ký lại chủ sở hữu. Ảnh minh họa Và không đúng thẩm quyền Và, cũng không tìm thấy bất cứ một qui định nào trong những luật do Quốc hội ban hành (như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Công an nhân dân, Luật Giao thông đường bộ,...) có trao quyền cho Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ được đặt ra qui định này. Đó là bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản này hay kia của mình nói chung, đối với tài sản là xe cơ giới nói riêng. a) Bởi vậy, việc đặt ra qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới như tại Điều 6 Thông tư số36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an qui định về đăng ký xe là không đúng thẩm quyền. Bộ Công an chỉ có quyền, có trách nhiệm qui định về thủ tục đăng ký xe cơ giới. Còn dân có đi đăng ký xe hay không là thuộc quyền lựa chọn của dân. Dân muốn có bản "đăng ký xe" thì dân phải đi đăng ký xe. b) Chiểu theo qui định tại khoản 2 Điều 1 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật rằng, văn bản do cơ quan Nhà nước ban hành không đúng thẩm quyền, không phải là văn bản qui phạm pháp luật thì qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới tại Thông tư36/2010/TT-BCA nêu trên không được coi là một qui định của pháp luật. Vì nó không đúng thẩm quyền như đã nêu ở điểm (a) trên đây. c) Theo qui định tại Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như tại khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành, rằng hành vi vi phạm hành chính trước hết phải là hành vi vi phạm qui định của pháp luật, thì việc người dân không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là hành vi vi phạm hành chính. Vì nó không phải là hành vi vi phạm qui định của pháp luật do qui định bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu xe cơ giới của Bộ Công an, không phải là một qui định của pháp luật như đã nêu ở Điểm (b) trên đây. Theo khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như theo điểm d khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính rằng người dân chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có vi phạm hành chính, thì việc cơ quan chức năng xử phạt người dân do họ không thực hiện đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới là sự vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành. Vì việc không đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới không phải là một hành vi vi phạm hành chính như đã nêu ở điểm (c) trên đây. Nói một cách khác, việc Điều 33 Nghị định34/2010/NDD-CP (được sửa đổi bởi Nghị định71/2012/NĐ-CP) của Chính phủ đặt ra qui định xử phạt người dân về việc người dân không chuyển quyền sở hữu ô tô, xe máy theo qui định; hay nói nôm na là không thực hiện sang tên, đổi chủ khi mua bán, cho, tặng ô tô, xe máy là vi phạm Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Cũng như vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực thi hành. Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản. Nên qui định này cần phải được đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ hay bãi bỏ theo qui định tại những điều khoản có liên quan của Chương XI Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật. Chiểu theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như Luật Xử lý vi phạm hành chính sắp có hiệu lực, Chính phủ chỉ có quyền qui định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không mang theo "đăng ký xe" khi xe tham gia giao thông mà không có quyền qui định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi không đăng ký quyền sở hữu xe. Về phía người dân, dù luật do Quốc hội ban hành không bắt buộc người dân phải đăng ký quyền sở hữu khi mua xe hay khi được cho, tặng, thừa kế, nhưng người dân hãy nên thực hiện việc này để mình có thể thực hiện được đầy đủ các quyền của mình đối với tài sản. Chẳng hạn như, nếu xe không chính chủ thì không thể đem xe làm đảm bảo cho các giao dịch dân sự; không thể đem cầm cố, thế chấp để vay tiền ngân hàng. Đặc biệt, để pháp luật bảo hộ quyền sở hữu, nhất là đối với những xe có giá trị lớn. Đối với người bán, cho, tặng xe đã đăng ký quyền sở hữu theo tên mình, vì Luật Giao thông đường bộ có những qui định, như khoản 5 Điều 4, khoản 4, 5, 10, 13, 14, 16, 22, 23 Điều 8, khiến người có tên trong "đăng ký xe" có thể rơi vào phiền toái, rơi vào trách nhiệm pháp lý, thậm trí là trách nhiệm hình sự khi có vi phạm qui định của pháp luật về xe, về người lái xe. Thì để tránh điều này, người bán, cho, tặng xe hãy buộc người mua xe, người được cho, được tặng xe thực hiện ngay việc đăng ký quyền sở hữu để mình hết trách nhiệm. Vì, khi không chứng minh được việc xe đã được bán, cho, tặng thì người có tên trong "đăng ký xe" vẫn là chủ sở hữu của chiếc xe. Hồ Sỹ Thụy Nguồn : VietNamNet
Xử phạt xe không chính chủ: Báo chí đã hiểu sai về thông tư 11
(TVPL) – Gần đây có một số nguồn tin cho rằng Thông tư 11/2013/TT-BCA mới ban hành sẽ chỉ có hiệu lực trong hơn 2 tháng. Liệu kết luận này có đúng hay không? Theo lập luận của nguồn tin này, Thông tư 11 hướng dẫn cho các nghị định 71/2012/NĐ-CP, 34/2010/NĐ-CP, mà những nghị định này sắp hết hiệu lực nên Thông tư 11 cũng sẽ hết hiệu lực cùng với các Nghị định này. Mặt khác, thông tư căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi các năm 2007, 2008), nhưng vào ngày 1/7 tới Pháp lệnh sẽ hết hiệu lực một phần, điều này đồng nghĩa với thông tư 11 sẽ có hiệu lực đến hết ngày 30/6/2013. Tuy nhiên, cách hiểu này hoàn toàn sai với quy định của pháp luật hiện hành. Bởi rằng chỉ có “Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân hết hiệu lực thi hành thì văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản đó cũng hết hiệu lực” (Khoản 2 điều 53 Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND 2004). Còn đối với những văn bản ở Trung ương thì trong Luật ban hành văn bản QPPL 2008 không nhắc đến. Như vậy, không có cơ sở pháp lý nào để đồng nhất môt cách hiểu đối với văn bản của cấp tỉnh và trung ương trong trường hợp này. Về lý luận cũng thực tiễn áp dụng văn bản pháp luật thì không phải mọi trường hợp văn bản ở cấp trung ương hết hiệu lực thì văn bản hướng dẫn hay căn cứ nó hết hiệu lực. Bởi rằng khi một văn bản được hướng dẫn, được căn cứ bị thay thế bằng một văn bản khác, rõ ràng những văn bản này hết hiệu lực, nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa kịp ban hành văn bản để hướng dẫn chi tiết thi hành những quy định mới. Để giải quyết vấn đề đó, những văn bản hướng dẫn, căn cứ vào văn bản cũ vẫn còn hiệu lực nếu không trái với quy định của văn bản mới. Ví dụ: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 đã hết hiệu lực vào ngày 01/01/2006 tuy nhiên Nghị quyết04/2003/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế do Hội đồng thẩm phán-Toà án nhân dân tối cao ban hành cho đến hiện tại vẫn còn hiệu lực. Như vậy, tới ngày 1/7 Thông tư 11 vẫn còn hiệu lực dù cho Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hết hiệu lực, Nghị định 71 và 34 bị thay thế; nếu thông tư 11 không bị một văn bản nào chỉ định thay thế. Tuy nhiên, nếu một phần nội dung của Thông tư 11 trái với Luật xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định mới (Nghị định thay thế Nghị định 71 và 34) thì chỉ có phần đó hết hiệu lực.
Xung quanh việc xử phạt xe không chính chủ - Khó phục!
Em mạn phép trích một bài báo từ báo sài gòn giải phóng của tác giả Nguyễn Quốc, share cho mọi người trong diễn đàn cùng xem : Trong khi dư luận còn rất băn khoăn trước thông tin cơ quan chức năng sẽ tiến hành xử phạt bằng tiền đối với người điều khiển xe máy đội nón bảo hiểm giả thì mới đây, Bộ Công an bất ngờ ban hành Thông tư 11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 34/2010 và Nghị định 71/2012 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Một trong những nội dung đáng chú ý nhất của Thông tư 11 là kể từ ngày 15-4 sẽ thực hiện kiểm tra, xử phạt đối với lỗi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”. Tuy nhiên để bảo đảm cho việc quản lý, xử phạt đi xe không chính chủ không gây phiền hà cho người dân, Thông tư 11 quy định đối với các xe đang lưu thông trên đường, lực lượng công an có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ không được dừng xe để kiểm soát, xử lý hành vi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”. Việc xem xét xử phạt đối với hành vi đi xe không chính chủ được thực hiện thông qua công tác đăng ký, cấp biển số, điều tra, giải quyết tai nạn giao thông, các trường hợp phương tiện vi phạm bị tạm giữ theo quy định hay qua điều tra các vụ án hình sự. Phạt đội nón bảo hiểm giả và đi xe không chính chủ là những quy định có tác động rất lớn tới đời sống vì cả 2 quy định này đều liên quan tới chuyện sinh hoạt đi lại hàng ngày của người dân. Đáng chú ý, quy định về việc xử phạt đi xe không chính chủ đã được đề cập từ cuối năm 2012 khi Nghị định 71 có hiệu lực. Nhưng trước nhiều ý kiến phản ánh của dư luận xã hội, Chính phủ đã yêu cầu tạm dừng việc thực hiện quy định xử phạt đi xe không chính chủ để các bộ, ngành liên quan gồm công an, GTVT, tài chính soạn thảo thông tư hướng dẫn thực hiện liên quan tới các quy định Nghị định 71/CP. Hơn nữa, theo kế hoạch của cơ quan chức năng, phải sau ngày 1-7-2013, mới áp dụng quy định về việc xử phạt đi xe không chính chủ. Thế nhưng, việc Bộ Công an bất ngờ cho ra đời Thông tư 11 có hiệu lực thi hành từ ngày 15-4, trong khi Bộ GTVT mới chỉ đang lấy kiến đóng góp, còn Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành thông tư về giảm phí liên quan tới việc sang tên đổi chủ phương tiện đã khiến cho người dân cảm thấy rất khó hiểu, hoang mang và thậm chí bức xúc về công tác quản lý của các bộ, ngành chức năng. Trong khi đó, quy định về bắt buộc người điều khiển xe gắn máy, mô tô khi tham gia giao thông phải đội nón bảo hiểm đã thực hiện từ 5 năm qua và người dân đã chấp hành khá nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, nhiều năm qua, quy định yêu cầu người dân phải đội nón bảo hiểm thật, hay quy chuẩn về nón bảo hiểm an toàn, bảo đảm chất lượng lại không được các bộ ngành chức năng đề cập tới, cũng như triển khai thực hiện một cách chặt chẽ và nghiêm túc. Vì vậy mà người dân khi đi xe máy ra đường chỉ biết đội nón bảo hiểm, chứ đâu biết được chiếc nón họ đội là thật hay giả, có đảm bảo an toàn bảo vệ tính mạng hay không. Trong khi đó, trên thị trường khắp cả nước lại tràn lan hàng trăm ngàn loại nón bảo hiểm loại khác nhau, chất lượng cũng khác nhau nhưng chẳng mấy khi bị lực lượng chức năng kiểm tra và xử lý. Rõ ràng, bấy lâu nay, để xảy ra tình trạng nhiều phương tiện giao thông không chính chủ, hay không sang tên đổi chủ mỗi khi trao đổi mua bán, cũng như việc để hơn 70% số người đội nón bảo hiểm hiện nay là nón kém chất lượng có trách nhiệm rất lớn từ nhiều bộ, ngành chức năng trong công tác quản lý. Chính việc quản lý lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm và ban hành các chính sách “vênh” nhau giữa các cơ quan chức năng khiến người dân phải gánh chịu nhiều hậu quả và làm khó dân. Xử phạt là một trong những biện pháp quản lý hành chính nhưng thực tế quy định về việc phạt người, xe không chính chủ và đội nón bảo hiểm giả lại bộc lộ sự bó tay và bất lực của nhiều cơ quan chức năng trong công tác quản lý các lĩnh vực khó nên tìm cách đẩy trách nhiệm, hậu quả cho dân chịu. Hơn nữa, quy định phạt tiền người, xe không chính chủ và đội nón bảo hiểm giả chỉ là cách thức xử lý giải quyết vấn đề ở phần ngọn, không phải là biện pháp xử lý triệt để từ gốc nên nếu quy định được áp dụng sẽ khiến cho người dân khó có thể tâm phục khẩu phục. Bộ Công an ban hành Thông tư số11/2013/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số điều về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Theo đó, cảnh sát giao thông cả nước không được dừng xe đang lưu thông trên đường để kiểm soát, xử lý hành vi không sang tên đổi chủ. Hành vi này sẽ được xác minh, làm rõ thông qua công tác đăng ký, cấp biển số; điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; các trường hợp phương tiện bị tạm giữ theo quy định và qua điều tra các vụ án hình sự. Những trường hợp bị phát hiện đã quá 30 ngày kể từ ngày làm giấy tờ mua, bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên, di chuyển thay đổi đăng ký xe theo quy định sẽ bị xử phạt. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15-4-2013.
Thông tư 11/2013: Không phạt xe “không chính chủ” đang lưu thông
(TVPL) Đó là quy định chính thức của Bộ Công an về việc xử lý xe “không chính chủ”, được ghi nhận tại Thông tư 11/2013/TT-BCA Chỉ trong một số trường hợp như khi đem xe đi đăng ký, cấp biển số; xe bị tạm giữ liên quan tới vụ án hình sự mà phát hiện chưa đăng ký sang tên đúng thời hạn… thì mới bị xử phạt về hành vi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định”. Thông tư cũng hướng dẫn về việc xử lý đối với một số hành vi khác như: không mang theo giấy tờ xe, chở quá số người quy định, dừng, đỗ gần đường sắt… Thông tư có hiệu lực từ ngày 15/4/2013 Xem thêm nội dung văn bản: Thông tư 11/2013/TT-BCA
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ?
Phạt, phạt nữa, phạt mãi ... để làm gì, thưa Chính phủ? Mấy ngày nay người dân "ồn ào" thậm chí bức xúc với quy định tăng mức xử phạt tiền đối với người vi phạm quy định về đăng ký quyền sở hữu đối với phương tiện giao thông cá nhân theo quy định tại Điều 33 Nghị định 34/2010/NĐ-CP. Theo đó, theo Nghị định số 71/2012/NĐ-CP thì mức phạt tiền đối với trường hợp không chuyển quyền sở hữu phương tiện xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; đối với xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô là từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Theo khoản 2 Điều 439 Bộ luật Dân sự thì “Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”. Đồng thời, theo 36/2010/TT-BCA thì “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua bán, cho, tặng, thừa kế xe, người mua hoặc nhận xe phải đến cơ quan đăng ký xe đang quản lý xe đó làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe.” Như vậy, quy định phải đăng ký xe là cần thiết, pháp luật cần quy định việc đăng ký để xác lập quyền sở hữu, đảm bảo quản lý các phương tiện giao thông, có cơ sở để xác định chủ sở hữu của phương tiện tham gia giao thông trong các trường hợp rủi ro, gây tai nạn ... để đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan ... Tuy nhiên, sự phản ứng mạnh mẽ của người dân đối với số tiền phạt được đẩy lên rất cao đối với việc vi phạm vấn đề đăng ký quyền sở hữu xe là có cơ sở, bởi lẽ quy định xử phạt này từ Nghị định34/2010/NĐ-CP đến nay là Nghị định số 71/2012/NĐ-CP nâng số tiền phạt lên thì đều chỉ là việc cố gắng đuổi theo một nếp sống, một thực tiễn đang diễn ra trong xã hội nhưng khó lòng theo kịp. Từ câu chuyện nâng số tiền phạt lên hòng siết chặt công tác quản lý việc đăng ký xe nói riêng trong vấn đề quản lý giao thông sẽ đặt ra những giả thiết của người dân về sự không khả thi của pháp luật. Như việc, cho dù đã có sự chuyển nhượng, tặng cho ... tài sản là các phương tiện nói trên thì khi kiểm tra, xử lý người dân có thể lách luật để chứng minh rằng mình mượn xe của người thân, bạn bè đi thì xử lý thế nào? Còn nếu cứ gọi lại người đi đường để kiểm tra xem có chính chủ hay không để tìm cách xử phạt, thu tiền thì chắc chắn sẽ dẫn đến một vướng mắc liên quan đến thời gian, sự phiền phức cho người dân và cho cả những người thi hành nhiệm vụ tìm người để phạt. Những mâu thuẫn đó dấy lên sự không an tâm của người dân về khả năng áp dụng vào thực tế của các quy định xử lý hành chính đối với sai phạm. Tất nhiên, người dân cũng cần hiểu là Chính phủ ban hành các quy định nói trên để xử lý các trường hợp đã chuyển nhượng phương tiện mà không đăng ký quyền sở hữu theo quy định, chứ không thể nào được phép phạt người dân sử dụng xe không thuộc quyền sở hữu của mình. Mọi hành vi lạm dụng quy định để bắt xe, kiểm tra sự chính chủ hay không của người điều khiển phương tiện giao thông sẽ là hoạt động cản trở giao thông ngược trở lại từ phía chính quyền. Lạm dụng chuyện chính chủ hay không chính chủ của người điều khiển phương tiện là cách sớm nhất và hiệu quả nhất để cấm cản khả năng ra khỏi nhà, hòa vào dòng chảy không ngừng nghỉ của người dân trong một xã hội mà phương tiện giao thông cá nhân là chủ yếu và phổ biến. Ngoài ra, Nghị định71/2012/NĐ-CP được ban hành chỉ cho thấy những điểm mới chủ đạo chỉ là ở mức tiền phạt tiền được tăng lên gấp nhiều lần so với mức phạt cũ. Đánh vào túi tiền của người dân, từ chuyện thu phí vận hành đến chuyện xử lý hành chính các trường hợp vi phạm đang cho thấy khả năng Chính phủ đang đổ lên đầu người dân trách nhiệm cho mọi sự rối rắm của câu chuyện giao thông hiện nay. Dòng chảy tiền từ túi dân sẽ cuồn cuộn hơn chảy vào ngân sách Chính phủ nếu mức phạt được tăng lên, thế nhưng số tiền này lại được đầu tư thiếu hiệu quả, bị cắt xén bởi hiện trạng tham nhũng nhiều, bị uổng phí bởi việc quy hoạch ngớ ngẩn và hiện trạng giao thông tồi tệ của nước nhà càng tồi tệ hơn ... Đó đâu phải là giải pháp! Cho nên, người dân lại lãnh đủ. Từ chuyện phải bỏ thêm nhiều tiền, đến chuyện phải chịu đựng một hiện trạng giao thông tắc nghẽn ô nhiễm và không an toàn. Phạt, phạt nữa, phạt mãi, phạt nhiều, để làm gì, thưa Chính phủ? Lê Cao
Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô
Các bảng nêu bên dưới là tổng hợp các mức phạt vi phạm giao thông đối với một số lỗi phổ biến thường gặp trong thực tế áp dụng cho xe mô tô (ví dụ: lỗi vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, đi ngược chiều, chở ba, rẽ không xi nhan, đi xe đi trên hè phố; để xe trên lòng đường, hè phố…) quy định tại Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (có hiệu lực từ ngày 10/11/2012). Lưu ý: Một số lỗi nếu vi phạm ở khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt thì không áp dụng mức phạt chung mà áp dụng mức phạt riêng, cao hơn bình thường. Xem thêm: - Các mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012 - Làm gì để xe không chính chủ thành chính chủ? - Thông tư 11/2013 của BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ - Dự thảo sửa đổi Nghị định 71/2012 Các lỗi và mức phạt như sau: Mức phạt các lỗi thường gặp dành cho xe ô tô Mức phạt đối với các lỗi: lái xe uống rượu (say rượu), sử dụng ma túy Mức phạt các lỗi quá tốc độ, đua xe trái phép, lạng lách đánh võng Mức phạt đối với các lỗi đi sai làn, chuyển hướng, vượt, nhường đường không đúng quy định Mức phạt các lỗi liên quan phổ biến khác Mức phạt các lỗi thường gặp dành cho xe ô tô: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) 1 Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường 100.000 – 200.000 2 Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường 100.000 – 200.000 3 Khi đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy. 100.000 – 200.000 4 Chở người ngồi hàng ghế phía trước trong xe ô tô có trang bị dây an toàn mà không thắt dây an toàn khi xe đang chạy. 100.000 – 200.000 5 Chuyển làn đường không đúng nơi cho phép hoặc không có tín hiệu báo trước. 300.000 – 500.000 6 Để người ngồi trên buồng lái quá số lượng quy định; 300.000 – 500.000 7 Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường rộng; dừng xe, đỗ xe không sát mép đường phía bên phải theo chiều đi ở nơi đường có lề đường hẹp hoặc không có lề đường; đỗ xe trên dốc không chèn bánh; mở cửa xe, để cửa xe mở không bảo đảm an toàn. 300.000 – 500.000 8 Dừng xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 mét; dừng xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; dừng xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước, nơi có biển cấm dừng; rời vị trí lái, tắt máy khi dừng xe; dừng xe, đỗ xe không đúng vị trí quy định ở những đoạn có bố trí nơi dừng xe, đỗ xe; dừng xe, đỗ xe trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường. 300.000 – 500.000 9 Quay đầu xe ở phần đường dành cho người đi bộ qua đường, trên cầu, đầu cầu, gầm cầu vượt, ngầm, đường hẹp, đường dốc, đoạn đường cong tầm nhìn bị che khuất, nơi có biển báo “cấm quay đầu xe”; 300.000 – 500.000 10 300.000 – 500.000 11 Lùi xe ở đường một chiều, ở khu vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất; lùi xe không quan sát hoặc không có tín hiệu báo trước. 300.000 – 500.000 12 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h; 600.000 – 800.000 13 Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định; 600.000 – 800.000 14 Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ; 600.000 – 800.000 15 Quay đầu xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt; 600.000 – 800.000 16 Dừng xe, đỗ xe tại vị trí: Bên trái đường một chiều; trên đoạn đường cong hoặc gần đầu dốc nơi tầm nhìn bị che khuất; trên cầu, gầm cầu vượt, song song với một xe khác đang dừng, đỗ; nơi đường bộ giao nhau hoặc trong phạm vi 05 mét tính từ mép đường giao nhau; điểm dừng đón, trả khách của xe buýt; trước cổng hoặc trong phạm vi 05 mét hai bên cổng trụ sở cơ quan, tổ chức có bố trí đường cho xe ô tô ra vào; nơi phần đường có bề rộng chỉ đủ cho một làn xe; che khuất biển báo hiệu đường bộ; 600.000 – 800.000 17 Đỗ xe không sát theo lề đường, hè phố phía bên phải theo chiều đi hoặc bánh xe gần nhất cách lề đường, hè phố quá 0,25 mét; đỗ xe trên đường xe điện, đường dành riêng cho xe buýt; đỗ xe trên miệng cống thoát nước, miệng hầm của đường điện thoại, điện cao thế, chỗ dành riêng cho xe chữa cháy lấy nước; đỗ xe nơi có biển cấm dừng hoặc biển cấm đỗ; đỗ, để xe ở hè phố trái quy định của pháp luật; 600.000 – 800.000 18 Không sử dụng đủ đèn chiếu sáng về ban đêm hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn; sử dụng đèn chiếu xa khi tránh nhau; 600.000 – 800.000 19 Chạy trong hầm đường bộ không sử dụng đèn chiếu sáng gần; lùi xe, quay đầu xe trong hầm đường bộ; dừng xe, đỗ xe, vượt xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định; 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 20 Đi vào đường cấm, khu vực cấm, đi ngược chiều của đường một chiều; trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định; 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 30 ngày 21 Điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường hoặc làn đường quy định. 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 30 ngày 22 Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông. 800.000 – 1.2 triệu Giam GPLX 30 ngày 23 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h. 2 triệu – 3 triệu 24 Vượt trong các trường hợp cấm vượt; vượt bên phải xe khác trong trường hợp không được phép; không có báo hiệu trước khi vượt; 2 triệu – 3 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 25 Không tuân thủ hướng dẫn của người điều khiển giao thông khi qua phà, cầu phao hoặc nơi ùn tắc giao thông; không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông. 2 triệu – 3 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 26 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h đến 35 km/h; 4 triệu – 6 triệu Giam GPLX 30 ngày 27 Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường; bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn. 4 triệu – 6 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 28 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 35 km/h 8 triệu – 10 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 29 Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở. 8 triệu – 10 triệu Giam GPLX 60 ngày, học lại LÝ THUYẾT 30 Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở; 10 triệu -15 triệu 31 Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự ô tô. 1 triệu – 3 triệu Mức phạt các lỗi thường gặp dành cho xe mô tô - xe máy: Mức phạt đối với các lỗi: lái xe uống rượu (say rượu), sử dụng ma túy: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) 1 Điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở 500.000 - 1 triệu 2 Điều khiển xe mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở 2 - 3 triệu 3 Điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy 2 - 3 triệu 4 Không chấp hành yêu cầu kiểm tra chất ma túy, nồng độ cồn của người kiểm soát giao thông hoặc người thi hành công vụ 2 - 3 triệu Mức phạt các lỗi quá tốc độ, đua xe trái phép, lạng lách đánh võng: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) 1 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h 100.000 - 200.000 2 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h 500.000 - 1 triệu 3 Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h 2 - 3 triệu 4 Không chú ý quan sát, điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định gây TNGT 2 - 3 triệu 5 Điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 3 xe trở lên 80.000 - 100.000 (100.000 - 200.000 nếu là đô thị ĐB) 6 Điều khiển xe thành đoàn gây cản trở giao thông 200.000 - 400.000 7 Điều khiển xe lạng lách, đánh võng trên đường bộ trong, ngoài đô thị 5 - 7 triệu 8 Điều khiển xe thành nhóm từ 2 xe trở lên chạy quá tốc độ quy định 5 - 7 triệu Mức phạt đối với các lỗi đi sai làn, chuyển hướng, vượt, nhường đường không đúng quy định: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) Khu vực nội thành đô thị đặc biệt 1 Không có báo hiệu xin vượt trước khi vượt 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 2 Không giữ khoảng cách an toàn để va chạm với xe trước 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 3 Không giữ khoảng cách theo quy định của biển “cự ly tối thiểu giữa hai xe” 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 4 Chuyển hướng không nhường quyền đi trước cho người đi bộ, xe lăn người khuyết tật qua đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ; xe thô sơ đang đi trên phần đường dành cho xe thô sơ 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 5 Chuyển hướng không nhường đường các xe đi ngược chiều; người đi bộ, xe lăn người khuyết tật đang qua đường tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ 60.000 - 80.000 Áp dụng chung 6 Dùng đèn chiếu xa khi tránh nhau 40.000 - 60.000 Áp dụng chung 7 Chuyển làn đường không đúng nơi được phép 80.000 - 100.000 100.000 - 200.000 8 Chuyển làn đường không có tín hiệu báo trước 80.000 - 100.000 100.000 - 200.000 9 Điều khiển xe không đi bên phải theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường, làn đường 200.000 - 400.000 400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày 10 Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 11 Không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 12 Tránh xe không đúng quy định; không nhường đường cho xe đi ngược chiều theo quy định tại nơi đường hẹp, đường dốc, nơi có chướng ngại vật 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 13 Quay đầu xe tại nơi cấm quay đầu xe 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 14 Không giảm tốc độ hoặc không nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đường nhánh ra đường chính 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 15 Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 16 Không nhường đường hoặc gây cản trở xe ưu tiên 200.000 - 400.000; giữ GPLX 30 ngày 300.000 - 500.000; giữ GPLX 30 ngày 17 Vượt bên phải trong các trường hợp không được phép 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 18 Vượt xe hoặc chuyển làn đường trái quy định gây tai nạn giao thông 2 - 3 triệu; giữ GPLX 60 ngày Áp dụng chung 19 Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường; 100.000 - 200.000 300.000 - 500.000; giữ GPLX 30 ngày Mức phạt các lỗi liên quan phổ biến khác: STT Lỗi vi phạm Mức phạt (VNĐ) Mức phạt khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt 1 Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường 60.000 - 80.000 100.000 - 200.000 2 Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông (vượt đèn đỏ, tiến vào ngã tư khi đang có đèn đỏ hoặc đèn vàng) 200.000 - 400.000 300.000 - 500.000 3 Đi ngược chiều của đường một chiều trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 4 Đi vào đường cấm, khu vực cấm trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp 200.000 - 400.000 Áp dụng chung 5 Không đi bên ph���i theo chiều đi của mình; đi không đúng phần đường, làn đường quy định 200.000 - 400.000 400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày 6 Người điều khiển, người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 7 Chở người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người vi phạm pháp luật 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 8 Chở theo 2 người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người vi phạm pháp luật 100.000 - 200.000 Áp dụng chung 9 Chở theo từ 3 người trở lên trên xe 200.000 - 400.000; Tước GPLX 30 ngày Áp dụng chung 10 Điều khiển xe đi trên hè phố 200.000 - 400.000 400.000-800.000;giữ GPLX 30 ngày 11 Dừng, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông; đỗ, để xe ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định pháp luật 100.000 - 200.000 300.000 - 500.000 12 Không sử dụng đèn chiếu sáng về ban đêm hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn 80.000 - 100.000 Áp dụng chung 13 Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ 200.000 - 400.000 Áp dụng chung
NĐ Số: 71/2012/NĐ-CP_Ra đường phải hết sức cẩn thận !!!
Hôm nay, ngày 10/11/2012, ngày NĐ 71/2012/NĐ-CP sẽ chính thức có hiệu lực. Chính phủ ban hành Nghị định số 71/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, theo đó, Nghị định mới đã nâng mức phạt lên nhiều lần đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ, điều chỉnh các vấn đề bất hợp lý trong quá trình xử phạt hành vi vi phạm. Xin trích dẫn 1 trong các qui định của NĐ này, điều mà khiến nhiều người, đặc biệt là những sinh viên có thể bị bị nhồi máu cơ tim 8. Sửa đổi, bổ sung Điều 33 như sau: “Điều 33. Xử phạt chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ 1. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với chủ xe mô tô, xe gắn máy và các loại xe tương tự mô tô tự ý thay đổi nhãn hiệu, màu sơn của xe không đúng với Giấy đăng ký xe. 2. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự ô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây: a) Lắp kính chắn gió, kính cửa của xe không phải là loại kính an toàn; b) Tự ý thay đổi màu sơn của xe không đúng với màu sơn ghi trong Giấy đăng ký xe; không thực hiện đúng quy định về biển số, quy định về kẻ chữ trên thành xe và cửa xe; trừ hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 41 của Nghị định này. 3. Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng đối với chủ xe mô tô, xe gắn máy; các loại xe tương tự mô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây: a) Tự ý đục lại số khung, số máy; b) Tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ đăng ký xe; c) Tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước của xe; d) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe; đ) Giao xe hoặc để cho người không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật điều khiển xe tham gia giao thông; e) Không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định; g) Không mua hoặc nộp phí cho phương tiện khi tham gia giao thông theo quy định. Có lẽ, trong thời gian tới thành viên Dân Luật sẽ có nhiều việc để làm, đặc biệt là topic "Hỏi về đăng ký mới, sang tên đổi chủ, di chuyển, cấp lại đăng ký xe Môt tô thì vào đây" Với những câu hỏi đại loại như: "Em mua xe cũ của Bác của bạn thằng bạn, Bác của bạn thằng bạn em lại mua xe của Chú bác ấy. Hiện nay, người Chú của bác ấy hiện đang sống ở Mỹ, Còn bác của bạn thằng bạn em sống ở Sài Gòn, Em thì hiện đang học ở Hà Nội. vậy thủ tục để chuyển quyền sở hữu như thế nào. Em vần còn đầy đủ các giấy tờ liên quan." Đấy là chưa kể trường hợp mất giấy này, giấy khác. Có lẽ, theo sau NĐ này sẽ là một núi thông tư,... đi kèm Các công dân của dân luật có ý kiến gì về vấn đề này.!!! Xem thêm: Dự thảo sửa đổi Nghị định 71/2012
Nghị định 71/2012/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm giao thông đường bộ
Nghị định số 71/2012/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/09/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm giao thông đường bộ. Xem thêm: - Nghị định 71 - các lỗi và mức phạt dành cho xe mô tô và ô tô - Các mức phạt về lỗi liên quan đến giấy tờ xe theo nghị định 71/2012 - Thông tư 11/2013 của BCA hướng dẫn xử phạt hành chính giao thông đường bộ - Làm gì để xe không chính chủ thành chính chủ? Sau đây là một số nội dung mới của Nghị định 71: Nâng mức phạt đối với xe ô tô chở quá số người quy định: Theo Nghị định mới, phạt tiền từ 300.000 - 500.000 đồng (hiện nay mức phạt là từ 200.000-300.000 đồng) trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện đối với người điều khiển ô tô chở hành khách, ô tô chở người (trừ xe buýt) vi phạm hành vi: Chở quá từ 2 người trở lên trên xe đến 9 chỗ ngồi, chở quá từ 3 người trở lên trên xe 10-15 chỗ ngồi, chở quá từ 4 người trở lên trên xe 16-30 chỗ ngồi, chở quá từ 5 người trở lên trên xe trên 30 chỗ ngồi. Đối với người điều khiển xe ô tô chở hành khách chạy tuyến có cự ly hơn 300 km, sẽ bị phạt từ 800.000 - 1.000.000 đồng (hiện nay từ 300.000-500.000 đồng) trên mỗi người vượt quá quy định được phép chở của phương tiện nếu chở quá từ 2 người trở lên trên xe đến 9 chỗ ngồi, chở quá từ 3 người trở lên trên xe 10-15 chỗ ngồi, chở quá từ 4 người trở lên trên xe 16-30 chỗ ngồi, chở quá từ 5 người trở lên trên xe trên 30 chỗ ngồi. Tăng mức phạt đối với người điều khiển xe khi nồng độ cồn vượt quá quy định. Mức phạt tối đa theo quy định là 15 triệu đồng, bị tước bằng lái xe không thời hạn nếu gây tai nạn nghiêm trọng. Cụ thể: Người điều khiển xe ô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 - 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 - 0,4 miligam/1 lít khí thở thì sẽ bị phạt tiền từ 8-10 triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với mức phạt hiện nay từ 2-3 triệu đồng. Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy thì bị phạt từ 500.000 - 1.000.000 đồng (mức phạt hiện nay từ 200.000-400.000 đồng). Trường hợp người điều khiển xe ô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở thì bị phạt tiền từ 10 - 15 triệu đồng (mức phạt hiện nay từ 4-6 triệu đồng). Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, hành vi vi phạm này bị phạt từ 2 - 3 triệu đồng, thay cho mức phạt hiện nay là từ 500.000-1.000.000 đồng. Ngoài việc phạt tiền, lái xe uống rượu bia còn bị phạt bổ sung như tước giấy phép lái xe 60 ngày nếu nồng độ cồn cao hoặc tước giấy phép không thời hạn nếu gây tai nạn nghiêm trọng. Phạt nặng đối với các lỗi chạy xe quá tốc độ: Phạt tiền từ 600.000 đồng - 800.000 đồng (thay cho mức phạt hiện nay 300.000 - 500.00 đồng) đồng đối với người điều khiển xe ô tô chạy quá tốc độ quy định từ 5 km/h đến dưới 10 km/h. Trường hợp điều khiển xe ô tô chạy quá tốc độ quy định từ 10-20 km/h sẽ bị phạt tiền từ 2 - 3 triệu đồng (mức phạt hiện nay là từ 800.000 - 1.200.000 đồng). Phạt tiền từ 8 - 10 triệu đồng (hiện nay 4-6 triệu đồng) đối với người điều khiển xe ô tô chạy quá tốc độ quy định trên 35 km/h, ngoài ra còn bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe 60 ngày. Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy chạy quá tốc độ quy định từ 10 -20 km/h (hiện nay trên 20km/h) sẽ bị phạt tiền từ 500.000 - 1.000.000 đồng. Trường hợp người điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định trên 20 km/h sẽ bị phạt tiền từ 2 - 3 triệu đồng (mức hiện nay là 500.000 - 1.000.000 đồng) Quy định mức phạt tăng nặng với các hành vi vi phạm an toàn giao thông (áp dụng riêng trong khu vực nội thành) tại các thành phố trực thuộc Trung ương (Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội...) Với lỗi dừng ôtô không sát lề đường, nơi có biển cấm dừng, dời khỏi vị trí lái, tắt máy khi dừng xe, hoặc dừng xe không đúng quy định tại những khu vực cho đỗ xe, sẽ bị phạt từ 600.000 - 1 triệu đồng. Ngoài ra, chủ xe còn phải đưa phương tiện ra khỏi nơi vi phạm, bị tước giấy phép 30 ngày. Nếu đỗ ôtô không sát lề đường, đỗ tại nơi có biển cấm dừng đỗ, để xe trên hè phố trái quy định, đỗ bên trái đường một chiều sẽ bị phạt từ 1 - 1,4 triệu đồng; tước giấy phép lái xe 30 ngày. Ngoài ra, nếu cố tình lái ôtô vào đường cấm, dừng đỗ, quay đầu xe trái quy định gây tai nạn hoặc ùn tắc giao thông, chạy xe dưới tốc độ quy định, đi không đúng làn đường hoặc phần đường... sẽ bị phạt từ 1,4 - 2 triệu đồng; tước giấy phép lái xe 30 ngày. Người đi bộ vi phạm một số quy định an toàn giao thông đường bộ có thể bị phạt từ 60.000 - 80.000 đồng. Đối với hành vi "Không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định" (không chính chủ): Phạt từ 6-10 triệu đồng với ôtô và 800.000 đến 1,2 triệu đồng với xe máy. Quy định này tăng mức phạt nhiều lần so với quy định nghị định 34/2010. Download - tải nghị định 71/2012 của chính phủ tại đây: Văn Bản Gốc, Văn Bản Liên Quan của nghị định 71/2012 cũng có tại www.ThuVienPhapLuat.vn Bạn có thể đăng ký thành viên để xem hơn 300.000 văn bản khác tại www.ThuVienPhapLuat.vn ;